ĐÔNG KINH NGHĨA THỤC
VÀ TƯ TRÀO KHẢI MÔNG ĐẦU THẾ KỶ XX
TRẦN
ĐÌNH HƯỢU
Mùa xuân
năm 1907 đã xảy ra một sự kiện có tiếng vang rộng lớn trong đời sống văn hoá tư
tưởng: Trường Đông Kinh nghĩa thục khai giảng ở Hà Nội. Theo giấy phép của
chính quyền thực dân thì đó chỉ là một trường tư thục cấp sơ học, dạy cả chữ
Quốc ngữ, chữ Pháp và chữ Hán. Nhưng trong thực tế thì đó lại là một trung tâm
tập hợp những nhà Nho duy tân, truyền bá một khuynh hướng tư tưởng mới tập hợp
những người yêu nước, hô hào làm công cuộc cải cách nhiều mặt để làm cho đất nước đi đến độc lập
và phú cường. Đông Kinh nghĩa thục là bộ mặt công khai của một phong trào chính
trị bí mật hoạt động trước đó ba bốn năm. Nó cũng là đỉnh cao của một trào lưu
tư tưởng đã hình thành trước đó non chục năm.
Năm
1904, Phan Bội Châu, Nguyễn Hàm và các nhà yêu nước khác đã thành lập Tân Đảng.
Tân Đảng đã cử Phan Bội Châu sang Nhật cầu viện. Tiếp theo Phan Bội Châu, Cường
Để, Nguyễn Thượng Hiền và cả Phan Châu Trinh cũng đã sang Nhật tìm đường cứu
nước. Nhiều lớp thanh thiếu niên khắp nước đã đi theo gót chân của các bậc đàn
anh đó, gây thành phong trào Đông du sôi nổi. Phong trào cứu nước bằng con
đường du học đó đã khác hẳn với phong trào cứu nước bằng khởi nghĩa Cần Vương
cuối thế kỷ trước. Gây nên sự đổi thay như vậy là luồng tư tưởng theo tân thư,
tân văn - sách mới, báo mới - từ Trung Quốc tràn vào.
Giữa thế
kỷ XIX, trước việc các nước đế quốc phương Tây tranh nhau chia cắt châu Á làm
thuộc địa thì Nhật Bản đã sớm rút ra được bài học Âu hoá. Sau ba mươi năm cải
cách, Nhật Bản đã trở nên phú cường, chen vai thích cánh với Anh, Nga, Pháp,
Đức, chiếm Đài Loan, Cao Ly làm thuộc địa. Công cuộc duy tân của vua Minh Trị ở
Nhật Bản kích thích giới sĩ phu Trung Quốc. Họ cũng đề xướng duy tân theo gương
Nhật Bản, gây thành cuộc chính biến năm Mậu Tuất (1898). Sách mới, báo mới phản
ánh tư tưởng của giới sĩ phu đòi duy tân, cải cách ở Trung Quốc theo con đường
của Hoa Kiều mà đến tay các nhà Nho Việt Nam. Luồng gió theo Tân thư, Tân
văn từ Trung Quốc thổi vào làm lay động cách suy nghĩ cũ, thôi thúc sĩ phu yêu
nước nước ta hướng về con đường mới mẻ đó ở các nước đồng văn. Duy tân là một
xu thế không thể cưỡng lại được của cả châu Á trước thế giới hiện đại, trước sự
xâm lược của chủ nghĩa đế quốc phương Tây, trước sự tràn lan của văn minh
phương Tây. Ở Việt Nam,
luồng gió đến muộn.Các nhà Nho Việt Nam là những người tỉnh giấc sau.
Không phải ta tiếp xúc với phương Tây chậm hơn; hơn nữa với phương Tây, ta lại
phải nếm trải một cảnh ngộ cay đắng hơn so với Nhật Bản và Trung Quốc. Nhưng
phải đợi sau khi nước đã mất, nền thống trị thực dân đã ổn định, thực tế phát
triển giao thông, bưu điện, công thương nghiệp ở các thành phố, các nhà Nho mới
kịp nhìn ra thực tế khác trước. Tân thư, tân văn đến với họ, và với lời văn kích
động, nó chỉ cho các nhà nho nước ta không chỉ là cảnh văn minh rực rỡ của Âu
Mỹ mà còn chỉ ra nguy cơ diệt chủng của các nước da vàng. Sốt ruột, hoảng hốt,
sợ chạy chữa không kịp, các nhà Nho yêu nước trẻ tuổi lao mình vào con đường
mới, học theo gương mặt Nhật Bản, Trung Quốc, cũng không nghĩ đến chỗ đặt ra
những vấn đề gì khác. Tân thư, tân văn theo con đường của các Hoa Kiều vào các
đô thị lớn nên nhiều nhà nho ở Hà Nội, Huế, Đà Nẵng hầu như tiếp nhận nó đồng
thời. Có sớm hơn chăng là Nguyễn Thượng Hiền, người sống nhiều năm ở cả Hà Nội
và Huế, đã rảnh rỗi về việc thi cử lại
có uy vọng lớn để có nhiều quan hệ rộng rãi đón nhận thông tin và sách vở từ
Nguyễn Lộ Trạch đến Tăng Bạt Hổ. Nguyễn Thượng Hiền đã đưa tân thư cho Phan Bội
Châu đọc, nhiều nhà khoa bảng khác có thể cũng làm quen với những tư tưởng mới
qua ông. Nhưng Nguyễn Thượng Hiền cũng không đóng vai trò người tiên phong chỉ
đường. Những năm đầu thế kỷ, tư tưởng mới đã thấm sâu vào nhiều người. Bước vầo
hành động, Phan Bội Châu đã viết Lưu Cầu huyết lệ tân thư, Phan
Châu Trinh đã bắt đầu cùng Trần Quý Cáp , Huỳnh Thúc Kháng vận động cải cách
văn hoá xã hội ở Quảng Nam. Đông Kinh nghĩa thục là đỉnh cao và là bước phát
triển mới, bước phát triển cuối cùng của tư trào đó.
Đối với
lịch sử tư trào duy tân của cả châu Á, các nhà Nho yêu nước Việt Nam không đặt
thêm vấn đề gì mới nhưng khi tiếp cận nó, họ lại vận dụng nó để giải quyết một
thực tế khác với Trung Quốc và Nhật Bản: giành độc lập.
Lựa chọn
con đường duy tân Âu hoá, Nhật Bản và Trung Quốc cũng nhằm mục đích bảo vệ độc
lập, chống sự nô dịch thực dân của các nước phương Tây. Nhưng ở các nước đó,
giai cấp tư sản phát triển cao hơn. Với con mắt giai cấp tư sản, thực trạng xâm
lược của chủ nghĩa đế quốc phương Tây không những được nhìn rõ hơn mà cũng khác
ta. Các nước Anh, Pháp, Đức, Nga sa hoàng chiếm thuộc địa, giành giật thị
trường châu Á là thực hiện cuộc cạnh tranh sinh tồn theo lẽ tự nhiên giữa các
chủng tộc. Các nước da vàng nếu không biết duy tân, tư sản hoá, học theo Âu Mỹ
thì không chỉ mất độc lập mà còn bị diệt
chủng. Điều đó cũng là theo luật tự nhiên. Cho nên duy tân là để làm cho nước
nhà phú cường, để tham gia vào cuộc cạnh tranh, không chỉ để bảo vệ độc lập
chính trị mà còn để bảo vệ chủng tộc. Nhà Nho Việt Nam sau khi mất nước đã thấm thía
hậu quả của thực trạng nước nhà nghèo và yếu, rất thiết tha mong ước phú cường.
Nhưng họ sống trong cảnh bưng bít, cấm đoán nên chỉ hiểu thực dân Pháp xâm lược
võ trang và bóc lột sưu thuế, chưa hiểu nô dịch bằng kinh tế. Họ cũng cảm giác
được nguy cơ của chủng tộc nhưng cũng
chỉ hình dung điều đó xảy ra do nguyên nhân chém giết và bóc lột. Với cách phân
biệt ta bạn và thù, họ căm thù thực dân Pháp nhưng lại thấy Anh, Đức, Nga là xa
vời, ít nhiều thấy các nước đó là thù địch của Pháp. Tuy công cuộc khai thác
thuộc địa cũng đã cho họ hình dung ít nhiều cụ thể hơn cuộc sống, kinh tế, văn
hoá châu Âu, nhưng Âu hoá cũng là học theo kẻ thù. Có rất nhiều cái vướng mắc,
hạn chế nhận thức của họ, nhưng trong lúc ở nước ta kinh tế tư bản chủ nghĩa
chưa phát triển, các tầng lớp thị dân còn phôi thai, cả lớp trí thức am hiểu
ngôn ngữ, học thuật phương Tây chưa hình thành thì chỉ có các nhà Nho là có khả
năng tiếp xúc với tư trào mới. Không những trong xã hội, chỉ nhà Nho mới được
rèn luyện để quan tâm đến các việc chung, việc dân, việc nước, mà trong thực tế
thì cũng chỉ có họ đọc được tân thư, tân văn, viết bằng chữ Hán. Trên mảnh đất
thuận lợi là nhiệt tình yêu nước của các nhà Nho, văn chương cổ động của Lương Khải Siêu giống như ngòi thuốc súng dẫn
lửa vào đám cỏ khô, đưa tư tưởng duy tân đến với những người đầy nhiệt tình và
mê văn chương.
