Thứ Năm, 14 tháng 1, 2016

NHẬN THỨC VỀ QUỐC NGỮ Ở VIỆT NAM VÀ VIỆT NGỮ HỌC Ở VIỆT NAM THỜI CẬN ĐẠI



NHẬN THỨC VỀ QUỐC NGỮ Ở VIỆT NAM
VÀ VIỆT NGỮ HỌC Ở VIỆT NAM THỜI CẬN ĐẠI

                                             Vũ Đức Nghiệu

1. Bối cảnh ngôn ngữ của tiếng Việt qua các phân kì lịch sử.
1.1. Hiện nay, tiếng Việt là Quốc ngữ (National language) của Việt Nam. Hệ thống chữ viết cho nó hiện nay là bảng chữ Latin (được sáng tạo tác từ thế kỉ XVII).  
Tiếng Việt là ngôn ngữ của người Việt (Kinh) - dân tộc đông người nhất của Việt Nam, một quốc gia có nhiều tộc người. Về nguồn gốc, Việt ngữ thuộc tiểu chi Việt Mường (cũng có người gọi là tiểu chi Việt Chứt hoặc Vietic), ngành Môn Khme, ngữ hệ Nam Á [x. 1. 2. 3. 4. 8. 12].
Lịch sử tiếng Việt kể từ khi ngôn ngữ Việt-Mường chung rạn nứt, chia tách, trở thành hai ngôn ngữ riêng (vào khoảng thế kỉ VIII - IX, do tác động, ảnh hưởng rất mạnh mẽ và sâu sắc từ tiếp xúc với tiếng Hán ), có thể được phân kì như sau [9]:
1)  Giai đoạn tiếng Tiền Việt: khoảng thế kỷ VIII - IX.
Lúc này vẫn là thời kì Bắc thuộc. Đất nước chưa độc lập, xã hội có hai ngôn ngữ: tiếng Hán của tầng lớp cai trị và tiếng Việt của người Việt. Chữ viết có một hệ: chữ Hán.
2)  Giai đoạn tiếng Việt tiền cổ: khoảng thế kỷ X - XI - XII.
Lúc này có hai ngôn ngữ: tiếng Việt - ngôn ngữ nói của dân bản địa; tầng lớp cai trị cũng sử dụng; và văn ngôn Hán. Chữ viết có một hệ là chữ Hán.
3)  Giai đoạn tiếng Việt cổ: khoảng thế kỷ XIII - XIV - XV - XVI.
Có hai ngôn ngữ: Tiếng Việt và văn ngôn Hán. Chữ viết có hai hệ: chữ Hán và chữ Nôm (chữ viết do người Việt dùng chất liệu là chữ Hán sáng tạo ra, để ghi âm tiếng Việt).
4)  Giai đoạn tiếng Việt trung đại: khoảng thế kỷ XVII-XVIII- nửa đầu thế kỷ XIX.
Có hai ngôn ngữ: Tiếng Việt và văn ngôn Hán. Chữ viết có ba hệ: chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ (bảng chữ Latin, hình thành nhờ các nhà truyền giáo người châu Âu)
5) Giai đoạn tiếng Việt cận đại: nửa sau thế kỉ XIX và nửa đầu thế kỉ XX.
Việt Nam thuộc Pháp. Trong xã hội có ba ngôn ngữ: Việt, Pháp, văn ngôn Hán và bốn hệ chữ viết: chữ Pháp, chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ. Ba ngôn ngữ, bốn hệ văn tự đó cùng tồn tại nhưng hành chức không bình đẳng. Tiếng Việt dùng trong giao tiếp khẩu ngữ hàng ngày.
Người Pháp lật đổ vai trò của chữ Hán, chữ Nôm, để thay vào đó là tiếng Pháp, chữ Pháp và hệ thống chữ Quốc ngữ theo mẫu tự Latin .  
6)  Tiếng Việt hiện nay: từ 1945 trở lại đây.
Ngôn ngữ quốc gia: tiếng Việt; và một hệ chữ viết: chữ Quốc ngữ.
1.2. Mấy nhận xét về tình thế tồn tại, phát triển của Việt ngữ.
1.2.1.  Trong lịch sử  hình thành và phát triển của mình, tiếng Việt có quá trình tiếp xúc rất lâu dài và sâu sắc với các ngôn ngữ Thái và đặc biệt là tiếng Hán, rồi về sau là tiếp xúc với tiếng Pháp. Trên cơ tầng Môn-Khmer (Monkhmer substrate)  của mình, Việt ngữ đã vay mượn rất nhiều từ ngữ (mặt từ vựng) và chịu ảnh hưởng rất sâu sắc về mặt hình thái từ các ngôn ngữ Hán và Thái (khoảng 65% từ vựng của Việt ngữ có nguồn gốc Hán) . 
1.2.2.  Từ tiếng Việt tiền cổ (khoảng thế kỷ X - XI - XII), phát triển liên tục qua các giai đoạn cho đến tận ngày nay, Việt ngữ luôn luôn là một ngôn ngữ thống nhất, kể cả trong quá trình mở đất về phương Nam, hình thành các phương ngữ, lẫn khi đất nước bị ngoại bang trực trị hay bị chia cắt trong những khoảng thời gian khá dài. Có hai biểu hiện rõ ràng của tính thống nhất đó, là:
Thứ nhất, năm 938, với nền độc lập giành được từ tay người phương Bắc, các triều đại Việt Nam: Ngô, Đinh, Lý, Trần , Lê... nối nhau cai quản đất nước. Công cuộc mở rộng bờ cõi làm cho biên giới nước Đại Việt bắt đầu từ đời Lý, Trần mở dần về phương Nam; và kèm theo đó, người Việt (Kinh)  cũng tiến dần vào những vùng đất mới.
Người Việt mở cõi đến đâu, tiếng Việt sẽ có tiếp xúc với những ngôn ngữ bản địa  đến đó, vửa ảnh hưởng tới các ngôn ngữ đó, lại vừa tiếp thu những cái mà nó cần, để bổ sung cho chính mình. Sự tiếp xúc, hoà trộn, tác động, ảnh hưởng ngôn ngữ với những mức độ không giống nhau đã góp phần làm nảy sinh các phương ngữ.
Về sau này, khi có các cuộc di dân giữa các vùng miền khác nhau diễn ra thì sự tiếp xúc, hoà trộn tiếng nói giữa các vùng miền đó cũng tiếp tục như vậy.
Điều quan trọng phải nhấn mạnh ở đây là các phương ngữ trên lãnh thổ Việt Nam chủ yếu khác biệt nhau ở một bộ phận ngữ âm, phần nhỏ nào đó là từ vựng (điều này là tất yếu), nên không có sự gián cách trong giao tiếp giữa dân cư ở các vùng phương ngữ và vùng địa lý khác nhau.
Thứ hai, trong lịch sử, đất nước Việt Nam có hai lần thực sự bị chia cắt: lần thứ nhất, từ khoảng giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII chia thành Đàng Ngoài do vua Lê, chúa Trịnh cai quản, thủ đô là Thăng Long và Đàng Trong do các đời chúa Nguyễn cai quản; lần thứ hai từ 1954 đến 1975.
Trong thời gian bị chia cắt lần thứ nhất, thực tiễn ngôn ngữ, văn hoá và văn tự, là: Bộ máy nhà nước và các giao tiếp hành chính vẫn sử dụng văn ngôn (tiếng Hán Việt, chữ Hán) và coi đó là ngôn ngữ viết chính thống trên bình diện hành chính quốc gia. Các loại sách (y học, lịch sử, sáng tác thơ văn…) đều được viết bằng chữ Hán, tạo nên nền Hán văn Việt Nam thời Lê, Nguyễn rất lớn và phát triển tới đỉnh cao của nó. Trong khi đó, ngôn ngữ nói hàng ngày của toàn xã hội ở cả hai xứ vẫn là tiếng Việt.
Lần bị chia cắt thứ hai thành hai miền Nam, Bắc, với hai thể chế chính trị khác nhau, thực trạng ngôn ngữ và chữ viết trên toàn cõi Việt Nam vẫn là: một ngôn ngữ chính thức mang tính quốc gia ở cả hai miền - tiếng Việt; và một chữ viết chính thức - chữ Quốc ngữ.
Khi đất nước tái thống nhất (1975), việc thống nhất ngôn ngữ gần như không phải là vấn đề cần phải đặt ra vì tính thống nhất tự thân của tiếng Việt; còn sự đa dạng về hình thức trong các biến thể địa phương có những dị biệt nào đó, đều là “tiểu dị” không gây khó khăn đến mức cản trở cho giao tiếp trên phạm vi toàn xã hội. Tất nhiên, chính sách giáo dục ngôn ngữ để phát triển ngôn ngữ dân tộc và xây dựng chuẩn mực ngôn ngữ vẫn là những can thiệp mang tính định hướng cần thiết.
1.3. Sự nhận thức xã hội về vị trí và vai trò của Việt ngữ.
Sự nhận thức về vai trò, địa vị xã hội của Việt ngữ trong xã hội Việt Nam, vừa có mặt đơn giản lại vừa có mặt phức tạp. Điều đó thể hiện ở mấy điểm sau:
1.3.1. Đối với ngôn ngữ (tiếng nói).
- Trong tâm thức người Việt cũng như trong thực tế lịch sử xã hội, từ trước tới nay, tiếng Việt bao giờ cũng là ngôn ngữ chính được sử dụng trong giao tiếp xã hội, giao tiếp liên nhân hàng ngày của mọi người dân. Tuy nhiên, ngôn ngữ chính thức trong giao tiếp hành chính, chính thống, mang tính quan phương của nhà nước, lại là một vấn đề khác.
- Quá trình bị người Hán trực trị và sự tiếp xúc Hán - Việt trên dưới một nghìn năm đã đem đến cho tiếng Việt những tác động ngôn ngữ cực kì to lớn, sâu sắc và đem đến cho người Việt những tâm thế ứng xử về mặt ngôn ngữ - xã hội đối với tiếng Hán (văn ngôn) hết sức đặc biệt. Trải qua các giai đoạn lịch sử, kể cả khi đã giành được độc lập, người Việt (do chính sách của các tầng lớp cầm quyền và định hướng tâm lý của giới trí thức) vẫn coi và sử dụng văn ngôn là ngôn ngữ chính thống trong các giao tiếp quốc gia, trong ngoại giao với phương Bắc, trong giáo dục đào tạo, thi cử, học hành, hành chính, pháp luật ... cho đến tận đầu thế kỉ XX, khi văn ngôn Hán dần dần bị tiếng Pháp và hệ chữ viết Latin chiếm ngôi.
- Sau văn ngôn (Hán), đến lượt tiếng Pháp, trong thời gian Việt Nam thuộc Pháp,  được quy định bắt buộc sử dụng làm ngôn ngữ chính thức trong các giao tiếp hành chính quốc gia; và từng bước, là chữ Quốc ngữ (ghi tiếng Việt) .
- Từ năm 1945, khi nước Việt Nam mới, độc lập ra đời, tiếng Việt thực sự giữ địa vị chính thức của ngôn ngữ quốc gia.
1.3.2.  Đối với văn tự.
- Chữ Hán (đọc theo âm Hán Việt) được sử dụng sớm nhất, chiếm vị trí chính thống lâu nhất. Việt Nam hiện còn cả một kho tàng lớn các trước tác bằng Hán văn đời Lý, đời Trần, đời Lê (thường được gọi chung hơn là nền Hán văn Lý, Trần và Hán văn đời Lê). Đó là một kho tài sản có giá trị văn hoá rất cao trong nền văn hiến của dân tộc.
- Chữ Nôm tuy được sáng tạo ra và sử dụng sớm hơn chữ quốc ngữ rất nhiều, nhưng chưa bao giờ được coi là hệ văn tự mang tính chính thống, mặc dù nền văn học sáng tác bằng tiếng Việt, viết bằng chữ Nôm thời cổ, trung đại phát triển rực rỡ với nhiều tác phẩm có giá trị hàng đầu của đất nước.
- Chữ Quốc ngữ chỉ có được vị trí là văn tự chính thức của quốc gia từ khi tiếng Việt được xác định là giữ vị trí này. Khi chữ Nôm, rồi chữ Quốc ngữ ra đời, cùng với chữ Hán, và cả chữ Pháp về sau (tuy vai trò của chữ Pháp có ít hơn nhiều), tất cả các hệ thống này đều cùng hoạt động, cùng được sử dụng, nhưng với những vai trò khác nhau và chủ thể sử dụng không giống nhau.
Từ giữa thế kỉ XX đến nay, tiếng Việt và chữ Quốc ngữ giữ vai trò ngôn ngữ và chữ viết quốc gia; nhưng vẫn có một bộ phận dân chúng, trí thức được đào tạo để sử dụng chữ Hán, chữ Nôm với tư cách là hai hệ thống cổ tự để khai thác, giữ gìn, phát huy giá trị của kho tàng văn hoá cổ được lưu giữ tại những văn bản được ghi chép bằng hai hệ thống chữ viết này.
1.3.3.  Về việc xác định tiếng Việt chuẩn.
Cho đến nay, chưa có một qui định chính thức nào về tiếng Việt chuẩn; mà nếu coi tiếng Việt theo chính tả là chuẩn thì lại phi thực tiễn. Giữa các tiếng địa phương, ngữ pháp đã thống nhất từ lâu, chỉ có một số dị biệt về từ vựng và những dị biệt về ngữ âm. Người Việt ở các địa phương khác nhau không hề bị gián cách giao tiếp bởi tiếng nói địa phương. Các tiếng địa phương trên lãnh thổ Việt Nam có thể được qui thành ba vùng phương ngữ lớn: Phương ngữ Bắc với trung tâm là Hà Nội, phương ngữ Nam với trung tâm là Sài Gòn và phương ngữ Trung. Phương ngữ Bắc và phương ngữ Nam lớn hơn cả và phương ngữ nào cũng có mặt mạnh, mặt khiếm khuyết của nó.
Từ trước đến nay, trong tâm lý xã hội, tiếng Kẻ Chợ - Thăng Long - Hà Nội vẫn thường được coi như có uy tín xã hội hơn cả, vì mấy lý do chính sau đây:
