GIẢI MÃ CÁCH ĐỌC KIỀU CỦA
TẢN ĐÀ
(QUA VĂN HOA TIÊN VÀ VĂN KIỀU)
Lê Thị Thanh Tâm– Nguyễn Đức Mậu
1. Đi tìm một cách hiểu
Bài viết “Văn Hoa Tiên
và văn Kiều” được đăng trên Phụ nữ Tân văn (PNTV), số xuân 1934, tiềm ẩn nhiều
cách cắt nghĩa về cách đọc Kiều của Tản Đà. Trên thực tế, hầu hết các bài trong
số xuân đều là các bài đặt, tập hợp các tên tuổi lớn. Nếu như đây là bài Tản Đà
được “đặt để viết” thì câu chuyện còn được mở rộng hơn nữa, ngoài phạm vi phê
bình văn học (chí ít là mở ra những vấn đề về xu hướng thị hiếu, về ảnh hưởng
thực của Truyện Kiều đối với công chúng rộng rãi đương
thời, về ý tưởng “định hướng đọc” của chủ báo Phụ nữ tân văn đối với Truyện Kiều…).
Mười năm trước thời điểm
bài viết của Tản Đà xuất hiện, năm 1924, Hội Khai Trí Tiến Đức do Phạm Quỳnh
lập ra và làm Tổng thư ký, đã long trọng tổ chức kỉ niệm Nguyễn Du với hàng
nghìn người tham dự tại tòa nhà trung tâm thủ đô ngã ba Hàng Trống. Bài bia kỷ niệm Tiên Điền Nguyễn
Tiên sinh (Hội Khai Trí Tiến
Đức) viết: “Tập Đoạn trường
tân thanh (tức là Truyện
Kiều) thực là một cuốn văn kiệt tác trước sau chưa có bao giờ”[1].
Ông chủ Nam Phong còn khẳng định: “Hội ta sùng bái tiên sinh, chủ ý chuyên
trọng về quốc văn, mong sau này quốc văn có một ngày hưng thịnh”. Chủ bút
Nam Phong đề cao Truyện Kiều nằm
trong chủ trương cổ xuý quốc học, quốc văn.
Phong trào sùng bái Truyện
Kiều lan rộng là khởi nguyên cho cuộc tranh luận nổi tiếng giữa ông chủ bút tờ
Hữu Thanh – Ngô Đức Kế với người khởi xướng kỉ niệm Nguyễn Du – Phạm Quỳnh. Đối
tượng tranh luận là một (Truyện Kiều) nhưng động lực và những xung đột
sâu sắc của cuộc tranh luận ấy lại không nằm ở con số một. Nó là một “khối” vấn đề
uẩn khúc liên quan đến vận mệnh dân tộc, nhãn quan thẩm mỹ, quan niệm văn học, bối
cảnh xã hội, sự đan xen, lồng ghép các vấn đề nhân sinh, chính trị vào không
gian thưởng thức văn học nghệ thuật,… Đặc điểm của cuộc tranh luận này là:
không làm sáng tỏ vấn đề của
nó, tức Truyện Kiều, mà ngược lại, làm sáng rõ những vấn đề ngoài nó, tức bối cảnh của sự
nhận thức về tự do, độc lập, xung đột văn hóa Đông – Tây, xung đột danh dự dân
tộc và vinh dự cá nhân[2]. Lần đầu tiên, Truyện
Kiều bị đặt trong cuộc đấu trí giữa giá trị của dân tộc và giá trị của danh
nhân, giữa quốc sỉ và quốc hồn, quốc học; lần đầu tiên, cuộc xung đột giữa hai
ý hướng và thiện chí cốt tử như nhau (chỉ từ mối quan tâm về một tác phẩm văn
học cách đó gần trăm năm) được công khai trong xã hội: khai mở trí tuệ, bồi đắp
đạo đức (Phạm Quỳnh) và cảnh tỉnh lương tri, kêu gọi ái quốc (Ngô Đức Kế), lần
đầu tiên có một cuộc tranh luận nảy lửa và kéo dài thu hút các anh tài có các
quan niệm khác nhau, lần đầu tiên các khái niệm,
các quan niệm mới được giới thiệu (như phương pháp Thái Tây, nghệ thuật vì nghệ
thuật, nghệ thuật vì nhân sinh,..).
Chưa hết, các bình
luận rầm rộ kéo dài về Kiều trên Phụ
nữ Tân văn cuối những năm 20,
đầu những năm 30 của thế kỉ XX, rồi Phụ
nữ thời đàm nữa, cũng mang đến một không khí rất khác biệt trong việc tiếp
nhận Truyện Kiều và những cách đọc về Nguyễn Du.
Bài “Văn Hoa Tiên và
văn Kiều” của Tản Đà (1934) xuất hiện trong bối cảnh những sự kiện lớn đã
nêu. Vì thế, bài viết (dù được đặt để viết cho số Xuân hay là một cảm nhận
riêng của Tản Đà gửi đi) cũng đều không thể không có dư âm những làn sóng sùng
bái hay “hủy diệt” Truyện Kiều từ Nam chí Bắc. Tản Đà viết để hô ứng với phong
trào kỉ niệm Nguyễn Du, hay để đáp từ một niềm tâm đắc kì lạ của dân Hà Thành
đối với người con sông Lam núi Hồng: “Ở Hà Thành ta từ xưa đến nay, có lẽ
chỉ có tiệc trà đón quan toàn quyền Sarraut diễn thuyết ở Văn Miếu năm 1919 là
họp được đông người đến thế” (Tạp chí Nam Phong số 86, 1924) thì sự thật không khác
nhau mấy. Cũng không thể không đặt “cuộc tự tranh cãi” của Tản Đà trong sự băn
khoăn rất thực về giá trị Truyện Kiều,
nhất là khi ai đó “cặp đôi” Hoa Tiên, Truyện
Kiều như một sự sóng đôi.