I.- KHẮC NGHIỆT ĐÔNG TÂY. TIẾN HOÁ VÀ VĂN MINH.
Tuy đã
có mấy thế kỷ tiếp xúc với phương Tây, nhưng các nhà Nho nước ta chưa ai chịu
khó tìm hiểu về nền văn minh phương xa ấy. Trong tư tưởng, họ vẫn dùng quan
điểm phân biệt Hoa Di, coi các nước phương Tây là mọi rợ, chưa được thánh hiền
giáo hoá. Từ thế kỷ XVII, XVIII ở Đàng Trong và Đàng Ngoài, chúa Nguyễn và chúa
Trịnh đều nhờ thương nhân phương Tây mua tàu, mua súng, nhưng với cách nhìn
khinh miệt những người buôn bán cầu lợi, coi thường kỹ xảo và nhất là kỳ thị
tông giáo, phương Tây không vì thế mà được coi trọng hơn. Cho đến thé kỷ XIX,
khi đã thua trận, các nhà Nho cũng chỉ công nhận bọn “quỷ trắng” có kỹ xảo hơn người
mà thôi.
Khi được
các sách báo Trung Quốc giới thiệu, nhất là khi thấy thành quả duy tân của Nhật
Bản, các nhà Nho mới tìm hiểu Âu Mỹ. Các cụ bắt đầu đọc lịch sử, địa lý, sách
chính trị và khoa học của phương Tây và mới vỡ lẽ ra là các nước đó có một nền
văn minh và hơn thế, nền văn minh của họ còn cao hơn văn minh phương Đông. Họ
tiến hành việc so sánh hai bên và nhận ra nhiều mặt phương Đông là lạc hậu mà
phương Tây là tiên tiến.
Thực
trạng làm họ chú ý, đưa ra so sánh không phải là sự kỹ xảo của người phương Tây
mà sự phú cường của các quốc gia phương Tây. Phương Tây sản xuất ra nhiều mặt
hàng hoá, tàu bè giao thông buôn bán khắp nơi, có hải quân và lục quân mạnh đi
tranh chiếm thuộc địa làm các nước khác phải nể sợ... Thực trạng phú cường đó
làm nổi bật sự hèn kém của các nước
phương Đông, không chỉ Việt Nam
mà cả Trung Quốc là nước mà các nhà Nho xưa nay vẫn coi là văn minh nhất. Về tư
tưởng họ đã gạt bỏ được cái bệnh tự cao tự đại coi mình là nước Hoa Hạ để tự
nhìn ra mình thua kém nhiều bề. So với các nhà Nho cuối thế kỷ XIX, thì đây đã
là một bước tiến quan trọng. Nhưng cái còn quan trọng hơn là nhìn nhận văn minh
là một thực trạng phức tạp, biểu hiện ra nhiều mặt và do nhiều nhân tố tác động
lâu dài gây ra. Cái làm cho các nhà Nho
chú ý trong văn minh phương Tây Không phải là tàu đồng, súng lớn, hàng hoá tốt,
nghĩa là giàu tài nguyên và lắm kỹ xảo mà là cách tổ chức làm ăn “nông học có
hội” “thương chính có sở” “công nghiệp có xưởng” biết dùng cày máy để giúp việc
cày, điện khí để làm cho lúa tốt, có hạm đội để hộ thương. Phương Tây phú cường
có con người coi nước là nhà “quốc thể tức là gia thể; có tục thượng võ mà quốc
hồn tức là gia hồn, có lệ hỗ trái mà quốc mạch tức là gia mạch; có lối kiêm
biện mà quốc sự tức là gia sự, có phái tự do mà quốc quyền tức là gia quyền”.
Chắc chắn là chưa đâu ở phương Tây lúc đó đã thực hiện được quan hệ mật thiết
giữa dân và nước, giữa dân và nhà nước
như vậy và họ cũng không quan niệm con người quan hệ với nước và nhà nước thông
qua nhà như vậy, nhưng ý thức về tính tổ chức của xã hội, về vai trò của nhà
nước nhất là vai trò kinh tế của nhà nước đã làm nhà Nho thấy sâu sắc tệ nạn
của đất nước “ngoài văn chương không có gì là quý, ngoài áp chế không có gì là
tôn chỉ, ngoài phục tùng không có gì là nghĩ xa”, mới thấy ra cái vô trách
nhiệm của vua quan đối với dân và cái vô trách nhiệm của dân đối với nước. Văn
minh không chỉ ở kỹ xảo hay ở sự hùng cường mà nó còn là bước phát triển cao
thoả mãn nhu cầu của con người “thân thể được khoẻ mạnh, tinh thần được sảng khoái”;
“muốn gạo có gạo, muốn chè có chè, có nhà cửa để che gió che mưa, có khí cụ để
cung ứng các thứ nhật dụng, có cha mẹ để yêu ta, có các sư trưởng để dạy ta.
Giao thông thuỷ lục, thuyền xe tiện lợi, muốn Đông thì Đông, muốn Tây thì Tây”.
Quả có đơn giản nhưng đó cũng là cách hình dung tự do và hạnh phúc của con
người. Hướng nhân bản, quy mô quốc gia và yêu cầu hạnh phúc, hạnh phúc vật chất
và tự do là những cái mới mà các nhà Nho tìm thấy trong văn minh phương Tây.
Chính điều đó mới làm các cụ chê trách ước nguyện được sống thời đại Hy Hoàng.
Một đổi
thay lớn về tư tưởng là cố gắng tìm nguyên nhân. Từ đó làm thay đổi cả quan
niệm lịch sử . “Văn minh là gồm các sự kiện thiết yếu như văn tự, pháp luật,
giáo dục, luân lý, trồng trọt, chế tạo... gộp chung lại mà thành”; nói cách
khác là do nhiều sáng tạo văn hoá, tiến bộ dần không phải là mấy ngàn năm về
trước đã làm như thế. Thế giới không phải tuần hoàn, thịnh suy trị loạn đắp đổi
mà phát triển, tiến hoá, tiến hoá từ dã man đến văn minh. Châu Âu đã đạt đến
trình độ văn minh còn các nước châu Á tuy không còn dã man nhưng cũng chỉ là
bán khai, chưa thể coi là văn minh được. Châu Á vốn là “ngọn nguồn văn minh” và
nước Đại Nam
vốn là nước lớn “trải qua các triều đại vua thánh tôi hiền cùng nhau làm cho
thịnh vượng thêm, rực rỡ lên, to tát ra” “các nước trong ngoài đều khen là nước
thanh danh văn vật”. Nhưng khai hoá thì rất sớm nhưng tiến hoá thì lại chậm.
Trái lại, các nước Âu Mỹ khai hoá rất muộn nhưng tiến hoá lại rất nhanh. Chỗ
đáng quan tâm không phải ở cái vinh khai hoá sớm mà ở cái nhục tiến hoá chậm.
Chỗ đáng chú ý, phải tìm ra nguyên nhân chính là tình trạng tiến hoá chậm.
Tiến hoá
chậm theo các nhà Nho duy tân lúc ấy là do “từ trong triều đình cho đến ngoài
dân đã không có biến cải”, do đặc tính “tĩnh” của văn minh phương Đông . Còn
các nước Âu châu tuy “học thuật, chính trị, giáo dục, phong tục không một thứ
nào là không đến sau” nhưng lại đi trước, lại có những bước tiến đột khởi vì
nền văn minh của họ là “động”. Văn minh do nhiều nhân tố tạo thành nhưng động
lực thúc đẩy văn minh là “tư tưởng” và “cạnh tranh”. “Càng tư tưởng thì càng
cạnh tranh, càng cạnh tranh thì càng tư tưởng”. Nói theo cách ngày nay thì tư
tưởng là suy nghĩ, tìm tòi, nghiên cứu mà cạnh tranh là ganh đua nhau ứng dụng
những kết quả của khoa học kỹ thuật. Nhờ sự thúc đẩy lẫn nhau giữa cạnh tranh
và tư tưởng nên các môn “thanh học, trọng học, điện học, khoáng học, thương
học, khí học, địa dư, thiên văn, toán pháp và cơ khí, không môn nào là không
phừng phực nảy ra”. Bước đi từ dã man đến văn minh tuỳ thuộc ở “dân trí từng
nước thông hay tắc, nhiều hay ít, chóng hay chậm”. Dân trí biểu hiện ở cạnh
tranh và tư tưởng, dẫn đến sự phát triển các khoa học, và nhờ vậy, nước đó đi
đến “chỗ cực điểm văn minh”. Con người có một thiên tính thúc đẩy sự tiến bộ đó
là tâm lý “không biết đủ”. Đã đẹp lại còn mong đẹp hơn. Đã khéo lại còn mong
khéo hơn. Đã yên vui lại còn mong yên vui hơn. Hôm qua cho là đúng, hôm nay lại
cho là sai. Biết sai mà sửa lại cho tốt. Không biết đủ hay không chịu thoả mãn,
dừng lại ở hiện trạng lại dựa vào một năng lực khác: “năng lực bắt chước” để
tiến bộ. “Tự cho là đã đẹp, đã khéo nhưng trong thời đại vạn quốc đã giao
thông, kiến thức càng mở rộng thì thấy có kẻ đẹp hơn, khéo hơn tất nhiên vẫn
bắt chước để toại cái tâm lý bất tri túc”. Không ngừng cầu tiến và cải tiến là
con đường dẫn tới văn minh. Luôn luôn cầu tiến và cải tiến sẽ làm cho văn minh
phát triển không ngừng, nói theo các cụ là “văn minh không có giới hạn”. Có thể
nói một nước “đã được khai hoá toàn bộ” mà không thể nói một nước nào là “cực
điểm văn minh”. Các nước Âu Mỹ “có chế tạo tinh vi, pháp luật hoàn bị, giáo dục
phổ cập, giao thông đầy đủ. Thế mà nhà tù chưa hết. Người ốm đau khổ sở, kẻ
hung hãn, dân không biết chữ đâu đã xoá hết”. Như thế thì cũng chưa phải là
hoàn toàn văn minh.