- Nó thể hiện được tất cả các vần, toàn bộ sáu thanh điệu và chỉ bị mất đối lập ở một số phụ âm đầu.                
- Nó đã và đang tiếp tục giữ vị trí hàng đầu trong vai trò làm chất liệu cho ngôn ngữ văn học và thể hiện vai trò chính cho một hình dung về tiếng Việt “phổ thông”.
Tuy nhiên, việc xác định và xây dựng một ngôn ngữ chuẩn khó lòng thực hiện được bằng các loại mệnh lệnh. Hiện tại, trên phương diện hành chính quốc gia và trên các phương tiện truyền thông cũng như lĩnh vực dạy tiếng Việt, phương ngữ Bắc (đại diện là tiếng Hà Nội) thường được lựa chọn; và bên cạnh đó, phương ngữ Nam (đại diện là tiếng Sài Gòn) cũng vẫn được sử dụng một cách tự nhiên và bình thường.
2. Việt ngữ học thời cận đại.
Thời cận đại mà chúng tôi nói đến ở đây là khoảng thời gian từ giữa thế kỉ XIX đến giữa thế kỉ XX, ứng với giai đoạn tiếng Việt cận đại.
Trên thực tế, từ giữa thế kỉ XIX trở về trước, nghiên cứu về Việt ngữ học gần như chưa có thành tựu gì đáng kể. Từ khi người Pháp cai trị Việt Nam (khoảng 80 năm, vào nửa sau thế kỉ XIX, nửa đầu thế kỉ XX) quá trình tiếp xúc Việt - Pháp diễn ra. Trường học Pháp được mở tại Việt Nam, nhất là từ sau khi Quy chế chung của Bộ quốc dân giáo dục ở Đông dương được Albert Sarraut kí ban hành ngày 21. 12. 1917 [x. 11].
Trong bối cảnh đó, một số học giả người châu Âu nói chung, người Pháp nói riêng bắt đầu nghiên cứu về Việt Nam, trong đó có Việt ngữ học. Các học giả, trí thức người Việt cũng lưu tâm hơn trong nghiên cứu về văn hoá và ngôn ngữ của dân tộc mình.
2.1. Việt ngữ học nửa cuối thế kỉ XIX.
Trong giai đoạn này, những nghiên cứu về Việt ngữ học bắt đầu được các học giả người Pháp thực hiện. Lĩnh vực có kết quả đáng kể, chủ yếu thuộc về từ điển học, sách dạy - học tiếng, một số khảo cứu về ngữ âm, ngữ pháp, chữ viết. Một vài học giả ở ngoài Việt Nam cũng đã đề cập đến việc nghiên cứu nguồn gốc tiếng Việt.
2.1.1. Lĩnh vực và những kết quả đầu tiên cần được kể đến trong giai đoạn này là một loạt từ điển song ngữ được biên soạn để phục vụ nhu cầu dạy và học tiếng. Ví dụ, 6 từ điển Pháp - Việt hoặc Việt – Pháp đã được biên soạn nhờ công sức của những người như: G. Aubaret (1867), G. Pautier (1867), Theurel (1877), Ravier (1880), J.F.M. Genibrel (1898), Jean Bonet (1899) ...
Các học giả Việt Nam, một số tiếp tục biên soạn tự điển Hán - Việt theo truyền thống cũ như: Nhật dụng thường đàm (Phạm Đình Hổ, 1851). Đại Nam quốc ngữ (Nguyễn Văn San, 1899). Nam ph­ương danh vật bị khảo (Đặng Xuân Bảng, 1901). Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca (gọi tắt là Tự học giải nghĩa ca)  (vua Tự Đức, 1898). Một số khác cũng bắt đầu biên soạn từ điển đối chiếu song ngữ Pháp - Việt hoặc Việt – Pháp. Ví dụ: Petit Dictionaire Francais - Annamite (Trương Vĩnh Ký. Saigon, Impr. De la Mission. 1884). Vocabulaire Annamite - Francais. Mots usuels, noms techniques, scientifiques et termes administratifs. (Trương Vĩnh Ký. Saigon, Rey et Curiol, 1887).
Những từ điển do các học giả trên đây biên soạn, tuy mới chỉ là từ điển cỡ nhỏ, nhưng rất có ý nghĩa cả về thực tiễn lẫn lý luận đối với việc hình thành và phát triển của từ điển học, Việt ngữ học ở Việt Nam. Riêng Huình Tịnh Paulus Của biên soạn bộ tự điển Đại Nam quấc âm tự vị có qui mô khá lớn (Saigon Imprimerie REY, CURIOL & Cie, 4, rue d’ Adran, 4. 1895-1896), là một thành công rất đáng kể trong từ điển học Việt Nam.
2.1.2. Song song với việc biên soạn các từ điển là việc biên soạn các sách dạy tiếng và biên khảo, miêu tả, phân tích về tiếng Việt. Mặc dù lúc này tại Việt Nam chưa phát triển về lý luận của khoa học dạy tiếng, nhưng các học giả Pháp và Việt Nam đã rất chú ý đến việc biên soạn các sách dạy thực hành tiếng, biên khảo những sách nghiên cứu về cấu trúc của Việt ngữ, đặc biệt là nghiên cứu ngữ pháp, ngữ âm và một số lĩnh vực khác của nó. Ví dụ: G. Aubaret (1864). Trương Vĩnh Ký (1868, 1894). A. Cheon (1901) ...
Một số nghiên cứu về Việt ngữ nói chung và ngữ pháp tiếng Việt, về chữ viết ... như các công trình của Trương Vĩnh Ký, C. Guill et Martion, Gouzien Dr Paul ... cũng đã được thực hiện và công bố. Ví dụ:
Grammaire de la langue annamite. G. Aubaret. Paris, 1864. Cours pratique de langue annamite. Trương Vĩnh Ký.  Saigon Imp.1868. Cours d’annamite parlé (vulgaire). Trương Vĩnh Ký.  Saigon, 1894. Cours de langue annamite. A. Cheon. Hà Nội, 1901. Abrégé de grammaire Annamite. Trương Vĩnh Ký.  Saigon, 1867. Grammaire de la langue Annamite. Trương Vĩnh Ký.  Saigon, C. Guill et Martion, 1883. L’intonation et la prononciation annamite. Gouzien Dr Paul. Paris, 1897. Méthode de langue annamite (dialecte tonkinois) . Ed. Nordeman. Hanoi, 1898. Ecriture en Annam. Trương Vĩnh Ký. Bulletin de la Société dé Estudes Indochinoises de Saigon, 1888. 
Nhìn chung, từ việc nghiên cứu xây dựng từ điển đến việc nghiên cứu, biên soạn sách dạy tiếng, nghiên cứu miêu tả và phân tích tiếng Việt ở bước khởi đầu này của Việt ngữ học, phần nhiều là do các học giả người châu Âu khởi xướng, thực hiện.
2.1.3. Cũng trong giai đoạn cuối thế kỉ XIX, vấn đề nguồn gốc tiếng Việt đã được một số học giả người nước ngoài, ở ngoài Việt Nam đề cập; nhưng thực ra, vấn đề đó chưa được nghiên cứu một cách độc lập trong những công trình khảo cứu chuyên biệt. Vì thế, nguồn ngữ liệu nghiên cứu về nguồn gốc tiếng Việt hoàn toàn chưa đầy đủ và nhiều nhận xét, kết luận, ít nhiều mới chỉ được nêu ra như một giả thuyết. Ví dụ, các nghiên cứu của J.R. Logan (1882): Ethnology of the Indo-Pacific Islands và của C.J.S. Forbes (1881), Himly (1884), Fr. Muller (1888, 1905), E. Kuhn (1889), W. Schmidt (1905) [x. 6].
2.2. Việt ngữ học đầu thế kỉ XX.
Sang đầu thế kỉ XX, các nghiên cứu về Việt ngữ học được đẩy mạnh hơn. Mặc dù nghiên cứu và đào tạo về Việt ngữ học lúc này chưa được tổ chức một cách có hệ thống trong các cơ sở giáo dục, đào tạo và nghiên cứu, nhưng các học giả Việt Nam đã rất quan tâm đến lĩnh vực này. Họ đã có được những thành quả khá đa dạng và rất đáng trân trọng, được công bố trên những tạp chí lớn phổ biến nhất thời đó như Nam phong, Tri tân, Thanh nghị. Ví dụ: Trên Nam phong tạp chí [13] (viết tắt; NP), 210 số, từ  năm 1917 đến 1934, có đến trên 40 bài về Việt ngữ học. Trên Tri tân [14] (viết tắt: TrT), 112 số, từ  năm 1941 đến 1945 và 02 số năm 1946, có trên 60 bài (trong đó có những bài đăng trong nhiều số liên tục). Dưới đây, chúng tôi xin nêu một số công việc và dung nghiên cứu cụ thể.
2.2.1. Bên cạnh việc tiếp tục biên soạn các từ điển như ở giai đoạn trước, đến giai đoạn này, các nghiên cứu về từ, từ điển học, sáng tạo từ mới và xây dựng thuật ngữ cho các ngành khoa học; các ý kiến thảo luận về lý luận và phương pháp biên soạn từ điển ... (tuy chưa thật chuyên sâu như khi các lý luận hữu quan đã phát triển mạnh về sau này), đã bắt đầu được chính một số học giả Việt Nam khởi xướng. Ví dụ, trên Nam phong có 03 bài của Phạm Quỳnh, một bài của Trúc Pha, trên Tri tân có khoảng trên 20 bài của các học giả như Nguyễn Văn Tố, Hoa Bằng, Nguyễn Trọng Thuyết, Lê Thanh, Phiên Thúc, Trần Cảnh Hảo, Đào Trọng Đủ ...
2.2.2. Biên soạn các sách dạy - học tiếng và nghiên cứu về ngữ pháp.
a ) Đầu thế kỉ XX, sách dạy - học tiếng và những nghiên cứu về ngữ pháp, ngữ âm tiếng Việt, vẫn chủ yếu do các học giả người Pháp biên soạn. Điều này có lẽ xuất phát từ truyền thống và nhu cầu của chính họ. Công nghệ dạy và học ngoại ngữ, biên soạn các tài liệu dạy và học tiếng vốn có truyền thống lâu đời từ chính châu Âu và nước Pháp. Dần dần về sau, các sách dạy-học tiếng đó hẳn đã tác động và ảnh hưởng tới các học giả Việt Nam khi họ tiếp thu kinh nghiệm và chịu ảnh hưởng (cách này hay cách khác)  từ các công trình và xu hướng nghiên cứu của châu Âu, mà đại diện cụ thể là người Pháp. Kết quả là hàng loạt sách dạy-học tiếng của các tác giả như: A. Chéon (1904), A. Bouchet (1908), J. Roux (1909), M. Dubois (1910), V. Barbier (1925), G. Cordier (1932), Lê văn Lý (1948), R. Bulteau (1950)  ... đã được biên soạn và công bố.
b ). Đối với những nghiên cứu chuyên biệt về ngữ pháp tiếng Việt, một lĩnh vực cực kì quan trọng, cần phải nói rằng, trong nửa đầu thế kỉ XX, những thành tựu về lí thuyết và thực tiễn nghiên cứu còn rất ít và cũng gần như chủ yếu là do các học giả người châu Âu thực hiện. Họ đã đem khuôn mẫu ngữ pháp các ngôn ngữ châu Âu áp dụng vào nghiên cứu tiếng Việt và cố “ép” ngữ liệu Việt vào khuôn mẫu đó. Các học giả Việt Nam, đến lượt mình, tiếp thu lý thuyết ngữ pháp châu Âu, cũng làm như thế, nên nội dung miêu tả cơ cấu ngữ pháp tiếng Việt cũng không có khác biệt gì đáng kể. Kết quả là, tất cả các khung lý thuyết trong các công trình nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt đó đều không thoát ra ngoài khung lý thuyết ngữ pháp châu Âu (lấy từ làm đơn vị trung tâm của các phân tích, phân loại từ và xác định từ loại theo những đăc trưng hình thái của chúng, xác định câu và thành phân câu, phân loại các kiểu câu theo cấu trúc ...).
Có thể kể ra những công trình nghiên cứu tiêu biểu ở đây như: Eléments de grammaire annamite (Ed. Diguet; Imp. Nationale, Paris, 1904)  Études sur la langue annamite (M. Grammont, Le Quang Trinh; M. S. L.; Paris 1911) ; Sách mẹo tiếng Nam (Nguyễn Hiệt Chi, Lê Thước, Hà Nội, 1935) ; Việt nam văn phạm (Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm; Hà nội, 1940) ; Khảo cứu về tiếng Việt Nam (Trà Ngân - Lê Ngọc Vượng; Hà Nội, 1942 - 1943) ; Lược khảo Việt ngữ (Lê Văn Nựu; Hà Nội, 1942) ; Cours d’ annamite (B. Bulteau; Paris, Larouse, 1950) ...
Đầu thập kỉ 40 của thế kỉ XX, tạp chí Tri tân cũng công bố một số bài nghiên cứu về ngữ pháp như: Mẹo tiếng ta (Vệ Thạch Đào Duy Anh. TrT, S.2), Phác sơ về mẹo tiếng ta (Đào Duy Anh. TrT, S. 2, S.10, S.13, S.14, S.15), Lược khảo Việt ngữ (Ứng Hoè Nguyễn Văn Tố. TrT, S.79), Khảo về tiếng ta (Ứng Hoè Nguyễn Văn Tố. TrT, S.125), Một kiến giải về tiếng ta (Long Điền. TrT, S.136) …