Mở đầu bài viết, Tản Đà
dẫn ngay tên tuổi một “vị danh nhân thuở xưa” (cụ Cao Bá Quát) để đặt “đề bài”
cho mình. Ông chỉ dẫn một danh sĩ mà không nêu đích danh một tên tuổi đương
thời nào. Do đâu mà ông ẩn danh họ, do đâu mà không nói với người cùng thời?
Câu hỏi này tuy không phải thật quan trọng đối với vấn đề ta đang quan tâm nhưng
rất có ý nghĩa nếu xem xét tâm
thế đối thoại mang tính giao
thời của Tản Đà. Cái không khí hoài vọng cố nhân, hoặc hồi quang của tâm lí
thượng tôn cái cổ, hoặc cái tâm sự “nhà nho cuối mùa”, hoặc khuôn khổ của một
bài báo xuân chủ vào sự vui tươi, có lẽ không cho phép ông tự do bàn bạc “tay
đôi” với những danh xưng cụ thể; và chắc ông cũng không muốn du nhập cái không
gian “khẩu chiến” vào không gian “thưởng thơ ngày Tết”.
Bởi vậy, bài viết của Tản
Đà hình thức là tranh luận nhưng bản chất là mạn đàm, hình thức là đối thoại
nhưng bản chất là độc thoại. Và bởi vậy, bài viết hơn 1000 chữ của ông vừa có
dáng dấp một bài phê bình, vừa giống một thứ văn xuôi lẫn lộn ghi chép, nghị
luận, thậm chí tự sự.
Tản Đà, trong khi viết “Văn
Hoa Tiên và văn Kiều”, đã có phần nào đó hàm ý “phê phán” thi sĩ họ Cao
khập khiễng trong nhìn nhận hai tác phẩm bởi không xét hai tác phẩm ấy ở các
khía cạnh khác nhau của “thời đại, cảnh ngộ, tài khí”. Ba yếu tố đó được Tản Đà
đặt ra một cách khoa học, một kiểu nhận thức rất mới, dù người viết về nó lẩy
ra bằng bản tính nghệ sĩ và cuối cùng chỉ bàn riêng chuyện “tài khí” mà không
bàn chuyện “thời đại, cảnh ngộ” như ông đã ý thức được.
Ở một chiều hướng khác, có
thể nói, mối quan tâm của Tản Đà và Cao Bá Quát dường như không trùng nhau. Xét
về mối quan tâm, bài tựa Hoa
Tiên của Cao Bá Quát chú
trọng về Hoa Tiên và những gì Hoa Tiên làm được; cho nên Hoa Tiên là đối tượng số một trong bối cảnh viết[3].
Thậm chí, Cao Bá Quát nhấn mạnh giá trị Hoa
Tiên với tư cách là một tri
âm tri kỉ; ông cương quyết bảo vệ Hoa
Tiên trước một “lũ người khinh bạc” dám “kiếm cớ mà nói, nghiêng
bầu chuốc chén, thường chẳng xét suy, lại xếp vào loại “lời dâm, khúc đẹp”,
thật đáng buồn sao!”[4].
Đánh giá của Cao Bá Quát về công của Nguyễn Huy Tự “dùng bụi bặm tấm cám” (ý nói văn nôm) “hun đúc nên
gạch ngói lâu đài hoàn bị” là một đánh giá cao không những có ý nghĩa đối
với Hoa tiên mà còn rất ý nghĩa đối với tâm lý độc
giả đương thời với truyện nôm, chứng tỏ một điều chắc chắn: truyện nôm đã có
chỗ đứng trong đời sống tinh thần công chúng nhưng trong dư luận vẫn còn nhiều
tranh cãi sai khác mang tính quan niệm.
Thực chất, xét về ý tứ và
ngôn ngữ bài tựa, có thể thấy Cao Bá Quát không đề cao Hoa tiên quá mức như Tản Đà cảm nhận; việc luôn
luôn “cặp đôi” Hoa tiên và Kiều về bản chất không thể khẳng
định đơn thuần rằng Cao Bá Quát xem trọng Hoa
tiên hơn Kiều. Cách so sánh:
“Kiều là tiếng nói hiểu đời, Hoa tiên là tiếng nói răn đời” là một so
sánh tầm cỡ, chạm đến những giá trị tột bực của Truyện Kiều mà Hoa tiên
có phần như một đối trọng, hay nói cách khác, như một ảnh hưởng trọng đại. Cao Bá Quát hàm ý Hoa tiên là “một cái gì đó” đủ khiến cho “sau đó Kim Vân Kiều
sinh ra được”. “Cái gì đó” chính là vấn đề mà Tản Đà muốn khơi ra. Có thật
là có “cái gì đó” không? “Cái gì đó” là gì? Trong trường hợp này, Tản Đà mượn ý
tứ đắm đuối với Hoa tiên của Cao Bá Quát để bàn việc đắm
đuối riêng của mình với Truyện
Kiều, mượn người “thuở xưa” để nói chuyện đời nay. Do đó, mối quan tâm của
Tản Đà tập trung vào giá trị của Truyện Kiều;
ông viết cả một bài phê bình chỉ bởi duy nhất một
câu lẩy ra từ bài tựa Hoa tiên của cụ Cao mà không có ý quan tâm đến
bản chất và ý nghĩ rộng rãi hơn của bài tựa. Cái nhạy cảm quá mức của Tản Đà
nằm trong phong cách nghệ sĩ và tình yêu quá lớn đối với Truyện Kiều. Vậy nên phần cảm tính bị đẩy lên đến mức nghiêng lệch,
nhưng chính cái nghiêng lệch ấy lại giúp ông bày tỏ những điều tâm đắc nhất,
sâu sắc nhất, thậm chí, rất đúng, rất trúng. Bài tựa Hoa Tiên của Cao Bá Quát còn
nhiều vấn đề khác, thậm chí có chỗ ca ngợi Kiều rất cao, nhưng Tản Đà nhất
quyết chỉ “bắt bẻ” câu: “Sử Kim Vân Kiều sinh hồ kỳ hậu dã”, cố tình
dịch “sai” đến mức cực đoan: “Khiến cho Truyện Kiều đờ mắt trông theo”.