Với
những điều vừa trình bày, các nhà Nho duy tân không chỉ thay đổi cách nhìn nhận
đối với xã hội lý tưởng mà còn thay đổi cả cách nhìn lịch sử. Không có một xã
hội tận thiện tận mỹ như các nhà Nho xưa nói về thời Đường Ngu. Thời thái cổ
không thể tốt đẹp hơn hiện tại và tương lai. Lịch sử không vận động theo lối
tuần hoàn, thịnh suy, trị loạn đắp đổi để quay về với Đạo, quay về thời thịnh
trị Nghiêu Thuấn. Lịch sử không theo sự sắp sắp đặt của Thiên mệnh và cũng
không trông cậy ở các thánh vương biết bắt chước Trời. Văn minh là làm cho con
người hạnh phúc và tự do, đất nước phú cường, cho nên để xây dựng xã hội như
thế không thể trông chờ vào kết quả tu dưỡng đạo đức. Không phải với con người
tốn nhượng, bất tranh, không chạy theo lợi mà có văn minh. Trái lại, con người
có cạnh tranh cầu tiến, cải tiến xã hội thì mới có tiến hoá. Các nhà Nho duy
tân đã phê phán những quan điểm khá cơ bản của học thuyết Nho giáo về xã hội và lịch sử. Họ đã tiếp nhận tiến
hoá luận của Đác uyn là học thuyết vào thời đó đang có ảnh hưởng lớn. Với tri
thức và cách suy nghĩ nhà Nho, họ không chú ý phần liên quan đến khoa học tự
nhiên mà chỉ chú ý phần liên quan đến xã hội, phần mà học thuyết Đác uyn có sai
lầm, nhược điểm.
Vào đầu
thế kỷ XX, những kiến giải như vậy đã là lạc hậu và quá sơ lược, đơn giản.
Nhưng đối với tư tưởng nước ta và với phương Đông nói chung thì đó là một bước
ngoặt, một cuộc cách mạng thực sự. Phủ định những khuôn vàng thước ngọc của
thánh hiền, đối với nhà Nho là tự phê phán, tự lột xác. Nhận ra phương Tây cũng
có những thánh hiền, những đại trước tác không những là thay đổi một cách nhìn
thiển cận mà thực sự là giải phóng tư tưởng, mở rộng tầm mắt.
II.- DÂN
CHỦ VỀ CHÍNH TRỊ VÀ KHẢI MÔNG VỀ TƯ TƯỞNG.
Nhà Nho Việt Nam nhìn ra phương Tây khi nước
đã mất, qua hơn nửa thế kỷ đấu tranh anh dũng mà kháng chiến Cần Vương vẫn thất
bại, khổ nhục của tình cảnh mất nước và làm dân thuộc địa càng ngày càng đè
nặng. Họ vốn là những người quan tâm nhiều về đạo đức và chính trị, nên trong
cái thế giới mới lạ là phương Tây, họ cũng chú ý tới những mặt đó, nhìn theo
con mắt đó. Cái làm các nhà Nho duy tân quam tâm ở đây là chế độ dân chủ. “Trên
có nghị viện để duy trì quốc trị, dưới có báo quán để đạo đạt hạ tình. Đại
trước tác thì có Dân ước luận của Lư Thoa, Tiến hoá luận
của Tư Tân Tắc, Dân quyền thiên của Mạnh Đức Tư Cưu. Suy rộng ra
nào diễn thuyết, nào thi ca đều cốt để phát huy cái chủ nghĩa yêu nước, yêu nòi
giống”.
Họ cũng
chưa phân biệt chỗ lợi hại của chế độ cộng hoà và chế độ lập hiến. Điều quan
trọng là nhân dân được bàn bạc công việc chung của đất nước, công việc được “kẻ
bàn, người nói, sớm sửa đi, chiều sửa lại” giữa những người đại biểu của dân để
“làm cho đúng chân lý, hợp với tình hình”. Ý dân được soạn thảo thành pháp luật
và có người dân coi việc nước là việc nhà (quốc sự tức là gia sự), am hiểu
chính trị, ra sức chấp hành. Pháp luật là bắt buộc đối với mọi người không để “người yếu thì trói buộc trong pháp
luật còn kẻ mạnh thì lại được thảnh thơi ở ngoài pháp luật”. Thiết chế dân chủ,
tinh thần đại hợp quần thành nước đó làm nên sức mạnh của các nước phương Tây
và đó cũng là chỗ đối lập giữa chính trị nước ta với các nước đó.
Chính
trị nước ta là chính trị chuyên chế “vua tướng nắm chính sự ở trên, bách quan
làm ở dưới. Việc của quốc gia trăm họ hoàn toàn không được nghe đến. Một chính
lệnh ban ra, trăm họ chỉ một lòng vâng chịu, như học trò nghe lời giáo huấn của
ông thầy, dạ dạ vâng vâng không biết cái chủ ý sai khiến đối với mình là nói
cái gì. Như đến kỳ nộp thuế thì chỉ an phận giữ pháp luật, còn tô thuế là cái
gì, pháp luật là cái gì, đều không nghĩ đến. Trên danh nghĩa thì làm quốc dân.
Nhưng thực chất thì làm bù nhìn của chính phủ”. Không phải không có luật. Nhưng
luật không được soạn thảo theo ý dân và “dân gian không được đọc luật”. “Hành
chính thì cấm thay đổi, sửa sang; dùng người thì quý im lìm lặng lẽ; chiếu theo
lệ cũ, nhưng lệ không nhất định”. Người dân không được pháp luật bảo vệ, nơm
nớp sợ hãi, “làm văn sách thì chỉ sợ phạm huý, dâng thư cho người trên thì chỉ
e phạm tội vượt phận, nói leo”, việc nước “cấm dân bàn bạc”. Người dân thường
đã không được tham dự vào việc nước mà cả hạng quan lại thì chỉ “nghe có vấn đê
thăng quan lên mấy bực, cất nhắc lên mấy người, chứ không hề biết đến vấn đề
nào khác”. Những kẻ khác “đỗ đạt lên một tí, được cái tiếng quèn, đã vội khủng
khỉnh ta đây là kẻ cả, tự xưng là bậc giữ gìn thế đạo, ngày ngày khoe câu văn
hay, khư khư ngồi giữ những thuyết hủ lậu, khinh bỉ hết thảy mọi học mới văn
minh”. Chế độ chuyên chế trông cậy vào vua hiền tướng giỏi mà vua hiền tướng
giỏi thì ít có nên “ngày bình trị thì ít mà ngày loạn lạc thì nhiều”. Chính chế
độ đó đã làm nước yếu dân hèn , gây ra hoạ mất nước. Cho nên trông chờ vào vua
hiền tướng giỏi sao bằng trông chờ vào dân. “Dân đã mạnh thì nước yếu cũng có
thể chuyển thành mạnh, và lại mạnh lâu dài”.
Vì yêu
nước, các nhà Nho đã làm một việc trái với bản chất của mình: hoan nghênh chế
độ dân chủ tư sản.
Nhưng
nền tảng của chế độ dân chủ tư sản là quyền tư hữu, là cá nhân trong đời sống
xã hội, là quan niệm về tự do cá nhân, về quyền bình đẳng xã hội, về sự công
bằng giữa nghĩa vụ và quyền lợi theo
thuyết khế ước. Nói tóm lại nổi lên hàng đầu là vấn đề vị trí của cá nhân và
đời sống xã hội. Các nhà Nho duy tân của ta tập trung sự quan tâm vào độc lập
dân tộc và quan hệ giữa nhà nước với dân nên không chú ý đến nhiều vấn đề của
tình hình thực tế khi thực hiện chế độ dân chủ tư sản.