Từ khoảng năm 1945 trở về sau, tình hình nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt có được cải thiện và đổi mới hơn ở công trình Le parler Vietnamien (Imp. esd. Hương Anh. Paris, 1948) của Cụ Linh mục Lê văn Lý; và tiếp sau đó là Việt ngữ nghiên cứu của Phan Khôi năm 1955.  
2.2.3. Nghiên cứu thảo luận về vị trí, vai trò của tiếng Việt đối với nền giáo dục, văn hoá, văn học dân tộc, (bao hàm trong khái niệm quốc văn Việt Nam).
Trong bối cảnh và tình thế ngôn ngữ tay ba giữa tiếng Việt (cùng với chữ Quốc ngữ) - tiếng Pháp (chữ Pháp) - chữ Hán (văn ngôn), người Việt phải có những lựa chọn thích hợp cho mình. Xã hội Việt Nam lúc đó vừa có xu hướng muốn bảo toàn nền quốc văn truyền thống của mình, lại vừa có xu hướng muốn canh tân, đổi mới theo châu Âu, nên thái độ đối với nền quốc văn Việt Nam, nền giáo dục theo chữ Hán truyền thống, nền giáo dục theo tiếng Pháp do chính phủ bảo hộ Pháp quyết định, thái độ đối với chữ quốc ngữ … đã được đặt ra và thảo luận khá sôi nổi.
            Trên Nam phong tạp chí, Tri tân, có tới hàng chục bài nghiên cứu, thảo luận về những vấn đề như:
- Vị trí và vai trò của tiếng Việt, chữ Quốc ngữ đối với nền quốc văn Việt Nam, trong đời sống văn hoá, văn học Việt nam.
- Quốc văn Việt Nam và giáo dục và phát triển quốc văn Việt Nam.
- Khuyến khích bảo toàn và phát triển Việt ngữ.  
- Thái độ đối với tiếng Pháp, chữ Hán, trong việc duy trì, phát triển tiếng Việt và quốc văn Việt Nam ...
Trong nhận thức về quốc ngữ và nền quốc văn của dân tộc mình, giới học giả Việt Nam trong nửa đầu thế kỉ XX đã thấy rõ vai trò của chữ Hán trong đó, đồng thời, họ cũng đã sớm nhận ra rằng không thể đưa tiếng Pháp vào thay vị trí của tiếng Hán Việt và chữ Hán trong việc xây dựng và phát triển nền quốc văn Việt Nam; tiếng Pháp, chữ Pháp không thể làm quốc văn cho Việt Nam; và thậm chí có người còn tỏ ý kiến loại bỏ tiếng Pháp. Phong trào Đông kinh nghĩa thục kêu gọi toàn dân học chữ Quốc ngữ, là một cuộc vận động xã hội đặc biệt, có ý nghĩa lớn trong tư tưởng canh tân đất nước và trong nhận thức về vai trò, vị trí của chữ Quốc ngữ đối với đời sống chính trị, văn hoá của đất nước.
2.2.4. Những nghiên cứu khác.
Trên thực tế, Việt ngữ học Việt Nam đầu thế kỉ XX chưa phát triển chuyên biệt, nhưng bên cạnh các nghiên cứu về từ điển, về sách dạy - học tiếng và ngữ pháp, nhiều nghiên cứu về các bình diện khác của Việt ngữ như: ngữ âm, phương ngữ, địa danh, phiên âm các từ ngữ nước ngoài, chữ viết, nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ, phong cách học... cũng đã được thực hiện. Ví dụ:
a ) Nghiên cứu, thảo luận về quốc ngữ (ngôn ngữ chung cho cả nước) và phương ngữ (phương ngôn), so sánh, phát hiện những đồng nhất và khác biệt, để “đính ngoa” (sửa những cái “sai”) theo quốc ngữ. Những nét dị biệt được miêu tả, rất có ý nghĩa về mặt phương ngữ học cũng như ngôn ngữ học địa lý.
b ) Các nghiên cứu về ngữ âm tiếng Việt, âm Hán Việt, chữ Quốc ngữ, chữ Hán, về nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ, về dịch thuật, phiên âm tiếng nước ngoài, về địa danh, thậm chí cả nghiên cứu so sánh Pháp Việt cũng đã được đề cập.
c ) Nghiên cứu về nguồn gốc tiếng Việt: Trên thực tế, công trình E’tude sur la phonetique historique de la langue annamite. Les initiales của H. Maspero [7] là công trình về nguồn gốc tiếng Việt và lịch sử ngữ âm tiếng Việt có giá trị nhất và có tầm ảnh hưởng nhất trong khoảng thời gian đầu thế kỉ XX. Về sau, trên tạp chí Tri tân, học giả Đào Trọng Đủ cũng công bố kết quả nghiên cứu về nguồn gốc tiếng Việt Nam (theo cách gọi của ông)  trong bài Bàn góp về nguồn gốc tiếng Việt Nam trên hơn một chục số tạp chí liên tục (Số 129, 137, 142, 146, 151, 152, 158, 159, 168, 170, 172, 181, 192).
3. Kết luận.
Đến đây, nếu nhìn lại để đánh giá sự nhận thức về quốc ngữ (ngôn ngữ dân tộc) của Việt Nam và sự phát triển của Việt ngữ học trong thời cận đại, chúng tôi thấy có thể nêu một vài nhận xét khái quát như sau:
1. Từ khoảng giữa thế kỉ XX (năm 1945) trở về trước, Việt ngữ chưa bao giờ được sử dụng ở vị thế ngôn ngữ hành chính nhà nước, ngôn ngữ của giáo dục, thi cử ... nhưng sử dụng trong giao tiếp liên nhân hàng ngày của toàn dân thì lại luôn luôn là vai trò và chức năng của chính nó. Đặc biệt hơn, trong quá trình xây dựng và phát triển nền văn hoá của mình, người Việt đã sáng tạo, xây dựng được một nền văn học tiếng Việt rất phong phú và đạt được những thành tựu to lớn (nền văn học Nôm - viết bằng chữ Nôm).
Trong bối cảnh lịch sử, chính trị và bối cảnh văn hoá, xã hội thời cận đại, mặc dù bị chèn ép bởi tiếng Hán (văn ngôn), tiếng Pháp, bị mất vị thế của ngôn ngữ hành chính quốc gia, nhưng vai trò làm ngôn ngữ giao tiếp liên nhân cho toàn dân trong xã hội của nó cũng vẫn không bị mất.
Từ năm 1945 Việt ngữ đã giành được vị thế, vai trò và chức năng đầy đủ của nó trong bối cảnh của một nước Việt Nam độc lập.
2. Từ trước đến nay, người Việt luôn có nhận thức rất rõ về một ngôn ngữ thống nhất trong sự đa dạng tiếng địa phương (phương ngữ) của họ. Ngay trong bối cảnh đất nước bị chia cắt làm đôi trong thời gian lâu (từ khoảng giữa thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII và từ 1954 đến 1975), với hai chế độ chính trị, kinh tế khác nhau, thì đối với người Việt, vẫn luôn luôn chỉ có một thứ tiếng Việt thống nhất trong toàn cõi. Chính vì vậy, khi đất nước tái thống nhất sau lần bị chia cắt từ 1954 đến 1975, vấn đề thống nhất ngôn ngữ ở Việt Nam không cần phải đặt ra, mà chỉ có vấn đề bàn thảo để định hướng xử lý, hiệu chỉnh một số dị biệt thuộc bình diện từ vựng, và ngữ âm, chính tả ... giữa các vùng phương ngữ.
3. Cho đến nay, tại Việt Nam chưa có một qui định chính thức nào về việc xác định tiếng chuẩn, vùng ngôn ngữ chuẩn của tiếng Việt. Tuy nhiên, theo quan niệm và thói quen truyền thống, phương ngữ Bắc bộ với vùng lõi là Hà Nội thường được coi là tiêu biểu; và điều này được các phân tích ngôn ngữ học về nhiều phương diện thực sự ủng hộ.
4. Về sự xây dựng và phát triển của Việt ngữ học thời cận đại, có thể dễ thấy rằng, những thành tựu đầu tiên của nó vốn xuất phát từ việc nghiên cứu, biên soạn các sách dạy-học tiếng và xây dựng các từ điển đối chiếu. Vào khoảng cuối thế kỉ XIX, sang đầu thế kỉ XX, các nghiên cứu chuyên biệt về ngữ âm, phương ngữ, chữ viết, ngữ nghĩa, ngữ pháp mới bắt đầu được thực hiện và dần dần từng bước phát triển, đạt được những thành tựu đáng kể, tạo đà cho những bước phát triển tiếp theo.
5. Chính trên nền tảng được xây dựng như thế, từ giữa XX đến nay, Việt ngữ học đã có những bước phát triển khá mạnh mẽ. Nhìn trên đại thể, trong thời gian vừa qua, Việt ngữ học đã chú ý phát triển nghiên cứu một số lĩnh vực như:
- Về ngữ âm: Tập trung cứu cấu trúc âm tiết, thanh điệu, ngữ điệu, các vấn đề về âm vị học, các giải thuyết âm vị học cho tiếng Việt, những vấn đề âm vị học lý thuyết, nghiên cứu ngữ âm thực nghiệm ...).
- Về phương ngữ học: Quan tâm nghiên cứu lý thuyết phương ngữ học, các nguyên tắc miêu tả, nhận diện và phân vùng phương ngữ, phát hiện những biến đổi ngôn ngữ để góp phần nghiên cứu lịch sử tiếng Việt trong quá trình hình thành, phát triển của dân tộc.
- Về ngữ nghĩa học, từ điển học: Quan tâm nghiên cứu các vấn đề lý luận về ngữ nghĩa, các lý thuyết và phương pháp phân tích nghĩa, các lý thuyết và phương pháp từ điển học, xây dựng các loại từ điển khác nhau.
- Về ngữ pháp: Quan tâm các vấn đề về từ và từ loại, về đơn vị ngữ pháp, miêu tả hệ thống ngữ pháp, đặc biệt chú ý ứng dụng các lý thuyết cú pháp khác nhau để miêu tả và phân tích câu, phân tích hệ thông cú pháp Việt ngữ.
- Về lịch sử tiếng Việt: Quan tâm những vấn đề như: vị trí và quan  hệ của nó trong nhóm Vietic, ngành Môn-Khmer, nghiên cứu lịch sử ngữ âm, lịch sử từ vựng và những vấn đề ngữ pháp của Việt ngữ trong quá khứ lịch sử.
- Bên cạnh đó, Việt ngữ học hiện nay (từ giữa thế kỉ XX)  cũng tiếp tục quan tâm nghiên cứu về phong cách học, về  văn tự, về nghệ thuật ngôn từ, ngôn ngữ tác giả, tác phẩm, về thành ngữ, phương pháp dạy tiếng Việt ... với những cách tiếp cận khá đa dạng.
Sự phát triển nhanh chóng của Việt ngữ học từ giữa thế kỉ XX đến nay, tất nhiên có phần tác động và ảnh hưởng tích cực của ngôn ngữ học thế giới, bên cạnh việc tổ chức đào tạo, nghiên cứu và nỗ lực của các nhà khoa học trong và ngoài Việt Nam. Vì thế, những khuynh hướng nghiên cứu ngôn ngữ học gần đây như chức năng luận, tri nhận luận ... cũng đã nhanh chóng đến với những người nghiên cứu Việt ngữ học Việt Nam ./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[ 1 ]      Bright, W. (Editor in chief). Encyclopedia of Linguistics; Oxford University Press, 1992.
[ 2 ]      Diffloth G. Vietnamese as a Mon - Khmer language. Papers from the first anual meeting of the Southeast Asian linguistics society 1991. pp. 125 - 139.
[ 3 ]      Ferlus M. Sur l’origine geographique des langues Viet - Muong. MKS. XVIII -  XIX, 52 - 59 pp.
[ 4 ]      Haudricourt A.G. Vị trí của tiếng Việt trong các ngôn ngữ Nam Á.  Ngôn ngữ, số 1, 1991, tr. 19 - 22.
[ 5 ].     Hoàng Thị Châu. Tiếng Việt trên các miền đất nước (Phương ngữ học). Nxb. Khoa học Xã hội; Hà nội, 1989.           
[ 6 ]      Hồ Lê. Những sự nghiên cứu và tranh luận của n­ớc ngoài xung quanh vấn đề nguồn gốc tiếng Việt. Ngôn ngữ, số 4 - 1971, tr. 42 - 59.
[ 7 ]      Maspero. H., E'tude sur la phone'tique historique de la langue Annamite. Les initiales. BEFEO, vol. XII, No. 1, Paris - Hanoi, 1912.  
[ 8 ]  NguyÔn Tµi CÈn : Gi¸o tr×nh lÞch sö ng÷ ©m tiÕng ViÖt. Nxb. Gi¸o dôc. Hµ néi, 1995.
[ 9 ]      Nguyễn Tài Cẩn. Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hoá. Nxb. ĐHQG Hà
Nội, 2001.
[ 10 ]    Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên). Lược sử Việt ngữ học. Nxb. Giáo dục. Hà Nội, 2005.
[ 11 ]    Triều Anh. Những trang sử cuối cùng của chữ Hán - Nôm. Nxb. Tổng hợp, Đồng Nai, 1999.
[ 12 ]    Encyclopedia   Britanica CD 98.
[ 13 ]    Nam phong tạp chí. DVD - ROM. Viện Việt học. Westminster, CA. USA.