Tản Đà khó mà dịch sai.
Cái động từ mới toanh của ông “đờ mắt trông theo” chẳng hề có trong bản gốc chữ
Hán hàm chứa một ý tứ tinh nghịch và tinh tế. “Đờ mắt” có nghĩa là bị động, một
thứ “tê liệt”. Tản Đà cố tình tô đậm một điểm nào đó trong phát ngôn của Cao Bá
Quát. Có thể, theo cách hiểu của Tản Đà, nhận định “khiến cho Kim Vân Kiều
sau đó sinh ra” của Cao Bá
Quát là điều ông không thể chấp nhận nổi, với lý do là (theo cách nói đó) Kiều
“bị sinh ra”, “bị động” trong sinh mệnh của nó, “được
đẹp” lên bởi cái khác. Với Tản Đà, cách nói của Cao Bá Quát chẳng khác
nào động chạm đến “linh khí” của Truyện
Kiều. Tản Đà không chia sẻ cách nhìn sâu sắc của Cao Bá Quát về một dòng
chảy truyện thơ Nôm tài tử và những sự sinh nở tất yếu của dòng thơ ấy. Ông chỉ
quan tâm đến một nhận định “nhạy cảm” của bậc danh sĩ xưa để bày ra trận địa
chữ và nghĩa, thỏa chí thưởng thức và (dường như) yên ổn trong không gian cũ,
dấu chân cũ của cách cảm truyền thống: nỗ lực đi tìm “thần cú, nhãn tự” để so
sánh hai tác phẩm trong khi (“tuyên ngôn” bài viết lại có vẻ như) đi vào một
đường lối khá mới như giới Tây học từng nói( Phạm Quỳnh yêu cầu “ đứng về phương
diện văn chương mà xét”, Phan Khôi nói đến hai phái đều có lí là nghệ thuật vì
nghệ thuật và nghệ thuật vì văn chương): chuyên
chú vào văn chương.
Bản chất cuộc đối thoại có
màu sắc độc thoại của Tản Đà thể hiện ở nội dung: Tầm và Tầm của Tài. Ông nhìn Truyện Kiều và Hoa Tiên từ cái tầm của nó đối với nền quốc
học, trong sự thưởng thức của giới trí thức tài tử - những người đủ “thẩm
quyền” để đọc và tin vào cách đọc của mình. Bài viết của ông không có ý xác
minh văn bản và phân trần đúng sai; Nó chỉ minh định một giá trị không thể chối
cãi. Ông bỏ qua nhiều suy tư đúng đắn của danh sĩ Cao Bá Quát để nhắm thẳng vào
một mệnh đề có thể gây tranh cãi nhiều nhất, tự nhiên mở ra những “sáng tạo
luận” hấp dẫn dù không quyết đi hết con đường.
Theo “giải trình” của Tản
Đà, có mấy lý do để nhà thơ so sánh Hoa
Tiên và Kiều:
- Một là: Cụ Cao Bá Quát là “vị danh nhân”,
theo cách hiểu của Tản Đà, cho rằng Hoa tiên hơn Truyện Kiều. Tản Đà hiểu câu
của Cao Bá Quát khác chúng ta, khiến cho sự so sánh thêm lí do xuất hiện (lý do
này liên quan đến cá tính và phong cách văn chương của Tản Đà)
- Hai là: nhiều người cho là Hoa Tiên tương
đương hoặc hay hơn Kiều (lý do này là mấu chốt!)
- Ba là: nhiều người nói hai tác phẩm (Hoa
Tiên và Kiều) hay và tương đương nhưng không chỉ rõ chỗ hay và tương đương (lý
do này là cái cớ thêm chuyện)
- Bốn là: Quan niệm của nhiều người “lấy ở
tính chất của truyện” mà không “chuyên luận văn chương”khi xét đến giá trị
Truyện Kiều và Hoa Tiên (lý do này rất liên quan đến phương pháp luận phê bình
văn học, đến tâm lý văn nghệ)
Thế thì, với bốn nguyên do
trên, Tản Đà viết để thay đổi cách nhìn, cách đánh giá của nhiều người khi so
sánh hai truyện Nôm nổi tiếng, trong đó có “danh sĩ” Cao Bá Quát – người được
Tản Đà đưa ra làm đại diện đặc sắc, là người “đáng” để Tản Đà phê, cãi lại,
đáng trở thành nguồn gốc tao nhã cho cuộc hứng thú viết trong ngày xuân. Mặt
khác, cách đánh giá của nhiều người, theo Tản Đà, vì “lấy ở tính chất của
Truyện” không phải “ chuyên luận văn chương” nên không làm rõ được cái hay thật
có của Truyện Kiều. Tản Đà cũng không nói họ sai, chỉ nói cái cần so sánh là
Văn, nên Tản Đà theo hướng Văn. Và cuối cùng, một điều rất cần lưu ý là: bài
viết của Tản Đà cho thấy một đặc điểm của người sáng tác viết về sáng tác (về
bản chất), đồng thời là người “ngưng” sáng tác viết về sáng tác (về thời điểm).
Các yếu tố này âm ỉ tạo ra một phong cách đọc, một cách “thương lượng”, “điều
trần” rất mực tinh tế, chất chứa cảm thông nhưng cũng không thiếu “sòng phẳng”,
“lý tính”.