Không
sống trong thực tế đấu tranh của giai cấp tư sản chống phong kiến để hiểu thực
chất các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, giáo dục mà họ nêu ra cũng
chưa đủ tôi luyện để nhìn nhận chế độ chuyên chế về mặt kinh tế xã hội, thấy rõ
nội dung trật tự trên dưới theo thân, tước và xỉ, vai trò của gia đình, của họ,
của làng xã, để nhìn đầy đủ cung cách áp chế bóc lột, hiểu hết những cái mà con
người phải ràng buộc để khó có dân quyền và nhân quyền. Các nhà Nho quen với
cuộc sống gia đình, họ, làng xã nên không thấy những mâu thuẫn giữa cơ chế -
chính trị - xã hội phương Đông đó với cá nhân tự do và bình đẳng và với quốc
gia thống nhất bằng luật pháp. Họ quan tâm không đầy đủ hay nói đúng hơn là
nhận thức không dễ dàng vấn đề kinh tế,
xã hội, vấn đề nhân quyền, dân sinh của tư tưởng dân chủ tư sản.
Với tư
tưởng dân chủ tiếp nhận theo cách như vậy trong nhận thức của các nhà Nho duy
tân hình thành các quan niệm mới về người dân và về các quan hệ trách nhiệm của
người dân với nước và nhà nước.
Ở nước
ta, quốc gia dân tộc hình thành sớm. Tư tưởng về nước cũng do đó mà hình thành
sớm. Nhưng trước đây, do tư tưởng “mệnh Trời về ngôi vua”, vua nhận mệnh ở
Trời, cai quản nước và trị dân, nước là sở hữu của vua mà dân là thần thuộc của
vua. Chủ quyền lãnh thổ thuộc về vua, thân phận người dân phụ thuộc vào vua.
Yêu nước hay thương dân cũng phải thông qua phục vụ vua, cũng đồng nghĩa với
trung nghĩa. Ngôi vua là tượng trưng cho nước, là dấu hiệu tập hợp nhân dân.
Khi chế độ chuyên chế đã thành phi lý, ngôi vua đã thành công cụ của giặc, quan
hệ giữa dân và nước đã phải giải thích theo cách khác, biện chính chủ quyền
thuộc về dân và trách nhiệm chủ động cứu nước của người dân. Không đặt cơ sở
trên quyền tư hữu, kinh tế hàng hoá và đời sống đô thị để nói về con người tự
do trong xã hội bình đẳng và sự tồn tại của xã hội và nhà nước trên cơ sở khế
ước, các nhà Nho giải thích quan hệ giữa người dân với nước, giữa mọi người
trong xã hội bằng tình máu mủ chủng tộc. Nước là lãnh thổ với lịch sử, phong
tục, văn hiến riêng, nay theo cách nhìn của lối làm ăn mới mà nhấn mạnh chứa
đựng nhiều tài nguyên, là địa bàn sinh tụ của người dân. Nước không phải do
Trời bày đặt mà do tổ tiên cha ông nhiều đời khai thác xây dựng nên. Bị một tư
tưởng rất phổ biến thời ấy ám ảnh là giống da vàng có nguy cơ diệt chủng vì
người da trắng, các cụ nhắc nhớ dòng giống Tiên Rồng, con cháu Lạc Long và Âu
Cơ đẻ trăm trứng, nở trăm con, không những cao quý vì linh thiêng, không những
anh hùng và thông minh mà còn sinh sản nhiều không thể tuyệt diệt. Đất nước gắn
với dòng giống là gia tài, sản nghiệp, là tự điền hương hoả do cha ông để lại.
Không nhấn mạnh đời sống xã hội vốn là đời sống chứa đựng những mâu thuẫn về
quyền lợi kinh tế, về thân phận giai cấp, đẳng cấp; nên người dân, vì là con
cháu cùng một giống nòi, có tình máu mủ ruột rà với nhau phải liên kết với nhau
theo nghĩa đồng bào. Với cách hình dung thế giới theo quan hệ gia đình, họ
hàng, làng xóm, các cụ viết: “nước ta là cha mẹ chung của hơn hai mươi triệu
người chúng ta. Không yêu cha mẹ mình và không yêu nước mình đều là trái với
thiên tính của loài người”. Với lãnh thổ, giữa các thế hệ dân nước, coi nhau như
chú bác cô dì với con cháu, gắn bó hiện tại với quá khứ là một cái “hồn nước”
như linh hồn tổ tiên trong từ đường. Mà nước ta trong quan hệ với các nước khác
cũng sống theo tình họ hàng làng xóm:
Hồn xưa dòng dõi Lạc Long,
Con nhà Nam Việt, người trong giống vàng.
Chi Na chung một họ hàng,
Xiêm La, Nhật Bản cùng làng Á Đông.
Con người là dân của nước, là con cháu một
chủng tộc và sống với nhau theo nghĩa đồng bào. Cộng đồng xã hội không phải
thành lập theo sự khế ước cho nên cái để duy trì nó cũng không phải là nguyên
tắc tự nguyện, công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ. Động lực thúc đẩy người dân
làm chủ hay chủ động làm tròn nghĩa vụ là đền ơn đáp nghĩa tổ tiên, là tình
nghĩa đồng bào ruột thịt. Làm chủ thể cho cuộc vận động dân chủ, theo các nhà
Nho duy tân sẽ là con người “cá nhân - công dân” như trong cách mạng dân chủ tư
sản ở phương Tây.
Với cách
tiếp thu tư tưởng dân chủ phương Tây theo cách mà nhà Nho xã hội truyền thống
phương Đông không hình dung trải qua một cuộc cách mạng. Con người vẫn là thành
viên của cộng đồng chứ không phải là cá nhân, vẫn định tính bằng có đức, nhưng
bên cạnh tư đức có thêm công đức. Con người làm đơn vị cho xã hội và nhà nước
mang theo đủ các quan hệ cha con, anh em, vợ chồng của hộ tiểu nông, sống với
họ hàng làng xóm mà họ có trách nhiệm sống theo tình nghĩa. Tam cương hay ngũ
luân của Nho giáo chỉ cần xoá đi một quan hệ là vua - tôi. Thay vào đó là nghĩa
đối với nước, nghĩa với đồng bào, cái quy định phần công đức, phần trách nhiệm
đối với xã hội. Người ta vẫn nói đến các vấn đề nhân quyền và dân quyền nhưng
không phải với những con người là cá nhân với những quyền tự do.
Thay đổi nền giáo dục, khai dân trí, chấn dân khí, đào
tạo người “quốc dân”
Tuy là
say sưa với chế độ dân chủ phương Tây nhưng việc trước mắt là rửa cái nhục nô
lệ, giải phóng đất nước, làm cho đất nước phú cường. Sự nghiệp đó đòi hỏi những
con người khác trước, một cách hợp quần khác trước. Khác với các nhà Nho lớp
trước, trong cái văn minh rực rỡ của phương Tây, các cụ bội phục không chỉ kỹ
xảo, chế độ chính trị dân chủ mà cả những con người, tức là sự hiểu biết, tinh
thần, tư tưởng. Với các nhà Nho, nhìn ra điều đó là việc cực khó khăn. Chỗ họ tự hào văn minh
phương Đông cao hơn văn minh phương Tây chính là ở chỗ đó.
Không
phải người da vàng sinh ra đã kém người da trắng, các cụ khẳng định như vậy.
Nhưng con người ở phương Tây thì có những nét khác hẳn người nước ta. Theo các
cụ thì người phương Tây coi nước là nhà, thấy mình gắn bó với nước, có trách
nhiệm với công việc chung. Trái lại, “dân ta vốn không có tư tưởng quốc gia”;
“nước ta từ xưa tới nay, chẳng qua là mới biết hội họp thành bầy nhỏ (tiểu
quần) để sùng tu chùa viện, cầu cúng linh tinh, chứ chưa hồi hộp được bầy lớn
(đại quần) là một “nước” để đoàn tụ, liên kết thành một thể, đặng giúp ta chế
ngự sự khinh rẻ”. Phan Châu Trinh khi viết tựa cho tập Hợp đoàn doanh sinh thuyết của Nguyễn Thượng Hiền nhận xét:
“Thử hỏi
có giống người nào, quây quần hơn hai nghìn vạn, cùng sinh một đất, cùng bơi
một dòng, trong ngoài cùng một tục truyền, nam bắc cùng một thứ tiếng; khoe
khoang nhau bằng lễ nghi văn hiến, xưng hô nhau bằng chú bác anh em; thế mà đãi
giống khác, tiếp người ngoài thì vâng theo chiều chuộng, chỉ sợ không chu đáo.
Đến như đối với người cùng giống, cùng nòi lại nỡ coi nhau như quân thù, lạt
như nước lã, nhức đau không xót, mưu mẹo lừa nhau. Không có cái đoàn thể bền
chặt nào là đông quá ba người, không có một “hội” “xã” lợi ích nào là vốn hơn
trăm bạc. Chùa Phật, đền thần vàng son rực rỡ, tiệc ca chiếu rượu mâm chén ngổn
ngang; ném món tiền ngàn lạng để cầu một chức quan, phá nghiệp nhà bậc trung để
mua một tên đỗ. Thế mà có nói đến chuyện lập một hội buôn, mở trường học, dựng
xưởng thợ, khẩn đồn điền thì thu tay đứng nhìn, một cái lông không muốn mất;
lợi bằng cái tóc thì suy bì, vạ bằng trái núi thì không nghĩ, như nước ta
không?”