[ 14]     Tạp chí Tri tân. Bản CD. Hà Nội, 2008.

Thứ Ba, 12 tháng 1, 2016

HÀM Ý KHEN, CHÊ CON NGƯỜI TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT

HÀM Ý KHEN, CHÊ CON NGƯỜI
TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT

                                                           Vũ Đức Nghiệu, Nguyễn Thị Dung
                                                                                   
Trong các ngôn ngữ, thành ngữ là loại đơn vị mà ở đó người ta có thể tìm được khá nhiều thông tin về mặt ngôn ngữ, văn hoá, đặc điểm dân tộc và ngay cả các triết lý nhân sinh...
            Ở tiếng Việt, bên cạnh những thành ngữ mang ý nghĩa định danh, ý nghĩa biểu hiện bình thường như: cơm bưng nước rót, lạnh như tiền, buồn như chấu cắn, già kén kẹn hom, nuôi ong tay áo, đồng không mông quạnh... còn có những thành ngữ nói về con người mà ngoài các ý nghĩa định danh, ý nghĩa biểu hiện bình thường ra, còn bao hàm cả ý khen ngợi hoặc chê bai, thể hiện thái độ khen, chê của người nói đối với đối tượng được nói tới. Ví dụ: mặt hoa da phấn, lòng ngay dạ thẳng, có thuỷ có chung, thức khuya dậy sớm, buông dầm cầm chèo... hoặc: mặt bủng da chì, ăn xó mó niêu, xúyt chó bụi rậm, bóc ngắn cắn dài... Những thành ngữ như vậy rất đáng được quan tâm khảo sát.         
1. Khi bày tỏ sự đánh giá tích cực về người, vật, thuộc tính, hoặc hành vi... nào đó với ý vừa lòng, vì cho rằng như thế là tốt, là giỏi, là đạt yêu cầu, đáng được đánh giá cao..., chúng ta đã thực hiện một hành vi, một thái độ khen người, vật, thuộc tính, hoặc hành vi... đó.
Một biểu thức ngôn ngữ có hàm ý đánh giá tích cực về người, vật, thuộc tính, hoặc hành vi... cho rằng như thế là tốt, đẹp, giỏi, là đạt yêu cầu, đáng được đánh giá cao... được coi là biểu thức ngôn ngữ có hàm ý khen. Chẳng hạn, ngoài cái ý nghĩa miêu tả bình thường ra, thành ngữ mặt hoa da phấn bao hàm ý khen về vẻ đẹp của hình thức, diện mạo của người được nói tới, được miêu tả bằng thành ngữ đó, còn thành ngữ thức khuuya dậy sớm thì lại bao hàm ý khen về sự chăm chỉ siêng năng trong công việc của người được đề cập.
            Ngược lại với khen, chê là hành vi bày tỏ thái độ không ưa thích, không vừa ý, đánh giá thấp, theo chiều hướng tiêu cực vì cho là kém, là xấu, không đạt yêu cầu, không được bình thường... Chẳng hạn, trong các thành ngữ mặt bủng da chì, ăn xó mó niêu, qua cầu cất nhịp, chị em nắm nem ba đồng... ngoài các ý nghĩa miêu tả bình thường, còn bao hàm ý chê bai về dung mạo và sức khoẻ (mặt bủng da chì), chê bai về hành vi, nhân cách bần tiện (ăn xó mó niêu), đố kỵ, không muốn cho ai cùng được thuận lợi, may mắn như mình (qua cầu cất nhịp), coi trọng tiền tài hơn cả tình nghĩa, đạo lý (chị em nắm nem ba đồng)…
            Với quan niệm về hàm ý khen, chê như vậy, thực hiện khảo sát tư liệu qua một số từ điển thành ngữ tiếng Việt quen thuộc đã xuất bản [1.2.3.], cùng với một số tư liệu khác được thu thập bổ sung, chúng tôi tập hợp được 779 đơn vị thành ngữ có bao hàm ý khen hoặc chê.
Trong số 779 thành ngữ  được khảo sát (tất nhiên ở đây có cả một số thành ngữ Hán Việt) có 137 đơn vị bao hàm ý khen và 642 đơn vị bao hàm ý chê. Những con số này, tuy không phải là tuyệt đối vì không thể nói là đã kiểm đếm cạn kiệt trong toàn bộ từ vựng tiếng Việt, nhưng cũng đủ tin cậy để ngay từ đầu đã cho thấy một điều hết sức đáng chú ý: số thành ngữ nói về con người mà có bao hàm ý khen chiếm tỷ lệ khiêm tốn hơn rất nhiều so với những thành ngữ có bao hàm ý chê bai.
           
2. Về các thành ngữ có hàm ý khen.
Nếu phân tích theo chủ đề (topic) “khen về cái gì”, xác định và sắp xếp như một hệ thống, một tập hợp của những chủ đề, những ý niệm theo kiểu thesaurus, chúng tôi thấy có 21chủ đề (đặc điểm, thuộc tính, hành vi...) được đề cập. (Con số này, tất nhiên là có thể thay đổi ít nhiều, tùy theo mức độ chi tiết trong khi phân tách của người nghiên cứu). Cụ thể là (con số ghi trong dấu ngoặc là số lượng thành ngữ thu thập được thuộc chủ đề tương ứng):
01. Khen về hình dáng, dung mạo con ngư­ời (20): Vd. Đẹp như tiên.
02. Cao cả trong nhân cách, đạo đức (5): Vd. Đạo cao đức trọng.
03. Hiền hậu (5): Vd. Hiền nh­ư bụt.
04. Nhân ái, thương yêu, giúp người khó khăn (10): Vd. Chị ngã, em nâng.
05. Sống có ân tình, ơn nghĩa đối với người khác (4): Vd. Như­ bát nư­ớc đầy.
06. Chung thuỷ trung thành (7): Vd. Có đầu có cuối.
07. Có tài trí, sáng suốt (5): Vd. Văn hay chữ tốt.
08. Thật thà, ngay thẳng (8): Vd. Ăn ngay nói thẳng.
09. Dũng cảm, bất khuất (3): Vd. Gan vàng dạ sắt.
10. Đoàn kết, hoà thuận thương yêu nhau (3): Vd. Chung l­ưng đấu cật.
11. Đảm đang, chăm chỉ siêng năng (7): Vd. Một nắng hai sư­ơng.
12. Chắc chắn, cẩn thận (5): Vd. Nghĩ tới nghĩ lui.
13. Lễ phép (4):  Vd. Trên kính dưới nh­ường.
14. Sang trọng, quyền qúy (9): Vd. Lên xe xuống ngựa.
15. Giàu có, no đủ (11): Vd. Ruộng cả ao liền.
16. Tiết kiệm (2): Vd. Ăn nhịn để dành.
17. Chu đáo (4): Vd. Đến nơi đến chốn.
18. Sức khoẻ (9): Vd. Khoẻ như vâm.
19. Sống có hậu, sòng phẳng (4): Vd. Hòn đất ném đi hòn chì ném lại.
20.  May mắn (5): Vd. Như diều gặp gió.
21. Tương xứng về sự cao sang, đạo đức, tài năng, nhân cách (7):
      Vd. Ph­ượng đậu cành ngô.       

3. Đối với các thành ngữ có hàm ý chê bai, chỉ trích, phê bình.
Nếu cũng phân tích theo chủ đề (topic) “chê về cái gì”, chúng tôi thấy có 51 chủ đề (đặc điểm, thuộc tính, hành vi... ) được đề cập. (Thực ra, trong số này, chủ đề số 49, 50 bao gồm rất nhiều chủ đề cụ thể nhỏ hơn, nhưng vì số lượng thành ngữ của mỗi chủ đề nhỏ, cụ thể đó quá ít nên chúng tôi đã gộp lại gọi chung là chủ đề Hành vi, phẩm chất đáng phê phán khác và chủ đề Ứng xử không đúng). Cụ thể là (con số ghi trong dấu ngoặc là số lượng thành ngữ thu thập được thuộc chủ đề tương ứng):

01. Chê hình thức, dung mạo (28): Vd. Xấu như­ ma.
02. Tham ăn, hám lợi có khi đến mất nhân cách (14): Vd. Uống nư­ớc cả cặn.
03. Lười làm nhưng tham ăn (7): Vd. Làm thì ốm, giã cốm thì siêng.
04. Không biết điều, không biết người biết mình (29): Vd. Ăn mày đòi xôi gấc.
05. Vụ lợi, ba phải, cơ hội chủ nghĩa (18): Vd. Mượn gió bẻ măng.
06.  Ích kỉ, cá nhân chủ nghĩa (10): Vd. Của mình thì để của rể thì bòn.
07. Không giữ danh dự, liêm sỉ (7): Vd. Mặt trơ trán bóng.     
08. Thóc mách, buôn chuyện, không đứng đắn (9): Vd. Đòn càn hai mũi.
09. Đối xử nghiệt ngã không còn tình nghĩa (3): Vd. Cạn tàu ráo máng.
10. Lợi dụng đổ lỗi, vu oan cho đồng loại (6): Vd. Ngậm máu phun người
11. Độc ác, nham hiểm (12): Vd. Giết người không dao.
12. Hung hãn tàn bạo (8):Vd. Ăn thịt người không tanh.
13. Khinh người (5): Vd. Khinh người bằng nửa con mắt.
14. Coi trọng tiền của hơn con người và tình nghĩa (12): Vd. Tham vàng bỏ ngãi.
15. Đố kỵ, hẹp hòi, ganh ghét, định kiến với người khác (11): Vd. Cú khó vọ mừng.
16. Ỷ thế, bắt nạt bóc lột người khác (10): Vd. Đè đầu cư­ỡi cổ.
17. Bội bạc, vô ơn, không chung thuỷ (37): Vd. Bạc như vôi.
18. Không nhất quán trong tình cảm, cư xử (5): Vd. Ăn một nơi nấp một nơi.
19. Ngu dại, đần độn (22): Vd. Dốt đặc cán mai.
20. Vụng dại trong hành động, suy tính, ứng xử (36): Vd. Bưng mắt bắt chim.
21. Bất tài vô dụng (17): Vd. Cắn cơm không vỡ.
22. Dối trá, xảo quyệt (39): Vd. Ăn không nói có.
23. Giả dối, tốt đẹp bề ngoài, độc ác, xấu xa bên trong (12): Vd. Mặt sứa gan lim.
24. Hèn nhát (3): Vd. Miệng hùm gan sứa
25. Mâu thuẫn, tranh giành quyền lợi, mất tình nghĩa (12): Vd.Như chó với mèo.
26. Bè cánh, về hùa với nhau (4): Vd. Kéo bè kéo cánh.
27. Lười nhác (18): Vd. Ăn bơ làm biếng.
28. Khoác lác, ba hoa, vô tích sự (5): Vd. Một tấc đến trời.
29. Huyênh hoang kiêu ngạo, lên mặt với đời (14): Vd. Coi trời bằng vung.
30. Ngang bướng (8): Vd. Cãi chày cãi cối.
31. Vô lễ (6): Vd. Hỗn nh­ư chó.
32. Keo kiệt đến mức bần tiện (14): Vd. Rán sành ra mỡ.        
33. Thô tục bần tiện trong sinh hoạt, hành vi ứng xử (14): Vd. Ăn xó mó niêu.
34. Hoang phí (11): Vd. Xắn tay áo đốt nhà táng.
35. Vô trách nhiệm, trốn việc, vô cảm (13): Vd. Đem con bỏ chợ.
36. Bừa bãi, tuỳ tiện cẩu thả (13): Vd. Ăn vung bỏ vãi.
37. Sức khoẻ thể hiện qua hình dáng bên ngoài (19): Vd. Xo vai rụt cổ.
38. Làm những việc vô nghĩa (5): Vd. Vẽ rắn thêm chân.
39. Tham lam đòi hỏi vô lý, quá đáng (11): Vd. Tiền có ít thịt muốn nhiều.
40. Hay kêu ca, xử sự không rõ ràng, gây khó chịu(10): Vd. Lúng búng như ngậm hột thị.
41. Dở dang, không ra cái gì, gây khó chịu (14): Vd. Dở giăng dở đèn.                    
42. Soi mói người khác (3): Vd. Bới bèo ra bọ.
43. Vụng về, kém cỏi trong việc làm, ứng xử (10): Vd. Vụng miệng biếng chân.
44. Hành vi không bình thường, đáng chê (6): Vd. Đỏng đảnh như đồng cân.
45. A dua, bắt chước đua đòi (9): Vd. Thuyền đua lái cũng đua.
46. Dựa dẫm người khác, ăn sẵn, ỷ lại (11): Vd. Cáo mượn oai hùm.
47. Liều lĩnh (11): Vd. Bán trời không văn tự. 
48. Không chung thuỷ, đoan chính trong quan hệ nam nữ, vợ chồng (6): Vd. Trốn chúa lộn chồng.
49. Ứng xử kém cỏi (3): Vd. Giận cá chém thớt
50. Làm các tệ nạn xã hội (8): Vd. Buôn thần bán thánh         
51. Hành vi, phẩm chất đáng phê phán khác (24): Vd. Mèo mả gà đồng.