2. Cách đọc Kiều của Tản Đà từ bản so sánh Hoa Tiên và Kiều
Hoa tiên dù là con đẻ của Nguyễn Huy Tự song
lại có nhiều sinh mệnh khi bước vào lịch sử tiếp nhận, từ bản nhuận chính của
Nguyễn Thiện đến bản nhuận sắc của Vũ Đãi Vấn, Cao Bá Quát. Cảm hứng nhuận
chính, nhuận sắc Hoa tiên đương
nhiên không so được với cảm hứng ngâm, vịnh, bói, lẩy, tập,.. Kiều, nhưng về cơ
bản, sức hút về văn hóa và không gian mỹ học tiếp nhận của hai tác phẩm đều rất
đáng kể. Vậy mà đối với Tản Đà, chẳng có văn bản nào của Hoa tiên được đem ra xem xét, nghi vấn, chọn
lọc. Ông hoàn toàn không để tâm vào việc định hình bản của Nguyễn Thiện tốt
hơn, hay bản của Vũ Đãi Vấn hợp lý hơn, hoặc giả bản gần nguyên gốc của Nguyễn
Huy Tự và các bản khác có gì cần truy cứu. Các loại văn bản này không nằm trong
mối quan tâm của Tản Đà, bất chấp Hoa
tiên đã được nhuận sắc, nhuận
chính, sửa chữa, thêm thắt theo định hướng mỹ học nào. Mục tiêu lớn nhất của Tản Đà là
khẳng định giá trị vô tiền khoáng hậu và phi thường của Truyện Kiều[5]. Hình thức phân tích, so sánh là
cách làm mang tính khoa học khá rõ ở Tản Đà; một kiểu làm khoa học bằng tâm thế
một nhà nho tự nhiên tiếp nhận cái mới, hệ thống tư duy mới, cái mà trước đó
quãng 10 năm ông chủ bút Nam phong trong bài viết về Truyện Kiều đã nói và xác
định là ông theo “phương pháp Thái Tây”, nghĩa là có sự phân tích, phân loại.
Câu thơ dịch thần bút
“buột mồm” của Tản Đà: “Nói láo mà chơi, nghe láo chơi”[6]
thực chất là một tuyên ngôn nghệ thuật đã đeo bám Tản Đà, thể hiện thành một di
sản văn chương có dấu ấn một tay bút chuyên nghiệp, hiện đại. Cái “láo” ấy
và cái “chơi” ấy không mấy khác triết lý “tự sự hóa” của thế giới này nay, cũng
như không có gì xa lạ với “trò chơi” trong quan niệm tâm lý văn nghệ nói chung.
Phá đi cái tôn nghiêm, chân chỉ đeo đẳng dai dẳng trong truyền thống văn chương
khoa bảng Hán học, Tản Đà chỉ thẳng vào bản chất nghệ thuật là “nói láo”, “nghe
láo”, và “chơi”. Bởi thế, bài viết “Văn Hoa tiên và văn Kiều” của ông
cũng “rậm rạp” đến gần khu vực “chơi”. Nói cách khác, văn chương nghệ thuật là
“bịa ra”, “mộng ra”, “vọng tưởng ra” một thế giới khác và du được người đọc
đồng hành nơi ấy. Tản Đà “bịa” ra một câu văn dịch bất ngờ và tâm tình với
người đọc như thế đó là câu chuyện nghiêm trọng. Và quả thực, ông cũng đem tới
nhiều điều nghiêm trọng.
Trở lại bài viết của Tản
Đà, thấy rằng cách đọc Kiều đáng chú ý của ông thể hiện ở một số điểm sau:
(1) Kiến tạo vấn đề, tự sự ra vấn đề để
trò chuyện, đối đáp, tranh biện
Tản Đà trích lấy một câu
trong bài tựa Hoa tiên của Cao Bá Quát “Sử Kim Vân Kiều xanh hồ kỳ hậu giã” và dịch, bình
luận: “Khiến cho quyển Kim
Vân Kiều đờ mắt theo ở sau.
Như lời ấy, thời quyển Hoa tiên hơn
quyển Kiều”.
Tản Đà “dựng chuyện” rất
giỏi (nhất là ở chi tiết “đờ mắt”) nhưng câu văn mà ông chọn lại chính là câu có nhiều vấn đề nhất. Đấy là cái
tài của ông. Ở một góc độ nào đó, Tản Đà đã viết tranh luận, phê bình văn học
dưới hình thức một câu chuyện, một tiểu phẩm trần thuật, thậm chí có phần “hậu
hiện đại”.
(2) “Chuyên theo văn chương để phê bình
hai cuốn truyện đó”
- Tản Đà quan niệm Văn chương như một
tiêu chí cần được phân biệt rõ ràng với các tiêu chí khác (nhất là các tiêu chí
về luân lý, đạo thánh hiền, đạo đức dân sự…vốn thường lẫn lộn trong quan niệm
Văn). Sự phân biệt này khiến Tản Đà gần với các học giả Tây học hơn là với các
nhà nho thủ cựu trong quan niệm văn học như Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng
- Tản Đà có mục tiêu viết phê bình mang
phong cách nghệ thuật riêng, với tư duy riêng về cái hay, về kiệt tác; ông đặt
hai tác phẩm lên bàn cân chữ nghĩa chuyên nghiệp của nghề văn và khảo sát một
cách tỉnh táo dựa trên các luận điểm phân tích mạch lạc.
- Nhìn từ ngành phê bình văn học, bài
viết của Tản Đà là một sự xuất hiện không thể bỏ qua, hoặc giả ít nhất cũng là
có vai trò trong buổi đầu tư duy phê bình nghệ thuật.