Tác giả Quốc
dân độc bản trách dân ta không có tư tưởng quốc gia ở chỗ “chủ quyền
của nước mình đã mất sạch mà quốc dân vẫn cứ ngủ say” tức là cam chịu nô lệ.
Nhưng chắc chắn họ không nghĩ dân ta thiếu lòng yêu nước, căm thù giặc. Điều họ
muốn nói, so sánh với người phương Tây để nói là thiếu tinh thần chung, hợp
quần để thành khối quốc dân một nước, tức là ý thức hợp đoàn, tổ chức trong kinh tế và xã hội để thành sức mạnh,
chống lại sự cạnh tranh của nước khác.
Người
phương Tây cũng khác người nước ta ở tinh thần trọng thực nghiệm và chí tiến
thủ. Ai cũng lo học cho có nghề và sống bằng nghề nghiệp “Cơ khí được chế tạo,
sức hơi nước không đủ lại dùng điện lực. Điện lực không đủ, lại dụng tâm chiếm
lĩnh sức hút của quả đất”, trong nước có nhiều người quan tâm sáng chế , phát
minh “trổ khéo, phô tài, ngày một mới, tháng một lạ như Oát (Watt), như Ê - đi
- xơn (Edison)”. Còn người nước ta thì chỉ lo
kiếm danh, lo học làm văn chương để thi đỗ làm quan, ưa nhàn “ham mê đàn sáo,
đầu hồ, bài lá, cờ tướng, đố thơ, đánh chữ, số tướng, địa lý, phù thuỷ, ngày
ngày dốc cả trí khôn vào những thứ vô dụng, sống say, chết mộng”.
Người
phương Tây lại chuộng sự mới lạ, thích du lịch, coi thường gian nan, hiểm trở.
Nhiều người bỏ cả đời đi thám hiểm những vùng đất xa lạ, đi vòng quanh cả địa
cầu. Còn người nước ta thì ru rú xó nhà, mong chết ở quê hương, không dám rời
làng “xa nhà mười dặm đã bùi ngùi những mưa gió hoa vàng. Ở lữ thứ vài năm đã
than thở quan hà đầu bạc”.
Người
phương Tây ham tiến thủ, không chịu bằng lòng với hiện trạng, thích phát minh,
ưa mạo hiểm nên ra sức ganh đua cạnh tranh với người khác, do đó họ tiến hoá
nhanh. Còn người nước ta “thường lấy sự thuần phác quê mùa làm đẹp, cho sự điềm
đạm cho sự khiêm nhường làm cao thượng. Không biết là đã quen thói chơi bời,
lười biếng thì không tự giác ngộ. Tâm lý tri thức ấy đủ để cản trở sự tiến
thủ”. Các nhà Nho duy tân đã chỉ ra đúng cái căn bệnh lâu ngày thành cố tật của
con người trong xã hội sản xuất nhỏ trì trệ, của đời sống gia đình, họ hàng,
làng xã đóng kín. Họ cũng không ngần ngại coi là sai lầm, là phản tiến hoá
nhiều tiêu chuẩn đạo đức, thẩm mỹ đã được thánh hiền và cha ông ca ngợi bao
đời. Đổi mới, tiến thủ thì dầu có hiểu khác, nhà Nho cũng đã gặp trong kinh truyện,
nhưng lên án thái độ khiêm cẩn, lễ nhượng để đề cao cạnh tranh thì đúng là “ly
kinh”, “bội đạo”. Thực ra, ngay cả ở đây, nhà Nho vẫn chưa phải đã thoát ly
hoàn toàn lời dạy của thánh hiền. Họ nói: “Người ta sinh ra, trong gia đình thì
lòng thân ái giữa cha con là từ tính trời mà ra, như thế tất là không có cái lý
cạnh tranh. Chứ một khi đã vào trong xã hội, thì không có cái chuyện nhường
nhịn. Không thế thì không bảo vệ được cái sản nghiệp của nhà mình”. “Phi cạnh
tranh thì không có cách gì tự tồn”. Họ phê phán “dân ta không có đầu óc cạnh
tranh”, quen khiêm nhường nên trước kẻ thù hung bạo “lúc thì ẩn nhẫn, lúc thì
thoái nhường”, rồi từ thù ghét người nước ngoài chuyển thành nịnh hót người
nước ngoài.
Sự khác
nhau mà các nhà Nho duy tân chỉ ra không chỉ là sự khác nhau giữa phương Đông
và phương Tây mà còn là sự khác nhau giữa xã hội phong kiến và xã hội tư sản.
Bằng việc phê phán văn minh phương Đông, các nhà Nho đã đi vào con đường chống
phong kiến, chống Nho giáo và ủng hộ tư sản hoá.
Thực trạng nước ta lúc đó, theo con mắt của
các nhà Nho duy tân là mọi việc đều hỏng mà nguyên nhân là tư tưởng sai lầm,
học thuật sai lầm. Văn minh tân học sách gọi các sai lầm tư tưởng là các
nguyên nhân khởi điểm:
“Một là khởi ở cái điểm nội hạ ngoại di, không thèm hỏi đến chính
thuật và kỹ năng của các nước khác. Hai là khởi ở cái điểm quý vương tiện bá,
không thèm giảng đến cái học phú cường, cơ xảo của nước ngoài. Ba là khởi ở cái
điểm thị cổ phi kim, cho xưa là
phải nay là quấy, không chịu xem xét kiến thức và những suy nghĩ, bàn luận của
người sau. Bốn là khởi ở cái điểm trọng quan khinh dân nên không thèm kể
đến tình hình hay dở ở chốn hương thôn”.
Các
nguyên nhân khởi điểm kéo theo tình trạng dân trí kém cỏi, dân trí hèn yếu, tập
tục hủ bại, đều là do học thuật sai đường, đều do khuyết điểm trong nền giáo
dục gây ra. Các nhà Nho duy tân đã phê phán nhiều điểm khá trọng yếu trong học
thuyết Nho giáo nhưng chưa có lời nào bất kính hay tỏ ra nghi ngờ thánh hiền.
Họ tin rằng sai lầm là ở chế độ khoa cử, ở cách học cách thi chứ không phải ở
nội dung Kinh Truyện.
Nước ta
là nước có tiếng là hiếu học, nơi thôn cùng xóm vắng cũng có người dạy học,
người đọc sách; những kỳ hạch, kỳ thi có tới hàng vạn người tham gia. Thế mà
“nước ta có khoa cử mà không có trường
học”. Khoa cử lôi kéo nhiều người đi học, học từ nhỏ cho đến hết đời, nếu như
thi chưa đỗ. Thế nhưng nó không làm cho con người hiểu biết hay đúng hơn, nó
chỉ làm cho con người biết được những thứ vô ích. Vì học là để thi, mong đỗ
được để làm quan, có công danh bổng lộc nên vừa biết một ít chữ Hán đã học làm
văn “bám riết lấy sách vở cũ kỹ, nằm gục trước án sách mà đọc”. Nào Kinh, nào
Truyện, nào Sử Tàu - những thứ “sách
Tàu, chép truyện Tàu, không quan hệ gì đến nước ta” cùng với đủ thứ Tiểu thuyết, Tồn nghi, Đính nghi, Sảng
tâm, Mông dẫn, Kinh án cho đến Thi thiếp, Sách lược... “đầy rẫy
những lời bàn luận ... bác bẻ lẫn nhau,
bịa ra câu hỏi rồi lại bịa đặt lời đáp chỉ tổ làm rối tai mắt người ta” về
những chuyện không đâu. Còn sách vở nước ta viết về “sơn xuyên phong tục, văn
vật, điển chương” tức là địa lý, lịch sử, văn hoá nước ta thì không cần để thi
nên không ai học. Mọi người “lo ra công ở văn tự” nhớ cho nhiều, bắt chước văn
cổ “ngoài văn chương không có gì là cao quý”. Cho nên từ đứa trẻ “hơi biết một
chút văn bút đã tự phụ ra vẻ là công khanh đại phu, khinh rẻ không muốn đứng
cùng hàng ngũ với nông công thương. Mà cả những người thực sự là công nông
thương cũng sai con em bỏ nghề gốc của mình chạy theo cái học khoa cử, lấy việc
đỗ đạt làm quan là điều vinh hạnh”.
Thi là
để lấy người làm việc nước nhưng tri thức đã vô bổ như vậy mà phép thi lại lấy
việc làm văn chương nào thơ nào phú, nào kinh nghĩa, chiếu, biểu, luận, văn
sách không những không phù hợp với thực dụng mà cũng không nói được nội dung hiểu
biết để chọn người. Thể lệ thi cử cực kỳ gò bó “làm cho người ta bó buộc cái
tính tự do, suy sút tinh thần hăng hái, để chăm vào cái học vấn rất vô dụng”.