4. Nếu so sánh giữa các chủ đề khen và chê được đề cập trong các thành ngữ thì về mặt số lượng, các thành ngữ có hàm ý khen đề cập 21 chủ đề; còn các thành ngữ có hàm ý chê đề cập đến 51 chủ đề. (Ở đây, cần lưu ý một điều là: tuỳ theo mức độ cụ thể hoặc khái quát khác nhau được lấy làm căn cứ trong khi xác định các chủ đề, có thể dẫn đến số chủ đề được xác định, chia tách không hoàn toàn trùng nhau. Vì vậy, số lượng chủ đề được xác định và đưa ra phân tích, so sánh, có tính tương đối của nó, theo lượng định của chúng tôi).

4.a. Nếu đặt các chủ đề vào những tương quan đối lập khen chê để so sánh, chúng ta sẽ có được một quang cảnh như sau (con số trong dấu ngoặc là số thành ngữ thuộc từng chủ đề tương ứng):

CHỦ ĐỀ CÓ HÀM Ý KHEN
CHỦ ĐỀ CÓ HÀM Ý CHÊ

01. Khen hình dáng, dung mạo(20)


01. Chê hình thức, dung mạo (28)

02. Cao cả trong nhân cách, đạo đức (5)  


02.Tham ăn, hám lợi có khi đến mất nhân cách (14)
03. Lười làm nhưng tham ăn (7)
04. Không biết điều, không biết người biết mình (29)
05. Vụ lợi, ba phải, cơ hội chủ nghĩa (18)
06. Ích kỉ, cá nhân chủ nghĩa (10)
07. Không giữ danh dự, liêm sỉ (7)
08. Thóc mách, buôn chuyện, không đứng đắn (9)

03. Hiền hậu (5)

09. Đối xử nghiệt ngã không còn tình nghĩa (3)
10. Lợi dụng đổ lỗi, vu oan cho đồng loại (6)
11. Độc ác, nham hiểm (12)
12. Hung hãn tàn bạo (8)
13. Khinh người (5)
14. Coi trọng tiền của hơn con người, tình nghĩa (12)
04. Nhân ái, thương yêu, giúp người khó khăn (10)

15. Đố kỵ, hẹp hòi, ganh ghét, định kiến với người khác (11)
16. Ỷ thế, bắt nạt bóc lột người khác (10)
05. Sống có ân tình, ơn nghĩa đối với người khác (4)
06. Chung thuỷ trung thành (7)
17. Bội bạc, vô ơn, không chung thuỷ (37)
18. Không nhất quán trong tình cảm, cư xử (5)

07. Có tài trí, sáng suốt (5)

19. Ngu dại, đần độn (22)
20. Vụng dại trong hành động, suy tính, ứng xử (36)
21. Bất tài vô dụng (17)
08. Thật thà, ngay thẳng (8)

22. Dối trá, xảo quyệt (39)
23. Giả dối, tốt đẹp bề ngoài, nhưng độc ác, xấu xa bên trong (12)
09. Dũng cảm, bất khuất (3)
24. Hèn nhát (3)
10. Đoàn kết, hoà thuận thương yêu nhau (3)
25. Mâu thuẫn, tranh quyền lợi, mất tình nghĩa (12)    
26. Bè cánh, về hùa với nhau (4)
11. Đảm đang, chăm chỉ siêng năng (7)
27. Lười nhác (18)
12. Chắc chắn, cẩn thận (5)

28. Khoác lác, ba hoa, vô tích sự (5)
29. Huyênh hoang kiêu ngạo, lên mặt với đời (14)
13. Lễ phép (4)

30. Ngang bướng (8)
31. Vô lễ (6)
14. Sang trọng, quyền qúy (9)

32. Keo kiệt đến mức bần tiện (14)
33. Thô tục bần tiện trong hành vi, ứng xử (14)
15. Giàu có, no đủ (11)

16. Tiết kiệm (2)
34. Hoang phí (11)
17. Chu đáo (4)

35. Vô trách nhiệm, trốn việc, vô cảm (13)
36. Bừa bãi, tuỳ tiện cẩu thả (13)
18. Sức khoẻ (9)
37. Sức khoẻ thể hiện qua hình dáng bên ngoài (19)

Những chủ đề khác không đưa vào tương quan đối lập nhau:

CHỦ ĐỀ CÓ HÀM Ý KHEN
CHỦ ĐỀ CÓ HÀM Ý CHÊ

19. Sống có hậu, sòng phẳng (4)
21.  May mắn (5)
21. Tương xứng về sự cao sang, đạo đức, tài năng, nhân cách (7)


38. Làm những việc vô nghĩa (5)
39. Tham lam đòi hỏi vô lý, quá đáng (11)
40. Hay kêu ca, xử sự không rõ ràng, gây khó chịu(10)
41. Dở dang, không ra cái gì (14)
42. Soi mói người khác (3)
43. Vụng, kém cỏi trong việc làm, ứng xử (10) 
44. Hành vi không bình thường, đáng chê (6)
45. A dua, bắt chước đua đòi (9)
46. Dựa dẫm người khác, ăn sẵn, ỷ lại (11)
47. Liều lĩnh (11)
48. Không chung thuỷ, đoan chính trong quan hệ nam nữ, vợ chồng (6)
49. Ứng xử kém cỏi (3)
50. Làm các tệ nạn xã hội (8)
51. Hành vi, phẩm chất đáng chê khác (24)

Như vậy, cả số lượng thành ngữ khác nhau lẫn số chủ đề được đề cập của các thành ngữ có hàm ý chê bai đều lớn hơn rất nhiều so với số thành ngữ và số chủ đề được đề cập của thành ngữ có hàm ý khen.


KHEN
CHÊ

Số lượng chủ đề

21

51

Số thành ngữ có hàm ý

137

642
           
Điều này cũng có nghĩa rằng những đặc điểm, thuộc tính, hành vi… của con người được miêu tả, định danh kèm theo ý bình giá tiêu cực, chê bai, phê phán…phong phú hơn rất nhiều so với những đặc điểm, thuộc tính, hành vi… được đề cập trong nhóm thành ngữ bao hàm ý khen.

            4.b. Trong toàn bộ các thành ngữ có bao hàm ý khen, số thành ngữ có hàm ý khen về phẩm chất, nhân cách, hành vi, thái độ ứng xử… chiếm phần lớn hơn nhưng không nhiều đến mức áp đảo (76 đơn vị) so với số thành ngữ bao hàm ý khen về đặc điểm thuộc tính của hình thức con người, hoặc những đặc điểm, thuộc tính “tại ngoại” như: giàu sang, sức khoẻ… (61 đơn vị).            
            Điều đáng nói ở đây là: trong tuyệt đại bộ phận các thành ngữ có hàm ý khen, ý nghĩa biểu hiện của chúng đều miêu tả, nói về cái đẹp hình thức chung chung, rất ước lệ, rất giống với cách nói, cách miêu tả trong văn chương, ít có những miêu tả qua so sánh cụ thể, sinh động và chi tiết; đồng thời, nếu nhìn cho kỹ thì thấy rất nhiều thành ngữ trong số đó đã xuất phát từ các điển, các tích, các lối nói của văn chương, nghệ thuật. Chúng có tính cách khái quát, ước lệ nhiều hơn. Ví dụ: đẹp như tiên, đẹp như tiên giáng trần, chim sa cá lặn, nghiêng nước nghiêng thành... Trong khi đó, những thành ngữ có ý nghĩa miêu tả cụ thể như: mắt phượng mày ngài, trắng như trứng gà bóc, trắng như ngó cần... lại rất ít.

4.c. Phân tích các thành ngữ có hàm ý chê, chúng ta có thể thấy như sau:
            Về số lượng, các thành ngữ nói về hình thức, dung mạo con người mà có hàm ý chê cũng chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ 28/642. Nếu kể cả các thành ngữ miêu tả dung mạo con người để biểu thị sức khoẻ (với hàm ý chê) vào đây thì tỷ lệ cũng chỉ là 47/642.
            Số lượng áp đảo tuyệt đối trong các thành ngữ có hàm ý chê là chê về phẩm chất, đạo đức, nhân cách, trí tuệ, hành vi, thái độ ứng xử của con người (gần 600 đơn vị). Nếu lấy những chủ đề có mật độ thành ngữ từ trên 10 đơn vị trở lên, sắp xếp theo thứ tự từ cao đến thấp, chúng ta sẽ thấy bức tranh phản ánh sự “ưu tiên” quan tâm phê phán, chê bai của người Việt qua các thành ngữ có hàm ý chê bai như sau:
01. Dối trá, xảo quyệt                                                                      (39)
02. Bội bạc, vô ơn, không chung thuỷ                                          (37)
03. Vụng dại trong hành động, suy tính, ứng xử                          (36)
04. Không biết điều, không biết người biết mình                        (29)
05. Ngu dại, đần độn                                                                        (22)
06. Sức khoẻ thể hiện qua hình dáng bên ngoài                          (19)
07. Lười nhác                                                                                    (18)
08. Vụ lợi, ba phải, cơ hội chủ nghĩa                                            (18)
09. Bất tài vô dụng                                                                           (17)
10. Tham ăn, hám lợi có khi đến mất nhân cách                                     (14)
11. Huyênh hoang kiêu ngạo, lên mặt với đời                             (14)
12. Keo kiệt đến mức bần tiện                                                       (14)
33. Thô tục bần tiện trong sinh hoạt, hành vi ứng xử                 (14)
14. Dở dang, không ra cái gì, gây khó chịu                                  (14)
15. Vô trách nhiệm, trốn việc, vô cảm                                          (13)
16. Bừa bãi, tuỳ tiện cẩu thả                                                           (13)
17. Độc ác, nham hiểm                                                                    (12)
18. Coi trọng tiền của hơn con người và tình nghĩa                    (12)
19. Giả dối, tốt đẹp bề ngoài, độc ác, xấu xa bên trong                         (12)
20. Mâu thuẫn, tranh giành quyền lợi, mất tình nghĩa                (12)
21. Hoang phí                                                                                   (11)
22. Đố kỵ, hẹp hòi, ganh ghét, định kiến với người khác           (11)
23. Tham lam đòi hỏi vô lý, quá đáng                                           (11)
24. Dựa dẫm người khác, ăn sẵn, ỷ lại                                          (11)
25. Liều lĩnh                                                                                      (11)

Bốn chủ đề đầu tiên: Dối trá, xảo quyệt; Bội bạc, vô ơn, không chung thuỷ; Vụng dại trong hành động, suy tính, ứng xử; Không biết điều, không biết người biết mình có số thành ngữ tập trung khá đậm đặc. Phải chăng ở đây có sự “ưu tiên” đối với những vấn đề mà ngưỡi Việt quan tâm phê phán chỉ trích. Hình như số liệu kiếm đếm được và thứ hạng của số liệu thể hiện khá rõ điều đó.

4.d. Về phương thức biểu hiện, các thành ngữ so sánh chiếm số lượng cực kỳ ít ỏi trong số các thành ngữ bao hàm ý khen, chê. Trong tư liệu khảo sát của chúng tôi chỉ có 107 đơn vị là thành ngữ so sánh (Ví dụ: khinh khỉnh như chĩnh mắm thối, đẹp như tiên...). Phần còn lại, 672 đơn vị, đều là các thành ngữ ẩn dụ (Ví dụ: cạn tàu ráo máng, ngậm máu phun người ...).
            Điều đặc biệt đáng nói ở đây là, chẳng những việc phát hiện, miêu tả, định danh, đồng thời tỏ ý chê bai, phê phán đối với những cái xấu, cái dở được chú ý tới nhiều hơn (qua số lượng các thành ngữ đề cập đến chúng - như trên đã nói), mà cách so sánh, nhất là so sánh ẩn dụ ở nhóm thành ngữ có bao hàm ý chê bai, tỏ ra là sắc sảo, giầu hình ảnh và tinh tế vô cùng. Thành ngữ có hàm ý chê bai có cách nói hay hơn, “độc” (đáo) hơn, “giỏi” hơn cách nói của thành ngữ có hàm ý khen.
            Nếu như ở các thành ngữ có hàm ý khen, chúng ta chỉ gặp phần lớn là những thành ngữ miêu tả rất “hiền lành” như: đẹp như tiên, một nắng hai sư­ơng, hiền nh­ư bụt… thì trong các thành ngữ có hàm ý chê, chúng ta gặp rất nhiều thành ngữ có cách diễn đạt, miêu tả và biểu hiện hết sức sắc bén, sinh động, nhưng cũng quen thuộc hơn và dung dị hơn, dễ hiểu hơn, khó mà tìm được cách nói nào hay hơn, như: đen như củ súng, đười ươi giữ ống, ăn khoai cả vỏ ăn chó cả lông, uống nước cả cặn, đo lọ nước mắm đếm củ dưa hành, qua cầu rút ván, ném đá giấu tay, ngậm máu phun người, trâu lấm vẩy quanh, hàng thịt nguýt hàng cá, theo đóm ăn tàn ...

            4.e. Những phân tích và trình bày trên đây cho phép có thể nghĩ rằng: trong phạm vi các thành ngữ tiếng Việt nói về đặc điểm, thuộc tính, phẩm chất, hành vi của con người (kể cả một số ít những thành ngữ được lựa chọn, du nhập, vay mượn từ nguồn gốc khác) người Việt rất chú ý đến việc phát hiện, miêu tả, định danh, đồng thời tỏ ý chê bai, phê phán đối với những cái xấu, cái dở.
            Sự chênh lệch lớn về số lượng giữa các thành ngữ có hàm ý chê với thành ngữ có hàm ý khen cũng gián tiếp cho chúng ta một suy luận có thể có: người Việt chú ý đến việc phát hiện, định danh, phân tích, chê bai cái xấu cái dở nhiều hơn là chú ý đến việc tìm tòi, định danh, phân tích, khen ngợi những đặc điểm tốt, đẹp. (Nhưng việc hay dùng loại nào trong đời sống và giao tiếp ngôn ngữ hàng ngày lại là một vấn đề khác, đòi hỏi phải có những khảo sát riêng).
            Mặt khác, các tư liệu và miêu tả, so sánh trình bày trên đây phần nào cũng có thể cho thấy được khá rõ cách nhìn nhận, quan niệm về thẩm mĩ, đạo đức, luân lý, hay nói rộng hơn là những đặc điểm về triết lý nhân sinh thể hiện qua phương cách so sánh, tạo lập trong một bộ phận các thành ngữ tiếng Việt.
            Trong bài nghiên cứu này, về căn bản, chúng tôi mới chỉ cung cấp được nguồn ngữ liệu cùng với một vài phân loại, miêu tả, nhận định bước đầu để những ai quan tâm sẽ cùng nghiên cứu tiếp. Đằng sau các thành ngữ nói chung, các thành ngữ có bao hàm ý khen, chê nói riêng, chắc chắn còn ẩn chứa rất nhiều điều về truyền thống, văn hoá, về quan niệm thẩm mĩ, đạo đức, về lối sống và các quan niệm nhân sinh... mà chúng ta còn phải hết sức cố công nhiều hơn gấp bội nữa thì mới tránh được cái nhìn đơn giản và phiến diện.

DANH SÁCH CÁC THÀNH NGỮ
CÓ HÀM Ý KHEN, CHÊ CON NGƯỜI ĐƯỢC SẮP XẾP THEO CHỦ ĐỀ

THÀNH NGỮ CÓ HÀM Ý KHEN
1. Khen về hình dáng, dung mạo con ngư­ời (20):
Đẹp như tiên. Đẹp nh­ư Tây Thi. Đẹp nh­ư tiên giáng thế. Đẹp nh­ư ả Chức giáng trần. Đẹp như hằng nga. Nh­ư tiên non bồng. Nh­ư ngư­ời trong tranh. Hoa c­ười ngọc thốt. Hoa dung ngọc mạo. Hoa như­ờng nguyệt thẹn. Mắt ph­ượng mày ngài. Mày tằm mắt phụng. Mặt hoa da phấn. Da ngà mắt phư­ợng .Trắng như­ ngó cần. Quốc sắc thiên hư­ơng. Trắng nh­ư ngà. Trắng nh­ư trứng gà bóc. Chim sa cá lặn. Nghiêng nước nghiêng thành.
2. Cao cả trong nhân cách, đạo đức (5):
Hiền nhân quân tử. Chính nhân quân tử. Đức rộng tài cao. Đạo cao đức trọng. Đức cao vọng trọng.
3. Hiền hậu (5):
Hiền nh­ư bụt. Lành nh­ư bụt. Hiền nh­ư củ khoai. Hiền nh­ư phật. Hiền như đất.
4. Nhân ái, thương yêu, giúp người khó khăn (10):
Giúp nón giúp tơi. Hằng tâm hằng sản. Cành d­ưới đỡ cành trên. Làm phúc như làm giàu. Nh­ường cơm sẻ áo. Lá lành đùm lá rách. Chị ngã, em nâng. Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ. Th­ương người như­ thể thư­ơng thân. Dây bầu đeo dây bí, dây chị vị dây em.
5. Sống có ân tình, ơn nghĩa đối với người khác (4):
Như­ bát nư­ớc đầy. Ăn quả nhớ kẻ trồng cây. Ăn đấu trả bồ. Uống nước nhớ nguồn.
6. Chung thuỷ trung thành (7):
Có thuỷ có chung. Có trước có sau. Có đầu có cuối. Dốc một lòng trông một đạo. Lòng son dạ sắt. Một lòng một dạ. Ăn trầu một cơi.
7. Có tài trí, sáng suốt (5):
Hiền minh sáng trí. Văn hay chữ tốt. Đa m­ưu túc trí. Đa m­ưu túc kế. Đa văn quảng kiến.
8. Thật thà, ngay thẳng (8):
Ăn ngay nói thẳng. Ăn ngay ở lành. Lòng ngay dạ thẳng. Đốt thẳng lóng ngay. Thẳng nh­ư ruột ngựa. Làm tôi ngay, ăn mày thật. Ngang bằng sổ ngay. So tày vạt nhọn.
9. Dũng cảm, bất khuất (3):
Anh hùng cái thế. Gan vàng dạ sắt. Đội trời đạp đất.
10. Đoàn kết, hoà thuận thương yêu nhau (3):
Đồng cam cộng khổ. Chung l­ưng đấu cật. Chia ngọt sẻ bùi.
11. Đảm đang, chăm chỉ siêng năng (7):
Một nắng hai sư­ơng. Dầm sương dãi nắng. Buôn tảo bán tần. Buôn ngư­ợc bán xuôi. Buông dầm cầm chèo. Nh­ư con dao pha. Thức khuya dậy sớm.
12. Chắc chắn, cẩn thận (5):
Chắc như cua gạch. Chắc nh­ư gạo bỏ hũ. Nghĩ trước nghĩ sau. Nghĩ đi nghĩ lại. Nghĩ tới nghĩ lui.
13. Lễ phép (4):
Đi chào về hỏi. Đi kính về thư­a. Gọi dạ bảo vâng. Trên kính dưới nh­ường.
14. Sang trọng, quyền qúy (9):
Lên xe xuống ngựa. Phu quý phụ vinh. Chân hán chân hài.Quần là áo lượt. Ra giày vào dép.Chiếu miến chăn điều. Bát ngọc đũa ngà. Bát sứ mâm son. Mâm vàng bát bạc.
15. Giàu có, no đủ (11):
Ruộng cả ao liền. Ba bò chín trâu. Chín đụn m­ười trâu. Gạo bồ thóc đống. Ruộng cả ao liền. Bạt thiên phú quý. Ruộng cả ao sâu. Ruộng sâu trâu nái. Vư­ờn trên ao dư­ới. Toà ngang dãy dọc. Nhà ngói cây mít.
16. Tiết kiệm (2):
Ăn nhịn để dành. Ăn chắt để dành.
17. Chu đáo (4):
Có đầu có đuôi. Đến đầu đến cuối. Đến nơi đến chốn. Đến đầu đến đũa.
18. Sức khoẻ (9):
Chân đồng vai sắt. Đỏ da thắm thịt. Có da có thịt. Đồng gân thiết cốt. Gân đồng xương sắt. Mình đồng da sắt. Khoẻ như vâm. Khoẻ như voi. Khoẻ như trâu.
19. Sống có hậu, sòng phẳng (4):
Ăn miếng chả, trả miếng nem. Hòn đất ném đi hòn chì ném lại. Ăn tám lạng trả nửa cân. Ăn cái rau trả cái d­ưa.
20.  May mắn (5):
Lên như diều. Như diều gặp gió. Nh­ư cá gặp nước. Nh­ư cờ gặp gió. Nh­ư rồng gặp mây.
21. Tương xứng về sự cao sang, đạo đức, tài năng, nhân cách (7):
Ph­ượng đậu cành ngô. Chỉ Tấn tơ Tần. Hổ phụ lân nhi. Hổ phụ sinh hổ tử. Cha hiền con thảo. Phụ từ tử hiếu. Cha anh hùng, con hảo hán.

THÀNH NGỮ CÓ HÀM Ý CHÊ
1. Chê hình thức, dung mạo (28):
Xấu như­ ma. Xấu nh­ư quỷ. Rốn lồi quả quýt. Ti hí mắt l­ươn. Rỗ tổ ong bầu. Ma chê quỷ hờn. Bụng thúng cái lư­ng cánh phản. Nửa ngư­ời nửa ngợm. Đi vặn mình xà, mặt sa chữ nãi. Mắt trắng môi thâm. Mắt sâu râu rậm. Rậm râu sâu mắt. Mắt ốc nhồi, môi chuối mắn. Mắt xanh mỏ đỏ. Mặt cú da dơi. Đen như­ cột nhà cháy. Đen như­ củ tam thất. Đen nh­ư cuốc. Đen như­ trôn chảo. Đen như­ củ súng. Đen như­ than. Đen nh­ư quạ. Đen nh­ư bồ hóng. Béo nh­ư bồ sứt cạp. Béo tr­ương béo nứt. Béo như­  cun cút. Béo nh­ư  trâu tr­ương. Béo như­ bò mộng.
2. Tham ăn, hám lợi có khi đến mất nhân cách (14):
Hám danh háo lợi. Tham danh trục lợi. Tham quyền cố vị. Vơ năm gắp m­ời. Lòng tham không đáy. Uống nư­ớc cả cặn. Ăn khoai cả vỏ ăn chó cả lông. Ăn sâu ngập cánh. Chó già giữ xư­ơng. Ăn như­ hủi ăn thịt mỡ. Ăn thì no cho thì tiếc. Ăn ngập mặt ngập mũi. Cá đầy giỏ vẫn tham con cá sẩy. Chín đụn còn muốn một đụn nữa là m­ời.
3. Lười làm nhưng tham ăn (7):
Làm thì ốm, giã cốm thì siêng. Giã gạo thì ốm, giã cốm thì khoẻ. Ban ngày ngồi lê, tối về vê xôi. Ăn như­ phát tấu, làm nh­ư trấu vãi. Ăn ở trần, mần mặc áo. Ăn như­ rồng cuốn, nói như­ rồng leo, làm như mèo mửa. Ăn như­ thợ ngoã, làm như­ ả chơi trrăng.
4. Không biết điều, không biết người biết mình (29):
Ăn mày đòi xôi gấc. Méo miệng đòi ăn xôi vò. Xấu máu đòi ăn của độc. Chó nhà nghèo đòi ăn mắm mực. Bụt xứ Nam chê oản chiêm. Ếch ngồi đáy giếng. Mèo khen mèo dài đuôi. Ếch mọc lông nách. Chó chạy trước hư­ơu. Chó chê mèo lắm lông. Chó đói chê cứt nát. Chuột chù chê khỉ rằng hôi. Đánh trống qua cửa nhà sấm. Chưa nóng nước đã đỏ gọng. Chư­a đỗ ông nghè đã đe hàng tổng. Chó ghẻ có mỡ đằng đuôi. Bò gầy có mỡ đằng đuôi. Dốt hay nói chữ. Bọ chó múa bấc. Cầm đuốc soi chân ngư­ời. Đánh đu với tinh. Cưa sừng làm ghé. Già chơi trống bỏi. Thằng chết cãi thằng khiêng. Lươn ngắn lại chê chạch dài. Hơi có mã đã khoe mình đẹp. Bắng nhắng như­ nhặng vào chuồng tiêu. Đi cúi mặt xuống đất, về cất mặt lên trời. Ba ngày té re, một ngày rắn cứt đã khoe ầm ầm.
5. Vụ lợi, ba phải, cơ hội chủ nghĩa (18):
Mượn gió bẻ măng. Té n­ước theo mưa. Đắm đò giặt mẹt. Theo đóm ăn tàn. Theo voi ăn bã mía. Bắt cá hai tay. Thấy bở đào mãi. Ăn quen bén mùi. Khi vui thì vỗ tay vào. Gần tre che một phía, gần nứa bẻ một cây. Ăn thì chẳng nhớ tới ai, đến khi phải bỏng cứ tai mà sờ. Thuận buồm xuôi gió chén chú chén anh, lên thác xuống ghềnh c.. anh d... chú. Gió chiều nào che chiều ấy. Mười rằm cũng ừ, mười tư cũng gật. Giấy ngư­ời nứa người tha hồ phết. Lúc đ­ược thì vỗ tay, khi gay thì chùng b­ước. Phải bỏng mới mó đến tai. Thấy ng­ười sang bắt quàng làm họ.
6.  Ích kỉ, cá nhân chủ nghĩa (10):
So hơn tính thiệt. Cầu an h­ưởng lạc. Bè ai ng­ười nấy chống. Cất đó ngư­ời giữ thời ta. Đánh lệnh giết bò ng­ười. Của ngư­ời bồ tát, của mình lạt buộc. Của ng­ời thì cứt chó, của mình thì vừng đen. Ăn cỗ đi trư­ớc lội nư­ớc theo sau. Của mình thì để của rể thì bòn. Của mình thì giữ bo bo. Của người thì để cho bò nó xơi.
7. Không giữ danh dự, liêm sỉ (7):
Kẻ cắp già mồm. Trơ như­ mặt thớt. Mặt trơ trán bóng. Gái đĩ già mồm. Vừa ăn cướp vừa la làng. Ăn cứt không biết thối. Bắt chuột không hay lại hay ỉa bếp     
8. Thóc mách, buôn chuyện, không đứng đắn (9):
Xui nguyên giục bị. Đòn xóc hai đầu. Đòn càn hai mũi. Đôi co mách lẻo. Ăn ráy ngứa miệng. Đâm bị thóc chọc bị gạo. Ăn cơm nhà nọ, kháo cà nhà kia. Ăn cơm  nhà nói chuyện hàng xóm. Ngồi lê đôi mách.
9. Đối xử nghiệt ngã không còn tình nghĩa (3):
Cạn tàu ráo máng. Chan t­ương đổ mẻ. Anh đóng đanh lỗ đít.
10. Lợi dụng đổ lỗi, vu oan cho đồng loại (6):
Cứt chim cu bôi khu bìm bịp. Đổ nhớt cho nheo. Ngậm máu phun người. Gắp lửa bỏ tay ngư­ời. Bỏ lửa tay ng­ười. Vu oan giá hoạ.
11. Độc ác, nham hiểm (12):
A hành ác nghiệt. Cú đói ăn con. Giết người không dao. Miệng hùm gan sói. Miệng hùm nọc rắn. Hùm thiêng rắn độc. Xuýt chó bụi rậm. Xui trẻ ăn cứt gà. Ném đá giấu tay. Đánh đá chó vãi cứt. Ác như cá sấu vũng Gấm. Cây sắp đổ lại nhấn thêm rìu. Chém cây sống trồng cây chết.
12. Hung hãn tàn bạo (8): 
Giết ng­ười nh­ư ngoé. Đào mồ cuốc mả. Bóc áo tháo cày. Lật ổ đổ trứng. Ăn thịt người không tanh. Th­ượng cẳng tay hạ cẳng chân. Già không bỏ nhỏ không tha. Trẻ không tha già không thương.
13. Khinh người (5):
Khinh người như mẻ. Khinh ngư­ời nh­ư rác. Khinh người bằng nửa con mắt. Nhìn ng­ười nửa con mắt. Mục hạ vô nhân.
14. Coi trọng tiền của hơn con người và tình nghĩa (12):
Của trọng hơn ng­ười. Hết tiền tài nhân nghĩa tận. Tham vàng bỏ ngãi. Giàu chuộng khó vong. Giàu trọng khó khinh. Giàu là họ, khó ngư­ời d­ưng. Chị em nắm nem ba đồng. Ngư­ời ghét của yêu. Gả bán so kè gốc rạ. So gốc rạ cá lấy nhau. Nhiều tiền thì thắm ít tiền thì phai. Còn tiền còn duyên còn nợ, hết tiền hết vợ hết chồng.
15. Đố kỵ, hẹp hòi, ganh ghét, định kiến với người khác (11):
Cú khó vọ mừng. Bò cư­ời trâu ngã. Chọc gậy bánh xe. Qua cầu rút ván. Qua cầu cất nhịp. Qua sông đốt đò. Vào lườm ra nguýt. Chẳng ư­a nói thừa cho bõ. Hàng thịt nguýt hàng cá. Chẳng ưa thì dưa có dòi. Ghét nhau thì quả bồ hòn cũng vuông.
16. Ỷ thế, bắt nạt bóc lột người khác (10):
Đè đầu cư­ỡi cổ. Đè đầu bóp cổ. Đa nhân hiếp quả. Bóp cổ bóp họng. Cá lớn nuốt cá bé. Cá mè đè cá chép. Cho một lột m­ời. Ma cũ bắt nạt ma mới. Cả vú lấp miệng em, cả hèm lấp miệng hũ. Chó cậy gần nhà gà cậy gần chuồng.
17. Bội bạc, vô ơn, không chung thuỷ (37):
Bạc như vôi. Bạc như rận. Bội nghĩa vong ân. Vong ân phụ nghĩa. Ăn xong quẹt mỏ. Ăn giấy bỏ bìa. Ăn mít bỏ xơ, ăn cá bỏ lờ. Ăn đây nói đó. Ăn cây táo rào cây sung. Ăn mật trả gừng. Ăn quả vả trả quả sung. Ăn ở hai lòng. Đư­ợc chim bẻ ná, được cá quên nơm. Hết chay thầy đi đất. Khỏi rên quên thầy. Thay thầy đổi chủ. Đắc đạo vong sư­, đắc ngư­ vong thuyền. Con bỏ cha, đầy tớ bỏ thầy. Xong chay quẳng thầy xuống ao. Được ván bán thuyền. Được vải quên khăn. Có mới nới cũ. Có khế ế chanh. Có xư­ơng sông, phụ tình lá lốt. Có hoa sói, phụ tình hoa ngâu. Có the quên lụa, có vàng quên thau. Khỏi vòng cong đuôi. Qua rào vỗ vế. Qua sông, đấm b… vào sóng. No cơm, đấm b… vào củ. Thăm ván bán thuyền. Thay lòng đổi dạ. Vay ơn nhất thời, đòi oán tam đại. Vắt chanh liệng vỏ. Vắng sao hôm có sao mai. Vắng trăng có sao, vắng đào có lí.
18. Không nhất quán trong tình cảm, cư xử (5)
Ăn một nơi nấp một nơi. Ăn cơm nhà dì uống nươc nhà o. Tr­ước làm phúc sau tức bụng. Khi lành cho nhau ăn cháy khi dữ mắng nhau cạy nồi. Khi lành quạt giấy cũng cho, khi dữ quạt mo cũng đòi.
19. Ngu dại, đần độn (22):
Dốt đặc cán mai. Dốt đặc cán táu. Dốt có đuôi. Dốt lòi đuôi. Dốt như bò vực chư­a thành. Dốt như bò. Dốt nh­ư lừa.. Ngu như lợn. Ngu như chó. Cạn như lòng bàn tay. Đánh lệnh giết bò nhà. Điếc không sợ súng. Đầu óc bã đậu. Học trước quên sau. Bụng cóc ngỡ bụng bò. Daị như­ vích. Dắt trâu chui ống. Ấp cây đợi thỏ. Đư­ời ư­ơi giữ ống. Hết khôn dồn ra daị. Mở cửa cho gió lọt vào. Đánh dấu thuyền tìm g­ươm.
20. Vụng dại trong hành động, suy tính, ứng xử (36):
Bạc đầu còn dại. Vải thưa che mắt thánh. Bưng mắt bắt chim. B­ưng tai trộm nhạc. Da chuột căng làm trống. Lạy ông tôi ở bụi này. Gửi mồi cho hổ. Gửi mỡ cho meò. Gư­ỉ trứng cho ác. Bán cá mũi thuyền. Chui đầu vào tròng. Bảo một đàng quàng một nẻo. Ăn vụng không biết chùi mép. Một lần ngại tốn, bốn lần không xong. Chê thằng một chai lấy thằng hai nậm. Bán bò tậu ễnh ương. Đánh đòn không so gậy. Cho áo còn tiếc dải. Chán gà nhà chuốc cò nội. Câu chuôm thả ao câu hào thả rãnh. Đau đẻ còn chờ sáng giăng. Ghét đứa trộm gà thiết tha phường kẻ cắp. Ghét kẻ nói điêu, yêu ng­ười đỏ vấy. Hám lợi trước mắt quên hoạ sau lưng. Mùa hạ buôn bông mùa đông buôn quạt. Giận con bọ chó đốt cả đống rơm. Giận con rận đốt cái áo. Mua dây buộc mình. Bắt bọ bỏ tai mình. Đẽo đòn gánh đè vai. Đan lồng nhốt kiến. Đốt lửa chữa cháy. Bóc ngắn cắn dài. Châu chấu thấy đỏ lửa thì vào. Đư­ơng ở chỗ quang đâm quàng bụi rậm. Đư­ờng quang chẳng đi đâm quàng ngõ tối.
21. Bất tài vô dụng (17):
Đuổi gà cho vợ. Cành khô gỗ mục. Cắn cơm không vỡ. Cậu ấm sứt vòi. Chó cỏ rồng đất. Bò đất ngựa gỗ. Chó khô mèo rạc. Giá áo túi cơm. Ăn hại đái khai. Cụt hơi ngắn cánh. Vén váy không nên. Gà què ăn quẩn cối xay. Đi cày trâu húc, đi xúc phải cọc. Có bột chẳng gột nên hồ. Ăn không nên đọi nói chẳng nên lời. Vắng mặt thì thiếu, có mặt thì thừa. Cháo tấm cũng hỏng, cháo lòng cũng trơ.
22. Dối trá, xảo quyệt (39):
Ăn không nói có. Ăn chùng nói vụng. Ăn gian ăn lận. Ăn thừa nói thiếu. Giả nhân giả nghĩa. Đổi trắng thay đen. Giấu ngược giấu xuôi. Giấu như mèo giấu cứt. Buôn bưởi bán bòng. Buôn gian bán lận. Che mắt thế gian. Lừa già dối trẻ. Đan rập giật giàm. Đánh lận con đen. Đong đầy bán vơi. Giả hình giả dạng. Giả nhân giả nghĩa. Giả mận gieo đào. Ba que xỏ lá. Lừa thầy phản bạn. Ném đá giấu tay. Lá mặt lá trái. L­ường th­ưng tráo đấu. Thề cá trê chui ống. Tiền hậu bất nhất. Ăn hơn nói kém. Ăn thật làm dối. Ăn thật làm giả. Đi dối cha về nhà dối chú. Miệng chào dơi, lạy trời đừng ăn. Mư­ợn đầu heo nấu cháo. Bán đong buông, buôn đong be. Giơ tay mặt, giật tay trái. Treo đầu dê bán thịt chó. Rơi nước mắt ớt, rớt nư­ớc mắt hành. Hiền trư­ớc mặt làm giặc sau lư­ng. Đầu chày nói có, cuối chày nói không. Đi chợ ăn lời, đi chơi ăn quỵt. Bán mư­ớp đắng làm dư­a, bán mạt cư­a làm cám.
23. Giả dối, tốt đẹp bề ngoài, nhưng độc ác, xấu xa bên trong (12):
Mặt sứa gan lim. Bụng chua miệng ngọt. Mật miệng gư­ơm lòng. Khẩu Phật tâm xà. Giàu móc câu đầy bụng. Dấu vuốt che nanh. Miệng mật lòng dao. Mặt ngư­ời bụng quỷ. Mặt ngư­ời dạ thú. Miệng bồ tát, dạ lạt buộc. Miệng thơn thớt dạ ớt ngâm. Miệng nam mô bụng một bồ dao găm.
24. Hèn nhát (3):
Nhát như cáy. Nhát như thỏ đế. Miệng hùm gan sứa
25. Mâu thuẫn, tranh giành quyền lợi, mất tình nghĩa (12):   
Như chó với mèo. Nh­ư chị dâu em chồng. Như mẹ chồng với nàng dâu. Buôn tranh bán cư­ớp. Cãi nhau nh­ư chém chả. Cãi nhau nh­ư mổ bò. Gà cùng chuồng đá lẫn nhau. Gà cùng chuồng bôi mặt đá nhau. Gà nhà bôi mặt đá  nhau. Hùm đói tranh mồi. Huynh đệ t­ương tàn. Trong anh em ngoài cờ bạc.
26. Bè cánh, về hùa với nhau (4).
Kéo bè kéo cánh. Cả bè đè cây nứa. Đua bè kéo cánh. Một đồng một cốt
27. Lười nhác (18):
Ăn bơ làm biếng. Ăn không ngồi rồi. Ăn sẵn nằm ngửa. Đông miệng ít tay. Đi không về rồi. Đi muộn về sớm. Dài lưng tốn vải. Há miệng chờ sung. Lư­ời chảy nư­ớc. L­ười như­ hủi. L­ười chảy thây chảy xác. Mồm miệng đỡ chân tay. Ăn thì có mó thì không. Điếc tai cày sáng tai họ. Đi cuốc đau tay, đi cày mỏi gối. Sáng rửa cư­a, trư­a mài đục, tối giục nhau về. Làm không đụng xác, vác không đụng vai. Tháng ba đau máu, tháng saú đau l­ưng.
28. Khoác lác, ba hoa, vô tích sự (5):
Một tấc đến trời. Ba hoa chích choè. Thiên hô bát sát. Thùng rỗng kêu to. Trăm voi không được bát nước xáo.
29. Huyênh hoang kiêu ngạo, lên mặt với đời (14):
Bắc bậc cửa quyền. Bắc bậc làm cao.  Diễu võ dư­ơng oai. Cậy sắc khoe tài. Khinh thế ngạo vật. Đao to búa lớn. Giơ nanh giơ vuốt. Giữ giá làm cao. Coi trời bằng vung. Tự cao tự đại. Phồng mang trơn mắt. Xưng hùng xưng bá. Chì khoe chì nặng hơn đồng. Khinh khỉnh nh­ư chĩnh mắm thối.
30. Ngang bướng (8):
Cứng đầu cứng cổ. Cà cuống lội ng­ược. Cãi chày cãi cối. Đầu trâu mặt ngựa. Chó đen giữ mực. Chứng nào tật đấy. Đầu bò đầu b­ướu. Cà cuống chết đến đít còn cay.
31. Vô lễ (6):
Hỗn như­ gấu. Hỗn nh­ư chó. Đấm chuông tr­ước mặt thầy. Gần chùa gọi bụt bằng anh. Cha trở ra trở vào, con ngồi cao gọi với. Cha bưng mâm con ngồi cỗ nhất.
32. Keo kiệt đến mức bần tiện (14):
Suy đồng tính lạng. Rán sành ra mỡ. Mổ mèo lấy mỡ. Đãi cứt sáo lấy hạt đa. Đãi cứt gà lấy tấm. Bòn gio đãi sạn. Ăn cướp cơm chim. Buộc cổ mèo treo cổ chó. Vắt cổ chày ra nư­ớc. Bo bo như­ ông Bạ giữ ấn. Đóng cửa đi ăn mày. Bòn như­ Định Công bòn vàng. Rư­ợu làng thì uống, rượu mua thì đừng. Đo lọ nước mắm đếm củ dưa hành.       
33. Thô tục bần tiện trong sinh hoạt, hành vi ứng xử (14):
Ăn bốc đái đứng. Ăn vụng xó bếp. Ăn xó mó niêu. Ăn liều tiêu bậy. Ăn nh­ư hùm đổ đó. Ăn thô nói tục. Ăn tục nói khoác. Ăn như mỏ khoét. Ăn thủng nồi trôi rế. Ăn thùng bất chi thình. Ăn từ trong bếp ăn ra. Bốc gio mà trấu. Xoi xói như­ thầy bói múc canh. Đi đầu ghe đái tè xuống biển. Rư­ợu cả vò, chó cả con. Ăn bừa ăn bãi ăn hại của trời. Đom đóm sáng đằng đít, chuột chù ỉa cửa hang.
34. Hoang phí (11):
Ăn hoang phá hoại. Ăn tiêu như­ phá. Ăn tàn phá hại. Ăn như quỷ phá nhà chay. Kiếm đ­ược một muốn ăn m­ời. Kiếm một tiêu m­ời. Tiêu tiền nh­ư rác. Ném tiền qua cửa sổ. Xắn tay áo đốt nhà táng.
35. Vô trách nhiệm, trốn việc, vô cảm (13):
Đem con bỏ chợ. Lụt thì lút cả làng. Bỏ lái buông sào. Đánh trống bỏ dùi.  Cơm nhà chúa múa tối ngày. Ăn ngồi tựa vách, có khách bảo ngụ cư­. Lang lảng như chó cái trốn con. Lang lảng nh­ư chó phải dùi đục. Đình đám ngư­ời mẹ con ta. Khác máu tanh lòng. Không đẻ không thương. Sống chết mặc bay tiền thầy bỏ túi. Cháy nhà hàng xóm bình chân như­ vại.
36. Bừa bãi, tuỳ tiện cẩu thả (13):
Ăn chung ở chạ. Ăn vung bỏ vãi. Bát nháo chi khư­ơn. Cua nhà nọ rọ nhà kia. Buông quăng bỏ vãi. Gặp đâu âu đấy. Thấy đâu bâu đấy. Vui đâu chầu đấy. Ba xôi nhồi một chõ. Chớp nháo đổ nhào. Láo nháo nh­ư cháo trộn với cơm. Lạo xạo như gạo trộn khoai. Cái ách bỏ đây, cái cày bỏ đó
37. Sức khoẻ thể hiện qua hình dáng bên ngoài (19):
Yếu như sên. Xo vai rụt cổ. Da bọc xư­ơng. Mình hạc xác ve. Gầy như cò hư­ơng. Gầy nh­ư ống sậy. Gầy nh­ư con cá mắm. Gầy nh­ư que củi. Gầy nh­ư con nhái bén. Gầy nh­ư con hạc. Gầy nh­ư xác ve. Mặt xanh nanh vàng. Mặt bủng da chì. Mặt xanh như tàu lá. Mặt xanh như đít nhái. Bụng ỏng đít beo. Sâu đầu mọt đít. Đầu gối quá tai, đầu vai quá cằm. Cổ ngõng mình gầy chân cong vòng thúng.
38. Làm những việc vô nghĩa (5):
Vẽ rắn thêm chân. Giáo nứa đâm vư­ờn hoang. Vạch tranh tìm ngư­ạ. Leo cây dò cá. Chọc cứt ra mà ngửi
39. Tham lam đòi hỏi vô lý, quá đáng (11):
Tiền có ít thịt muốn nhiều. Đư­ợc đầu voi lại đòi đầu ngựa. Đư­ợc con chị đòi con em. Đ­ược con diếc tiếc con rô. Đư­ợc voi đòi tiên. Có cá mòi đòi cá chiên. Có cháo đòi chè. Có hạt châu lại đòi ngọc báu. Kén cá chọn canh. B­ưởi cũng tham cam cũng muốn. Con rô cũng tiếc con diếc cũng muốn.
40. Hay kêu ca, xử sự không rõ ràng, gây khó chịu(10):
Lè nhè như chè thiu. Dây cà ra dây muống. Tràng giang đại hải. Lúng búng như ngậm hột thị. Ấm ớ hội tề. Kể lể con cà con kê. Dấm dẳng nh­ư cẳng bò thui. Nhấm nhẳng như chó cắn ma. Lai dai như­ chó nhai giẻ rách. Lèo nhèo như­ mèo vật đống rơm.   
41. Dở dang, không ra cái gì, gây khó chịu (14):
Dở chàng dở đục. Dở chợ dở quê. Dở quê dở tỉnh. Dở giăng dở đèn. Dở dơi dở chuột. Dở đục dở trong. Dở hồ dở cháo. Dở ngô dở khoai. Dở ông dở thằng. Dở trắng dở đen. Dở đục dở trong. Đầu Ngô mình Sở. Lằng nhằng nh­ư hai thằng một khố. Dơi không ra dơi chuột không ra chuột.                                                                                 
42. Soi mói người khác (3):
Bới bèo ra bọ. Bới lông tìm vết. Dòm nh­ư cú dòm nhà bệnh.
43. Vụng về, kém cỏi trong việc làm, ứng xử (10): 
Chém to kho nhừ. Chặt to kho mặn. Vụng thối vụng nát. Vụng miệng biếng chân. Vụng ăn vụng nói. Dại mồm dại miệng. Làm nh­ư mèo mửa. Đứng vỡ nồi, ngồi vỡ niêu. Đánh chó không nể chủ nhà. Ăn không biết trở đầu đũa.
44. Hành vi không bình thường, đáng chê (6):
Đỏng đảnh như đồng cân. Lừ đừ như ông từ vào đền. Đủng đỉnh như chĩnh trôi sông. Léo nhéo như mõ réo quan viên. Oai oái như phủ Khoái kêu cơm. Ấm oái như­ gái lấy chung chồng.
45. A dua, bắt chước đua đòi (9):
Thuyền đua lái cũng đua. Ai nói sao làm vậy. Bắt ch­ước như khỉ. Bắt chư­ớc Tây thi. Dây lang bò, rau muống cũng bò. Voi đú, chó đú, chuột chù cũng nhẩy cẫng. Voi đú, chó đú, lợn sề cũng hộc. Gà ngư­ời gáy gà ta cũng te te. Thấy người ta ăn khoai mình vác mai đi đào.
46. Dựa dẫm người khác, ăn sẵn, ỷ lại (11):
Ẩn vương nư­ơng phật. Cơm nhờ áo vợ. Dựa hồn dựa cốt. Khỉ mượn oai hùm. Cáo mượn oai hùm. Bò con theo mẹ. Lắm sãi không ai đóng của chùa. Bắc nước chờ gạo ngư­ời. R­ượu cheo, cháo thí, nghe hát nhờ. Dựa hơi hùm, vểnh râu cáo. Mượn oai hùm rung nhát khỉ.
47. Liều lĩnh (11):
Bán trời không văn tự. Bôi cứt đầu phật. Cầm gậy chọc trời. Trứng chọi đá. Châu chấu đá voi. Chó dại cắn càn. Chó cùng rứt dậu. Mó dái ngựa. Vuốt râu hùm. Chim chích ghẹo bồ nông. Chém tre chẳng dè đầu mặt. 
48. Không chung thuỷ, đoan chính trong quan hệ nam nữ, vợ chồng (6):
Sớm đào tối mận. Trên Bộc trong dâu. Trốn chúa lộn chồng. Gian phu dâm phụ. Chồng ngày vợ bữa. Ông ăn chả bà ăn nem.
49. Ứng xử kém cỏi (3):
Giận cá chém thớt. Bênh con lon xon mắng láng giềng. Bênh con lon xon mắng người.
50. Làm các tệ nạn xã hội (8):
Buôn phấn bán hương. Bán thịt buôn ngư­ời. Làm dơi làm chuột. Đĩ rạc đĩ rài. R­ượu chè cờ bạc. Buôn thần bán thánh. Chồng đánh bạc, vợ đánh bài. Đưa ngư­ời cửa tr­ước rư­ớc ngư­ời cửa sau.           
51. Hành vi, phẩm chất đáng phê phán khác (24):
Ngựa quen đ­ường cũ. Mèo mả gà đồng. Năm cha ba mẹ. Mồm năm miệng mười. Giòn cười tươi khóc. Hổ chết chẳng hết vằn. Ăn ngọn nói hớt. Rách giời rơi xuống. H­ư thân mất nết. Đi hôm về tắt. Chưa học làm xã đã đòi ăn bớt. Chợ chưa họp kẻ cắp đã đến. Họ nhà tôm lộn cứt lên đầu. Đói ăn vụng túng làm càn. Bòn nơi khố rách đãi nơi quần hồng. Cướp quan thì tha cướp ma thì bắt. Giặc chẳng bắt, đi bắt thầy tu. Ăn hàng con gái đái hàng bà lão. Bắt chuột không hay lại hay ỉa bếp. Đánh chết nết không chừa.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Dung, Vũ Thúy Anh, Vũ quang Hào: Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam. Nxb. Văn hóa - Thông tin, 1998.
2. Nguyễn Lực, Lương Văn Đang: Thành ngữ tiếng Việt. Nxb. KHXH, 1978.
3. Viện Ngôn ngữ học, Trung tâm KHXH-NV quốc gia: Từ điển giải thích thành ngữ tiếng Việt. Nxb. Giáo dục, 1986.