(3) Nền tảng so sánh là chủ đề và phong
cách – một cách đọc có màu sắc khoa học
Tản Đà đặt toàn bộ dung
lượng phê bình lên hai cái đế khá chắc: chủ đề và phong cách. Ông chọn chủ đề
“đàn bà” và làm bật lên hai cách nghĩ và tài thơ khác biệt của Nguyễn Huy Tự và
Nguyễn Du. Từ đó, ông di chuyển hẳn sang cái sang trọng và đa dạng của chữ
nghĩa hai nhà thơ mà bình luận. Sáng tạo của Tản Đà thể hiện khá rõ trong quan
niệm “hay một cách bằng phẳng” so với cái hay một cách “xôi xốc mà
thanh lịch”. Theo Tản Đà, “hay một cách bằng phẳng” cũng là hay nhưng không hay nhất. Đó là cốt lõi phân định giá trị văn Hoa tiên và văn Kiều.
(4) Mệnh đề cốt tử: Văn Truyện Kiều là văn chương; văn Hoa tiên tựa ở luân lý
- Cán cân định giá ở đây có sự khác
biệt giữa Tản Đà và Cao Bá Quát. Cao Bá Quát đặt nặng cái “trung hậu” của Hoa tiên (nói cách khác, ông hài lòng với sự an
toàn của đức hạnh và đạo nghĩa theo quan niệm Nho giáo, nhất là cái an toàn của
một tuyệt phẩm có thể an ủi được một con người “bị đời ruồng bỏ đã lâu”), còn Tản Đà hứng thú cái “chuyên nghiệp”
của Truyện Kiều (nói cách khác, ông hả hê với cái
phiêu lưu của đức hạnh và sự thăng trầm của đạo nghĩa theo diện mạo ví von “bà lớn tân thời”). Như vậy, cảm tình của
Cao Bá Quát đối với Hoa tiên vẫn rất khiêm tốn trong quan niệm giá
trị, chưa thấy rõ cơ sở xem Truyện
Kiều kém hơn Hoa tiên.
Cái giả thiết không được nhìn thấy qua câu chữ Cao Bá Quát là: cái răn đời hay hơn hay cái “hiểu
đời” hay hơn? Giả thiết này
bị Tản Đà “phiên dịch” thành một mệnh đề: “Hoa
Tiên hay hơn Kiều”, và nhân đó, đặt bút “phê” lại.
Câu chuyện của Tản Đà “gây
sự” ra với Cao Bá Quát là một chuỗi “tự sự” rất Tản Đà, một thứ chất thơ tràn
trề của một nhà văn “chữ nghĩa Tâu Tày trót dở dang”. Trong bối cảnh tranh luận
này, Cao Bá Quát không phải là một danh sĩ cần được Tản Đà đối chất theo nghĩa “tranh
luận văn học” mà là một “nhân vật đọc” gây ấn tượng cho Tản Đà. Bài tựa Cao Bá
Quát cũng như tên tuổi ông là cái cớ “xứng đáng” để Tản Đà đối thoại với những
ai đó khác đang mơ hồ về cái
gọi là kiệt tác và cái gần với kiệt tác.
(5) Quan niệm phê bình thực chứng và dấu
ấn lối đọc “thần cú”, “nhãn tự” – tích hợp tư duy Đông – Tây trong phê bình
Tản
Đà thuộc số ít các nhà nho đầu thế kỉ XX viết văn theo phong cách phảng phất
chút khoa học xứ Thái Tây. Ông không nói suông, tỏ chí, vịnh tình. Ông viết để
thuyết phục. Có mấy thứ ông bày ra để thuyết phục người ta trong mấy ngày xuân
đầu năm: Cái hay thực sự phải là hay ở chỗ chỉ ra được, cái hay thực sự là cái
hay sống động, có chất đời, cái hay thực sự là cái hay của sự thần diệu, bao
quát, phong phú xuất chúng. Cái hay thực sự là cái hay vượt qua “mặt phẳng” mà
vươn tới sự sâu thẳm, thô ráp của đời sống bao la: “Văn Truyện Kiều rất là bạo lời; văn Hoa tiên giữ ý cẩn thận. Văn Truyện
Kiều nhiều giọng lịch lõi, văn Hoa tiên toàn vẻ trang nhã. Văn Hoa tiên như mợ
ấm khuê các; văn Truyện Kiều như bà lớn tân thời. Văn Hoa tiên những câu hay,
hay một cách bằng phẳng; văn Truyện Kiều những câu hay có nhiều ý tứ xôi xốc.
Văn Hoa tiên những câu hay không thể chỉ rõ từng chữ; văn Truyện Kiều những câu
hay, có thể chỉ rõ từng chữ hay”.
Giai đoạn này, Tản Đà hầu như không còn sống với
hình ảnh một nghệ sĩ sáng tác nữa mà chỉ viết các bài bình và dịch thơ Đường,
chú giải Truyện Kiều. Bài “Văn Hoa tiên
và văn Kiều” của ông thể hiện một đẳng cấp rất cao trong việc thưởng thức
nghệ thuật thơ ca. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lối đọc “thần cú, nhãn tự” có
truyền thống của phương Đông (mang tính trực giác) với cách phê bình thực chứng
phương Tây (mang tính lý trí) đã tạo ra một không gian đọc mới mẻ, vẫn còn dấu
vết “thỏa hiệp” với quá khứ rộng lớn viễn mộng Đông Á, đồng thời hé ra phương
cách kết nối lối mỹ cảm mới về một loại đọc
văn bằng văn. Đoạn này là tuyệt bút phê bình của Tản Đà trong việc kết hợp
Đông – Tây:
“Mày
ai, trăng mới in ngần
Phấn thừa hương cũ bội
phần xót xa
Câu này, cái giá tuyệt
thanh quí, chỉ ở một chữ “ai”. Ai, tức là người ở trong tưởng nhớ vậy. Trông thấy
trăng mới in ngần, tựa như cái lông mày, mà nhận là như lông mày của người ấy.
Vậy không cần có chữ “nhớ” mà cái tinh thần sự nhớ hoạt hiện ở trong câu. Mỗi
câu sáu chữ đó, tức như văn Tàu câu: “Phù dung như diện, liễu như my”. Chữ “ai”
đó, tức là chữ “như”. Mà chữ “như” kia trong văn Tàu còn tục, đến chữ “ai” đây,
mới là tuyệt thanh”. Tản Đà theo lối chọn
câu hay, chữ hay, có phần dựa vào kinh nghiệm ngâm- đọc (đặt nặng âm điệu, thanh âm), một cách đọc đến nay không
còn mấy người biết, nó gần với cách thưởng thức, bình phẩm thơ thời Nguyễn Du. Phần
viết về câu: “Phòng không lặng ngắt như tờ
- Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh” chính là ví dụ tiêu biểu cho cách đọc này[7].
3. Xung quanh sự kiện Hoa Tiên và Kiều – hệ quả từ một
mỹ cảm đọc
Dù có nguồn gốc từ một ca
bản Trung Quốc (Hoa Tiên kí), truyện Nôm Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự vẫn làm dấy lên một
uẩn khúc về xung đột sâu thẳm trong lòng xã hội trung đại của người Việt giữa
tình yêu nhân bản, tự do, chính đáng và mối chung tình do sắp đặt của quyền uy
lễ giáo. Uẩn khúc đó đã được người đời sau, đặc biệt là Vũ Đãi Vấn – dưới ngòi
bút nhuận sắc mạch lạc - có ý “hóa giải” để hạn chế tối đa một cuộc đối đầu
nặng nề của ước thúc xã hội với khát vọng con người. Tình yêu giữa Lương Sinh
và Dao Tiên được Nguyễn Huy Tự và Vũ Đãi Vấn dẫn qua nhiều khúc quanh “nguy
hiểm” đối với nền tảng phong hóa của khuôn khổ lễ giáo để làm mờ đi mọi xung
đột sâu sắc (thậm chí là những bế tắc, bi kịch vốn hoàn toàn có thể diễn ra
trong đời sống thực). “Có thể tự chọn yêu đương nhưng phải thông qua tục lệ
cưới xin, có thể đính ước trước nhưng phải trinh chính. Thế là chấp kinh mà có
thể tòng quyền”[8] - lối đi của “mỹ học trung hậu” (chữ
của Trần Đình Hượu) trong tinh thần nhuận chính của Vũ Đãi Vấn đã làm nổi rõ
nguyên tắc “trung hậu” của Hoa Tiên như một đóng góp của loại “truyện thơ ái
tình đầu tiên” của xã hội Việt Nam thời trung đại. Như vậy, cái lớn của Hoa Tiên nằm ở chỗ mà
Truyện Kiều không trú vào[9]. Câu chuyện của Tản Đà với hình thức là
một cuộc tranh luận văn học thực chất là một câu chuyện rất khác biệt với mối
quan tâm của Cao Bá Quát – đó là câu chuyện rất “hiện đại”: Văn. Bài viết của Tản Đà, do đó, dù rất
thuyết phục về tầm cao tuyệt mỹ của Truyện Kiều nhưng vẫn không hề cho thấy Cao
Bá Quát sai (vì hai người không cùng nói một việc); Đó là một kiểu tranh luận
“rất Tản Đà”, kiêu bạc nhưng đôn hậu.
Với bộ công cụ sắc bén
“thời đại, cảnh ngộ, tài khí”, Tản Đà minh chứng một phong cách văn chương (style)
là mấu chốt cho giá trị cuối cùng của tác phẩm. Nhìn lại các cách đọc Kiều của Vũ
Trinh, Nguyễn Lượng, Mộng Liên Đường chủ nhân, Phong Tuyết chủ nhân, Minh Mệnh,
Đào Nguyên Phổ, Chu Mạnh Trinh…, có thể thấy cách đọc của Tản Đà đột phá vào
hai bức tường thành: một là
quan niệm nghệ thuật truyền thống đánh giá cao sự hài hòa, vừa phải, trang nhã,
không thái quá, không bất cập (Tản
Đà, một mặt vẫn khen cái hay trang nhã, bằng phẳng của Hoa tiên, mặt khác đã lật đổ nó bằng cách rất nhẩn nha ca ngợi thứ
văn “xôi xốc”, “lịch lõi”, “bạo lời”, “bạo đặt” của Kiều) - đó là biểu hiện
tính giao thời trong quan niệm cái đẹp của Tản Đà; hai là quan niệm thưởng thức trộn
lẫn văn nghệ và đạo hạnh (Tản
Đà đã công phá nó bằng cách chỉ ra sự phân biệt giữa phẩm bình luân lý và phẩm
bình văn chương, nhiệt tình bênh vực sự độc lập tương đối của yếu tố nghệ thuật
trong tác phẩm văn chương).
Sự khác biệt về tâm lý
tiếp nhận và khuynh hướng tìm đến tính thực chứng khoa học (“có thể chỉ rõ
từng chữ hay”) là điều không thể không thấy ở ngòi bút tài hoa của Tản Đà.
Ý thức về “sự chia sẻ tri thức” với phong thái dân chủ kín đáo trong bài viết
đầu xuân 1934 của Tản Đà có phần khác với cảm hứng “tri âm tri kỷ”, “độc quyền”
về cảm xúc trong các lời bình của các nhà nho cuối thế kỉ XIX.
Cái mới và cái không mới ở
Tản Đà, suy cho cùng, đều là những “chất liệu” khó tìm trong cái kho lưu trữ
khổng lồ và li loạn của lịch sử. Mới hay không
mới đều có lý do bằng vàng để
lưu giữ kí ức về một giai đoạn hoài thai hội nhập.
a) Cái mới ở Tản Đà:
- Phong cách tranh biện và
thực chứng theo lối phân tích lý tính, tháo gỡ những mơ hồ về nhận xét cảm tính
đối với tác phẩm, nhận xét chỉ để minh họa cho ý tưởng đã được đóng cọc trước.
- Bài viết Tản Đà đặt ra
một vấn đề mới về lối phê bình trực cảm: đặt nặng khả năng về trực giác nghệ
thuật để khám phá giá trị tác phẩm, mang nặng cảm xúc cá nhân, tự do trong
thưởng thức – sản phẩm của nền văn hóa đề cao con người cá nhân ít khi có mặt
trong nền văn hóa Đông Á trong quá khứ.
- Bài viết của Tản Đà cũng
mang tới một lối tư duy đối thoại, so sánh bình đẳng truy tìm chân lý, thể hiện
ở câu cuối cùng: “Nhất Kiều, Hoa Tiên
cũng là một cuốn giá trị vậy”.
- Tâm lý văn nghệ
được đặt vào một bối cảnh đặc biệt thú vị: tranh luận dựa vào một chứng cớ mang
tính tự sự.
b) Cái không mới:
- Vẫn giữ truyền thống “điểm bình” của
mỹ học phương Đông
- Công cụ “điểm bình” khá mới nhưng
động lực lại cũ: trích chọn một câu ra để bàn luận, không đặt nặng tính hệ
thống.
- Có so sánh nhưng chưa thành khoa học,
có phân tích nhưng chỉ dừng ở hé mở, mặc dù độ thuyết phục là rất đáng kể.
- Viết vì niềm vui cho bản thân và phần
nào thỏa mãn sở thích bình văn chương hơn là một ý thức về “ngòi bút phê bình”
- Tư duy về môi trường đối thoại còn mơ
hồ. Cộng đồng “bạn đọc” của ông không có địa chỉ rõ rệt.
- Có tuyên ngôn: “Nghĩa là văn Truyện Kiều quý ở tình-tính;
văn Hoa tiên trọng ở luân lý. Nguyên tự cái gốc của văn chương đã khác nhau như
thế, lại thời đại, cảnh ngộ và tài khí của tác giả đều khác, cho nên văn hai
quyển ấy khác nhau xa” nhưng không triển khai đến cùng.
Từ “Văn Hoa Tiên và văn
Kiều” của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, một sự thật hiển nhiên là Truyện Kiều dù được sinh ra/ hoặc xuất phát/hoặc
xây cảm hứng bởi đâu thì nó cũng đủ nội lực để làm sang cho “dòng dõi” thoát
thai của chính mình: từ Kim
Vân Kiều truyện (nguồn chất
liệu cốt truyện ngoại quốc), từ Hoa
Tiên (nguồn cảm hứng ái tình,
âm hưởng lục bát, nhãn quan tài tử), từ lối hát phường vải xứ Nghệ (nguồn cảm
hứng về trí tuệ và tình cảm dân gian)… Bởi thế mà Tản Đà “dám” nhận xét rất
sắc: “Cứ cái tài Tác giả quyển Kiều mà làm vào truyện Hoa tiên thời có thừa;
tài Tác giả Hoa tiên mà nếu làm sang truyện Kiều có khi không đủ”. Cuộc lội
ngược dòng của Truyện Kiều (về khả năng lan tỏa ảnh hưởng vô
hình, hữu hình và sức lôi cuốn không ngừng qua năm tháng) là điều quan trọng
nhất, hơn cả mọi sự “thu xếp” về văn bản, nhuận chính, nhuận sắc, tranh luận,
bàn bạc… đối với Hoa Tiên.
Đó cũng là lý do mà Tản Đà không quan tâm đến văn bản nào của Hoa Tiên trong “công cuộc” so
sánh với Kiều, vì làm sao
có thể so sánh được (bất kể là văn bản nào trong số các văn bản của Hoa Tiên
đang tồn tại), nếu xét về phong cách một kiệt tác. Có lẽ ông đã nghĩ như thế và
sẵn sàng chọn cách “thiếu sót để làm đúng”.
Qua “Văn Hoa Tiên và
văn Kiều”, sự xê dịch “hệ hình” tư duy từ lối văn chương khoa cử, điểm
bình, phán xét vừa khiêm cung vừa ngạo nghễ, ít “gây sự”, ít phiêu lưu sang lối
văn giàu tính đối thoại, phân tích, so sánh, ví von bằng trường từ vựng hiện
đại đã làm nổi rõ tính chất giao thời đậm nét ở một trí thức lớn. Tản Đà không
chỉ là chứng nhân đứng giữa hai lằn ranh thế hệ, thời đại, xã hội với nhiều băn
khoăn, bi kịch, cuồng ngông (ở một phương diện nào đó), ông còn là đại diện cho
một kiểu trí thức hiếm hoi trưởng thành sâu sắc về năng lực thẩm mỹ, biết biến
cái giao thời hỗn độn thành chất liệu nhận thức, biến cái giá của sự chuyển đổi
tư duy thành cái đẹp nhập cuộc.
Hà Nội, tháng 7-2015
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
1. Tản Đà, về tác gia và tác
phẩm, Trịnh Bá Đĩnh – Nguyễn Đức Mậu tuyển chọn và giới thiệu, Nxb Giáo
dục, Hà Nội, 2000
2. Phạm Đan Quế, Truyện Kiều
và các nhà nho thế kỉ XIX, Nxb Văn học, Hà Nội, 2000.
Viện Văn học, Nguyễn Huy Tự và
Truyện Hoa Tiên, Kỷ yếu Hội thảo, Nxb KHXH, H. 1997.
3. Trần Đình Hượu, Tuyển tập,
tập 2, Trần Ngọc Vương giới thiệu và tuyển chọn, Nxb Giáo dục, H. 2007.
4. Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Thiện, Truyện
Hoa tiên, Lại Ngọc Cang khảo thích và giới thiệu, Nxb Văn hóa, Viện Văn
học, H. 1961.
5. Nguyễn Đức Mậu:
Hoa tiên trong cách nhìn từ Vũ Đãi Vấn,
Cao Bá Quát đến Tản Đà- Bản viết tay, năm 1989.
[1] Hai trăm năm nghiên cứu bàn
luận Truyện Kiều, Lê Xuân Lít sưu tầm, tuyển chọn, giới thiệu.Nxb Giáo dục.
H 2005.Tr83.
[2] Đinh
Gia Trinh, trong bài Điếu văn Tản Đà (20 năm sau cuộc tranh luận Truyện Kiều)
đã bày tỏ: “chúng tôi, thanh niên trí thức của xứ sở, bao giờ cũng biết cảm
ơn tha thiết những danh nhân của xứ sở” (trích Tản Đà Về tác gia và tác phẩm,
Nxb Giáo dục, H 2003, Tr 34).
[3] “Ta đối với Hoa Tiên thật đã
có mối cảm tình tốt đẹp biết bao nhiêu! (…) Ta bị đời ruồng bỏ đã lâu, tình cờ
tìm được quyển này trong đống sách bỏ quên của ông láng giềng, cầm lấy mà đọc,
thật đang cơn sầu muộn mà như được vật báu lớn” (Truyện Hoa Tiên, Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Thiện; Lại Ngọc Cang( khảo
thích và giới thiệu), Nxb Văn hóa, H.1961 Tr 154-255).
[4] Truyện Hoa Tiên, Nguyễn
Huy Tự, Nguyễn Thiện; Lại Ngọc Cang( Khảo thích và giới thiệu) Nxb Văn hóa,
H.1961, Tr 154.
[5] Trần Đình Hượu trong bài Hoa
tiên và vấn đề của nó trong lịch sử truyện Nôm (Nguyễn Huy Tự và truyện
Hoa Tiên (Kỷ yếu hội thảo),
Nxb KHXH, H. 1997, Tr 194 và Tr213) cho rằng: “Hoa tiên, cả bản chính lẫn
các bản nhuận sắc đều chỉ là chuyện ái tình, không chứa đựng nhiều dung lượng
xã hội như Truyện Kiều. Tác giả và những người nhuận sắc chưa xót xa, trăn trở
với cuộc đời như tác giả Truyện Kiều”, “Hoa tiên mở đường cho Truyện
Kiều nhưng có Truyện Kiều, Hoa tiên trở nên mờ nhạt; có Thúy Kiều, Dao Tiên trở
thành mờ nhạt”. Mặc dù các nhận định thực tế này dọn đường cho một quan
điểm “chiêu tuyết” cho mỹ học trung đại mà Nguyễn Huy Tự và Vũ Đãi Vấn đã để
lại trong tác phẩm Hoa tiên, chỉ ra chỗ “bất công và đáng tiếc” trong tiếp nhận Hoa tiên của người đọc nhiều thời, song cốt lõi
lập luận vẫn cho thấy một sự thật rõ ràng về tầm vóc không thể bàn cãi của Truyện Kiều trước mọi “đối tác” trước và sau
nó.
[6] Câu thơ dịch từ nguyên tác bài Liêu
Trai đề từ của Vương Ngư
Dương, câu đầu tiên của bài tứ tuyệt 姑妄言之姑聽之 (cô vọng ngôn chi cô thính chi).
[7] “Câu này, tám chữ dưới thực
có giá trị ở sự ngâm đọc. Nguyên văn lục bát là thể văn chẵn, cho nên như câu
tám ở dưới phi hai chữ đi với nhau, thường bốn chữ đi với nhau. Cũng bởi thế,
cho nên thường thấy có nhiều người kể truyện, ngâm truyện cứ hai chữ một lần
ngắt hơi; mà nhất là đến chữ thứ sáu ở câu tám, thời ngừng hơi một cách bỏ
lửng, như thể đương đi mà ngồi phịch xuống đất, rồi mới lại đứng lên. Cách kể
truyện như thế, rất là không thanh lịch, mà nghe thường thấy buồn; nhất là
những người đàn bà con gái đã sẵn có cái tính tình ai oán, mà kể truyện, ngâm
truyện đến chữ thứ sáu ở câu dưới, thật như gẩy khúc đoạn trường vậy”.
(trích Văn Hoa tiên và văn Kiều, nguồn
nguyenducmau.blogspot.com )
[8] Trần Đình Hượu, Hoa
tiên và vấn đề của nó trong lịch sử truyện Nôm, in trongNguyễn Huy Tự và
truyện Hoa Tiên (Kỷ yếu hội
thảo), NXB KHXH, Hà Nội, 1997, Tr 207.
[9] Bàn luận về Dao Tiên trong tương quan
với Thúy Kiều, Trần Đình Hượu viết: “Tình yêu của Dao
Tiên, theo tôi nghĩ, là tình yêu
của một con người rất có ý thức về mình, rất nhân tình và cũng rất Việt Nam.
Qua nhân vật Dao Tiên, Nguyễn Huy Tự đã mô tả được trọn vẹn một tình yêu, một người
yêu từ những rung động bâng khuâng chờ đợi, những trằn trọc phân vân, khó quyết
định, nỗi buồn tương tư đau khổ vì bị phụ bạc, lòng hy sinh vì nhau, sự sung
sướng được đoàn tụ… Dao Tiên là hình ảnh một người yêu đẹp, có rất nhiều nét
của dáng dấp người phụ nữ Việt Nam, người phụ nữ trong các gia đình nề nếp
truyền thống. Để Dao Tiên mờ nhạt bên cạnh Thúy Kiều không khỏi có chỗ bất công
và đáng tiếc.” (Hoa tiên
và vấn đề của nó trong lịch sử truyện Nôm, Sđd, Tr 215 – 216)