Khoa cử chính là cách học, cách thi làm nước yếu dân hèn.
Sản vật
của cái học khoa cử là người hủ nho - nhân vật trí thức của xã hội - mà
văn chương của các nhà Nho duy tân không ngớt công kích, chế giễu. Người hủ nho
biết đủ Dịch tượng, Thư trù cổ lỗ nhưng lại không biết “năm châu là
những châu gì, thế kỷ này là thế kỷ thứ mấy”. Họ rung đùi ngâm thơ đọc phú biết
đủ lối “phá, thừa, khởi, thúc, thanh
luật biền ngẫu” nhưng lại không biết địa lý, lịch sử, cách trí, toán pháp,
không có nghề ngỗng gì để làm ăn. Đó là người tự coi mình là kẻ hướng đạo cho
nhân tâm thế đạo, làm ra vẻ ưu thời mẫn thế nhưng lại là người bất tài vô dụng.
Đối với sự tiến hoá của đất nước, không những họ vô tích sự vì bất tài, bất lực
mà họ lại còn là vật cản trở vì bảo thủ chống lại mọi học mới văn minh.
Trước
thực tế của đất nước, các nhà duy tân cho rằng mọi việc đã hỏng mà hỏng nhất là
dân trí và dân khí, sự hiểu biết và tinh thần của nhân dân. Cho nên cần phải
làm một cuộc biến đổi tập tục cũ, cải tạo văn hoá xã hội mà trước hết và quan
trọng nhất là cải tạo giáo dục, nhắm mục đích đào tạo “người quốc dân” mới. Kế
hoạch mà Văn minh tân học sách đề ra có sáu “đường”, trong đó có ba đã
liên quan trực tiếp đến giáo dục:
1/ Dùng
văn tự nước nhà, tức là dùng chữ quốc ngữ.
2/ Hiệu
đính sách vở bao gồm chọn sách, lập chương trình học tập và dịch sách Tàu, sách
Tây ra quốc ngữ.
3/ Sửa đổi
phép thi, tức là bỏ thơ phú, kinh nghĩa chỉ trau dồi văn chương vô ích. Giữ lại
sách, luận nhưng cho học trò bàn bạc, tha hồ đối đáp tự do.
4/ Cổ võ
nhân tài.
5/ Chấn
hưng công nghệ.
6/ Mở
toà báo.
Đề nghị
của tác giả Văn minh tân học sách về hiệu đính sách vở và sửa đổi
phép thi chỉ là biện pháp tạm thời khi nhà nước chưa bãi bỏ khoa cử. Quốc
dân độc bản sau đó đề xướng một công cuộc cải cách giáo dục triệt để
hơn. Tác giả Quốc dân độc bản cổ vũ cho một nên giáo dục giống như ở
phương Tây tức là gồm giáo dục phổ thông và giáo dục chuyên môn theo các cấp
tiểu học, trung học và dại học. Nhắm “có ích cho mình và cho xã hội” theo tinh
thần “thực học, thực dụng, thực nghiệp” nhắm vào ba điều vệ sinh, trị sinh và
học làm người và làm quốc dân. Chương trình học tập là các môn khoa học từ thấp
đến cao, dạy dỗ có mức cao mức nông nhưng nhấn mạnh chủ trương phổ cập giáo dục
“làm cho cả nước không một người nào là không được giáo dục”.
Mục đích
giáo dục là đào tạo “người quốc dân” để biến cải tập tục , làm cho nước nhà đi
vào con đường tiến hoá, trở nên phú cường. Người quốc dân chính là mẫu hình con
người mới theo quan niệm duy tân lúc đó.
Sách Quốc
dân độc bản phân biệt “nhân dân” với “quốc dân”, “quốc dân” với “công dân”.
Nhân dân là con người đối với nhà nước “chịu sự quản trị của nhà nước”, chưa có
quan hệ với nước. “Còn quốc dân là gọi loại người đặc biệt của nước”. Người
quốc dân gắn bó mật thiết với nước, “coi vui buồn vinh nhục của Nhà nước là vui
buồn, vinh nhục của mình”, sẵn sàng bỏ tiền của, tính mạng bảo vệ nước, giúp
Nhà nước chấn hưng xã hội, bỏ lòng tự tư tự lợi tuân theo pháp luật. Quốc dân
hiểu như vậy thì không khác người “công dân” có quyền nghị bàn chính trị như ở
phương Tây. Ở ta dân chưa có quyền dân chủ, chủ quyền đất nước cũng chưa khôi
phục được. Tất nhiên không thể nói chuyện đào tạo người công dân. Nhưng nếu con
người “giữ được pháp luật của nước, yêu mến đồng loại của nước mình, xem việc
nước như việc nhà” thì có thể gọi là người quốc dân. Tất nhiên không thể coi là
quốc dân những người phản bội Tổ quốc, làm nô lệ cho kẻ thù, những kẻ thiếu tư
tưởng quốc gia, không quan tâm, không có trách nhiệm với nước. Quốc dân
độc bản chính sách giáo khoa đào tạo người “quốc dân” như vậy. Ngoài
nội dung yêu nước, yêu đồng bào, sách đó cũng đề cập đến một nội dung khác đó
là ý thức không chịu hèn kém, tự cường, tiến thủ khắc phục ba tệ bệnh của người
dân xưa. Trong bài Dân mạnh thì nước mạnh (quốc dân độc bản) tác
giả viết:
“Ưu điểm trong tính chất người dân nước ta là an phận, là già dặn kinh
nghiệm, là nhẫn nại. Nếu dùng nó không thích đáng thì có ba điều tệ: Biết bảo
thủ mà không biết tiến thủ là một; Biết theo người mà không biết độc lập là
hai; Biết yêu mình, yêu nhà mà không biết yêu bầy, yêu nước là ba. Ba điều đó,
không trừ bỏ được thì dẫu có vua thánh tướng hiền cũng chỉ bình trị nhất thời
mà thôi”.
Người
quốc dân không chỉ là người yêu nước, yêu đồng bào mà còn là người dân chủ. Nó
được coi là thuộc loại đặc biệt trong nhân dân tức là người tiên giác có trách
nhiệm đi đầu trong cuộc vận động giành độc lập và dân chủ trong hoàn cảnh thực
tế lúc đó.
Khi châu
Á không thể dè bỉu coi dân châu Âu là di địch mà phải xem xét nó cẩn thận thì
chủ nghĩa tư bản đã thành hệ thống thế giới, phương Đông phong kiến, theo quy
luật tất yếu phải tự biến đổi để thích ứng với thời đại, phải đi vào quỹ đạo
chung, vừa chống lại, vừa đi theo châu Âu. Nó phải thức tỉnh, tự ý thức, kết
thúc chế độ phong kiến, đi theo con đường tư sản hoá . Nhưng tầng lớp trí thức
ở đây lại là nhà Nho chứ không phải trí thức tư sản. Với lòng yêu nước nhiệt
thành, quyết tâm duy tân, những nhà Nho tiên tiến lúc ấy đã dũng cảm phê phán nhiều giáo điều Nho
giáo, coi đó là cản trở cho tiến hoá, hô hào tự do suy nghĩ, tự do bàn bạc để
phát triển khoa học, mở rộng dân chủ. Họ đã đụng chạm đến ý thức hệ nhưng quan
điểm của họ chỉ mới là thực tế thực dụng, thêm bớt, lấy bỏ nhằm làm cho nước
nhà phú cường, văn minh. Cho nên họ mới phê phán tri thức mà chưa phê phán nhận
thức. Đối với họ, thánh hiền Nho giáo còn có “những lời hay nết tốt”, những cái
“có quan hệ với đạo thế nhân tâm”. Mà “lẽ biến hoá của lịch sử”, tuy biến hoá
đã khác tuần hoàn, nhưng cũng chưa hoàn toàn vượt ra ngoài lời nói của ông
thánh “cùng thì biến, biến thì thông, thông thì lâu dài”. “Hoá mà sửa sang gọi
là biến, suy ra mà làm gọi là thông”. Ở một phạm vi khá rộng, và ở chỗ khá cơ
bản - vũ trụ quan và nhận thức luận -
các nhà Nho duy tân chưa thoát khỏi ảnh hưởng của Nho giáo. Đông Kinh nghĩa
thục biểu hiện sự thức tỉnh, sự ự ý thức của nước ta lúc đó. Với cách suy nghĩ
nhà Nho, họ dễ dàng nhìn văn minh châu Âu từ góc độ nhân tâm, dân trí, chế độ
chính trị hơn là những mặt khác. Kết luận họ rút được là “Vô luận nước nào trị
hay loạn đều phải xem ở tâm tư đạo đức của quốc dân đối với chính phủ nước đó
ra sao”. “Muốn biến đổi tính tình phong tục của dân ta, tất phải bắt đầu bằng
sự tự giáo dục”.
Nước yếu
dân hèn là do tư tưởng học thuật sai đường mà muốn cải biến tình hình thì phải
bắt đầu từ giáo dục. Đó là một tư trào khải mông. Cùng với đòi hỏi thay đổi nền
giáo dục, các nhà Nho duy tân đưa ra yêu cầu giải phóng trí tuệ, đòi tự do tư
tưởng, phát triển khoa học tự nhiên, chủ trương một nền văn hoá gần gũi với
cuộc sống thực tế của đất nước. Cho nên dầu tránh việc thay cũ đổi mới, chủ
trương của nó là chiết trung nhưng tinh thần vẫn là cách mạng: “Dây đàn cầm
không hài hoà thì phải tháo ra mà sửa lại, nhà ở đã cũ hàng ngàn năm thì phải
dỡ đi mà xây lại”.
III.- CẢI CÁCH VÀ CẢI LƯƠNG. VẬN MỆNH CỦA TƯ TRÀO DÂN CHỦ
VÀ KHẢI MÔNG
Tư tưởng
dân chủ và khải mông đã có mầm mống từ những năm bản lề giữa hai thế kỷ. Nhưng
đến khi trường Đông Kinh nghĩa thục ra đời mới phát triển đến đỉnh cao nhất.
Không những tư tưởng đó được phát triển công khai, đi vào công chúng thành hành
động rộng rãi mà mặt khác cũng đến lúc đó, tư tưởng trên mới được bộc lộ đầy
đủ, có hệ thống. Cùng với trường Đông Kinh nghĩa thục hầu hết các tỉnh đều mở
những trường theo mẫu nghĩa thục ở Hà Nội. Có nơi như tỉnh Quảng Nam, cả tỉnh có
đến bốn mươi trường. Mỗi trường đều có ít nhiều nhà Nho có khả năng làm những
bài ca phổ biến những tư tưởng đó cho học sinh và dân chúng. Một phong trào thơ
ca yêu nước và cách mạng phát triển thật rầm rộ, rông khắp, để lại cho đến nay
hàng mấy trăm bài, truyền bá điểm này hay điểm khác của nội dung ta vừa nói.
Bên cạnh những thơ ca như vậy, một số bài luận văn không ngắn như Văn
minh tân học sách, cáo hủ lậu văn trình bày có hệ thống những quan điểm
mới. Có cả một tập sách giáo khoa như Quốc dân độc bản thể hiện
tư tưởng mới vào công tác giáo dục thực tế những con người theo tư tưởng trên.
Đó là chỉ kể những cái còn có may mắn sót lại sau cơn khủng bố dữ dội năm 1908
và sau đó.
Nhìn từ
bên ngoài phong trào Đông Kinh nghĩa thục mang bộ mặt một phong trào cải cách
văn hoá xã hội. Nhưng ngay từ đầu, từ bên trong nó gắn bó chặt chẽ hơn với
phong trào chính trị cứu nước. Khi thành trào lưu tư tưởng, nó cũng theo cơ sở
của phong trào chính trị cứu nước mà đi nhanh vào quần chúng, biến thành hành
động. Đến đây, nó chia ra hai ngả. Một bên là phong trào chính trị bạo động và
một bên khác là phong trào chống hủ tục, cải cách văn hoá xã hội. Cách hiểu hai
phong trào khác nhau như vậy và mối quan hệ giữa hai bên, ngay cả những người
trong cuộc cũng khó nói rõ ràng. Người thì đối lập cải cách với bạo động, người
thì coi là hai mặt công khai và bí mật của chỉ một phong trào. Cụ Huỳnh Thúc
Kháng là yếu nhân của phong trào, quen thân chủ soái của cả hai bên là Phan Bội
Châu và Phan Châu Trinh lại coi hai cụ Phan là “tương phản tương thành” chỉ là
“chia đạo phất cờ” mà thôi. Điều khá rõ ràng là người của cả hai phía đều là
yêu nước, thường là rất quen biết nhau, kính trọng nhau, tin cậy nhau. Và riêng
trường Đông Kinh nghĩa thục thì lại phát tài liệu cho cả hai phía. Nhưng dầu có
thông cảm với nhau thì cũng không có một thoả ước nào theo hướng tương phản
tương thành cả. Thực chất giữa hai phái có những khác nhau rất cơ bản nên mới
xảy ra tranh luận về ba vấn đề:
1/ Cầu
viện hay tự lực.
2/ Bạo
động và cải cách.
3/ Quân
chủ hay dân chủ.
Tranh
luận chắc gay go nên người trong duy tân hội mới phải báo động nguy cơ tan rã
do “đảng tranh” với Phan Bội Châu và Phan Bội Châu phải viết thư cho Phan Châu
Trinh mới dẹp bớt được sự xung khắc giữa hai phái. Với lòng yêu nước sâu sắc có
ở tất cả các nhân vật của cả hai phong trào, ta cũng khó hình dung thực tế
“đảng tranh” chia rẽ ý kiến sẽ phát triển đến đâu nếu phong trào còn được kéo
dài thêm ít năm nữa. Nhưng chính quyền thực dân đã kết thúc sớm cuộc tranh cãi
bằng một chiến dịch khủng bố: đóng cửa trường Đông Kinh nghĩa thục và ngoài một
số bị xử tử, tất cả, không kể thuộc phái nào đều bị đưa đi đày. Một phong trào
yêu nước như Đông Kinh nghĩa thục công khai hoạt động được giữa Hà Nội là một
chuyện không bình thường ở nước ta. Sau khi Phan Bội Châu sang Nhật, Nho sĩ
nhiều nơi hưởng ứng phong trào Đông du, ảnh hưởng của Trung Quốc lớn hơn trước.
Pháp muốn loại trừ ảnh hưởng cả của Trung Quốc, cả của giới sĩ phu nên chủ
trương cải cách giáo dục, dùng chữ quốc ngữ và chữ Pháp thay cho chữ Hán, văn
hoá Pháp thay cho văn hoá Hán. Chúng muốn xúc tiến quá trình khai thác thuộc
địa, tăng cường thêm theo hướng bóc lột tư bản chủ nghĩa để thu lợi nhiều hơn.
Cho nên với phong trào Đông Kinh nghĩa thục, lúc đầu chúng tưởng có chỗ lợi
dụng được. Chẳng bao lâu, chúng nhận ra hiểm hoạ: không thể coi thường tinh
thần yêu nước là linh hồn của cả phong trào. Trước sự tấn công của phong trào
chống Pháp do Phan Bội Châu đề xướng, nguy cơ của đại chiến thế giới sắp bùng
nổ, của cách mạng vô sản đang lan dần sang phương Đông, thực dân Pháp lợi dụng
bọn quan lại đầu hàng, bọn thân sĩ bị hủ hoá, bọn tư sản mới lập nghiệp tạo ra
một cơ sở xã hội mới và đối phó với phong trào yêu nước bằng một chính sách
chính trị văn hoá nguy hiểm hơn. Trường Quy thức, ban Tu thư, hội Khai trí tiến
đức được thành lập. Nguyễn Văn Vịnh và Phạm Quỳnh, những người trước đây dạy
chữ Pháp cho Đông Kinh nghĩa thục, được Pháp giật dây, đứng ra mở hai tờ tạp
chí lớn: Đông dương tạp chí và Nam phong tạp chí. Tất cả các cơ quan đó hầu như
thực hiện đúng mọi chủ trương mà Đông Kinh nghĩa thục đề ra. Chỗ khác nhau chỉ
là những cơ quan vừa kể hạn chế phạm vi hoạt động thành chỉ là một phong trào
văn hoá, chỉ của giới thượng lưu theo đường lối Pháp Việt đề huề giữa thực dân,
phong kiến và tư sản bản xứ. Một sự đánh tráo. Một sự đổi trắng thay đen. Nhưng
vẫn đánh lừa được rất nhiều người. Trong nhiều năm, Phạm Quỳnh rất được hoan
nghênh, thậm chí có người còn tưởng nhầm ông chủ bút Nam Phong là nhà đại chí
sĩ, đại ái quốc. Tất nhiên phải kể đến tài nghệ làm xiếc của tên trùm mật thám
Mác-ty, nhưng trong bản thân tư trào Đông Kinh nghĩa thục cũng có chỗ cho
Mác-ty làm được điều đó.
Phong
trào Đông Kinh nghĩa thục, đúng như các cụ lúc ấy hình dung là “một trận gió”,
“một đợt sóng” từ nước ngoài ập vào, lôi cuốn cả nước như một đợt thuỷ triều
khí thế ngất trời. Đứng đầu phong trào là các nhà khoa bảng lớn: Nguyễn Thượng
Hiền, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý
Cáp, Lương Văn Can, Nguyễn Quyền... Cũng những con người ấy, mới đây còn vùi
đầu vào sử sách, mê say thơ phú, hăm hở với lều chõng chiếm địa vị vị danh dự
nhất trong triều ngoài quận, bỗng dưng vùng dậy hô hào làm những chuyện không
những trái với nề nếp của họ mà còn trái với cả quyền lợi của họ: chống vua
quan, học theo Âu Mỹ, hợp đoàn, học nghề, cải cách dân chủ ... Kêu gọi tư sản
hoá nhưng trong hàng ngũ lãnh đạo, trong lực lượng nòng cốt và thậm chí trong
cả quần chúng của phong trào nữa, không có mặt người tư sản. Thế mà phong trào
lôi cuốn rất đông quần chúng , phát triển từ khắp bắc chí nam, khuấy động cả
nhiều vùng nông thôn rất hẻo lánh, chưa có mầm mống gì của kinh tế và xã hội tư
sản .
Đây hoàn
toàn không phải là chuyện một giai cấp tiền tiến phổ biến hoá những yêu cầu của
giai cấp mình cho toàn xã hội. Mà cũng không hẳn là chuyện một giai cấp dẫy
chết nhân nhượng với giai cấp đối địch . Chỉ vì tinh thần yêu nước, tinh thần
dân tộc mà bộ phận giác ngộ nhất của
đẳng cấp Nho sĩ tự đặt đẳng cấp mình vào đối tượng của cách mạng.
Những
chủ trương mà Đông Kinh nghĩa thục đề xướng nhắm vào quyền lợi cả dân tộc nên
thành chỗ gặp nhau của nhiều tầng lớp: nhà Nho, nông dân, thị dân. Mọi người mê
say hướng về một tương lai chung huy hoàng, đầy màu sắc lý tưởng mà chưa ai kịp
hình dung tương lai đó cụ thể là như thế nào, quyền lợi của giai cấp mình, đẳng
cấp mình trong đó sẽ như thế nào. Nói chung mỗi phía hình dung nó theo cách của
mình, kèm theo những mơ ước riêng mà họ cũng không suy nghĩ cặn kẽ xem là hợp
hay trái với yêu cầu chung đó. Những chủ trương hết sức chung, hết sức trừu
tượng, có thể hiểu nhiều cách như vậy tập hợp được rộng rãi, và vì vậy bao hàm
nhiều khả năng phân hoá , từ là hậu thuẫn cho bạo động võ trang đến chủ nghĩa
cải lương.
Căn cứ
vào những chủ trương được công khai nêu ra thì Đông Kinh nghĩa thục chỉ là một
phong trào cải cách về văn hoá, xã hội, kinh tế, không có tính chính trị. Mũi nhọn
chĩa vào chế độ phong kiến, vào tầng lớp thân sĩ, Nho sĩ và Nho giáo - nói
chung là hợp với mong muốn của chính quyền thực dân - hoạt động hợp pháp, được
chính quyền thực dân cho phép. Trong một số bài ca có đụng chạm đến nhà nước
Bảo hộ nhưng không phải là chỗ hiểm yếu. Chỗ nguy hiểm cho thực dân chính là do
số quần chúng đông đảo và mang sẵn tinh thần đòi độc lập, tự do. Trong rất
nhiều khả năng phát triển, quần chúng không dừng lại ở các chủ trương được
tuyên truyền mà đẩy nó đi xa hơn, để thay cả chiều hướng phát triển của phong
trào cải cách văn hoá: từ vận động cắt tóc đến biểu tình đòi giảm thuế, giảm
xâu; từ đi học, đọc sách đến vận động quần chúng tổ chức chống Pháp.
Lúc đầu,
giai cấp tư sản chưa thành một lực lượng, có tán thành các chủ trương của Đông
Kinh nghĩa thục thì cũng chỉ là với tư cách quần chúng yêu nước đi theo các nhà
khoa bảng. Nhưng khi đã phát đạt hơn, giành được địa vị kinh tế và xã hội cao
hơn, thành một lực lượng xã hội có ý thức tương đối độc lập thì giai cấp tư
sản, lúc đó đã không còn các nhà khoa bảng yêu nước bên cạnh và đã trải qua
khủng bố, xô cả vào con đường mở mang công thương nghiệp, tư sản hoá theo lối
cải lương Pháp Việt đề huề.
Vấn đề
của lịch sử đất nước từ khi tiếp xúc với chủ nghĩa tư bản phương Tây đã là chống đế quốc, chống phong kiến; độc
lập và dân chủ. Đầu thế kỷ này, theo truyền thống đấu tranh của dân tộc, nhiều
nhà Nho ngả theo tư tưởng của Phan Bội Châu: “Nước không còn nữa thì chủ cái
gì, dân không còn nữa thì chủ với ai” mà chủ trương bạo động giành độc lập đã
rồi mới nói dân chủ. Phan Châu Trinh là người có tư tưởng dân chủ sâu sắc nhất
và nhất quán chủ trương ngược lại: “Không dân chủ thì độc lập cũng không phải
là phúc của dân” cho nên đề xướng một chủ trương khá trái tai: “Ỷ Pháp cầu tiến
bộ”. Chủ trương của Phan Châu Trinh cũng như phong trào cải cách văn hoá giáo
dục của Đông Kinh nghĩa thục lúc đó mang nội dung yêu nước và không thuộc hẳn
xu hướng cải lương. Ý đồ của Phan Châu Trinh lúc đó là “cùng với nhân dân, chí
sĩ ba kỳ thức tỉnh nhân tâm. Hợp quần, hợp xã, khai dân trí, chấn dân khí, hậu
dân sinh, ai nấy thấu rõ ngọn nguồn, đông tây sao mà chẳng vỗ nên bộp” (Thư gửi
Nguyễn Ái Quốc. 1922). Ông muốn giành chính quyền bằng hành động cách mạng của
quần chúng, chứ không phải bằng bạo động khởi nghĩa võ trang càng không phải
bằng quân đội nước ngoài. Nhưng khi có bàn tay của thực dân và giai cấp tư sản
nhúng vào thì tinh thần yêu nước chống thực dân, vai trò của quần chúng đông
đảo, ý thức đấu tranh chính trị... bị tước bỏ. Yêu nước trở thành chủ nghĩa
quốc gia nguỵ tạo, truyền bá văn minh Âu Mỹ trở thành ca tụng văn hoá Pháp, cải
cách dân chủ trở thành cải lương, Âu hoá trở thành theo Pháp. Trong tư tưởng
Đông Kinh nghĩa thục nói chung và tư tưởng Phan Châu Trinh nói riêng, chỉ mới là mang sẵn mầm mống, chỉ
là có khả năng cho thực dân và giai cấp tư sản lợi dụng phát triển theo hướng
cải lương như vậy. Nhưng phát triển thành xu hướng cải lương thoả hiệp cũng là
một nét có tính quy luật. Trong một thời gian dài, không chỉ Phạm Quỳnh, Nguyễn
Văn Vĩnh mới tuyên truyền cho chủ trương Pháp Việt đề huề. Các báo chí công
khai phát ngôn cho giai cấp tư sản đều cổ vũ cho chủ trương đó. Đáng chú ý hơn
nữa là các nhà Nho yêu nước kể cả những người lúc đầu hăm hở chủ trương thiết
huyết bạo động, sớm hay muộn, nặng hay nhẹ, hoàn toàn hay từng lúc, từng phần
đều có nghiêng về chủ nghĩa cải lương. Ngay cả Phan Bội Châu cũng không tránh
được sự ngả nghiêng như vậy.
Cái mà
thực dân và giai cấp tư sản tước bỏ thì Ngô Đức Kế và Huỳnh Thúc Kháng sau khi
từ Côn Đảo về đã cố gắng dùng tờ Hữu thanh và tờ Tiếng dân làm sống lại.
Con đường duy tân tức là hiện đại hoá theo kịp thế giới tiên tiến đã không phải
là tư sản hoá. Ngọn cờ dân tộc dân chủ đã không
nằm trong tay giai cấp tư sản. Cho nên dầu chứa đựng lòng yêu nước cháy
bỏng, những nhà Nho duy tân đó đã không thổi lên ngọn lửa như những năm đầu thế
kỷ.
Duy tân,
Âu hoá, dân chủ hoá, tư sản hoá là những việc trái với bản chất nhà Nho. Vì yêu
nước, nhất thời nhà Nho đã đi đầu đề xướng những chủ trương đó. Họ có thể tiếp
thu một lý thuyết hay theo Đạo, theo Lý, có thể hành động có lợi cho nhân dân,
cho Cách mạng, theo nghĩa. Nhưng quan niệm thế giới, quan niệm xã hội, quan
niệm con người làm cơ sở cho những tư tưởng duy tân, Âu hoá thì lại phải phủ
định được tư tưởng Nho gia mới tiếp nhận được, và cũng phải có thực tế của đời
sống kinh tế, xã hội, đô thị mới có được. Những điều kiện như vậy, các nhà Nho
trong phong trào Đông Kinh nghĩa thục chưa có. Không gắn bó được với quần
chúng, thay đổi dần theo thực tế thế giới hiện đại, các nhà Nho yêu nước thất
bại đều dễ quay lại bảo thủ, cải lương và sống thanh cao, độc thiện kỳ thân.
Tư trào
duy tân Âu hoá của Đông Kinh nghĩa thục nếu nhìn cả quá trình từ cuối thế kỷ
trước cho đến những năm 20, 30, từ Nguyễn Lộ Trạch, Nguyễn Thượng Hiền cho đến
Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng và theo góc độ nhà Nho tiếp thu văn minh phương
Tây mới nhìn được những nét có tính quy luật của tư tưởng dân tộc, tư tưởng
phương Đông thời cận hiện đại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét