CÁC HÌNH THỨC
VÀ HÌNH TƯỢNG HỘI HÈ DÂN GIAN TRONG TIỂU THUYẾT CỦA RABELAIS[1]
“Thời
gian - đó là đứa trẻ đang chơi đùa và đẩy những quân cờ nhảy. Sự thống trị thuộc về con trẻ”
Heraclite
Ở cuối chương trước chúng tôi đã đề cập
đến những mô tả mang tính “giải phẫu học” các trận đánh và các cuộc ẩu đả trong
tiểu thuyết của Rabelais, đến phép giải phẫu kiểu “nhà bếp-hội giả trang” độc
đáo của ông. Các cảnh đánh đấm rất thường gặp trong sáng tác của Rabelais.
Nhưng đó không phải là các cảnh sinh hoạt bình thường. Chúng tôi xin phân tích
một vài cảnh trong số chúng.
Ở quyển bốn của bộ tiểu thuyết, những kẻ
lãng du – Pantagruel và những người bạn đồng hành của chàng – rơi vào “đảo
những kẻ hay thưa kiện”, cư dân của nó là những kẻ hay kiện cáo, kiếm sống bằng
cách cho phép người ta đánh mình để lấy tiền. Thày dòng Jean liền chọn một
"gã mặt đỏ” (“rouge muzeau”) cho
hắn một trận nhừ đòn và tiêu mất 20 ê-quy.
“Thày dòng Jean vô cùng sung sướng nện
thằng cha mặt đỏ vào lưng vào bụng, vào tay vào chân, vào đầu và khắp mình,
oánh cho nhừ tử, đến nỗi thậm chí tớ có cảm giác thầy sắp đánh chết hắn
ta”. Chúng ta đã thấy màn liệt kê mang tính giải phẫu các bộ phận cơ thể ở đây
cũng không bị lãng quên. Thậm chí Rabelais còn tiếp tục: “Sau đó thầy vứt cho
hắn ta 20 ê-quy. Lập tức anh chàng tởm lợm của chúng ta nhảy cẫng lên
với vẻ hạnh phúc như thể hắn ta là một ông vua, thậm chí hai
ông vua cộng lại” (quyển IV, chương XVI).
Hình tượng “ông vua” và “hai ông vua” ấy
được đưa ra trực tiếp ở đây nhằm mô tả mức độ hạnh phúc cao nhất của anh chàng
“mặt đỏ" ở đảo những kẻ hay thóc mách. Nhưng hình tượng “nhà vua”
cũng gắn liền căn bản với những trận đòn vui vẻ và những lời chửi
mắng, nó cũng gắn với cái mặt đỏ của anh chàng thóc mách, với cái
chết giả vờ của anh ta, với sự hồi sinh bất ngờ và cú nhảy cẫng lên,
như một thằng hề sau khi bị đánh.
Ở đây tồn tại một bình diện, nơi các đòn
đánh và lời chửi mắng không phải mang tính chất sinh hoạt và cá nhân, mà là các
hành động biểu tượng, hướng tới một mục đích cao hơn – hướng tới “nhà
vua”. Bình diện này chính là hệ thống các hình tượng hội hè dân gian,
thường được trình diễn sinh động nhất vào các dịp hội giả trang (và tất
nhiên, không chỉ trong hội giả trang). Chính tại bình diện này, như chúng tôi
đã nói, nhà bếp và chiến trận gặp nhau và giao nhau trong các
hình tượng thân thể bị phanh xẻ làm nhiều mảnh. Hệ thống các hình tượng
hội hè dân gian này vào thời Rabelais vẫn sống một cuộc sống đầy đủ và trọn vẹn
ý nghĩa nhất ở các hình thức vui nhộn khác nhau cả trên quảng trường, lẫn trong
văn học.
Trong hệ thống hình tượng này, ông vua
là thằng hề. Ông ta được toàn dân lựa chọn, sau đó cũng bị chính toàn
dân cười nhạo, chửi mắng và đánh đập, khi thời hạn thống trị của ông ta đã
hết, cũng giống như ngày nay người ta vẫn cười nhạo, đánh đập, xé tan thành
từng mảnh, đốt hoặc giày xéo hình nộm của mùa đông hay hình nộm thể hiện năm cũ
(“những con ngáo ộp vui vẻ”). Nếu lúc đầu người ta đổi trang phục cho
thằng hề thành ông vua, thì bây giờ, khi thời ngự trị của ông ta đã hết, người
ta lại đổi quần áo, “cải trang” lại thành bộ y phục thằng hề. Những lời
chửi mắng và trò đánh đập hoàn toàn tương thích với hành động cải trang đó, với
sự thay đổi quần áo, sự cải dạng. Lời chửi mắng lột ra một bộ mặt khác – bộ mặt
đích thực – của cái bị chửi bới, lời chửi mắng gỡ bỏ phục sức và mặt nạ của ông
vua: lời chửi bới và các đòn đánh hạ bệ ông vua.
Lời chửi mắng - đó là cái chết, là tuổi
trẻ đã qua, đã trở thành tuổi già, là cơ thể sống bây giờ đã trở thành cái xác.
Lời chửi mắng – là “tấm gương hài” đặt trước mặt cuộc sống đang ra đi, trước
cái buộc phải chết bởi cái chết lịch sử. Nhưng đằng sau cái chết thì chính
trong hệ thống các hình tượng ấy lại có sự phục sinh, có năm mới, tuổi trẻ mới,
mùa xuân mới. Vì thế lời ngợi ca đáp lại lời chửi rủa. Vì thế lời chửi rủa
và lời ngợi ca là hai phương diện của cùng một thế giới có hai mặt.
Lời chửi rủa-hạ thấp,
như sự thật về quyền lực cũ, về thế giới đang chết, luôn hoà hợp một cách
hữu cơ trong hệ thống các hình tượng của Rabelais, kết hợp ở đây các đòn đánh
với sự cải dạng, sự thay đổi quần áo kiểu hội giả trang. Rabelais khai
thác những hình tượng ấy từ truyền thống hội hè dân gian sống động của thời đại
mình, nhưng ông cũng biết rất rõ truyền thống bác học của các Saturnalia
thời cổ đại với những nghi thức thay đổi trang phục, hạ bệ và đánh đập của
chúng (ông biết đúng những cội nguồn mà chúng ta được biết,- trước hết là
“Saturnalia” của Makrobi). Khi nói về anh hề Tribule, Rabelais đã dẫn lời của
Sénèque (tuy không nêu tên ông và có lẽ dẫn theo Erazm) rằng ông vua và thằng
hề có cùng một số tử vi (quyển III, chương XXXVII)1.
Dĩ nhiên, ông cũng biết câu chuyện trong sách Phúc Âm về màn lên ngôi và phế
truất hài, màn đáng đập và cười nhạo “ông vua Do Thái”.
Trong tiểu thuyết của mình Rabelais cũng
mô tả màn phế truất hai vị vua theo đúng nghĩa đen – Pycrochole trong quyển một
(“Gargantua”) và Anarche trong quyển hai (“Pantagruel”). Ông mô tả những cuộc
phế truất đó theo tinh thần thuần tuý hội giả trang, nhưng vẫn có ảnh hưởng của
truyền thống cổ đại và Phúc âm.
Vua Pycrochole sau khi bại trận phải bỏ
chạy; trên đường đi vì giận dữ ông đã giết chết con ngựa của mình (nó trượt
chân và ngã). Để đi tiếp, Pycrochole định ăn trộm một con lừa từ một cối
xay bột gần đó, nhưng những người thợ xay đã đánh đập ông ta, lột hết
trang phục hoàng đế và mặc cho ông một chiếc áo khoác thảm hại. Sau đó ông
ta trở thành một thợ làm công nhật tầm thường ở Lion.
Ở đây chúng ta được thấy tất cả các thành
tố của hệ thống hình tượng truyền thống (phế truất, thay đổi trang phục, đánh
đập). Nhưng ở đây cũng toát lên những nét phảng phất của Saturnalia. Vị vua bị
hạ bệ trở thành nô lệ (“thợ làm công nhật”), cối xay bột thời cổ đại là nơi
người ta thường đày các nô lệ ra để trừng phạt: ở đó họ bị đánh đập và buộc
phải quay các thớt cối, là công việc khổ sai hết sức nặng nhọc. Cuối cùng, con
lừa trong sách Phúc Âm là biểu tượng của hạ thấp và nhẫn nhục (đồng thời cũng
là phục sinh)2.
Màn phế truất vua Anarche cũng được thể hiện
theo tinh thần hội giả trang ấy.
Pantagruel, sau khi chiến thắng vua Anarche, liền ban cho Panurge toàn quyền xử
lý. Trước tiên Panurge lột quần áo của vị vua cũ, mặc cho ông ta bộ
trang phục kỳ quặc của thằng hề, sau đó biến ông ta thành người đi bán nước xốt
xanh (cấp bậc thấp nhất trong hệ thống đẳng cấp xã hội). Các trò đánh đấm cũng
không bị lãng quên. Thực ra bản thân Panurge không đánh Anarche, nhưng chàng
cưới cho nhà vua một bà gái già hay gây gổ, và bà ta suốt ngày vừa chửi bới
vừa đánh đập ông. Như vậy cả ở đây cũng tuân thủ nghiêm ngặt hình tượng hạ
bệ kiểu hội giả trang truyền thống3.
Các huyền thoại về Rabelais, như chúng
tôi đã nói, cho chúng ta biết một hình dung mang tính hội giả trang về ông. Đến
nay còn lưu lại nhiều câu chuyện tương truyền về những lần cải trang và đánh
lừa của ông. Tuy nhiên, còn một câu chuyện nữa về vũ hội hoá trang cuối cùng
của ông trước khi chết. Lúc lâm chung, dường như Rabelais bắt mọi người phải
thay đồ cho ông và mặc bộ domino (trang phục vũ hội hoá trang), dựa theo
những lời trong Thánh Thư (“Khải huyền”): “Beati qui in Domino moriuntur” (với
nghĩa “những kẻ chết sung sướng về với Chúa”). Tính chất hội giả trang của câu
chuyện huyền thoại này rất rõ ràng. Chúng tôi nhấn mạnh ở đây sự thay đổi quần
áo (cải trang) trên thực tế có sự trợ giúp là cải biên ngữ nghĩa ngôn từ của
văn bản thiêng liêng.
Nhưng chúng ta hãy quay về với tên mặt đỏ
trên đảo hay thưa kiện, bị đánh nhừ tử, nhưng rất sung sướng bởi các đòn đánh,
“bằng hai ông vua cộng lại”. Bởi tên hay thưa kiện đâu phải ông vua hội giả
trang? Nhưng biểu tượng đánh đập với bản liệt kê mang tính giải phẫu học đã gợi
nên những liên tưởng tất yếu kiểu hội giả trang, trong đó có việc so
sánh với ông vua, thậm chí hai ông vua cộng lại – là cái cũ đang chết đi và cái
mới đang phục sinh: bởi mọi người đều nghĩ rằng tên thóc mách đã bị đánh chết
(vị vua cũ), nhưng hắn ta lại nhẩy cẫng lên sống động và vui vẻ (vị vua mới). Và
cái mặt hắn ta đỏ, bởi đó là bộ mặt bôi vẽ nghịch ngợm của anh hề.
Tất cả các cảnh ẩu đả và đánh đập của Rabelais đều mang tính chất hội giả trang
như vậy1.
Đi trước tình tiết tên thóc mách bị đánh
chúng tôi vừa phân tích có bốn chương dành cho các câu chuyện kể về những trò
đánh đập tương tự những kẻ hay hớt lẻo trong nhà de Base và “tấn bi hài kịch”
mà Fransois Villon trình diễn ở San-Macsan.
Quí ngài de Bas danh tiếng đã tìm ra một
biện pháp thông minh để đánh đòn mà không bị trừng phạt bọn hay hớt lẻo đến lâu
đài của ông để đưa trát gọi ra hầu toà. Tại Tureni, nơi diễn ra câu chuyện,
cũng như ở Puatu và một số tỉnh khác ở nước Pháp có phong tục gọi là “đám cưới
đeo găng tay”: trong khi cử hành hôn lễ
người ta được phép tặng nhau những cú đấm vui đùa. Người bị đấm không
được phản đối những cú đấm nhẹ nhàng kiểu đám cưới ấy: chúng đã trở thành luật
lệ và phong tục. Và thế là bất kỳ lần nào, khi những kẻ hóng hớt vừa đến gần
toà lâu đài của de Base, trong lâu đài lập tức bắt đầu tổ chức một đám cưới
giả; tên hớt lẻo nhất định sẽ rơi vào giữa đám khách khứa.
Lần thứ nhất một tay hóng hớt già, béo
và mặt đỏ đến. Trong bữa tiệc đám cưới, theo phong tục người ta bắt đầu
tặng nhau những cú đấm. “Khi chuyện đó tiến
gần đến chỗ tên mách lẻo, mọi người bắt đầu tặng cho hắn những cú so
găng thích đáng, đến nỗi hắn không còn nhận được ra mình: quầng mắt thì thâm
tím, tám xương sườn bị gãy, lồng ngực bị dập, bả vai vỡ làm bốn mảnh, xương hàm
dưới vỡ làm ba, và tất cả chỉ là để vui đùa” (quyển IV, chương XII).
Tính chất hội giả trang của màn đánh đập
ấy vô cùng rõ ràng. Ở đây thậm chí còn là kiểu “hội giả trang trong hội giả
trang”, nhưng mang lại những hậu quả có thực đối với tên hớt lẻo bị đánh. Bản
thân phong tục cú đấm đám cưới cũng là thuộc về các nghi thức hội giả trang
(bởi nó gắn liền với sự phồn thực, sức sinh sản, với thời gian). Nghi thức
ấy đem lại quyền tự do và đùa dỡn nhất định, cho phép phá vỡ các chuẩn mực
chung sống thông thường. Còn trong tình tiết chúng tôi vừa nêu thì ngay bản
thân đám cưới cũng là giả: nó diễn ra như một trò vui trong lễ tiễn mùa
đông hay trò lừa của hội giả trang. Nhưng trong không khí hai mặt kiểu hội giả
trang này người ta thưởng cho tên hớt lẻo già những cú đấm vô cùng hiện thực,
hơn thế nữa còn bằng “những đôi găng tay lực sĩ”. Chúng tôi xin nhấn mạnh đến
tính chất giải phẫu, mổ xẻ kiểu nhà bếp-y học-hội giả trang trong phần mô tả
các đòn đánh.
Văn phong hội giả trang còn thể hiện
rõ ràng hơn trong cảnh mô tả trận đòn cho tên hớt lẻo thứ hai, đến gặp de Base
bốn ngày sau tên thứ nhất. Tên hóng hớt đó, ngược với tên thứ nhất, còn trẻ,
cao và gầy. Bằng cách ấy, người ta ghép hai kẻ mách lẻo (dù chúng không
xuất hiện cạnh nhau) thành một cặp hài điển hình hội hè-dân gian hội giả
trang, xây dựng trên những đối lập: béo với gầy, già với trẻ, cao với
thấp1. Các cặp đôi tương phản như thế vẫn còn
sống động đến tận bây giờ trong các màn hài rạp hát và rạp xiếc. Don Quijote và
Santro cũng tạo thành một cặp đôi hội giả trang như thế (tất nhiên, ở đây đã có
sự phức điệu)2.
Đối với tên hớt lẻo thứ hai nghi lễ đám
cưới giả cũng được dựng nên: những người tham gia đám cưới được gọi thẳng là
“các nhân vật của vở hề kịch”. Khi tên hớt lẻo bước vào (nhân vật chính của
cảnh ngược đãi trào tiếu), tất cả những người có mặt bắt đầu đồng thanh cười,
tên hóng hớt cũng cười theo. Cảnh trào tiếu thế là được khơi mào. Theo
tín hiệu này nghi thức đám cưới bắt đầu diễn ra. Sau đó, khi người ta mang
rượu và đồ nhắm đến, các cú đấm bắt đầu. Trận đòn cho tên hớt lẻo được mô
tả như sau:
“Và
thế là khi ông ta (quí ngài Udar) vừa vung tay vả vào má tên hóng hớt, bắt đầu
giáng những cú thụi vào hắn, thì ngay lập tức từ tứ phía những cú đấm găng tay
tới tấp rơi xuống đầu hắn như một trận mưa đá. "Ôi, đám cưới, đám cưới,
đám cưới, phong tục thật là đáng ghi nhớ!" - tất cả đều reo vang. Và người
ta chăm sóc tên hóng hớt thật đến nơi đến chốn, đến nỗi máu hắn ta chảy ra khắp
nơi từ mồm, từ mũi, từ tai, từ mắt. Nói tóm lại, người ta vặn xương hắn, cắn xé
hắn, đập vỡ đầu, gáy, lưng, ngực, tay, tất cả những gì có trên người hắn. Tớ
dám quả quyết với các cậu rằng ở Avinhion, vào thời gian hội giả trang, các cô
tú cậu tú cũng chưa bao giờ chơi trò rafa1
vui vẻ đến thế như người ta giải trí với tên hớt lẻo. Cuối cùng hắn ta ngã
huỵch xuống sàn. Người ta liền tưới rượu cẩn thận lên người hắn, gắn những
chiếc nơ xanh nơ vàng vào tay áo khoác của hắn rồi đặt hắn nằm như lúc lâm
chung" (quyển IV, chương XIV).
Chúng ta lại thấy ở đây sự phanh xé cơ
thể mang tính giải phẫu học kiểu nhà bếp-y học-hội giả trang: mồm, mũi, tai,
mắt, đầu, cổ, lưng, ngực, tay đều được liệt kê. Đó là màn xé xác phanh thây
hình nộm nhân vật chính trong trò chơi trào tiếu của hội giả trang. Tất nhiên,
Rabelais không phải vô cớ nhắc đến ở đây hội giả trang Avinhion: các đòn
đánh của đám sinh viên trường Đại học tổng hợp chơi trò rafa vui vẻ của hội giả
trang vang lên cũng không du dương (trong nguyên bản “melodieusement”)
bằng người ta gieo trận mưa đòn cho tên hớt lẻo.
Kết thúc của màn kịch này vô cùng điển
hình: thực chất, người ta cải trang tên hớt lẻo bị đánh thành ông vua-hề: người
ta tưới rượu cho hắn (chắc là rượu đỏ,
cho nên mặt hắn trở nên “đỏ", giống như tên hóng hớt của thày dòng Jean),
người ta trang điểm cho hắn những chiếc nơ nhiều màu, như một con vật hiến sinh
của hội giả trang2.
Trong bản liệt kê nổi tiếng hai trăm mười
sáu tên gọi các trò chơi mà Gargatua từng chơi (quyển I, chương XX) có một trò
với tên gọi “au boeuf viollé”. Ở một số thành phố nước Pháp có phong tục – và
phong tục ấy còn tồn tại gần như đến tận ngày nay – là trong thời gian hội giả
trang, nghĩa là khi được phép giết gia súc và ăn thịt (cũng như quan
hệ tính giao và tổ chức đám cưới - những điều thường bị cấm trong
tuần đại trai), trên các đường phố và quảng trường của thành phố người ta rong
đi một con bò béo. Người ta rong nó trong một đám rước long trọng
trong tiếng đàn violon, nên nó được gọi là “boeuf viollé”. Đầu con bò được
trang điểm bằng những chiếc nơ đủ màu. Đáng tiếc là chúng tôi chưa tìm hiểu
được bản thân trò chơi con bò hội giả trang ấy gồm những chi tiết gì. Nhưng
chắc chắn diễn biến của nó không thể thiếu các màn đánh đập. Bởi con bò violon
(“boeuf viollé”) được định trước là sẽ bị giết, vì nó là con vật hiến
sinh trong hội giả trang. Con bò đó là ông vua, là sức sản xuất
(hiện thân cho sự phồn thực của năm), nhưng nó cũng là loại “thịt hiến
sinh”, sẽ bị phanh xẻ (haché) và “giải phẫu” làm giò và patê.
Bây giờ chúng ta đã hiểu vì sao tên hớt
lẻo bị đánh lại được trang điểm bằng những chiếc nơ nhiều màu. Hành động
đánh đập cũng có hai nghĩa, giống như lời chửi mắng chuyển hoá thành lời ca
ngợi. Trong hệ thống các hình tượng hội hè-dân gian không hề có sự
phủ định đơn thuần, trừu tượng. Các hình tượng của hệ thống ấy cố gắng bao trùm
hết cả hai đối cực của sự hình thành trong khối thống nhất đầy mâu thuẫn
của chúng. Người ta trang điểm cho kẻ bị đánh (và cả con vật bị giết). Bản thân
sự đánh đập mang tính chất vui vẻ, nó được tiến hành và kết thúc trong
tiếng cười.
Tình tiết đánh đập tên hớt lẻo thứ ba,
người cuối cùng xuất hiện trong nhà de Base được mô tả cặn kẽ và thú vị nhất.
Lần này tên hớt lẻo đi đến cùng với hai
người làm chứng. Nghi lễ đám cưới giả lại được cử hành. Trong bữa tiệc, chính
tên hớt lẻo đề nghị tái hiện phong tục tốt đẹp cũ “nopces à mitaines” và là
người đầu tiên đưa ra những cú đấm đám cưới. Khi đó trận đòn cho tên hóng hớt
bắt đầu:
“Ngay lập tức những chiếc găng tay sắt
bước vào trận, và đầu tên hóng hớt bị sứt mẻ ở chín chỗ, một tên làm chứng bị
gẫy tay phải, tên kia trật hàm trên, chiếc hàm chồi ra che khuất một nửa cằm
hắn, lưỡi hắn thè ra ngoài, thêm vào đó, kiểm lại hắn thấy thiếu nhiều răng
hàm, răng nanh cũng như răng cửa. Sau đó những tay trống đổi nhịp, và theo hiệu
lệnh ấy những chiếc găng tay được thu hồi một cách kín đáo trước con mắt người
ngoài, bánh mứt được đưa ra thêm, và cuộc vui lại tiếp tục. Những bạn rượu tốt
bụng lại nâng cốc chúc nhau, tất cả uống vì sức khoẻ của tên hóng hớt và hai kẻ
làm chứng, còn quí ngài Udar thì ra sức chửi rủa và xỉ vả cái đám cưới này, ông
cam đoan là một trong hai tên làm chứng hình như đã làm sụn toàn bộ xương vai
của ông. Tuy nhiên, mọi người vẫn vô cùng sẵn lòng nâng cốc chúc sức khoẻ những
tên làm chứng. Tên làm chứng mất hàm trên giơ tay lên và im lặng xin lỗi, bởi
hắn không thể nói được nữa. Luar than vãn rằng tên làm chứng bị gãy tay đã thúc
ông một cú huých khuỷu tay ra trò đến nỗi bây giờ toàn thân ông ê ẩm-rã rời-sụn
cả xuống” (quyển IV, chương XV).
Những vết thương của tên hớt lẻo và những
người làm chứng, như lệ thường, được mô tả bằng một bài liệt kê mang tính giải
phẫu học các cơ quan và bộ phận cơ thể bị tổn thương. Bản thân hành động đánh
đập đã mang tính chất hội hè và trang trọng nhấn mạnh: nó được tiến hành
trong bữa tiệc, trong âm thanh của trống phách đám cưới, âm thanh ấy
đổi âm điệu khi trận đòn kết thúc và bắt đầu cao trào mới của cuộc vui tiệc
tùng. Sự thay đổi của nhịp trống, sự sôi động trở lại của bữa tiệc tạo nên giai
đoạn mới của hoạt cảnh trào tiếu: đó là màn cười nhạo con vật hiến sinh bị
đánh đập. Những kẻ bị đánh tượng trưng cho con vật hiến sinh bị đánh. Mọi
người đều đóng vai của kẻ bị đau và kết tội những tên hớt lẻo về điều đó. Không
khí không cần kìm hãm của trò diễn hội giả trang được nhấn mạnh thêm bằng việc
mỗi người trong số họ mô tả theo kiểu thổi phồng quá mức mức độ thương tật của
mình bằng độ dài cực kỳ hiếm gặp của các từ đa âm tiết. Bản thân những từ ấy
được Rabelais sáng tạo không hề ngẫu nhiên: bằng âm thanh chúng phải mô tả mức
độ nhất định tính chất của cấp độ thương tật, và bằng độ dài, số lượng và sự đa
dạng của các âm tiết tạo thành (có sắc thái ngữ nghĩa nhất định) chúng phải
truyền đạt được số lượng, sự phong phú và sức mạnh của các đòn đánh đưa ra.
Những từ ấy khi xướng âm lên chúng dường như cũng làm thương tổn các cơ quan
cấu âm (“đau cả lưỡi”, "sái cả hàm"). Độ dài và sự khó khăn khi phát
âm những từ đó cứ lớn dần một cách nhất quán theo mỗi nhân vật tham gia trò
chơi: nếu trong từ của Udar có tám âm tiết, thì trong từ của Luar sử dụng đã có
mười ba âm tiết. Nhờ những từ ấy mà tính chất không cần kiềm chế kiểu hội giả
trang đã chuyển thành ngôn ngữ chính của cảnh đó.
Cảnh ấy được tiếp tục như sau:
“- Không, thật ra tôi có làm gì họ đâu?-
Triudon vừa nói, vừa lấy khăn mùi xoa che bên mắt trái và chỉ vào cái trống
thủng một đầu của mình. – Thế mà họ đấm-thụi-nện-tương thật lực vào con mắt
khốn khổ của tôi, còn chọc thủng cái trống của tôi. Trong đám cưới người ta bao
giờ cũng phải đánh vào trống, nhưng kính trọng người đánh trống, không đánh họ
bao giờ. Có quỷ sứ mới biết thế này là thế nào!” (quyển IV, chương XV).
Trò đánh lừa những tên hớt lẻo bị đánh
tiếp tục được gia tăng ở đây – chiếc khăn mùi xoa che con mắt chắc gì đã bị
đánh, cái trống thủng,- và độ dài của từ
truyền đạt mức độ thương tật cũng tăng lên: trong đó đã có hai mươi âm
tiết, và bản thân các âm tiết cũng trở nên kỳ dị hơn.
Biểu tượng cái trống
thủng
là rất đặc trưng. Để hiểu được đúng toàn bộ cảnh đánh đòn những tên hớt lẻo và
tính chất độc đáo của bản thân các cú đánh, nhất thiết phải lưu ý đến những
điểm sau. Chiếc trống đám cưới mang ý nghĩa quan hệ tình dục. “Đánh vào
trống đám cưới” và đánh trống nói chung có nghĩa là thực hiện hành vi giao
phối; “người đánh trống” (“tabourineur” và “taboureur”) có nghĩa là người tình.
Ý nghĩa đó vào thời Rabelais là rất phổ biến, ai cũng biết. Bản thân Rabelais
trong quyển I, chương III có nói về “những người đánh trống” của con gái Hoàng
đế Oktavian, nghĩa là những người tình của nàng. Từ “cái trống” cũng được
Rabelais sử dụng theo nghĩa quan hệ tình dục ở quyển II, chương XXV và quyển
III, chương XXVIII. Cũng có ý nghĩa này là các từ “cú đánh”, “đánh”, “nện”,
“gậy” (“baston”). Dương vật được gọi là “baston de mariage” (diễn đạt này được
Rabelais sử dụng trong quyển III, chương IX), nó cũng được gọi là “baston à un
bout” (diễn đạt này cũng gặp ở quyển III, chương XVIII)1. Tất nhiên, “những cú đấm đám cưới”
cũng có ý nghĩa là hành động phồn sinh. Ý nghĩa đó lan sang cả động tác
đánh đập những tên hớt lẻo, không phải vô cớ người ta đánh chúng chính là dưới
hình thức những cú đấm đám cưới và đánh
trống đám cưới.
Vì vậy toàn bộ tình tiết chúng tôi vừa
phân tích không hề là một cuộc ẩu đả thông thường, không phải những cú đấm mang
tính sinh hoạt thuần tuý, theo tư duy thực tiễn hạn hẹp. Tất cả các đòn đánh
ở đây đều có ý nghĩa hai mặt và mở rộng về mặt biểu tượng: đó là những đòn
đánh đồng thời vừa tiêu diệt (có mức độ), vừa ban tặng cuộc sống mới,
vừa kết liễu cái cũ, vừa khởi xướng cái mới. Vì thế toàn bộ tình
tiết mới thấm đẫm không khí “đình đám” và hội giả trang không thể kiềm chế đến
như vậy.
Đồng thời màn đánh đập những tên hớt lẻo
cũng hoàn toàn có giá trị hiện thực về độ nghiêm túc của các đòn đánh đưa ra,
cũng như mục đích của chúng: người ta đánh để chúng vĩnh viễn không bao giờ dám
cả gan vu khống de Base nữa (về điều này họ hoàn toàn thành công). Nhưng những
tên vu cáo ấy – những đại diện của quyền lực cũ, chân lý cũ, thế giới cũ,-
chúng không tách rời với tất cả những gì cũ kỹ, đang lùi vào dĩ vãng, đang chết
đi, nhưng chúng cũng không tách rời với cái mới đang được sinh ra từ cái cũ
này. Chúng tham dự vào thế giới hai mặt, vừa chết đi, vừa đồng thời tái sinh,
nhưng chúng bị hút về phía cực phủ định, cực phải chết của nó;
hành động đánh đập chúng là ngày hội của cái chết-phục sinh (nhưng trên
bình diện trào tiếu). Vì thế những cú đánh đám cưới, nhị chức năng, mang
tính chất gây dựng mới mưa xuống đầu chúng cùng với tiếng trống và tiếng
lanh canh chạm cốc của tiệc tùng. Người ta đánh chúng giống như đánh các ông
vua trong hội giả trang.
Tất cả những trận đòn của Rabelais đều
như vậy cả. Tất cả các ông vua phong kiến ấy (Pycrochole và Anarche), các vị
tôn sư già nua của Sorbonne (Ianotus Bragmardo), những kẻ coi đồ lễ trong tu
viện (Poseiam), những tu sĩ đạo đức giả, những kẻ vu cáo buồn tẻ, những kẻ
không biết cười u ám mà Rabelais đấm đá, băm vằm, thoi nện, đuổi đánh, xỉ vả,
chửi bới, cười nhạo,- tất cả chúng là đại diện của thế giới cũ và thế giới tổng
thể, thế giới song thân, nó vừa sinh ra vừa chết đi. Người ta vừa
băm vằm và vứt bỏ cơ thể già nua, đang chết đi, đồng thời cắt rốn cho một cơ
thể mới, trẻ trung. Đó đều cùng là một hành động. Các hình tượng của Rabelais
đánh dấu chính cái thời điểm chuyển giao đó, thời điểm chứa đựng trong
mình cả hai đối cực. Bất kỳ đòn đánh nào vào thế giới cũ đều giúp sinh ra thế
giới mới, diễn ra như cú quất của Kesar, làm người mẹ chết đi và giải phóng cho
đứa trẻ. Người ta đánh đập và chửi mắng các đại diện của thế giới cũ, nhưng
thế giới đó lại đang sinh hạ. Vì thế lời chửi rủa và các đòn đánh cũng biến
thành một hành vi hội hè trào tiếu.
Chúng tôi xin dẫn thêm một đoạn (có lược
bớt) phần cuối của tình tiết này:
“Cô dâu dở khóc dở cười và cười qua nước
mắt bởi những tên hớt lẻo do phật ý vì bị bạ đâu đánh đấy đã hành hạ cô đến nơi
đến chốn. Hơn thế nữa còn cào cấu-bấu véo-chọc ngoáy thâm thù cô ở những chỗ
kín không tiện nói ra.
Một vị hoàng thân phải treo tay trái
trước ngực, chắc là tay ông ta bị gẫy-dập-nát hết.
- Không biết đồ nhơ bẩn nào xui khiến tôi
đến dự cái đám cưới này,- ông ta càu nhàu.- Lạy Chúa lòng lành, cả hai tay tôi
bị gẫy-dập-nát-tật nguyền hết cả rồi. Sổ toẹt vào những đám cưới như thế này!
Ôi, Chúa ơi, đây đâu phải là bữa tiệc của người Lapifes ở Samosate mà các nhà
hiền triết đã mô tả (sách đã dẫn).
Tính hai nghĩa tiềm tàng trong mọi hình
tượng của tình tiết này ở đây cũng có hình thức kết hợp những điều trái ngược
rất đặc trưng của Rabelais: cô dâu vừa khóc vừa cười, dở cười dở khóc. Cũng
điển hình là những cú đánh mà cô nhận được (tất nhiên là bịa đặt) “ở những chỗ
không tiện nói ra” (“các cú chọc tân hôn”). Trong lời nói của vị hoàng thân
dùng để kết thúc đoạn trích cần nhấn mạnh hai yếu tố. Thứ nhất, trò chơi chữ hạ
thấp trong nguyên bản rất đặc trưng cho chủ nghĩa hiện thực nghịch dị, đồng
nhất việc hôn phối (fiansailles) với phóng uế (fiantailles). Thứ hai, chi tiết
về “Bữa tiệc của người Lapifes” của Luciean. Biến thể của dạng "tửu
đàm" (hội thoại tiệc rượu) kiểu Luciean quả thật gần gũi hơn so với tất cả
các biến thể khác thời cổ đại đối với những cảnh tiệc tùng của Rabelais (nhất
là trong cảnh này). “Bữa tiệc” của Luciean cũng kết thúc bằng một cuộc ẩu đả.
Tuy nhiên cần nhấn mạnh sự khác biệt căn bản ở đây. Cuộc ẩu đả trong bữa tiệc
mà Luciean miêu tả được mở rộng về mặt biểu tượng chỉ là nhờ vật liệu truyền
thống của các hình tượng, và hoàn toàn không tuân theo chủ ý của tác giả, nó
mang tính chất duy lý trừu tượng và thậm chí phần nào hư vô chủ nghĩa. Các hình
tượng truyền thống của Luciean luôn luôn phát ngôn bất chấp ý đồ của tác giả,
và chúng thường phong phú hơn nhiều so với tác giả. Luciean làm việc với các
hình tượng truyền thống mà bản thân ông gần như đã quên mất giá trị và sức nặng
của chúng.
Xin đưa ra một số kết luận cho toàn bộ
tình tiết chúng tôi vừa phân tích về những trận đòn dành cho những kẻ hớt lẻo
trong nhà de Base. Toàn bộ sự việc được mô tả ở đây mang tính trò diễn trào
tiếu của hội hè dân gian. Đó là một trò chơi vui vẻ và tự do, nhưng là trò chơi
tư duy sâu sắc. Nhân vật chính và tác giả của nó là bản thân thời gian,
nó hạ bệ, biến thành trò cười và tiêu huỷ toàn bộ thế giới cũ (quyền lực cũ,
chân lý cũ) và đồng thời sinh hạ cái mới. Trong trò chơi này có cả nhân vật
chính, lẫn dàn cười đồng thanh. Nhân vật chính là đại diện của thế giới cũ,
nhưng đang mang thai và sinh nở. Người ta đánh đập và cười nhạo nó,
nhưng các đòn đánh ấy có tính chất gây dựng bởi chúng giúp sinh ra cái mới. Vì
vậy các đòn đánh đều vui vẻ, đều có giai điệu hoan hỉ. Cả những lời chửi mắng
cũng mang tính chất vui vẻ và gây dựng như thế. Người ta tô điểm cho nhân vật
chính, như cho một con vật hiến sinh trào tiếu (tên mách lẻo được trang điểm
bằng những cái nơ). Hình tượng cơ thể bị phanh xé thành nhiều mảnh ở đây cũng
có ý nghĩa quan trọng. Cùng với mỗi trận đòn cho từng tên hớt lẻo, những mô tả
kỹ lưỡng mang tính giải phẫu học được đưa ra. Đặc biệt hình tượng cơ thể xé nhỏ
có nhiều trong cảnh đánh đòn tên hớt lẻo thứ ba cùng với những người làm chứng.
Ngoài những thương tật có thật người ta gây cho chúng, ở đây dẫn ra cả loạt các
cơ quan và bộ phận cơ thể bị thương giả tạo: xương vai vỡ, mắt bị đấm, chân tập
tễnh, tay bị thương, các cơ quan sinh dục bị xâm phạm. Đó là một kiểu gieo vãi
thân thể nào đó, hoặc chính xác hơn, một vụ gặt hái trên cơ thể con người. Đó
đúng là một trích đoạn của Empedocle. Là kết hợp của trận đánh với nhà bếp hay
với quầy hàng thịt. Đó cũng chính là, như chúng ta đã biết, mảng đề tài của
những lời nguyền rủa và thề thốt quảng trường. Tạm thời ở đây chúng tôi chỉ lưu
ý hình tượng cơ thể nghịch dị, còn việc phân tích ý nghĩa và những cội nguồn
của nó sẽ được dành cho hẳn một chương riêng.
Như vậy, trong đoạn mô tả tình tiết này tất
cả đều mang tính bút pháp, bút pháp theo tinh thần các hình thức hội hè
trào tiếu dân gian. Nhưng các hình thức được đúc kết hàng nghìn năm ấy ở đây
phục vụ cho những nhiệm vụ lịch sử mới của thời đại, chúng thấm đẫm nhận thức
lịch sử lớn lao và thâm nhập sâu xa vào hiện thực.
Tình tiết chúng tôi vừa phân tích rất gần
gũi với câu chuyện “những thủ thuật của Villon” ở San-Macsan (nó được chính de
Base kể để dạy cho những người tham gia màn kịch trào tiếu). Chúng tôi sẽ phân
tích câu chuyện đó ở cuối chương, khi
một lần nữa quay lại tình tiết chúng ta đang xem xét ở đây.
Tất cả những cảnh đánh đập của Rabelais
đều mang tính loại suy. Tất cả chúng đều mang tính hai nghĩa sâu sắc và chứa
chan sự vui vẻ. Chúng được tiến hành cùng với tiếng cười và dành cho tiếng
cười: “Et le tout en riant”.
Chúng tôi phân tích ngắn gọn thêm hai
cảnh nữa: một cảnh máu biến thành rượu, và cảnh khác – cuộc ẩu đả biến thành
bữa tiệc và cuộc chè chén.
Cảnh thứ nhất là tình tiết nổi tiếng thày
dòng Jean giết 13 622 người trong vườn nho của tu viện. Đó là một trận đánh
khốc liệt nhất: “…thầy quật đổ họ như những con lợn, oánh túi bụi bên phải, bên
trái theo phương pháp cổ truyền. Một số người bị thầy cho bay đầu, những người
khác bị bẻ gãy tay và chân, những kẻ thứ ba bị vặn đốt sống cổ, những người thứ
tư bị sụn lưng, những kẻ còn lại người trẹo mũi, kẻ tím mắt, vỡ hàm, răng rụng
vào yết hầu, què chân, trật xương vai, gãy đùi, lòi xương khuỷu tay. Nếu kẻ nào
định trốn trong những bụi nho rậm rạp, người đó bị thầy đập nát xương cùng và
bẻ gãy lưng như những con chó. Kẻ nào muốn tháo chạy, thầy đập cho vỡ sọ thành
từng mảnh theo đường khớp xương hậu chẩm với xương bên của đại não. Kẻ nào trèo
lên cây, tưởng rằng thế là thoát thân, thì kẻ đó bị thầy lấy gậy xọc vào hậu
môn… Nếu ai đó dũng cảm mà thiếu suy nghĩ, muốn chiến đấu mặt đối mặt với thầy,
thầy liền cho kẻ đó thấy sức mạnh các cơ bắp của thầy, thầy đập tan lồng ngực và
trái tim hắn ta ra. Một số người nếu không nhắm được đúng mông, thì thầy lộn mề
họ ra, và họ chết ngay tức thì. Những người khác bị thầy đánh rất hiểm vào rốn,
đến nỗi họ lòi cả ruột. Xin hãy tin tôi, đó là một cảnh tượng hãi hùng nhất
trên đời!” (Ở đây chúng tôi đã phần nào tóm lược văn bản về tình tiết đó).
Trước mắt chúng ta là một vụ gặt hái đích
thực trên cơ thể.
Khi thuộc hạ của thày dòng Jean chạy đến
giúp thầy, thầy ra lệnh cho họ “xử trảm nốt” những kẻ bị thương. “Khi đó các
thuộc hạ bắt đầu cắt cổ và kết liễu những kẻ tử thương. Mà các vị có biết bằng
vũ khí gì không? Rất đơn giản là bằng những chiếc dao nhỏ mà trẻ con các vùng
quê chúng ta hay dùng để tách những hạt dẻ còn xanh”.
Trận đánh khốc liệt và đẫm máu nhất ấy
được thày dòng Jean tiến hành nhằm cứu vụ rượu mới. Và toàn bộ cái cảnh đẫm máu
ấy thấm đượm một giọng điệu không chỉ vui vẻ, mà còn hân hoan ra mặt. Đó là
“vườn nho của Dionisos”, đó là vendange nghĩa là ngày hội thu hoạch nho.
Bởi vì vừa đúng lúc đó là thời gian diễn ra tình tiết này. Những chiếc dao nhỏ
của trẻ con mà bọn trai tráng thuộc hạ sử dụng khiến chúng ta nhìn thấy đằng
sau chất sền sệt máu me của những thân người xé nhỏ ấy là những thùng chứa đầy
chất “purée septembrale” (“chất quánh tháng mười làm rượu nho”), mà Rabelais
nhắc tới nhiều lần. Đó là quá trình máu biến thành rượu1.
Chúng ta chuyển sang tình tiết thứ hai. Trong quyển II,
chương XXV kể về việc Pantagruel cùng với bốn người bạn đường chiến thắng 660
hiệp sĩ của vua Anarche. Nhờ sử dụng thuốc nổ một cách thông minh họ đã
thiêu cháy tất cả các hiệp sĩ ấy. Ngay sau đó mọi người bước vào một bữa tiệc
vui vẻ. Carpalim bắt được một số lượng lớn muông thú. “Không chậm trễ chút nào
Epistemon nhân danh chín nữ thần thi ca làm ra chín chiếc que nướng thịt bằng
cành cây theo kiểu cổ đại. Evsphen bắt tay vào lột da. Panurge đặt hai cái yên
cương trước đây thuộc về các hiệp sĩ, tạo nên một thứ giống như bếp lò, nhiệm
vụ đầu bếp được đặt cho một tên tù binh, và hắn ta nướng thịt trên chính
ngọn lửa đã thiêu cháy các hiệp sĩ.
Và thế là họ bắt đầu một bữa tiệc to như trái núi.
Tất cả ăn cho đến căng rốn. Thật vô cùng thú vị nhìn thấy họ tọng thức ăn như
thế nào”.
Như vậy, đống lửa trên đó người ta vừa thiêu người, đã biến
thành lò lửa nhà bếp vui vẻ, trên đó người ta nướng cả núi muông thú. Tính chất
hội hè hội giả trang dân gian của đống lửa ấy và màn thiêu cháy các hiệp sĩ
(người ta cũng thường đốt các hình nộm của mùa đông, thần chết và năm cũ như
vậy) cùng với “bữa đại tiệc cho toàn thế giới” sau đó trở nên đặc biệt rõ ràng
trong phần phát triển tiếp theo của tình tiết này. Pantagruel cùng với những
người bạn đường quyết định dựng các cây cột khải hoàn tại chỗ diễn ra trận đánh
và bữa tiệc. Pantagruel dựng một cây cột trên đó treo những đồ tượng trưng cổ
xưa của các hiệp sĩ bị thiêu cháy – giáp trụ, đinh thúc ngựa, áo giáp lưới sắt,
găng tay thép, ủng. Trong lời đề từ cho các chiến lợi phẩm, chàng ca ngợi chiến
thắng của trí tuệ con người mạnh mẽ trước chiếc áo giáp trụ nặng nề (bởi họ đã
thiêu cháy các hiệp sĩ nhờ áp dụng một cách thông minh thuốc súng). Panurge
dựng cây cột khác, trên đó treo các chiến lợi phẩm của bữa tiệc: sừng, da dê,
chân dê, tai thỏ, cánh chim, v.v… Ngoài ra còn các chai ve đựng dấm, tù và đựng
muối, que nướng thịt, kim khâu lớn, chảo, bình đựng nước xốt, lọ muối và ca
cốc. Dòng đề từ cho chiến lợi phẩm của chàng ca ngợi bữa tiệc và đưa ra một
công thức nấu ăn1.
Hai cây cột khải hoàn ấy đã truyền đạt rất thành công tính
hai mặt của toàn bộ hệ thống các hình tượng hội hè dân gian. Đề tài lịch sử thuốc
nổ chiến thắng bộ áo giáp hiệp sĩ và những bức tường thành lâu đài (đề tài
“Các cảnh thời hiệp sĩ” của Puskin), đề tài sự chiến thắng của trí tuệ đầy sáng
tạo trước sức mạnh thô lậu nguyên thuỷ được đưa ra ở đây trong sự xử lý kiểu
hội giả trang. Vì thế mà loại chiến lợi phẩm thứ hai trưng ra các kiểu vật
dụng nhà bếp-hội giả trang: que nướng thịt, que xiên, chai lọ v.v,… Cái chết
của thế giới cũ và niềm vui yến tiệc của thế giới mới hoà làm một trong hệ thống các hình tượng này:
đống lửa thiêu thành tro cái cũ biến thành bếp lò của bữa tiệc. Con chim phượng
hoàng lửa của cái mới được sinh ra từ tro tàn của cái cũ.
Liên quan đến vấn đề này chúng tôi xin nhắc tới tình tiết
Panurge ở Thổ Nhĩ Kỳ. Sau khi bị người Thổ Nhĩ Kỳ bắt làm tù binh, vì đức tin
của mình mà Panurge suýt nữa phải chết bởi cái chết đau đớn trên lửa, nhưng rồi
chàng được cứu thoát một cách diệu kỳ. Tình tiết được xây dựng như một cải biên
giễu nhại về việc khổ hình biến thành điều kỳ diệu như thế nào. Người ta nướng
Panurge trên que xiên thịt, trước đó thoa thêm mỡ lợn lên người chàng, bởi
chàng không được béo lắm. Như vậy, đống lửa hành hình ở đây đã trở thành cái lò
lửa nhà bếp. Cuối cùng, chàng được giải thoát một cách diệu kỳ, hơn thế nữa,
chính chàng lại nướng kẻ hành hạ mình. Tình tiết kết thúc bằng bài ngợi ca
những gì được nướng trên que xiên thịt.
Như vậy, máu trong tác phẩm của Rabelais biến thành rượu,
còn các trận đòn tàn khốc và cái chết khủng khiếp biến thành bữa đại tiệc vui
vẻ, đống lửa hiến sinh biến thành ngọn lửa nhà bếp. Các trận đánh đẫm máu,
sự phanh xé cơ thể, sự thiêu đốt, cái chết, những trò hành hạ, các đòn đánh,
lời nguyền rủa, lời chửi bới đều đắm chìm trong “thời gian vui vẻ”, nó
vừa tiêu diệt, vừa sinh hạ, nó không cho bất kỳ cái gì già cũ được lưu danh
muôn thuở và không ngừng sinh ra cái mới trẻ trung. Cách hiểu đó về thời
gian không phải là tư duy trừu tượng của Rabelais, mà có thể nói, nó “nội tại”
trong chính hệ thống các hình tượng hội hè dân gian truyền thống mà ông được
thừa hưởng. Rabelais không tự tạo ra hệ thống ấy, nhưng thông qua ông nó vươn
lên một cấp độ mới, cao nhất trong sự phát triển lịch sử của mình.
Nhưng phải chăng tất cả những hình tượng ấy đơn thuần chỉ là
truyền thống đã bị suy vong và lấn lướt? Có thể, tất cả những chiếc nơ người ta
buộc vào tay áo tên hớt lẻo bị đánh đòn kia, những trận ẩu đả và lời chửi mắng
bất tận kia, cơ thể bị phanh xé thành nhiều mảnh, những vật dụng nhà bếp kia
chỉ là những tàn dư vô nghĩa của các thế giới quan cổ xưa, đã trở thành một
hình thức đông cứng, một gánh nặng không cần thiết cản trở chúng ta nhìn thấy
và mô tả hiện thực đương thời thật sự, như nó hiện hữu trong thực tế?
Không có gì phi lý và xằng bậy hơn một giả thiết như thế. Hệ
thống các hình tượng hội hè dân gian thực sự đã hình thành và tồn tại trong
suốt chiều dài hàng nghìn năm. Trong quá trình phát triển dài lâu của nó cũng
có những quặng xỉ, có cả những trầm tích đông cứng trong đời sống, tín ngưỡng,
trong các thiên kiến. Nhưng ở tuyến phát triển chính của mình, hệ thống ấy vẫn
lớn lên, ngày càng phong phú nhờ những ý nghĩa mới, thấm hút vào mình những
ước vọng và suy nghĩ mới của nhân dân, nhào nặn trong lò lửa của kinh
nghiệm dân gian mới. Ngôn ngữ các hình tượng được làm giàu thêm bởi những sắc
thái ý nghĩa mới và ngày càng tinh tế hơn.
Nhờ thế các hình tượng hội hè dân gian có thể trở thành thứ
vũ khí mạnh mẽ để thâu tóm hiện thực dưới góc độ nghệ thuật, có thể trở thành
nền tảng của một chủ nghĩa hiện thực đích thực sâu rộng. Những hình tượng dân
gian đó giúp chúng ta nắm bắt không phải cái hình ảnh tự nhiên, nhất thời,
trống rỗng, vô nghĩa và tản mạn của hiện thực,- mà chính là cái quá trình hình
thành nên nó, ý nghĩa và xu hướng phát triển của quá trình đó. Từ đây mà hệ
thống các hình tượng hội hè dân gian có tính phổ quát sâu xa nhất và sự lạc
quan tỉnh táo nhất.
Trong sáng tác của Rabelais hệ thống các hình tượng ấy sống
một cuộc sống sôi động, nóng hổi và hoàn toàn có ý thức, hơn nữa nó sống một
cách toàn thể từ mở đầu đến kết thúc, đến những chi tiết nhỏ nhất, đến
từng chiếc nơ nhiều màu trên tay áo tên hớt lẻo bị đánh, đến cái mặt đỏ của tên
hớt lẻo khác, đến khúc cây thánh giá có những nhánh lá héo tàn mà thày dòng
Jean sử dụng, đến cái tên lóng “Thằng răng gẫy” của anh ta. Không hề có một tàn
tích vô nghĩa và đông cứng nào,- tất cả đều đầy ắp ý nghĩa thời sự, có mục đích
và thống nhất. Trong mỗi chi tiết đều hiện hữu một nhận thức nghệ thuật
có trách nhiệm và rõ ràng (và, tất nhiên, không duy lý hẹp hòi) của Rabelais.
Điều đó dĩ nhiên không có nghĩa là mỗi chi tiết đều được hư
cấu, suy ngẫm và cân nhắc bởi tư duy trừu tượng của tác giả. Rabelais
làm chủ một cách ý thức và nghệ thuật bút pháp của mình, một bút pháp lớn của
các hình thức hội hè dân gian; lôgic của bút pháp hội giả trang đó đã mách bảo
ông về cái mặt đỏ của tên hớt lẻo, về sự hồi sinh vui vẻ của hắn sau khi bị
đánh, về việc so sánh với một và thậm chí hai ông vua. Nhưng tư duy trừu tượng
của ông chắc gì đã lựa chọn và cân nhắc những chi tiết ấy một cách riêng lẻ.
Ông, cũng như tất cả những người cùng thời với ông, vẫn đang sống trong thế
giới của những hình thức ấy và hít thở bằng không khí của chúng, ông nắm bắt tự
tin ngôn ngữ của chúng, không cần tới sự kiểm tra thường xuyên của nhận thức
trừu tượng.
Chúng ta đã xác định mối liên hệ căn bản giữa các đòn đánh,
lời chửi mắng với sự hạ bệ. Lời chửi mắng trong tác phẩm của Rabelais không bao
giờ chỉ mang tính chất thoá mạ cá nhân. Chúng phổ quát và - tựu trung lại –
luôn vươn tới cái tối cao. Đằng sau mỗi kẻ bị đánh và bị chửi, Rabelais dường
như nhìn thấy một ông vua, một cựu hoàng, hay một kẻ đang ngấp nghé làm vua.
Đồng thời hình tượng tất cả những kẻ bị phế truất đó lại vô cùng hiện thực và
sống động. Tất cả những tên hớt lẻo và thóc mách ấy, những kẻ vu khống và đạo
đức giả u tối mà ông đánh, ông đuổi, ông chửi mắng đều rất thật. Tất cả những
bộ mặt đó đều đáng bị cười nhạo, chửi rủa và đánh đập như những tượng trưng cá
nhân cho quyền lực và chân lý đang lùi vào quá khứ: của tư tưởng thống trị, của
quyền thế, đức tin và phẩm hạnh cũ.
Cái quyền lực và chân lý cũ đó muốn kỳ vọng đến cái tuyệt
đối, đến những giá trị phi thời gian. Vì thế tất cả những đại diện của chân lý
cũ và quyền lực cũ đều nghiêm nghị đến cau có, chúng không biết và không muốn
cười. Chúng xuất hiện một cách oai nghiêm, coi tất cả kẻ thù của mình là kẻ thù
của chân lý vĩnh cửu và vì thế đe dọa họ bằng cái chết vĩnh cửu. Quyền lực
thống trị và chân lý thống trị không soi mình trong tấm gương của thời đại, vì
thế chúng không nhìn thấy cái mở đầu của mình, những giới hạn và cái kết thúc
của mình, không thấy bộ mặt già nua và nực cười của chính bản thân mình, sự
khôi hài của các cao vọng mơ ước tới sự vĩnh cửu và bất biến của chúng. Và
những đại diện của quyền lực cũ và chân lý cũ với dáng vẻ nghiêm trang nhất và
giọng điệu nghiêm túc nhất đã cố đóng vai của mình, trong khi khán giả đã bật
cười từ lâu. Chúng tiếp tục nói bằng giọng điệu nghiêm trang, oai vệ, dọa dẫm,
đe nẹt của các ông vua hoặc những tên mõ rêu rao cho “chân lý vĩnh cửu”, không
nhận thấy là thời gian đã khiến giọng điệu ấy trở nên khôi hài trên môi chúng
và biến quyền lực và chân lý cũ thành một hình nộm hội giả trang trong lễ tiễn
mùa đông, thành con ngáo ộp lố bịch bị dân chúng xâu xé cùng với tiếng cười
trên quảng trường1
Vì vậy quí ngài Rabelais tối tốt bụng đã trừng trị thẳng
tay, không thương xót một cách vui vẻ những hình nộm đó. Về thực chất,
người trừng trị chúng chính là bản thân thời gian vui vẻ, nhân danh thời
gian và bằng giọng điệu của thời gian mà Rabelais cất tiếng nói. Rabelais không
hành hạ những kẻ đang sống – cứ để họ ra đi,- nhưng đầu tiên hãy để mọi người
lột khỏi họ bộ trang phục đế vương hoặc chiếc áo choàng lộng lẫy vũ hội hoá
trang của vị một tôn sư Sorbonne, hay một kẻ rao giảng chân lý của Chúa. Ông
thậm chí sẵn sàng sau đó ban tặng cho họ hoặc một túp lều nhỏ xiêu vẹo ở sân
sau cùng với một cối xay nhỏ để xay hành củ làm nước xốt xanh, như đã thưởng
cho vua Anarche, hoặc một mảnh dạ may quần mới, một cái bát to để ăn, những
khúc giò và củi đốt, như đã tặng cho tôn sư Ianotus Bragmardo.
Xin dừng lại ở tình tiết tôn sư Ianotus. Tình tiết đó gắn
với việc Gargantua thời trẻ đánh cắp những quả chuông của nhà thờ Đức bà Paris.
Bản thân môtip đánh cắp chuông được Rabelais khai thác từ
“Ký sự Vĩ đại”, nhưng ông đã mở rộng và cải biến thêm trong tiểu thuyết.
Gargantua đánh cắp những quả chuông lịch sử của nhà thờ Notre-Dame, biến chúng
thành lục lạc cho con ngựa cái khổng lồ của mình, mà chàng định dùng nó
để chở phomát và cá đến cho vua cha. Hạ bệ những quả chuông nhà thờ Sorbonne
thành cái lục lạc ngựa – là hành động hạ thấp điển hình kiểu hội giả trang,
kết hợp sự hạ bệ phế bỏ với sự đổi mới phục sinh trên bình diện vật chất-thân
xác mới.
Biểu tượng quả chuông hay lục lạc (đa phần của bò) đã xuất
hiện trong những chứng cứ cổ xưa nhất về các màn trình diễn hội giả trang như
thành tố nhất thiết phải có của chúng. Những quả chuông cũng là phần phụ trợ
phổ biến trong các hình tượng huyền thoại về “binh đoàn mọi rợ”, “cuộc săn
hoang dã”, “đoàn người của quỉ Erlequin”, từ thời rất xa xưa chúng đã đan kết
với các hình tượng của đám rước hội giả trang. Hình tượng các quả chuông bò
cũng có trong các mô tả lễ hội charivari đầu thế kỷ XIV trong “Roman de
Fauvel”. Chúng ta đều biết vai trò của những chiếc lục lạc hài trên quần, áo,
mũ, gậy và vương trượng hài của những thằng hề. Cho đến ngày nay chúng ta vẫn
còn nghe thấy tiếng ngân của những chùm lục lạc trên càng xe đám cưới và trong
lễ tiễn mùa đông.
Ở phần mô tả “màn yêu thuật” mà Francois Villon dàn dựng
trong tác phẩm của Rabelais cũng có những quả chuông và lục lạc. Những người
tham gia màn yêu thuật “nai nịt bằng những thắt lưng to bản, trên đó treo lục
lạc bò và chuông của la, chúng phát ra những tiếng kêu leng keng kinh khủng”1. Bản thân trò hạ bệ các quả chuông cũng
được lặp lại một lần nữa trong tiểu thuyết của Rabelais.
Ở tình
tiết thiêu cháy 660 hiệp sĩ và biến đống lửa mai táng thành ngọn lửa nhà bếp mà
chúng tôi đã phân tích, đến đúng cao trào của bữa tiệc, khi tất cả đang làm
việc bằng quai hàm, Pantagruel tuyên bố: “Giá mà gắn được vào cằm mỗi đứa trong
các cậu hai cặp lục lạc, còn cho tớ những quả chuông rền vang các vùng
Puatie, Ranh, Tur và Kambre,- thì bọn mình sẽ làm nên một buổi hoà nhạc ra trò,
khi những chiếc quai hàm này làm việc”.
Những quả chuông nhà thờ
và quả chuông con ở đây hoá ra không phải treo trên cổ bò hay cổ la, mà là dưới
cằm những kẻ đang chè chén vui vẻ; âm thanh của chúng phản ánh cử động của
những quai hàm đang nhai. Thật khó tìm đâu một hình ảnh rõ ràng và trực quan
hơn, mặc dù hơi thô thiển để bộc lộ cái lôgic của trò chơi hạ bệ kiểu
Rabelais,- lôgic của hạ thấp chửi mắng phế bỏ và đổi mới phục sinh. Những quả
chuông bị hạ bệ từ bình diện cao, tháo xuống từ các gác chuông nhà thờ vùng
Puatie, Ranh, Tur và Kambre, bất ngờ tái sinh trên bình diện ăn uống chè chén
và phục sinh tiếng ngân của mình, phụ họa theo cử động của những cái mồm đang
nhai. Xin nhấn mạnh chính sự bất ngờ trong cách sử dụng các quả chuông theo
kiểu mới này đã bắt hình tượng của chúng dường như sinh ra một lần nữa. Hình
tượng này xuất hiện trước mắt chúng ta, như cái gì đó hoàn toàn mới trong bối
cảnh mới, xa lạ và không đặc trưng đối với sự xuất hiện thông thường của nó. Và
môi trường, tại đó diễn ra sự ra đời hình tượng mới ấy là môi
trường vật chất-thân xác, ở trường hợp này là phương diện tiệc tùng của nó.
Chúng tôi xin nhấn mạnh đến nghĩa đen, đến phép trắc đạc không gian của sự hạ
thấp: những quả chuông từ tầng cao trên gác chuông bị đưa xuống phía
dưới, xuống những cái hàm đang nhai.
Bình diện cỗ tiệc, sự
phục sinh những quả chuông, tất nhiên rất xa lạ với hành vi ăn uống sinh vật
thông thường, cũng như với những bữa tiệc sinh hoạt cá nhân nhỏ hẹp. Bởi đó là
“bữa đại tiệc toàn thế gian” của người khổng lồ nhân dân cùng với những người
bạn chiến đấu bên lò lửa lịch sử, nó thiêu cháy thế giới cũ của nền văn hoá
hiệp sỹ-phong kiến.
Chúng ta hãy quay trở
lại tình tiết xuất phát điểm là hành động đánh cắp những quả chuông. Bây giờ
hoàn toàn dễ hiểu là tại sao Gargantua muốn biến những quả chuông nhà thờ Đức
Bà thành chuông cho con ngựa cái của mình. Và trong quá trình diễn tiến tiếp
theo của tình tiết, những quả chuông lớn và nhỏ lúc nào cũng gắn với những hình
ảnh của tiệc tùng hội giả trang. Huân tước dòng tu thánh Antoni cũng không phản
đối việc đánh cắp những quả chuông ấy, để qua tiếng ngân của chúng báo hiệu
mình đang đến gần và chuẩn bị mỡ muối ở các nhà kho (ông được trao nhiệm
vụ “thu thập mỡ muối” từ dân chúng). Lý do chính để trả lại các quả chuông, như
tôn sư Ianotus Bragmardo nêu ra trong bài diễn văn của mình,- là tiếng chuông
có ảnh hưởng tốt đẹp đến độ phì nhiêu của các vườn nho vùng Paris. Lý do quyết định khác là Ianotus sẽ
được ban cho giò và quần dài, những thứ người ta hứa sẽ cho ông trong trường
hợp các quả chuông được hoàn lại. Như vậy trong tình tiết này các quả chuông
lúc nào cũng ngân vang không khí ẩm thực hội giả trang.
Nhưng Ianotus Bragmardo
là ai? Theo chủ ý của Rabelais, đấy là thành viên già nhất của Sorbonne.
Sorbonne có nhiệm vụ giữ gìn trật tự của đạo Chính giáo và chân lý thần thánh
không gì phá vỡ nổi, là chúa tể của số phận bất kỳ loại tư duy và sách vở tôn
giáo nào. Sorbonne, như mọi người đều biết, chỉ trích và cấm đoán những cuốn
tiểu thuyết của Rabelais ngay từ khi chúng vừa ra mắt, nhưng may sao, Sorbonne
vào thời kỳ đó đã không còn sức mạnh tuyệt đối nữa. Người đại diện cho khoa
thần học đáng kính đó chính là Ianotus Bragmardo. Song với những suy tính thận
trọng (dù sao cũng không nên đùa với Sorbonne) Rabelais đã xoá đi hầu hết những
dấu hiệu bề ngoài ám chỉ đến Sorbonne1.
Ianotus được giao nhiệm vụ bằng những lời thông thái và hùng biện thuyết phục
Gargantua trả lại những quả chuông chàng đã đánh cắp. Nhờ đó ông ta được hứa sẽ
có phần thưởng hậu hĩnh theo kiểu “hội giả trang” dưới dạng quần dài, giò và
rượu.
Khi Ianotus trên người
khoác chiếc áo choàng dài long trọng, với vẻ quan trọng hài hước của một tôn sư
Sorbonne cùng các phụ tá tháp tùng đến nhà Gargantua, thì thoạt tiên người ta
tưởng bầy đoàn kỳ dị đó là một đám rước vũ hội hoá trang. Đoạn văn đó như sau:
“Tôn sư Ianotus, tóc
chải theo kiểu Iulia Cezar, đầu đội chiếc mũ hành lễ, sau khi đã chén thoả
thích bánh bột với mứt và uống nước thánh lấy từ hầm chứa lên, liền lên đường
gặp Gargantua. Đi đầu là ba viên thừa lại mặt đỏ, những kẻ nếu đã đeo bám ai
thì không thể nào dứt ra khỏi họ được, theo sau đám rước có khoảng dăm vị tôn
sư khoa học không được tề chỉnh cho lắm, tất cả bẩn kinh khủng như nhau.
Ponocrate đón họ ở cổng,
và bộ dạng những người này khiến cho tiên sinh hoảng sợ; cuối cùng tiên sinh
cho rằng họ là một đám hề, và hướng về một trong những vị tôn sư không được tề
chỉnh cho lắm nói trên tiên sinh hỏi cái vũ hội hoá trang này nghĩa là gì.
Người kia trả lời là họ đi xin trả lại chuông” (quyển I, chương XVIII).
Ở đây cần nhấn mạnh những
đồ giả kiểu hội giả trang qua hình tượng vị tôn sư Sorbonne và những người
cùng đi với ông ta (kể cả “những cái mặt đỏ” quen thuộc với chúng ta). Họ biến
thành những thằng hề hội giả trang, thành một đám rước trào tiếu vui vẻ.
Còn cụm từ “nước thánh lấy từ hầm chứa” – là một ngụ ý trá hình rất thông dụng
về rượu.
Sau khi biết chuyện gì
xảy ra, Gargantua và các bạn đồng hành của chàng liền quyết định diễn một vở
kịch vui nhộn với Ianotus. Trước hết họ cho ông ta uống “theo kiểu thần học”2, và trong lúc ấy họ trả chuông cho các
vị đại diện thành phố được mời đến. Sau đó, Ianotus buộc phải phát biểu những
lời gây cười, đặc biệt để làm vui lòng những người có mặt. Ông ta phát biểu với
tất cả tầm quan trọng và sự nghiêm trang, và nằng nặc đòi trả lại chuông mà
không biết rằng công việc với những quả chuông đã kết thúc từ lâu không có ông
ta, và trên thực tế ông ta đơn giản chỉ đóng vai một thằng hề hội chợ. Trò lừa
này càng làm tăng thêm tính chất hội giả trang của hình tượng một vị Sorbonne
bị văng ra khỏi nhịp sống hiện thực và trở thành con bù nhìn cho mọi người cười
nhạo, nhưng vẫn tiếp tục đóng vai của mình với giọng điệu nghiêm trang nhất
mực, không hề nhận thấy xung quanh mọi người đã bật cười từ lâu.
Bản thân bài diễn văn
của Ianotus là một bài giễu nhại tuyệt vời thuật hùng biện của những người làm
việc cho Sorbonne, cách lập luận của họ, thứ tiếng Latinh của họ. Bài giễu nhại
đó gần như xứng đáng được đứng bên cạnh “Những bức thư của lũ người ngu tối”.
Song trong bài diễn văn nhại của Ianotus từ đầu chí cuối với một nghệ thuật lớn
lao cho thấy hình ảnh của sự già cỗi. “Biên bản tốc ký” bài diễn văn đó
đầy dẫy những yếu tố nhại âm, thể hiện các hình thức và mức độ ho, đằng hắng,
khạc nhổ, khó thở và phì phò. Ngôn ngữ đầy những từ nói nhịu, nói hớ, những
đoạn cướp lời, ngắt quãng, ngắc ngứ trước những suy nghĩ bị tuột mất, các tìm
kiếm từ ngữ thích hợp một cách khó khăn. Bản thân Ianotus cũng chân thành than
vãn về tuổi già của mình. Hình ảnh mang tính sinh học này về tuổi già lụ khụ
của con người đan kết khéo léo thành một ấn tượng mạnh mẽ và thống nhất về sự
già cỗi của xã hội, hệ tư tưởng và ngôn ngữ của những kẻ làm việc cho Sorbonne.
Đó là năm cũ, mùa đông cũ, vị vua cũ nay trở thành thằng hề. Tất cả mọi người
vui vẻ cười nhạo Ianotus; và cuối cùng bản thân ông ta cũng bắt đầu cười.
Nhưng người ta chỉ cười
nhạo cái hình nộm tên Sorbonne. Còn ông già Ianotus sẽ được họ tặng những gì
ông ta cần. Mà cái ông ta cần, như ông ta thú nhận, cũng không nhiều: “Sao cho
lưng được gần ngọn lửa hơn, bụng được gần bàn ăn hơn, và sao cho bát lúc nào
cũng đầy đến miệng!”. Đó là thực tế duy nhất còn lại từ những cao vọng của
những kẻ làm việc cho Sorbonne. Gargantua hào phóng tặng cho ông ta tất cả
những thứ đó. Nhưng tên Sorbonne thì bị cười nhạo và trừ khử đến cùng.
* * *
Tất cả những gì chúng
tôi vừa phân tích từ đầu đến giờ: các tình tiết và hình tượng riêng lẻ, những
cảnh chiến trận, ẩu đả, đấm đá, cười nhạo, hạ bệ con người (các đại diện của
quyền lực cũ và chân lý cũ), cũng như đồ vật (ví dụ, các quả chuông) đều được
Rabelais nhào nặn và viết theo bút pháp của tinh thần hội hè-dân gian hội giả
trang. Vì thế tất cả chúng đều nhị chức năng: sự phế truất và hạ bệ gắn liền
với sự ra đời và đổi mới, sự tiêu vong cái cũ gắn liền với sự sinh ra cái mới.
Tất cả các hình tượng đều được đưa vào một khối thống nhất đầy mâu thuẫn của
thế giới vừa đang chết đi vừa đang sinh ra. Nhưng không chỉ các tình tiết chúng
tôi vừa phân tích, mà toàn bộ cuốn tiểu thuyết từ đầu chí cuối thấm đẫm không
khí hội giả trang. Hơn thế nữa, hàng loạt tình tiết và những cảnh quan trọng
đều gắn trực tiếp với các lễ hội và mảng đề tài cố định thuần tuý hội hè.
Từ “hội giả trang” ở đây
được chúng tôi sử dụng theo nghĩa rộng. Hội giả trang, với tư cách một hiện
tượng hoàn toàn xác định, vẫn tồn tại cho đến tận ngày nay, trong khi đó những
hiện tượng khác của đời sống hội hè dân gian, gần gũi với nó về tính chất và phong
cách (và cả về nguồn gốc xuất xứ), trừ một số ít ngoại lệ, đã chết từ lâu hoặc
thoái hoá đến mức không còn nhận ra được nữa. Hội giả trang rất quen thuộc với
mọi người. Trong suốt nhiều thế kỷ nó thường xuyên được miêu tả. Thậm chí đến
giai đoạn phát triển gần đây nhất – thế kỷ XVIII và XIX – hội giả trang dưới
hình thức tương đối rõ nét, dù mang tính sinh hoạt đời thường, vẫn giữ được một
vài trong số những đặc điểm cơ bản của tố chất hội hè dân gian. Hội giả trang
khai mở cho chúng ta tố chất hội hè-dân gian cổ xưa như là mảnh vỡ được lưu giữ
tốt nhất từ cái thế giới khổng lồ và phong phú ấy. Điều đó cho phép chúng tôi
sử dụng tính ngữ “hội giả trang” ở nghĩa rộng nhất, được hiểu trong đó không
chỉ các hình thức hội giả trang theo nghĩa hẹp và chuẩn xác, mà là toàn bộ đời
sống hội hè dân gian đa dạng và phong phú thời trung cổ và Phục Hưng với những
đặc điểm cơ bản của nó, được trình bày một cách trực quan trong hội giả trang ở
các thế kỷ tiếp theo, khi phần lớn các hình thức khác đã chết đi hoặc thoái hóa.
Nhưng ngay hội giả trang
ở nghĩa hẹp của nó cũng là một hiện tượng hoàn toàn không đơn giản và đơn
nghĩa. Nó liên kết trong cùng một khái niệm hàng loạt lễ tết địa phương đủ mọi
nguồn gốc, trùng với những thời gian khác nhau trong năm, nhưng có một số nét
chung của các trò vui dân gian. Quá trình liên kết các hiện tượng bản địa khác
nhau đó trong một từ “carnaval” và đưa chúng vào một khái niệm cũng tương ứng
với quá trình thực tế diễn ra ngay trong chính cuộc sống: các hình thức hội
hè-dân gian đủ loại, khi chết đi hoặc thoái hóa, đã trao truyền lại hàng loạt
thành tố của mình – các nghi thức, động tác, các hình tượng, mặt nạ - cho
carnaval. Hội giả trang trong thực tế trở thành một kho chứa để các hình thức
hội hè-dân gian ngừng tồn tại độc lập bây giờ tụ hội vào đó.
Quá trình liên kết vào
hội giả trang các hình thức hội hè-dân gian đó, dĩ nhiên, diễn ra theo kiểu của
mình và vào các thời điểm khác nhau không chỉ ở các nước khác nhau, mà thậm chí
ở các thành phố cũng khác nhau. Dưới hình thức rõ ràng nhất và, có thể nói, cổ
điển nhất, quá trình đó diễn ra ở Italia, chính tại Roma (và ở cả các thành phố
khác của Italia, mặc dù có lẽ không được rõ nét như vậy), sau đó là ở Pháp – ở Paris. Dưới hình thức cổ
điển đậm hoặc nhạt màu hơn (nhưng vào những thời điểm muộn hơn) quá trình đó
diễn ra ở Niurnberg và Keln. Ở nước Nga quá trình ấy hoàn toàn không kết thúc:
các hình thức khác nhau nhất của trò vui hội hè-dân gian mang tính toàn thể,
cũng như địa phương (lễ tiễn mùa đông, các ngày lễ thánh, lễ Phục sinh, hội
chợ, v.v…) vẫn không bị liên kết và không nổi bật lên thành một hình thức ưu
thắng nào đó, tựa như carnaval của Tây Âu. Pie Đại Đế, như chúng ta đều biết,
đã định đưa vào nước Nga những hình thức truyền thống châu Âu của “ngày hội
những thằng ngốc” (chọn “giáo hoàng hề nhộn nhất”, v.v…), những trò đùa kiểu
hội giả trang ngày mồng một tháng Tư, v.v…, nhưng những hình thức ấy không cố
kết và không tập hợp được quanh mình các truyền thống bản địa.
Nhưng ngay ở những nơi
quá trình đó diễn ra dưới hình thức cổ điển đậm hay nhạt hơn (Roma, Paris,
Niurnberg, Keln) thì tại những địa điểm khác nhau, cốt lõi của nó lại chính là
các hình thức lễ hội địa phương khác nhau về nguồn gốc và sự phát triển của
mình. Nghi lễ của nó được làm giàu thêm trên bước đường tiếp theo ở các khu vực
khác nhau cũng dựa trên các hình thức khác nhau đã bị tiêu vong của lễ hội bản
địa.
Cần lưu ý rằng nhiều
hình thức hội hè dân gian ấy, sau khi đã trao truyền cho hội giả trang một loạt
đặc tính của mình (hơn thế, trong đa phần trường hợp là những đặc tính quan
trọng nhất) vẫn tiếp tục kéo lê sự tồn tại nghèo nàn và thảm hại của mình song
song với hội giả trang. Ví dụ, tình trạng xảy ra với “charivari” Pháp:
Charivari đã trao cho hội giả trang phần lớn các hình thức của mình, nhưng với
tư cách một loại hình cười nhạo đám cưới nghèo nàn riêng tư (nếu cuộc hôn nhân
vì sao đó bị coi là không bình thường), với tư cách những buổi biểu diễn
chuyệch choạc dưới cửa sổ, nó thậm chí còn sống sót đến tận bây giờ. Tiếp theo,
tất cả các hình thức trò vui hội hè-dân gian ấy, những thứ tạo nên nửa thứ hai,
nửa quảng trường phi chính thống của bất kỳ lễ hội nhà thờ và nhà nước nào, vẫn
tiếp tục tồn tại bên cạnh hội giả trang và không phụ thuộc vào nó, có một loạt
đặc tính chung với nó, ví dụ, việc chọn các vua và nữ hoàng phù du trong ngày
hội các ông vua (“vua đậu”), trong ngày lễ thánh Valentin, v.v… Tất cả những
nét chung ấy được xác định bởi mối liên hệ giữa các hình thức hội hè với thời
gian, ở phương diện hội hè-dân gian của bất kỳ lễ hội nào nó cũng trở thành
nhân vật đích thực, người tiến hành phế truất cái cũ và đăng quang cái mới1. Tất cả những hình thức hội hè-dân gian
đó, dĩ nhiên, vẫn tiếp tục sống xung quanh các lễ hội nhà thờ. Tính chất hội
giả trang nhiều hay ít cũng được lưu giữ trong bất kỳ hội chợ nào (thường trùng
với các lễ hội làm phép thánh cho nhà thờ hoặc lễ mixa đầu tiên. Cuối cùng, các
đặc tính hội giả trang mà chúng ta đã biết được lưu giữ cả trong các lễ lạt
mang tính sinh hoạt đời thường – các đám cưới, lễ rửa tội, giỗ chạp, và trong
các lễ hội nông nghiệp khác nhau – lễ thu hoạch nho (vendange), lễ giết gia súc
(những ngày lễ ấy cũng được Rabelais mô tả), v.v… Ví dụ, chúng ta thấy tính
chất hội giả trang rõ rệt của “nopces á mitaines”, nghĩa là một nghi thức đám
cưới xác định. Mẫu số chung của tất cả các đặc tính hội giả trang trong các lễ
hội khác nhau ấy là mối quan hệ căn bản của chúng với thời gian vui vẻ.
Ở bất kỳ đâu, nếu phương diện tự do hội hè-dân gian của lễ hội còn được lưu
giữ, thì cũng lưu giữ được mối quan hệ ấy đối với thời gian, và vì vậy, lưu giữ
cả những yếu tố mang tính chất hội giả trang.
Nhưng ở những nơi nào
hội giả trang theo nghĩa hẹp hưng thịnh, và trở thành trung tâm liên kết tất cả
các hình thức trò vui hội hè-dân gian, thì ở mức độ đáng kể nó làm yếu đi những
lễ hội còn lại, tước đi ở chúng hầu hết các yếu tố tự do và không tưởng dân
gian. Tất cả các lễ hội còn lại bị mờ nhạt bên cạnh hội giả trang. Ý nghĩa toàn
dân của chúng bị co hẹp lại, đặc biệt là do mối quan hệ trực tiếp của chúng với
sự thờ cúng và tôn ti đẳng cấp của nhà nước và nhà thờ. Hội giả trang trở thành
biểu tượng và hiện thân của ngày hội quảng trường toàn dân đích thực, hoàn toàn
không phụ thuộc vào nhà thờ và nhà nước (nhưng được các thiết chế đó chấp
nhận). Đó chính là hội giả trang La Mã mà Goethe đã viết bài miêu tả nổi tiếng
của mình (hội giả trang năm 1788). Đó còn là hội giả trang La Mã năm 1895,
trong không khí của nó Diterik phác thảo cuốn sách “Pulcinella” (ông đã tặng nó
cho bạn bè La Mã vào dịp hội giả trang năm 1897). Ở thời kỳ đó hội giả trang
hầu như trở thành đại diện duy nhất sống động và rực rỡ cho đời sống hội hè-dân
gian phong phú nhất của các thế kỷ quá khứ.
Vào thời Rabelais, quá
trình tập trung hoá các trò vui hội hè-dân gian vào hội giả trang còn chưa hoàn
tất tại bất kỳ thành phố nào ở nước Pháp. Loại hình hội giả trang được cử hành
vào dịp “mardi gras” (nghĩa là vào “ngày thứ ba béo” của tuần cuối cùng trước
tuần Đại trai), chỉ là một trong vô vàn những hình thức vui vẻ của hội hè-dân
gian, mà quả thực, lúc đó đã là một hình thức rất quan trọng. Chiếm địa vị to
lớn trong đời sống hội hè quảng trường, như chúng tôi đã nói, là các hội chợ
(tại các thành phố khác nhau chúng có từ hai đến bốn lần trong năm). Các trò
vui hội chợ đều mang tính chất hội giả trang. Chúng tôi xin nhắc lại vô số lễ
hội dân gian chúng tôi đã nêu ở chương trước tại thành phố Lion. Vào thời
Rabelais, vẫn còn sống động các hình thức muộn mằn của “ngày hội những thằng
ngốc” cổ xưa: đó là các lễ tiết mà Hội “Societas cornardorum” đã tổ chức ở Ruan
và Evre, việc lựa chọn vị giáo chủ hề (“Abbas cornardorum” hay “Abbé des
Conard”) và màn kết thúc các đám rước hội giả trang (như chúng tôi đã trình
bày).
Tất nhiên, Rabelais biết
rất rõ đời sống hội hè phong phú ấy của thời đại mình, ở cả thành phố lẫn nông
thôn. Vậy những ngày hội nào đã được mô tả trực tiếp trong tiểu thuyết của ông?
Ngay ở phần đầu của
“Gargantua” – ở các chương IV, V và VI - đã mô tả “ngày hội giết gia súc” với
một bữa tiệc vui vẻ, trong bữa tiệc xảy ra sự ra đời kỳ lạ của nhân vật chính Gargantua.
Đó là một trong những tình tiết tuyệt vời nhất và đặc trưng nhất cho phong cách
Rabelais trong toàn bộ bộ tiểu thuyết. Chúng ta nhất thiết phải dừng lại phân
tích nó.
Chúng tôi xin trích dẫn
phần mở đầu của tình tiết:
“Đấy, Gargamella đã sinh
nở trong hoàn cảnh ấy và bằng cách đó đấy; nếu các người không tin, thì cầu cho
các người sẽ bị xổ ruột ra!
Còn Gargamella xổ ruột
vào ngày mồng ba tháng hai, sau bữa ăn trưa, bởi nàng đã ăn quá nhiều
“godbijo”. “Godbijo” đó là món lòng béo bổ của loại bò “coaro”. “Coaro” là
những con bò thiến, được nuôi nấng ở dưỡng súc đường và những đồng cỏ “gimo”.
“Gimo” là những đồng cỏ người ta chỉ cắt hai lần trong một mùa hè. Vậy là người
ta xử trảm ba trăm sáu mươi bảy nghìn không trăm mười bốn con bò thiến béo như thế,
và quyết định ướp muối trộn với dầu, tính sao cho đủ đến mùa xuân, để trước mỗi
bữa ăn luôn luôn có thịt muối bầy ra, và thịt vừa bày ra, thì ngay lập tức có
rượu đưa lên” (quyển I, chương IV).
Môtip chủ đạo của đoạn
văn này là sự no đủ vật chất-thân xác, sự no đủ thừa thãi, sinh sôi và tăng
trưởng. Tất cả các hình tượng đều tuân thủ môtip đó. Trước hết toàn bộ sự kiện
được mô tả ngay từ đầu đã gắn với sự sinh nở của Gargamella. Tất cả tạo
nên bối cảnh và phông nền cho sự kiện sinh đẻ. Ngay ở câu đầu tiên đã buột ra
lời rủa dành cho những ai không tin vào tác giả. Lời rủa đó cắt ngang dòng lời
nói, nhưng đồng thời cũng chuẩn bị cho bước chuyển sang câu tiếp theo. Nó lập
tức đưa chúng ta xuống hạ tầng vật chất-thân xác: “…nếu các người không tin vào
điều đó, thì cầu cho các người sẽ bị xổ ruột ra!”. Ca sinh nở của Gargamella
bắt đầu từ việc trực tràng của nàng xổ ra liên quan đến lòng ruột, nghĩa là đến
lục phủ ngũ tạng – cỗ lòng của những con bò béo tốt. Phủ tạng và lòng ruột,
với tất cả sự phong phú các ý nghĩa và mối liên hệ của chúng,- là hình tượng
chủ đạo cơ bản của toàn bộ tình tiết. Trong đoạn văn vừa nêu, chúng được
đưa vào như là thức ăn: đó là món “gaudebillaux”, cũng chính là món “grasses
tripes”, nghĩa là cỗ lòng ngon béo của con bò. Nhưng việc sinh đẻ và xổ trực
tràng liên quan đến chúng, ngay từ đầu đã gắn cái bụng bị ăn với cái bụng ăn
nó. Ranh giới giữa cơ thể bị ăn của gia súc và cơ thể đi ăn của con người
rất yếu ớt, gần như mờ nhạt. Các cơ thể quấn quít lấy nhau và bắt đầu hoà lẫn
trong một hình tượng nghịch dị thống nhất nào đó của thế giới đang ăn và bị
ăn. Một bầu không khí vật chất thống nhất và cô đặc được tạo ra – cái
bụng vĩ đại. Chính tại đó đã diễn ra những sự kiện chủ yếu của tình tiết
của chúng ta – ăn uống, xổ ruột, sinh đẻ.
Môtip sinh sản và tăng
trưởng, được đưa vào ngay từ đầu qua việc “đẻ” của Gargamella, phát triển tiếp
trong các hình tượng của sự dồi dào và no đủ của cải vật chất: đó là các cỗ
lòng bò ngon bổ – loại bò được vỗ béo đặc biệt trên những đồng cỏ đặc biệt chỉ cho
cỏ hai lần một năm, và con số khổng lồ những con bò béo tốt – 367 014 con. Từ
“béo” và các từ phái sinh của nó được lặp lại bốn lần trong ba dòng (grosses,
engressez, gras, gras). Việc giết gia súc được tiến hành là để đến mùa xuân có
thịt “dồi dào” (à tas).
Môtip sung mãn của cải
vật chất ở đây gắn liền trực tiếp với “ngày thứ ba béo” (mardi gras), khi việc
ướp muối thịt bò được ấn định. Ngày thứ ba béo - đó là ngày của hội giả trang.
Không khí hội giả trang của lễ tiễn mùa đông xuyên suốt toàn bộ tình tiết, nó
gắn kết vào cùng một nút thắt nghịch dị việc giết thịt, phanh xẻ và làm lòng
gia súc, cũng như cuộc sống thân xác, sự dồi dào no đủ, rồi mỡ béo, cỗ tiệc,
rồi tự do vui vẻ, và cuối cùng, cả việc sinh nở.
Phần cuối đoạn văn nổi
bật lên một sự hạ thấp nghịch dị điển hình – “commemoration de saleures”. Các
thức nhắm bằng thịt muối, như món bổ sung bất thường cho bữa ăn, được gọi bằng
tên thuật ngữ trong các lễ trọng là “commemoration” – một lời cầu nguyện ngắn
dành cho vị thánh mà ngày lễ của ông ta không rơi vào ngày này, nghĩa là một
lời cầu nguyện bất thường bổ sung. Như vậy, việc ám chỉ đến lễ trọng cũng được
hoà vào tình tiết.
Cuối cùng chúng tôi xin
lưu ý đặc điểm bút pháp đặc trưng của đoạn văn này: nửa đầu của nó được xây
dựng như một chuỗi xích, nơi mỗi mắt xích được liên kết với mắt xích khác kề
cận. Điều ấy đạt được là nhờ khi một câu kết thúc bằng một từ, thì chính từ đó
lại mở đầu cho câu tiếp theo. Cấu trúc như vậy làm gia tăng ấn tượng đậm đặc và
ken dầy, sự thống nhất không chia tách của thế giới dồi dào những mỡ, thịt,
lòng, mề, tăng trưởng, sinh đẻ ấy.
Chúng ta hãy theo dõi sự
phát triển tiếp theo của tình tiết. Bởi lòng ruột của gia súc bị giết không thể
để dành, nên Granguzie mời cư dân của tất cả các vùng lân cận đến dự tiệc.
“Vì thế người ta mời
toàn thể cư dân vùng Sanhne, Suye, Laros-Clermo, Vogodre, Cudre-Monpansie, Ghe
de Ved, cũng như những vùng lân cận khác, và tất cả họ đều là những tay uống
giỏi, chơi được ngang nhau, những anh chàng khả ái không để cho bất kỳ phụ nữ
nào đi thoát” (sách đã dẫn).
Như vậy, bữa tiệc đã
mang tính rộng rãi, ở phạm vi toàn dân (không phải vô cớ người ta chọc tiết 367
014 con bò). Đó là “bữa đãi tiệc thế gian”. “Về mặt tư tưởng” bất kỳ bữa tiệc
hội giả trang nào cũng như vậy. Rất thú vị là phần mô tả vui nhộn tính cách của
các công dân vùng phụ cận mà Granguzie tập hợp. Câu cuối cùng vang lên như sau:
“beaux joueurs de quilie”, nghĩa là “các cầu thủ đánh ki tốt bụng”. Song chúng
ta đều biết từ “quille” vào thời Rabelais có cách hiểu bổ trợ mang tính sinh
hoạt tình dục, và nó cũng được ngụ ý ở đây (điều này trong bản dịch được truyền
đạt hoàn toàn chính xác).
Như vậy đoạn mô tả tính
cách những người khách dự tiệc được duy trì trên bình diện vật chất-thân xác
trong toàn bộ tình tiết.
Granguzie đã cảnh báo vợ
mình đừng quá lạm dụng món lòng: “Chẳng có lòng nào là lòng không có phân”,-
ông kêu lên. Tuy nhiên, bất chấp lời cảnh báo, Gargamella ăn hết mười sáu cái
thùng to, hai thùng con và sáu bình nhỏ những cỗ lòng như vậy. Và thế là bụng
nàng phồng lên bởi chất béo chứa trong những cỗ lòng ấy!”
Ở đây đưa ra môtip phân,
gắn kết chặt chẽ với quan niệm về cái bụng nói chung và về phủ tạng bò nói
riêng, bởi thậm chí dù có rửa sạch nhất chúng vẫn lưu lại trong mình một tỉ lệ
phân nhất định. Hình tượng phân ở đây xoá nhoà ranh giới giữa cơ thể ăn và cơ
thể bị ăn: phân ở trong ruột bò lại tạo điều kiện thành phân trong ruột người.
Ruột của gia súc và ruột của con người dường như đan bện vào một nút thắt
nghịch dị không thể tách rời. Cũng rất điển hình đối với không khí toàn bộ tình tiết là câu kết của tác giả, bắt
đầu bằng những từ “Ôi, phân tuyệt vời” (“O belle matiere fecale”). Chúng tôi
xin lưu ý biểu tượng phân trong chủ nghĩa hiện thực nghịch dị chủ yếu là
biểu tượng của một thứ vật chất vui vẻ.
Ngay sau đoạn văn chúng
tôi vừa dẫn là đoạn tiếp theo:
“Sau bữa trưa tất cả lũ
lượt kéo nhau đến Sose và ở đó, trên cỏ dày, trong tiếng tiêu vui nhộn và tiếng
kèn bong bóng du dương, họ bắt đầu nhảy múa, và diễn ra một cảnh vui vẻ đến mức
được nhìn họ thì thật là một thú tiêu khiển thần tiên”.
Cuộc vui hội hè kiểu hội
giả trang trên đồng cỏ này gắn kết hữu cơ với tất cả các hình tượng khác của
tình tiết vừa được phân tích. Chúng tôi xin nhắc lại trong không khí của “ngày
thứ ba béo”, niềm vui, các điệu nhảy và âm nhạc kết hợp tuyệt vời với việc giết
gia súc, với phanh xẻ súc thịt làm nhiều miếng, với lòng, phân và các hình
tượng khác của hạ tầng vật chất-thân xác.
Để hiểu được chính xác
toàn bộ cuốn tiểu thuyết của Rabelais, cũng như tình tiết chúng ta đang phân
tích nói riêng, nhất thiết phải từ bỏ các khuôn mẫu mỹ học nghèo nàn và hạn hẹp
của thời đại mới, còn xa mới tương ứng với những tuyến phát triển lớn của văn
học và nghệ thuật thế giới trong quá khứ. Càng đặc biệt không thể cho phép hiện
đại hoá các hình tượng của Rabelais, qui chúng vào những khái niệm hẹp hòi,
không phân biệt và đơn nghĩa vẫn thống trị trong hệ thống tư duy hiện đại.
Trong chủ nghĩa hiện thực nghịch dị và, ví dụ, trong sáng tác của Rabelais,
hình tượng phân không hề có bất kỳ ý nghĩa sinh hoạt hay sinh lý hạn hẹp nào
như bây giờ người ta đặt vào chúng. Phân được tiếp nhận như một nhân tố quan
trọng của đời sống cơ thể và đời sống đất đai, trong cuộc đấu tranh giữa sự
sống và cái chết, nó tham gia vào cảm giác sống động của con người về tính vật
chất và tính thân xác của mình, gắn bó
không rời với đời sống đất đai.
Vì thế ở Rabelais không
có và không thể có một thứ “chủ nghĩa tự nhiên thô thiển”, “chủ nghĩa sinh lý”,
hay một dạng sách khiêu dâm nào đó. Để hiểu được Rabelais, cần đọc ông bằng cặp
mắt của những người đồng thời với ông và trong bối cảnh của truyền thống hàng
nghìn năm mà ông đang trình diễn. Khi đó thì ngay tình tiết chúng ta đang phân
tích về ca sinh đẻ của Gargamella cũng trở thành một vở kịch cao cả, đồng thời
vui vẻ của cơ thể và đất đai.
Chương năm viết về “Cuộc
đàm đạo trong cơn say” nổi tiếng. Đó là “cuộc tửu đàm” theo kiểu hội giả trang.
Ở đây không có tính nhất quán lôgic bề ngoài, không có đề tài hay tư tưởng trừu
tượng liên kết (giống như trong các cuộc thảo luận cổ điển). Nhưng nó có sự
thống nhất bên trong sâu xa. Đó là trò chơi nhất quán bằng cách hạ thấp nghịch
dị và điều tiết đến từng chi tiết nhỏ nhất. Hầu như mỗi lời đối đáp đều đưa ra
một định thức nào đó cho bình diện cao siêu – cho giáo hội, lễ mixa, triết học,
luật học hay những lời nào đó trong Thánh Thư được áp dụng vào việc ăn và uống.
Về thực chất, người ta chỉ nói đến hai việc: về những cỗ lòng bò bị ăn và về
rượu rót vào những cỗ lòng đó. Song hạ tầng vật chất-thân xác được cải trang
thành các hình tượng và định thức của cái thiêng và của “thượng tầng” tinh
thần.
Nhưng ở đây quan trọng
đối với chúng ta là sự nhấn mạnh trò chơi với hình tượng cái bụng, bộ
lòng. Ví dụ, một trong những người tham gia đàm đạo nói: “Je laverois
volontiers les tripes de ce veau que j’ay ce matin habillé”. Từ “habillé” có
nghĩa là “mặc”, nhưng nó cũng có một nghĩa đặc biệt – “xả thịt súc thịt nguyên
con” (đó là thuật ngữ của những tay đồ tể và thường gặp trong các cuốn sách dạy
nấu ăn). Như vậy, trong lời của người bạn rượu “con bê đó buổi sáng tôi đã mặc”
thì từ “con bê” (“veau”) trước tiên liên quan đến bản thân người bạn rượu, đã
mặc quần áo cho mình từ sáng, nhưng nó cũng liên quan đến con bê mà buổi sáng
anh ta xả thịt thành các súc nhỏ, làm lòng và đã ăn nó. Cũng như bộ lòng (les tripes)
bao hàm cả lòng ruột của chính anh ta, được anh ta chuẩn bị rửa bằng rượu, cũng
như cỗ lòng của con bê anh ta đang ăn, mà bây giờ anh ta sắp tưới rượu vào.
Đây là một đoạn đối
thoại khác, có cấu trúc tương tự: “Voulez vous rien mandez à la rivière? Cestuy
cy (cốc rượu) vas laver les tripes”. Ở đây từ “les tripes” cũng mang tính hai
nghĩa: đó vừa là bản thân bộ lòng đang ăn vừa là bộ lòng
bị ăn của con bò. Như vậy, cả ở đây lúc nào ranh giới giữa cơ thể đang ăn
của con người và cơ thể bị ăn của gia súc cũng bị xoá nhoà.
Nhân vật chính của
chương tiếp theo, chương VI, là cái bụng sinh nở của Gargamella.
Đây là phần đầu của màn
sinh đẻ:
“Chỉ một lát sau nàng
bắt đầu thở mạnh, rên rỉ và kêu la. Ngay lập tức từ khắp nơi các bà đỡ chạy
đến, họ bắt đầu sờ nắn hạ phần của nàng và chạm phải những mẩu da nào đó, bốc
lên một thứ mùi rất khó chịu: mới đầu họ nghĩ đó chính là đứa trẻ, nhưng hoá ra
đó là trực tràng: nó bị xổ ra từ sản phụ do hậu môn bị gião, hay nói theo cách
của các quí vị, nàng bị lòi tĩ, bởi sản phụ như đã nói ở trên, đã ăn quá nhiều
lòng bò” (quyển I, chương VI).
Ở đây đưa ra một cuộc
giải phẫu hạ phần cơ thể (“le bas”) theo đúng nghĩa đen. Nút thắt của cái bụng
nghịch dị ở đây được kéo căng ra: trực tràng bị xổ, cỗ lòng của con bò bị
ăn, lòng ruột của sản phụ (thoạt đầu người ta tưởng trực tràng là đứa trẻ
sơ sinh) – tất cả những thứ đó trộn lẫn khó tách rời trong các hình tượng của
đoạn văn trên.
Một bà già có mặt ở đó
liền áp dụng những biện pháp băng bó khá là mạnh tay:
“Vì trở ngại không may
đó mà các động mạnh ở tử cung sản phụ mở rộng, đứa trẻ liền nhảy thẳng vào đại
tĩnh mạch, sau đó lần theo cơ hoành leo tận lên phía trên vai, nơi ống tĩnh
mạch nói trên rẽ làm hai nhánh, nó liền đi sang nhánh bên trái và chui ra lỗ
tai trái. Khi vừa chào đời, đứa bé không khóc: “Oa-oa-oa! Oa-oa-oa!” như những
đứa trẻ sơ sinh khác – không, bằng một giọng oang oang nó hét: “Uống! Uống!
Uống!”- dường như mời tất cả mọi người cùng uống rượu, và tiếng thét của nó
vang xa đến tận Biussa và Vivara” (sách đã dẫn).
Đoạn phân tích mang tính
giải phẫu kết thúc bằng sự ra đời bất ngờ và đầy tính hội giả trang của đứa trẻ
chào đời qua bên tai trái. Đứa trẻ không đi xuống dưới, mà lộn lên
trên: đó là sự đảo ngược điển hình kiểu hội giả trang (“trái khoáy”,
"lộn ngược"). Ngay tiếng thét đầu tiên của nó mời mọi người uống rượu
cũng mang tính chất tiệc tùng hội giả trang như thế.
Toàn bộ tình tiết là như
vậy. Xin làm một vài kết luận cho phần phân tích này.
Tất cả các hình tượng
của tình tiết đều triển khai mảng đề tài bản thân ngày hội: việc giết
gia súc, làm lòng, phanh xẻ súc thịt nguyên con. Các hình tượng ấy được phát
triển trên bình diện cỗ tiệc, ăn nuốt cơ thể bị phanh xẻ và dường như kín đáo
chuyển sang phân tích giải phẫu về cái bụng sinh đẻ. Kết quả là với một nghệ
thuật tuyệt vời, bầu không khí vô cùng đậm đặc tính vật chất thống nhất và cô
đọng đã được tạo ra, trong đó cố tình xoá nhòa đi mọi ranh giới giữa các cơ thể
riêng biệt của gia súc và con người, giữa cái bụng ăn và bị ăn. Mặt khác, cái
bụng ăn và bị ăn đó lại hòa lẫn với cái bụng sinh đẻ. Tạo nên một hình
tượng nghịch dị thực sự của cuộc sống thể xác thống nhất siêu cá nhân – cái
bụng lớn đang ăn – cái bụng bị ăn – cái bụng sinh đẻ – cái bụng được sinh ra.
Nhưng đó, tất nhiên, không phải một cuộc sống thể xác “sinh vật” siêu cá nhân,
cũng không phải cuộc sống “sinh học” theo cách hiểu của chúng ta. Xuyên qua cái
bụng đang ăn và đang sinh đẻ của Gargamella lộ rõ lòng đất hấp thụ và sản sinh,
nổi bật lên cái cơ thể toàn dân vĩnh viễn tái sinh. Và chính tại đây chàng hiệp
sĩ dân gian Gargantua, chàng Heracle của nước Pháp đã được sinh ra.
Ở tình tiết chúng tôi
vừa mô tả, cũng như hầu khắp sáng tác của Rabelais, tính vật chất vui vẻ, dồi
dào và toàn thắng được đặt đối lập với tính trang nghiêm sợ hãi và áp chế thời
trung cổ với những biện pháp đe dọa và làm khiếp hãi tư duy của
nó. Tình tiết của chúng ta kết thúc, tương tự như lời mở đầu cho cuốn
Gargantua, bằng lời giễu nhại cải trang vui vẻ và phóng túng những phương thức
gây dựng đức tin và xác tín thời trung cổ. Đoạn ấy như sau:
“Tôi nghĩ rằng những
chuyện sinh đẻ khác thường như thế này đối với quí vị thật là khó tin. Biết làm
thế nào được, quí vị không tin cũng chẳng sao, có điều hãy nhớ rằng những người
đứng đắn, những người có trí tuệ sáng suốt đều tin vào tất cả những gì họ nghe
thấy hoặc được đọc. (Tác giả viện dẫn tới Solomon và thánh tông đồ Pavel -
M.B.). Tại sao quí vị lại không tin nhỉ! Quí vị sẽ nói, bởi ở đây thậm chí
không có đến một bóng dáng của sự thật? Nhưng tôi sẽ nói với quí vị rằng cũng
vì đúng lý do ấy quí vị phải tin tôi, tin một cách mù quáng, bởi những người ở
Sorbonne khẳng định công khai rằng đức tin chính là sự phát giác ra những sự
vật không nhìn thấy được. Chẳng nhẽ ở đây có cái gì đó trái ngược với đạo pháp
của chúng ta, với đức tin của chúng ta, với lẽ phải, với Thánh Thư? Tôi thì ít
nhất cũng ủng hộ ý kiến cho rằng chuyện đó chẳng có gì mâu thuẫn với Kinh Thánh
cả. Bởi nếu đó đã là ý Chúa, chắc các bạn sẽ không định khẳng định rằng Đấng
tối cao không thể làm được điều đó chứ? Không, xin đừng làm mụ mị đầu óc bằng
những ý nghĩ báng bổ. Bởi đối với Chúa không có cái gì là không thể, và chỉ cần
người muốn, thì tất cả phụ nữ sẽ sinh con cho thế giới này bằng tai”.
Tiếp theo tác giả dẫn ra
một loạt trường hợp sinh con lạ lùng trong thần thoại cổ đại và các truyền
thuyết trung đại.
Toàn bộ đoạn trích nêu
trên là một cải biên nhại tuyệt vời cái học thuyết trung cổ về đức tin, cũng
như các phương pháp giữ gìn và tuyên truyền đức tin ấy: bằng cách viện dẫn đến những uy tín thiêng
liêng, bằng dọa nạt, khiêu khích, đe nẹt, kết tội tà đạo, v.v… Không khí đậm
đặc tính thể xác vui vẻ của toàn bộ tình tiết chuẩn bị cho sự hạ bệ kiểu hội
giả trang học thuyết về đức tin, như là “phát giác ra những sự vật không nhìn
thấy được”.
Tình tiết quan trọng
nhất trong “Gargantua” - cuộc chiến tranh với vua Picrochole - được triển khai
trong không khí của một lễ hội nông nghiệp khác – lễ hội thu hoạch nho
(vendange).
“Vendange” chiếm một vị
trí to lớn trong đời sống nước Pháp. Vào thời gian thu hoạch nho thậm chí các
công sở phải đóng cửa, các toà án không làm việc, bởi vì tất cả mọi người đều
bận bịu trong các vườn nho. Đó là sự giải thoát lớn lao khỏi các công việc và
mối bận tâm, ngoại trừ những gì gắn trực tiếp với rượu. Chính trong không khí
“vendange” đã diễn ra những sự kiện và hình tượng của cuộc chiến tranh
Picrochole.
Nguyên nhân gây chiến là
cuộc xung đột giữa những nông dân vùng Seli đang canh giữ các vườn nho chín với
những người thợ làm bánh mì vùng Lerne chở bánh mì dẹt đi bán. Những người nông
dân muốn ăn sáng bằng bánh mì với nho (điều ấy, tiện thể xin nói thêm, giúp tẩy
sạch dạ dày). Nhưng những người thợ làm bánh mì lại từ chối bán bánh và lăng mạ
đám nông dân. Vì thế giữa họ bùng lên một cuộc ẩu đả. Rượu và bánh mì, nho và
bánh mì dẹt – đó là những hợp phần trong lễ trọng, ở đây bị hạ thấp dưới dạng
cải trang (do tính chất gây tiêu chảy của nó).1
Tình tiết lớn đầu tiên
của cuộc chiến tranh – thày dòng Jean bảo vệ vườn nho của tu viện – cũng hàm
chứa những ám chỉ cải trang đến lễ rước thánh thể. Chúng ta đã nhìn thấy máu
biến thành rượu ra sao, còn đằng sau hình ảnh trận đánh khốc liệt là vụ thu
hoạch nho “vendange”. Trong văn học dân gian của những người trồng nho nước
Pháp, gắn với “vendange” là hình tượng “Bon-Temps”, nghĩa là “Thời gian tốt lành”
(Bon-Temps là chồng của Mère Folle). Hình tượng Bon-Temps nổi tiếng trong văn
học dân gian, đó là kết thúc của quãng thời gian tồi tệ và bắt đầu hoà bình
cho tất cả. Vì thế, trong không khí “vendange” Rabelais cũng bắt đầu triển
khai đề tài dân gian-không tưởng về chiến thắng của lao động hoà bình và sự
sung túc trước chiến tranh và huỷ diệt: bởi đó cũng là đề tài chính của toàn bộ
tình tiết về cuộc chiến tranh Picrochole.
Như vậy, không khí
“vendange” xuyên suốt toàn bộ phần hai của cuốn “Gargantua” và tổ chức nên hệ
thống các hình tượng của nó, cũng như
phần một (sự ra đời của Gargantua) được xuyên suốt bởi không khí ngày
hội giết gia súc và hội giả trang. Toàn bộ cuốn sách đắm chìm trong không khí
hội hè-dân gian cụ thể2.
Trong cuốn thứ hai của
bộ tiểu thuyết – “Pantagruel” – cũng có các tình tiết gắn trực tiếp với mảng đề
tài hội hè. Năm 1532, nghĩa là vào thời gian “Pantagruel” được viết, giáo hoàng
tuyên bố là năm kỷ niệm bất thường ở Pháp. Vào những năm kỷ niệm như thế một số
nhà thờ nhất định được quyền bán cho dân chúng những bản xá tội của giáo hoàng,
nghĩa là những bản phóng thích tội lỗi. Và thế là trong tiểu thuyết có tình
tiết liên quan trực tiếp đến mảng đề tài lễ kỷ niệm này. Panurge khi mong muốn giải quyết những vấn đề tài
chính của mình, liền đi quanh nhà thờ và mua các bản xá tội, nhưng làm ra vẻ
như lấy lại tiền thừa, chàng lấy cho mình “rất hậu” các món ăn của nhà thờ.
Trong những lời của Phúc Âm “các con sẽ nhận được hậu hĩnh” chàng ta lý giải
cái thời tương lai (“các con sẽ nhận được”) bằng thức mệnh lệnh (“hãy nhận
lấy”) và hành động tương ứng với điều đó. Như vậy, tình tiết này là sự cải biên
nhại mảng đề tài lễ hội trong năm kỷ niệm ấy và một văn bản của sách Phúc
Âm.
Cũng trong cuốn sách này
có tình tiết kể về những cố gắng bất thành của Panurge đối với một mệnh phụ
quyền quí ở Paris.
Mệnh phụ này cự tuyệt chàng, và Panurge trả thù nàng bằng một biện pháp vô cùng
độc đáo. Sự kiện trung tâm của tình tiết ấy diễn ra trong ngày lễ thánh thể. Ở
đây đưa ra một sự cải biên hoàn toàn kỳ quái về ngày lễ đó. Một đám rước được
mô tả gồm 600 014 con chó, chúng đi theo nàng mệnh phụ và đái lên người nàng,
bởi Panurge đã rắc lên váy nàng những bộ phận sinh dục tán nhỏ của chó cái.
Đoạn hý phỏng đám rước
tôn giáo trong ngày lễ thánh thể ấy thoạt nhìn có vẻ bất ngờ và báng bổ khủng
khiếp. Lịch sử ngày lễ ấy ở Pháp và các nước khác (đặc biệt ở Tây Ban Nha) cho
chúng ta thấy là hình tượng cơ thể nghịch dị cực kỳ phóng túng tại lễ hội là
điều hoàn toàn bình thường và được làm thiêng hoá bởi truyền thống. Có thể nói
hình tượng cơ thể trên phương diện nghịch dị của nó là chủ đạo trong phần dân gian-quảng trường của ngày lễ
ấy và tạo nên bầu không khí xác thịt đặc thù của nó. Ví dụ, trong đám rước của
ngày hội nhất định phải có các đại diện truyền thống của cơ thể nghịch dị tham
gia: quái vật (kết hợp các nét hài hước
của người và súc vật) và “tên dâm đãng Babilon” cưỡi trên lưng nó1, những người khổng lồ (trong truyền
thống dân gian chúng là hiện thân của quan niệm nghịch dị về cơ thể đồ sộ),
những tên mọi rợ người Môrơ và da đen (với những sai lệch nghịch dị so với cơ
thể chuẩn mực), đám đông thanh niên trình diễn những điệu nhảy dân gian đa tình
(ví dụ, ở Tây Ban Nha là điệu nhảy sarabanda gần như là tục tĩu). Tiếp sau
những hình tượng cơ thể nghịch dị đó mới đến lượt giới tăng lữ rước lễ (nghĩa
là rước thánh thể). Ở cuối đám rước là các cỗ xe trang hoàng đẹp đẽ, trên chúng
có các diễn viên mặc đồ giả trang ngồi (ở Tây Ban Nha ngày lễ thánh thể vì thế
được gọi là “fiesta de la carros”).
Đám rước truyền thống
trong ngày lễ thánh thể, như vậy, mang tính chất hội giả trang được biểu hiện
rõ rệt với tính ưu thắng mãnh liệt của yếu tố xác thịt. Ở Tây Ban Nha trong
ngày lễ ấy người ta thường trình diễn những vở kịch đặc biệt “Autos
sacramentales”. Chúng ta có thể xét đoán tính chất của các vở diễn như vậy qua
các vở kịch dạng đó của Lope de Vega còn lưu lại đến ngày nay. Trong chúng
chiếm ưu thế là chất hài-nghịch dị, nó xuyên suốt thậm chí cả phần nghiêm trang
của chúng. Ở đây có rất nhiều sự cải trang nhại không chỉ các môtip cổ đại, mà
cả các môtip Kitô giáo – kể cả bản thân đám rước lễ hội.
Tóm lại, chúng tôi có
thể nói rằng phương diện quảng trường-dân gian của lễ hội ở mức độ rõ rệt là vở
kịch châm biếm cải trang về nghi lễ “thánh thể” (rước thánh thể) của nhà thờ1.
Dưới ánh sáng của những
yếu tố ấy, sự cải biên của Rabelais trở nên hoàn toàn không đến nỗi bất ngờ và
kỳ quái lắm nữa. Rabelais chỉ phát triển thêm các yếu tố của kịch châm biếm,
vốn có trong các hình tượng truyền thống của ngày hội đó: trong hình tượng quái
vật và tên dâm đãng cưỡi trên lưng, trong hình tượng những người khổng lồ và
người da đen, trong các cử động cơ thể dung tục của các điệu nhảy, v.v… Quả
thật là ông đã phát triển chúng với lòng dũng cảm lớn lao và một nhận thức đầy
đủ. Trong không khí của vở kịch châm biếm ấy, chúng ta sẽ không ngạc nhiên
trước bất kỳ hình tượng bầy chó đái nào, cũng như thậm chí chi tiết với con chó
cái. Chúng tôi xin nhắc lại tính chất nhị chức năng của hành động tưới nước
tiểu, yếu tố phồn thực và sản sinh hàm chứa trong hình tượng này. Không phải vô
cớ trong tình tiết chúng tôi vừa nêu, như tác giả đã cam đoan với chúng ta, từ
các bãi nước tiểu của chó đã tạo nên một dòng suối chảy qua vùng Sen-Victor
(Gobelen sử dụng dòng suối này để nhuộm vải, tác giả bổ sung thêm).
* * *
Tất cả những tình tiết
chúng tôi vừa phân tích cho đến lúc này đều gắn trực tiếp với những lễ hội nhất
định (ngày lễ giết gia súc, lễ hội
“vendange”, ngày kỷ niệm của giáo hoàng, lễ ban thánh thể). Mảng đề tài
lễ hội toả ảnh hưởng nhất định lên cách tổ chức tất cả các hình tượng của những
tình tiết đó. Nhưng nếu chỉ bằng những phản chiếu công khai và trực tiếp như
thế về các lễ hội nhất định qua các sự kiện của bộ tiểu thuyết thì vấn đề chưa
được khai thác hết. Khắp bộ tiểu thuyết tràn ngập vô số những ám chỉ đến các lễ
hội riêng lẻ khác nữa: ngày lễ thánh Valentin, hội chợ ở Nior mà Villon thực
hiện màn yêu thuật cho nó, hội giả trang ở Avinhon, trong đó các cô tú cậu tú
chơi trò rafa, hội giả trang Lion với con ngáo ộp là thằng ăn tham-nuốt chửng
Maskrut vui vẻ, v.v… Trong “Pantagruel”, khi mô tả cuộc chu du của nhân vật
chính qua các trường đại học ở nước Pháp, Rabelais đã dành sự chú ý đặc biệt
đến những trò tiêu khiển và trò chơi mà đám sinh viên và tú tài ham mê.
Ở phương diện quảng
trường-dân gian của lễ hội chiếm vị trí quan trọng là mọi trò chơi có thể (từ
cờ bạc đến thể thao), những trò tiên tri, bói toán và chúc tụng có thể. Những
hiện tượng ấy gắn kết không rời với bầu khí quyển hội hè-dân gian, đóng vai trò
quan trọng trong tiểu thuyết của Rabelais. Có thể nói toàn bộ quyển ba của bộ
tiểu thuyết được xây dựng như một loạt lời đoán định của Panurge về vị hôn thê,
tức người vợ tương lai của mình. Vì thế cần đặc biệt dừng lại ở những hiện
tượng này.
Trước hết chúng tôi xin
lưu ý vai trò to lớn của mọi trò chơi có thể trong tiểu thuyết của Rabelais.
Trong chương XX của “Gargantua” đưa ra một danh sách nổi tiếng các trò chơi mà
nhân vật thời trẻ đã chơi sau bữa ăn trưa. Danh sách đó ở lần in qui chuẩn (năm
1542) gồm hai trăm mười bảy tên gọi trò chơi: đây là cả một xêri dài dằng dặc
các trò chơi bài bạc, các trò chơi trong phòng, trên bàn và một loạt trò chơi
ngoài trời.
Bản liệt kê các trò chơi
nổi tiếng này đã thu nhận được sự hưởng ứng rộng rãi. Người dịch Rabelais đầu
tiên, Phisart, người Đức, bổ sung vào bản danh sách đã đủ dài này thêm ba trăm
bảy mươi hai tên gọi các trò chơi bài ở Đức và các điệu nhạc nhảy. Dịch giả
người Anh – Tomas Urkvart – dịch Rabelais thế kỷ XVII cũng kéo dài thêm danh sách bằng cách bổ sung
các trò chơi của nước Anh. Phương án Hà Lan của “Gargantua” (1682) cũng ban
thêm tính dân tộc cho danh sách ấy khi đưa ra sáu mươi ba trò chơi thuần tuý Hà
Lan. Như vậy, bản danh mục của Rabelais đã đánh thức ở một loạt quốc gia mối
quan tâm đến các trò chơi dân tộc của mình. Danh mục này ở phương án Hà Lan trở
thành xuất phát điểm cho một nghiên cứu lớn nhất trong ngành nghiên cứu văn hóa
dân gian thế giới về các trò chơi của trẻ em – công trình tám tập của Kokk và
Teierlink “Các trò chơi và trò tiêu khiển của trẻ em ở Hà Lan” (1902-1908)
Tất nhiên, mối quan tâm
của bản thân Rabelais đối với các trò chơi hoàn toàn không mang tính ngẫu
nhiên. Ông chia xẻ mối quan tâm ấy với toàn bộ thời đại của mình. Các trò chơi
cũng gắn không chỉ với mối liên hệ bề ngoài, mà với mối liên hệ căn cốt bên
trong với phương diện quảng trường-dân gian của lễ hội.
Ngoài danh sách các trò chơi nói trên, Rabelais sử dụng rất
rộng rãi vốn từ vựng phong phú các trò chơi với tư cách là xuất xứ của các ẩn
dụ và so sánh. Từ cội nguồn này ông khai thác triệt để rất nhiều ẩn dụ hoa tình
(ví dụ, thành ngữ "joueurs de
quille"), hàng loạt hình tượng biểu cảm thể hiện sự thành công hay thất
bại (ví dụ, "c'est bien rentré de picques!”) - "đó là nước đi không
trúng!”) và hàng loạt biểu đạt khác. Cần lưu ý là tỉ trọng những biểu đạt tương
tự vay mượn từ lĩnh vực cờ bạc có rất nhiều trong ngôn ngữ dân gian.
Có hai tình tiết quan trọng trong tiểu thuyết của Rabelais
được xây dựng trên chủ đề cờ bạc. Tình
tiết đầu tiên - đó là bài "Thơ ẩn ngữ tiên tri" kết thúc quyển một
("Gargantua") của bộ tiểu thuyết. Bài thơ đó là của Mellen de
Sen-Giele (chắc là trọn vẹn). Nhưng Rabelais sử dụng nó trong tiểu thuyết của
mình không phải ngẫu nhiên: nó gần gũi sâu xa với toàn bộ hệ thống các hình tượng
của ông. Việc phân tích nó cho phép chúng ta khai mở một loạt khía cạnh mới và
quan thiết của hệ thống này.
Trong "Thơ ẩn ngữ tiên tri" có hai yếu tố đan kết
chặt chẽ với nhau: miêu tả tương lai của lịch sử dưới dạng các tiên tri-giễu
nhại và các hình tượng của trò chơi bóng đá. Mối liên hệ ấy hoàn toàn không
ngẫu nhiên: ở đây biểu hiện một cách lĩnh hội quá trình lịch sử theo
kiểu hội giả trang như là trò chơi rất đặc trưng cho thời đại.
Bản thân Mellen de Sen-Giele còn có một bài thơ nữa không
dài, trong đó cuộc đấu tranh tranh giành Italia giữa Francois Đệ Nhất, giáo
hoàng Climent VII và Charles V được mô tả như một ván bài phổ biến vào thời kỳ
đó là jeu de prime. Bối cảnh chính trị của thời kỳ đó, các phân bố lực lượng,
những thế mạnh và điểm yếu của từng nhân vật nắm quyền lực được miêu tả nhất
quán và chính xác qua các thuật ngữ của ván cờ này.
Trong "Tuyển thơ Pháp" của Jean Longi và Vensan
Serten có một trường ca không dài, xây dựng trên điệu thức cao cả của những suy
ngẫm về các trái ngang của số phận lịch
sử, về cái ác và những tai họa thống trị trên trái đất. Song thực ra những trái
ngang và tai họa đó liên quan hoàn toàn không phải đến cuộc sống trần thế, cũng
không phải lịch sử, mà toàn là các trò chơi. Bản trường ca ấy có bút pháp cao
siêu và bí ẩn, mô tả một ván bài đánh ki. Chúng tôi nhấn mạnh ở đây, khác với
bài thơ của Mellen de Sen-Giele, không phải hiện thực lịch sử được mô tả trong
các hình ảnh trò chơi, mà ngược lại, trò chơi (ván bài đánh ki) được mô tả
trong những hình ảnh cao cả của đời sống trần thế trong tổng thể của nó, với
những trái ngang và tai họa của nó. Sự chuyển đổi độc đáo như vậy các hệ thống
- một kiểu trò chơi trong trò chơi - khiến đoạn kết của bài thơ u ám trở nên nhẹ
nhõm và vui vẻ bất ngờ. Và "Thơ ẩn ngữ tiên tri" của Rabelais, như
chúng ta thấy, cũng được xây dựng như vậy.
Deperie cũng có một bản trường ca tương tự (tập I, tr. 80)
với nhan đề "Lời tiên đoán dành cho Gine Tibo, một chàng trai Lion".
Ở đây mô tả số phận của "ba người bạn" theo giọng điệu tiên tri;
những người bạn ấy đến phần kết hoá ra đơn giản chỉ là ba quân cờ xương trong
một trò chơi bài xương.
Các phỏng đoán tiên tri tương tự là rất phổ biến vào thời
Rabelais, đến mức Thomas Sébilet trong thi pháp học1 của mình phải dành ra một phần đặc biệt
(chương XI "De l'enigme") dành cho chúng. Những tiên đoán ấy vô cùng
đặc trưng cho cách tư duy nghệ thuật-ý thức hệ của thời đại. Bầu không khí nặng
nề và khủng khiếp, chất trang nghiêm và quan trọng được chuyển sang giai điệu
vui vẻ và nhẹ nhõm, từ u sầu (điệu thứ) sang vui tươi (điệu trưởng). Quyền vui
vẻ và nhẹ nhõm được ban cho tất cả. Những bí ẩn và tiên tri về thế giới và thời
tương lai té ra không đến nỗi ảm đạm và khủng khiếp lắm, mà vui vẻ và nhẹ
nhàng. Đó, tất nhiên, chưa phải là những khẳng định triết học, - đó mới chỉ là
khuynh hướng tư duy nghệ thuật-ý thức hệ của thời đại, khát khao lắng nghe thế
giới dưới âm hưởng mới, tiến gần đến nó không phải như đến gần một vở thánh
kịch u sầu, mà như một vở kịch trào tiếu vui vẻ.
Một hình thức khác của thể loại này là tiên tri nhại. Nó
cũng rất phổ biến vào thời Rabelais. Tất nhiên, những tiên đoán mang tính
nghiêm túc cũng rất phổ biến vào thời kỳ đó. Cuộc đấu tranh giữa Charles V và
Francois Đệ Nhất đã sinh ra số lượng khổng lồ các tiên đoán lịch sử và chính
trị có thể. Không ít trong số chúng gắn liền với cả những trào lưu tôn giáo,
lẫn những cuộc chiến tranh của thời đại. Trong đa phần trường hợp tất cả các
tiên đoán nghiêm túc ấy đều mang tính chất ảm đạm của hậu thế luận. Tất nhiên,
có cả những tiên đoán chiêm tinh học thường kỳ. Các ấn phẩm “dự báo” phổ thông
theo dạng lịch được xuất bản định kỳ, ví như “Dự báo cho những người làm nghề
nông”, tập hợp các tiên đoán gắn với thời tiết và nông nghiệp2. Bên cạnh văn học nghiêm túc của những
tiên đoán và tiên tri đó hình thành những tác phẩm cải biên nhại chúng, gặt hái
được những thành công to lớn và được phổ biến rộng rãi. Nổi tiếng hơn cả trong
số chúng là: “Dự báo đại cương”3, “Dự
báo của thầy dòng Tibo”4, “Dự
báo mới”5, v.v…
Đó là những tác phẩm giải trí, hội hè-dân gian điển hình.
Chúng nhằm không chỉ đơn thuần chống lại thói cả tin và niềm tin ngây thơ vào
mọi tiên đoán và tiên tri nghiêm túc đủ loại, mà còn chống lại cả giọng điệu
của chúng, chống lại cung cách nhìn nhận và lý giải cuộc sống, lịch sử, thời
đại của chúng. Sự nghiêm trang và u buồn được đặt đối lập với sự cười nhạo và
vui vẻ; cái bất ngờ và kỳ lạ - đối lập với cái bình dị và thường ngày; cái cao
siêu-trừu tượng - đối lập với cái vật chất-thể xác. Nhiệm vụ chủ yếu của các
tác giả ẩn danh sáng tác các dự báo đó là vẽ lại thời đại và tương lai sang các
gam màu khác và chuyển trọng tâm sang phương diện vật chất-thân xác của cuộc
sống. Họ thường sử dụng các hình tượng hội hè-dân gian để mô tả thời đại và các
biến đổi lịch sử.
“Dự báo của
Pantagruel” được Rabelais viết đúng là theo tinh thần hội giả trang đó. Trong
phần trình bày không lớn lắm này chúng ta cũng tìm thấy những hình tượng vật
chất-thân xác: “vào tuần đại trai, mỡ muối sẽ lẩn tránh đậu cô ve”, “bụng sẽ đi
trước”, “mông sẽ ngồi xuống trước”, và các hình tượng hội hè-dân gian: “mọi
người sẽ không thể tìm thấy đậu trong bánh rán vào ngày lễ của các ông vua”; và
các hình tượng của trò chơi cờ bạc: “những quân cờ xương sẽ không đáp lại ước
muốn của chúng ta”, “thường sẽ không thu được ngần ấy điểm như chúng ta mong
ước”.
Trong chương năm của “Dự báo”, khi giễu nhại các tiên đoán
chiêm tinh học, Rabelais trước hết dân chủ hoá chúng. Ông cho rằng việc coi các
ngôi sao chỉ tồn tại đối với các bậc vua chúa, giáo hoàng, các quí ngài quyền
quí và các sự kiện lớn của thế giới chính thống là một sự điên rồ vĩ đại nhất.
Đối tượng được tiên đoán qua các vì sao, theo Rabelais, phải
là cuộc đời và số phận của những con người ở địa vị thấp kém. Đó là một kiểu hạ
bệ các ngôi sao, gỡ bỏ khỏi chúng phục sức của các số phận vua chúa.
Trong “Dự báo của Pantagruel” cũng có một đoạn mô tả mang
chất hội giả trang rất đặc trưng “carnaval”:
“Một số người cải trang để đánh lừa những người khác, và tất
cả sẽ chạy nhông khắp phố như những thằng ngốc và những thằng điên; chưa bao
giờ và chưa một ai nhìn thấy một sự hỗn loạn tương tự như vậy trong tự nhiên”.
Ở đây trước mắt chúng ta là “Thơ ẩn ngữ tiên tri” trích từ
“Gargantua” ở phạm vi nhỏ. Qua hình ảnh các thảm họa thiên nhiên và các thảm
họa lịch sử-xã hội chỉ đơn thuần biểu hiện một ngày hội carnaval với những cải
trang và đảo lộn trên đường phố của nó.
Thể loại tiên tri nhại mang tính chất của hội giả trang: nó
gắn bó cốt yếu với thời gian, với năm mới, với câu đố và giải đố; với hôn nhân,
sự ra đời, với sức mạnh sinh sôi. Vì thế ở đó thức ăn, đồ uống, đời sống vật
chất-thân xác và các hình ảnh bài bạc đóng vai trò rất to lớn.
Trò chơi bài bạc gắn bó mật thiết với thời gian và tương
lai. Không phải vô cớ các dụng cụ chơi bài chủ yếu – các quân bài và khúc xương
– cũng là những công cụ chính trong bói toán, nghĩa là dùng để đoán biết tương
lai. Cũng không cần phải đi xa đến các cội nguồn di truyền học xa xôi giữa các
hình tượng của lễ hội với bài bạc: bởi cái quan trọng không phải là sự gần gũi
về gien xa xưa của chúng, mà là sự gần gũi về ý nghĩa của những hình tượng ấy,
được cảm nhận rõ ràng và có ý thức trong thời đại Rabelais. Đã xuất hiện một
nhận thức sống động về tính phổ quát của các hình tượng bài bạc, quan hệ giữa
chúng với thời gian và tương lai, với số phận, quyền lực nhà nước, tính cảm
quan thế giới của chúng. Các quân cờ vua, các quân bài và sắc bài được hiểu như
vậy, các quân xương cũng được hiểu như vậy. Vua và hoàng hậu của ngày hội
thường được lựa chọn bằng cách gieo các khúc xương. Vì thế các quân xương gieo
trúng đích nhất được gọi là “basilicus”, nghĩa là vua. Trong các hình tượng bài
bạc chúng ta dường như nhìn thấy cái định thức phổ quát cô đọng của cuộc sống
và quá trình lịch sử : hạnh phúc-bất hạnh, trồi lên-tụt xuống, tìm thấy-mất
mát, đăng quang-thất sủng. Trong trò chơi bài dường như toàn bộ cuộc sống nô
đùa trong các bức tiểu họa (được chuyển thành ngôn ngữ của các biểu tượng ước
lệ), hơn thế nữa chúng nô đùa mà không cần ánh đèn sân khấu. Đồng thời trò chơi
cũng vượt ra khỏi giới hạn của đường ray cuộc sống thường ngày, giải phóng khỏi
các luật lệ và qui tắc sống, thay cho tính ước lệ của cuộc sống nó đặt vào một
tính ước lệ khác, cô đọng hơn, vui vẻ và nhẹ nhàng hơn. Điều đó liên quan không
chỉ đến các cỗ bài, quân xương và quân cờ vua, mà cả các trò chơi khác, trong
đó có các trò chơi thể thao (đánh ki, bóng đá) và các trò chơi trẻ em. Giữa các
trò chơi ấy còn chưa tồn tại ba ranh giới rõ rệt như sau này chúng xuất hiện.
Chúng ta đã thấy các hình tượng chơi bài mô tả những sự kiện mang tầm thế giới
về cuộc đấu tranh giành giật Italia (trong sáng tác của Saint-Gelais), chúng ta
cũng thấy hình tượng đánh ki (trong tuyển tập của Lonzh và V.Serten) và các
hình tượng trò chơi bài xương (của Deperie) thực hiện chức năng tương tự; trong
“Thơ ẩn ngữ tiên tri” bóng đá cũng đóng vai trò ấy. Trong tác phẩm “Những giấc
mơ của Polifil” Franchesko Kolonna cũng mô tả một trò đánh cờ: các quân cờ vua
được dùng là những người thật, khoác những trang phục phù hợp. Ở đây trò chơi
cờ vua, một mặt biến thành một vũ hội hoá trang kiểu hội giả trang, mặt khác
trở thành những hình tượng hội giả trang về các sự kiện chính trị-quân sự. Trò
chơi cờ ấy được lặp lại ở quyển năm của bộ tiểu thuyết của Rabelais, có lẽ dựa
theo bản thảo nháp của chính Rabelais, ông cũng đã biết đến “Những giấc mơ của
Polifil” (trong “Gargantua” có sự liên tưởng tới cuốn sách này).
Cần lưu ý nghiêm ngặt những đặc điểm ấy trong cách lĩnh hội
trò chơi vào thời đại Rabelais. Trò chơi còn chưa trở thành hiện tượng sinh
hoạt đơn thuần, thậm chí chưa trở thành một phần của một trật tự tiêu cực. Nó
vẫn bảo lưu ý nghĩa cảm quan thế giới của mình. Cần nhận xét rằng Rabelais,
cũng như tất cả các nhà nhân văn chủ nghĩa thời đại ông, đã rất quen thuộc với
quan điểm cổ đại về trò chơi, đề cao trò chơi trước sự vô công rồi nghề thông
thường của cuộc sống. Vì thế ngay cả tiên sinh Ponocrate cũng không loại trừ
bài bạc ra khỏi các thú chơi của Gargantua thời trẻ. Vào những ngày mưa họ “làm
những bài tập dượt hội họa và điêu khắc hoặc tái hiện phong tục chơi bài xương
cổ xưa, dựa theo những mô tả của Leonik1
và noi theo tấm gương của Laskaris, người bạn của chúng ta. Khi chơi mọi người
cùng làm theo những miêu tả của các tác giả cổ đại về trò chơi này”.
Trò chơi bài xương được đặt ở đây bên cạnh hội họa và điêu
khắc, nó được soi sáng bằng việc đọc các tác giả cổ đại. Điều này mở ra cho
chúng ta một khía cạnh khác – khía cạnh nhân văn trong cách tiếp nhận mang tính
nhân sinh quan về trò chơi vào thời Rabelais.
Vì thế khi đánh giá các hình tượng trò chơi trong văn cảnh
của Rabelais không thể tiếp nhận chúng từ góc độ các quan niệm tân tiến hơn về
trò chơi, được xác lập ở các thế kỷ tiếp theo. Số phận của các hình tượng trò
chơi phần nào giống với số phận của những lời chửi mắng và những chuyện bất
nhã. Khi đi vào đời sống cá nhân, chúng dần mất đi mối liên hệ phổ quát của
mình và thoái hoá dần, chúng không còn là chúng, như từng tồn tại ở thời
Rabelais. Các nhà lãng mạn chủ nghĩa đã cố gắng phục hồi các hình tượng trò
chơi (cũng như các hình tượng hội giả trang) trong văn học, nhưng họ hiểu chúng
một cách chủ quan và trên phương diện số phận cá nhân riêng tư1; vì thế ngay điệu thức của các hình
tượng này ở các nhà lãng mạn chủ nghĩa cũng hoàn toàn khác: chúng thường vang
lên ở điệu thứ.
Tất cả những điều chúng tôi vừa phân tích đã giải thích vì
sao các hình tượng trò chơi, các loại tiên tri (dưới dạng giễu nhại), các phỏng
đoán và hình tượng hội hè-dân gian đã liên kết lại thành một chỉnh thể hữu cơ,
thống nhất về nội dung ý nghĩa và bút pháp. Mẫu số chung của chúng là thời
gian vui vẻ. Tất cả chúng đã biến cái chủ nghĩa hậu thế u ám thời trung cổ
thành “con ngáo ộp vui nhộn”. Chúng nhân hoá quá trình lịch sử, chuẩn bị cho nó
một nhận thức tỉnh táo và không sợ hãi.
Trong “Thơ ẩn ngữ tiên tri” với sự trợ giúp của tất cả các
hình thức ấy (trò chơi, lời tiên tri, giải đố), các sự kiện lịch sử đều được mô
tả trên bình diện hội giả trang. Chúng ta hãy dừng lại chi tiết hơn ở “Thơ ẩn
ngữ” này.
Tác giả “Thơ ẩn ngữ tiên tri” tuyên bố rằng nếu người ta có
thể tiên đoán mọi sự qua các vì sao và những lời răn của Chúa, thì ông, tức tác
giả, dám sẵn sàng tiên đoán những gì sẽ xảy ra vào mùa đông tới ở chính nơi
này. “Sẽ xuất hiện những kẻ bất yên” (“las du repoz et fachez du sejour”).
Những kẻ bất yên ấy sẽ gieo rắc sự dấy loạn và chia rẽ những người bạn và người
thân trong gia đình, chúng chia mọi người thành bè phái, xúi giục con cái chống
lại bố mẹ; bất kỳ trật tự nào cũng bị tiêu huỷ, mọi khác biệt xã hội đều bị xoá
nhoà; những người thấp kém đánh mất lòng tôn kính đối với những người tầng lớp
trên. “Chưa bao giờ lịch sử, mà ở đó thường có không ít những điều kỳ diệu vĩ
đại, lại kể về những xáo trộn tương tự như vậy”.
Chúng tôi xin nhấn mạnh trong bức tranh về những thảm họa
tương lai này sự đảo lộn hoàn toàn tôn ti đẳng cấp đã xác định cả về mặt chính
trị-xã hội lẫn gia đình. Cảm giác về một tai họa lớn lao sẽ đến với toàn thể
trật tự chính trị-xã hội và đạo đức của thế giới đã được tạo ra.
Nhưng thảm họa lịch sử này còn được làm trầm trọng thêm bởi
thảm họa vũ trụ. Tác giả mô tả nạn đại hồng thuỷ nhấn chìm loài người và một
cơn động đất khủng khiếp. Tiếp theo xuất hiện ngọn lửa khổng lồ, rồi cuối cùng
sau hết lại bắt đầu một sự bình yên vui vẻ. Quả thật, ở đây dưới những hình ảnh
khá là mù mờ đưa ra bức tranh về bước ngoặt vũ trụ và ngọn lửa thiêu cháy thế
giới cũ, và niềm vui của thế giới mới được hồi sinh. “Thời kỳ tốt đẹp nhất” đã
đến, là kết quả của thảm họa và sự đổi mới thế giới. Hình ảnh đó phần nào gần
gũi với hình ảnh biến ngọn lửa mai táng đốt cháy thế giới cũ thành bếp lửa cỗ
tiệc mà chúng ta đã biết.
Gargantua và thày dòng Jean cùng luận bàn về ý nghĩa của
“Thơ ẩn ngữ tiên tri”. Gargantua tiếp nhận nghiêm túc những tiên tri đó và áp
dụng nó vào hiện thực lịch sử đương thời; chàng đau đớn tiên đoán về sự tàn sát
những kẻ tin theo sách Phúc Âm. Thày dòng Jean cự tuyệt nhìn thấy trong những
lời tiên tri ấy một ý nghĩa nghiêm túc và ảm đạm: “Xin thề trước thánh
Gorderan, tớ lý giải những tiên tri ấy hoàn toàn khác! – chàng tu sĩ kêu lên.-
Đó chính là lối hành văn của nhà tiên tri Merlin! (Ý nói đến Mellen de
Sen-Giele.- M.B.). Cậu và những người khác cứ việc tìm thấy trong đó bất kỳ lời
bóng gió nào, cứ ban cho nó ý nghĩa sâu sắc nhất, cứ tưởng tượng bao nhiêu tuỳ
thích theo ý cậu. Còn tớ chỉ thấy ở đây một ý nghĩa, đó là những mô tả về một
trận bóng đá, tuy là khá mù mờ” (quyển I, chương VIII).
Sau đó chàng đưa ra lời giải thích tương ứng với mỗi hình
tượng riêng lẻ: sự suy đồi xã hội và náo loạn - đó là động tác chia cầu thủ
bóng đá thành hai đội, cơn đại hồng thuỷ - là mồ hôi chảy thành dòng từ các cầu
thủ, trận hoả hoạn ở tầm cỡ thế giới – chính là ngọn lửa bếp lò, xung quanh đó
các cầu thủ nghỉ ngơi sau trận đá bóng, tiếp theo là bữa tiệc và không khí vui
vẻ của tất cả những ai tham gia, đặc biệt là của những người chiến thắng. Lời giải
thích của thày dòng Jean và toàn bộ quyển một của bộ tiểu thuyết kết thúc bằng
câu “đại tiệc cho toàn thế giới” (“et grand cher!”).
Tình tiết quan trọng thứ hai trong tiểu thuyết của Rabelais
được xây dựng trên hình tượng các trò chơi là tình tiết xảy ra với vị quan toà
già Bridua, người giải quyết tất cả các vụ kiện tụng bằng cách gieo quân xương.
Bridua hiểu theo đúng nghĩa đen câu châm ngôn ngành luật “alea judiciorum”
(nghĩa là sự độc đoán của phán xử toà án), bởi từ “alea” có nghĩa là quân bài
xương. Bằng việc hiện thực hoá cái ẩn dụ này, ông ta toàn tâm toàn ý tin tưởng
rằng khi giải quyết các vấn đề tranh chấp bằng quân bài xương, ông ta đã hành
động phù hợp một cách nghiêm ngặt với những thể chế đã được xác lập của ngành
luật. Ông cũng hiểu theo nghĩa đen tình huống “In obscuris minimum est
sequendum”, nghĩa là trong những vụ việc chưa
rõ ràng thì cần áp dụng những quyết định tối thiểu (nghĩa là những quyết
định thận trọng nhất); Bridua, tuân theo luận điểm đó, đã sử dụng những quân
bài xương nhỏ nhất, kích thước “tối thiểu” nhất để quyết định những việc không
rõ ràng. Cũng dựa trên việc hiện thực hoá các ẩn dụ tác giả xây dựng một cách
độc đáo toàn bộ qui trình tố tụng giải quyết công việc toà án của Bridua. Ví
dụ, ông ta thực hiện yêu cầu đối chiếu bằng chứng của các bên bằng cách đặt
trên bàn tập hồ sơ có các bằng chứng của bên nguyên đối diện với tập hồ sơ có
các bằng chứng của bên bị, sau đó gieo
quân xương. Kết quả là mọi công việc xử án trong tay Bridua biến thành
một trò giễu nhại cải trang vui vẻ với hình ảnh gieo quân bài xương nằm ở trung
tâm1.
Đó là một số tình tiết gắn với những lời tiên tri và trò
chơi (tất nhiên, còn xa mới là đầy đủ). Nhiệm vụ nghệ thuật chủ yếu của các
phỏng đoán, tiên tri và câu đố giễu nhại cải biên là hạ bệ thời gian u
ám theo thuyết hậu thế trong các quan niệm trung cổ về thế giới, tái sinh nó
trên bình diện vật chất-thân xác, trần thế hóa nó, thể xác hoá nó, biến nó
thành thời gian tốt lành và vui vẻ. Các hình tượng trò chơi trong đa
phần trường hợp đều phục vụ cho nhiệm vụ đó. Trong tình tiết về Bridua chúng
còn mang thêm một chức năng phụ trợ nữa - giễu nhại cải biên vui vẻ các phương
thức xác định chân lý của toà án, cũng như những lời nói đầu và một loạt tình
tiết của bộ tiểu thuyết đã cải biên các phương thức giáo điều của nhà thờ trong
việc xác lập và tuyên truyền chân lý tôn giáo.
* * *
Đến đây chúng ta phải đặc
biệt dừng lại ở các trò bói toán trong “Quyển ba” của bộ tiểu thuyết của
Rabelais.
“Quyển ba” là lời hưởng
ứng sinh động cho cuộc tranh luận từng làm náo động các bộ óc nước Pháp thời kỳ
đó, đặc biệt sắc nét vào những năm 1542 cho đến năm 1550. Cuộc tranh luận đó
được gọi là “Querelle des femmes”, nói về bản chất của người phụ nữ và chuyện
hôn nhân. Tham gia vào cuộc tranh luận nóng bỏng này gần như là hầu hết các nhà
thơ, nhà văn và nhà triết học nước Pháp. Cuộc tranh luận tìm được sự hưởng ứng
sôi động cả ở trong cung đình, lẫn trong các giới độc giả rộng rãi nhất. Những
tranh luận này không phải là mới: nó đã làm xáo trộn nhiều bộ óc ngay từ thế kỷ
XV, mà thực chất thì toàn bộ thời trung cổ quan tâm đến vấn đề này. Bản chất
của cuộc tranh luận tương đối phức tạp, nó phức tạp hơn là những gì các nhà
nghiên cứu thường hình dung.
Trong vấn đề bản chất của
người phụ nữ và chuyện hôn nhân thường chia ra hai khuynh hướng đối lập nhau,
kéo dài suốt thời trung đại và Phục Hưng.
Khuynh hướng thứ nhất được
gọi là “truyền thống Gôloa” (“tradition gauloise”). Khuynh hướng này xuyên suốt
toàn bộ thời trung cổ, có thái độ nói chung tiêu cực đối với vấn đề bản chất
của người phụ nữ. Khuynh hướng thứ hai, được Abel Lefranc đề xướng gọi là
“truyền thống lý tưởng hoá”1, ngược
lại, đề cao người phụ nữ. Vào thời Rabelais, gần gũi với khuynh hướng đó là
“các thi sĩ dòng Platonic”, cũng phần nào dựa vào truyền thống "hào hoa
phong nhã" thời trung thế kỷ.
Rabelais gia nhập vào
“truyền thống Gôloa”. Ở thời ông, truyền thống đó còn đang tràn trề sức sống và
mới lạ bởi một loạt tác giả, đặc biệt là Gracian Diupon, người cho ra mắt vào
năm 1534 bản trường ca dài ba tập – “Luận chiến về nam giới và nữ giới”. Trong
“Cuộc tranh luận về phụ nữ” Rabelais dường như đứng không phải về phía người
phụ nữ. Giải thích thế nào đây quan điểm
này của ông?
Vấn đề là ở chỗ “truyền
thống Gôloa” là một hiện tượng phức tạp và mâu thuẫn từ bên trong. Về bản chất,
đó không phải là một, mà là hai truyền thống: 1) truyền thống trào tiếu thuần
tuý dân gian và 2) khuynh hướng khổ hạnh của Kitô giáo thời trung cổ. Truyền
thống thứ hai này, nghĩa là khuynh hướng cấm dục, nhìn thấy trong người phụ nữ
hiện thân của khởi nguồn tội lỗi, sự cám dỗ của xác thịt, nhưng lại thường sử
dụng những ngữ liệu và hình tượng của truyền thống trào tiếu dân gian. Vì thế
các nhà nghiên cứu thường liên kết và hoà lẫn chúng với nhau. Phải nói rằng
trong một loạt tác phẩm trung đại vốn thù địch với phụ nữ và hôn nhân - đặc
biệt là các cuốn bách khoa toàn thư, - cả hai khuynh hướng trên được liên kết
lại một cách cơ học.
Song trên thực tế thì
truyền thống trào tiếu dân gian và khuynh hướng cấm dục vô cùng xa lạ với nhau.
Truyền thống trào tiếu dân gian hoàn toàn không thù địch với phụ nữ và hoàn
toàn không đánh giá tiêu cực về họ. Các phạm trù dạng đó ở đây nói chung chưa
bị đặt ra. Người phụ nữ theo truyền thống này gắn bó căn bản với hạ tầng
vật chất-thân xác. Phụ nữ là hiện thân của cái hạ tầng đó, đồng thời vừa hạ
thấp vừa tái sinh. Phụ nữ cũng nhị chức năng như cái hạ tầng đó. Người phụ nữ
hạ thấp, trần thế hoá, thể xác hoá, huỷ hoại; nhưng trước hết người phụ nữ là khởi
nguồn sinh sản. Đó là cái bụng. Cốt lõi nhị chức năng của hình tượng
người phụ nữ trong truyền thống trào tiếu-dân gian là như vậy.
Nhưng ở đâu cái cốt lõi
nhị chức năng ấy nhận được sự lý giải theo khía cạnh sinh hoạt (trong
văn học của truyện thơ tiếu lâm, truyện khôi hài, truyện ngắn sơ kỳ, hề kịch),
thì ở đó tính nhị chức năng của hình tượng người phụ nữ mang hình thức hai mặt
trong bản tính của mình, có sự phản bội, sự đa tình, dâm đãng, dối trá, tính
vật chất, thấp kém. Nhưng tất cả chúng không phải là những phẩm chất đạo đức
trừu tượng của con người, - không thể tách chúng ra khỏi toàn bộ bối cảnh chung
của các hình tượng, nơi chúng mang chức năng vật chất hoá, hạ thấp và đồng thời
tái sinh cuộc sống, nơi chúng được đặt đối lập với tính hữu hạn
của người bạn tình (người chồng, tình nhân, kẻ theo đuổi): tính keo kiệt của
họ, lòng ghen tuông, sự đần độn, phẩm hạnh dối trá, thói đạo đức giả, sự già
nua vô sinh của họ, máu anh hùng tầm thường, tính lý tưởng trừu tượng của họ,
v.v… Người đàn bà trong “truyền thống Gôloa” là nấm mồ thân xác đối với đàn ông
(chồng, bạn tình, người theo đuổi). Đó là một câu chửi tục tĩu, điển hình, cá
thể hoá nhằm vào địa chỉ là bất kỳ tham vọng trừu tượng nào, bất kỳ tính hoàn
tất, hoàn bị và tính hoàn thiện hữu hạn nào. Đó là cái hũ cho sự thụ thai bất
tận, bắt tất cả những gì cũ kỹ và hoàn tất phải chết. Người đàn bà trong
“truyền thống Gôloa”, giống như bà tư tế vùng Panzui của Rabelais, tốc váy lên
và chỉ vào cái chỗ mà tất cả đều phải chui vào (luyện ngục, nấm mồ) và từ đó
tất cả bắt đầu sinh ra (cái bụng sinh sản).
Trên phương diện này
“truyền thống Gôloa” cũng phát triển đề tài cái sừng. Đó là hành động hạ
bệ người chồng già nua, là hành vi thụ thai mới với một người còn trẻ; người
chồng bị cắm sừng trong hệ thống các hình tượng này chuyển thành vai trò
của ông vua bị hạ bệ, của năm cũ, của mùa đông đã qua: người ta
lột trang phục của ông ta, đánh đập và cười nhạo ông ta.
Cần nhấn mạnh rằng hình
tượng người phụ nữ trong “truyền thống Gôloa”, cũng như tất cả các hình tượng
của truyền thống ấy, được đưa ra trên bình diện tiếng cười nhị chức năng, đồng
thời vừa cười nhạo-loại trừ vừa hân hoan-khẳng định. Liệu có thể nói rằng một
truyền thống như vậy lại đưa ra những đánh giá thù địch và tiêu cực đối với phụ
nữ? Tất nhiên là không. Hình tượng người phụ nữ mang tính chất hai mặt, cũng
như tất cả các hình tượng của truyền thống ấy.
Nhưng khi hình tượng này
được sử dụng cho các khuynh hướng cấm dục của Kitô giáo hoặc theo lối tư duy
đạo đức-trừu tượng của các nhà châm biếm và đạo đức thời đại mới, thì nó đã mất
đi cực tích cực của mình và trở thành thuần tuý tiêu cực. Cần nói thêm rằng
những hình tượng đó nói chung không thể chuyển từ bình diện trào tiếu sang bình
diện nghiêm trang, nếu bản chất của chúng không bị bóp méo. Vì thế trong phần
lớn các tác phẩm bách khoa toàn thư thời trung đại và thời Phục Hưng, nơi tập
hợp lại tất cả các lời buộc tội thô lỗ chống lại phụ nữ, thì các hình tượng của
“truyền thống Gôloa” đích thực đã bị mờ nhạt và bóp méo đi. Điều này, ở chừng
mực đáng kể, cũng được bộc lộ trong phần hai của “Tiểu thuyết về hoa hồng”, mặc
dù ở đó đôi khi vẫn còn lưu lại tính nhị chức năng đích thực của hình tượng
nghịch dị về phụ nữ và tình yêu.
Hình tượng người phụ nữ
trong “truyền thống Gôloa” còn chịu sự xuyên tạc kiểu khác nữa ở những thể loại
văn học nghệ thuật nào mà trong đó nó bắt đầu mang tính chất sinh hoạt
thuần tuý. Trong trường hợp đó nó hoặc trở nên chỉ mang tính chất tiêu cực,
hoặc tính nhị chức năng thoái hóa thành một hỗn hợp vô nghĩa các nét tích cực
và tiêu cực (đặc biệt vào thế kỷ XVIII, khi hỗn hợp tĩnh các đặc điểm đạo
đức tích cực và tiêu cực kiểu đó của nhân vật bị mạo nhận dường như là đúng với hiện thực đích thực, là “giống với
cuộc sống”).
Nhưng chúng ta hãy quay
lại cuộc tranh luận về phụ nữ ở thế kỷ XVI và sự tham gia của Rabelais vào cuộc
tranh luận đó. Cuộc tranh luận diễn ra chủ yếu bằng ngôn ngữ của các khái niệm
mới, hạn hẹp, bằng ngôn ngữ của đạo đức trừu tượng và triết học nhân văn chủ
nghĩa kinh viện. Chỉ một mình Rabelais trình diễn một “truyền thống Gôloa”
thuần tuý và đích thực. Ông hoàn toàn không đồng tình với những kẻ thù của phụ
nữ: ông không theo các nhà thuộc phái đạo đức, cũng không theo những người của
phái chủ nghĩa hưởng lạc - những người kế tục của Kastilion. Ông cũng không
đồng tình với những nhà Platonic theo thuyết lý tưởng. Nhưng dù sao, những
người bênh vực theo hướng lý tưởng hoá người phụ nữ và tình yêu cũng gần gũi
với ông hơn là các nhà đạo đức trừu tượng. Trong “nữ tính” cao cả của các nhà
Platonic vẫn lưu giữ một mức độ nào đó tính nhị chức năng của hình tượng người
phụ nữ: hình tượng đó mở rộng về mặt biểu tượng, khía cạnh tái sinh của người
phụ nữ và tình yêu được đưa lên hàng đầu. Nhưng cách lý giải trừu tượng-lý
tưởng hoá và nghiêm trang-thống thiết hình tượng người phụ nữ của các nhà thơ
Platonic dù sao cũng chưa được Rabelais chấp nhận. Rabelais hiểu rất rõ sự
mới mẻ đó của tính nghiêm trang và sự cao quí mà những nhà Platonic thời
đại ông đưa vào văn học và triết học. Ông hiểu sự khác biệt của tính nghiêm
trang mới đó với tính nghiêm trang u ám của thế kỷ Gôtích. Tuy nhiên, ông vẫn
cho là nó chưa có khả năng vượt qua lò lửa của tiếng cười mà không bị cháy rụi
trong đó. Vì thế tiếng nói của Rabelais trong cuộc tranh luận nổi tiếng này của
thời đại, về thực chất, là hoàn toàn đơn độc: đó là tiếng nói của những ngày
hội quảng trường-dân gian, của hội giả trang, của truyện thơ tiếu lâm, truyện
khôi hài, truyện tiếu lâm nặc danh quảng trường, các hí kịch và kịch nhộn,
nhưng tiếng nói ấy vang lên ở đây trên cấp độ hình thức nghệ thuật và tư duy
triết học cao nhất.
Bây giờ chúng ta có thể
chuyển sang những tiên đoán của Panurge, chiếm phần lớn “Quyển ba”. Chàng ta
tiên đoán những gì?
Panurge muốn cưới vợ nhưng
đồng thời lại sợ hôn nhân: chàng sợ trở thành một người chồng bị cắm sừng.
Chàng liền xem bói về chuyện đó. Tất cả các quẻ bói đều cho chàng một câu trả
lời bất hạnh: người vợ tương lai sẽ cắm sừng, sẽ đánh đập và lột sạch chàng.
Nói cách khác: chờ đợi chàng là số phận của một ông vua trong hội giả trang và
năm cũ; mà số phận đó là không tránh khỏi. Mọi lời khuyên của bạn bè, mọi câu
chuyện về đàn bà được kể, lời phân tích về bản tính người phụ nữ của vị bác sĩ
thông thái Rondibilis đều đưa đến kết luận ấy. Cái bụng người đàn bà không bao
giờ vơi cạn và không bao giờ biết no nê; người đàn bà về mặt cấu tạo cơ thể là
kẻ thù hữu cơ đối với tất cả những gì già cũ (như là khởi nguồn
sinh ra cái mới); vì thế Panurge nhất định sẽ bị hạ bệ, bị đánh đập (ở
chừng mực nào đó – bị giết) và bị cười nhạo. Nhưng Panurge không muốn chấp nhận
số phận không tránh khỏi của bất kỳ cá nhân nào đó, số phận được hiện thân ở
đây dưới hình tượng người phụ nữ (“vị hôn thê”). Chàng bướng bỉnh chống lại.
Chàng nghĩ rằng bằng cách nào đó có thể tránh được số phận ấy. Nói cách khác:
chàng muốn làm một ông vua vĩnh viễn, một năm mới vĩnh viễn và tuổi trẻ vĩnh
viễn. Còn người phụ nữ về bản chất của mình là thù địch với sự vĩnh cửu, và bóc
trần nó như bóc trần sự già nua đầy cao vọng. Những chiếc sừng, các trận đòn và
sự cười nhạo ấy là tất yếu. Panurge trong buổi cầu nguyện với thày dòng Jean
(chương XXVII và XXVIII) đã hoài công viện dẫn đến sức mạnh tuyệt vời và phi
thường của cái sinh thực khí của mình. Thày dòng Jean đã đưa ra câu trả lời rất
xác đáng về việc đó. “Cái của cậu đúng là thế thật, - thày dòng Jean nhận xét,
- tuy nhiên mọi thứ trên thế gian này đều già cỗi với thời gian. Không có tảng
đá hoa cương hay khối đá granit nào có thể không bị mài mòn và không bị tiêu
huỷ. Bây giờ cậu còn chưa kịp già, nhưng vài năm nữa trôi qua, nhất định tôi sẽ
nghe thấy từ cậu lời thú nhận rằng cái bộ phận ấy của cậu đã chơi khăm cậu”
Về cuối cuộc đối thoại,
thày dòng Jean kể một câu chuyện nổi tiếng về chiếc nhẫn mặt đá của Gans
Karvel. Câu chuyện đó, cũng như hầu hết các câu chuyện lồng ghép trong tiểu
thuyết, không phải do Rabelais tự nghĩ ra, nhưng nó hoàn toàn hoà nhập vào khối
thống nhất hệ thống các hình tượng và bút pháp của ông. Chiếc nhẫn – biểu tượng
của sự không có tận cùng – không phải vô cớ ở đây biểu thị cho bộ phận
sinh dục nữ (đó là một biểu đạt văn hoá dân gian rất phổ biến). Ở đây diễn ra
một loạt sự thụ thai và đổi mới bất tận. Hy vọng của Panurge đảo ngược
số phận của mình – số phận một kẻ bị hạ bệ, bị cười nhạo và loại trừ – cũng vô
nghĩa như thế, như ý đồ của Gans Karvel già nua được quỷ sứ mách bảo dùng chiếc
nhẫn để chặn dòng nước bất tận của đổi mới và hồi xuân.
Nỗi sợ hãi của Panurge
trước sự cười nhạo và những chiếc sừng không tránh khỏi hoàn toàn tương ứng
trên bình diện trào tiếu với “truyền thống Gôloa”, với môtip huyền thoại phổ
biến nỗi sợ hãi con trai, như trước kẻ giết người và tên ăn trộm
không tránh khỏi. Trong huyền thoại về Cronos, bụng người đàn bà cũng
đóng vai trò quan trọng (bụng của Rei, vợ của Cronos, “mẹ của các thần”), cái
bụng đó không chỉ sinh ra thần Zeus, mà còn che dấu thần khi mới sinh khỏi
những săn đuổi của Cronos và bằng cách đó đảm bảo cho thế giới sự đổi thay và
tái sinh. Một ví dụ khác mà tất cả chúng ta đều biết về môtip nỗi sợ con trai,
như kẻ giết người và tên trộm không thể tránh khỏi (kẻ tiếm đoạt ngai vàng) -
là huyền thoại về Oedipe. Ở đây lòng mẹ Jocaste cũng đóng vai trò hai mặt: nó
vừa sinh ra Oedipe, vừa được Oedipe thụ thai. Một ví dụ khác của cũng môtip ấy
là “Cuộc sống-giấc mơ” của Kalderon.
Nếu trên phương diện môtip
huyền thoại cao cả về nỗi sợ hãi con trai, người con trai chính là kẻ giết
người và tên cướp đoạt, thì trên bình diện “truyền thống trào tiếu Gôloa” ở mức
độ nhất định người vợ đóng vai trò đứa con trai: đó là kẻ sẽ cắm sừng, sẽ đánh
đập và đuổi người chồng già đi. Hình tượng Panurge trong “Quyển ba” là hình
tượng của tuổi già ngoan cố (dù quả thật chỉ mới là bắt đầu), không chịu chấp
nhận đổi thay và đổi mới. Nỗi sợ hãi trước sự đổi thay và đổi mới ở đây xuất
hiện dưới dạng nỗi sợ những cái sừng, nỗi sợ người vợ chưa cưới, sợ số phận,
thể hiện trong hình tượng người đàn bà loại trừ cái cũ, sinh ra cái mới và cái
trẻ trung hơn.
Như vậy, ngay cả môtip
chính của “Quyển ba” cũng gắn liền trực tiếp và căn bản với thời gian và các
hình thức hội hè dân gian: với sự hạ bệ (cái sừng), với các trận đòn và sự cười
nhạo. Vì thế những điều bói toán về người vợ chưa cưới cũng như những cái sừng
đều gắn với môtip cái chết của cá nhân, môtip thay đổi và tái sinh (nhưng ở
bình diện trào tiếu), đều phục vụ chính là nhiệm vụ thân xác hoá, nhân cách hoá
thời gian, tạo nên hình tượng thời gian vui vẻ. Trò bói toán về những cái sừng,
về số phận của vương miện và ngọc miện (ở đây trên bình diện trào tiếu chúng
tương ứng với những cái sừng) là sự hạ thấp nghịch dị những trò bói toán trên
bình diện cao cả mà các ông vua và những kẻ tiếm vị đắm mình trong đó, ví dụ,
những tiên đoán của Makbet.
Chúng tôi chỉ mới tạm tách
ra trong “Quyển ba” môtip hội hè qua những trò bói toán trào tiếu giễu nhại của
Panurge. Nhưng xung quanh môtip chủ đạo đó, như xung quanh một cái trục cốt
lõi, đã hình thành một cuộc tổng điều tra rộng rãi kiểu hội giả trang toàn bộ
cái cũ đang cưỡng lại và cái mới còn đang buồn cười trong lĩnh vực tư duy và
thế giới quan. Trước mắt chúng ta diễu qua là các đại diện của giới thần học,
triết học, y học, luật học, ma thuật tự nhiên, v.v… Về mặt này “Quyển ba” làm
ta nhớ đến những lời nói đầu của Rabelais: đó chính là một mẫu mực tuyệt vời
của thể văn chính luận thời Phục Hưng trên nền tảng quảng trường-dân gian hội
giả trang.
* * *
Chúng tôi đã phân tích ảnh
hưởng quyết định của các hình thức hội hè-dân gian đến một loạt yếu tố cơ bản
trong tiểu thuyết của Rabelais - đến các cảnh chiến trận, đánh đập, hạ bệ, đến
hàng loạt tình tiết xuyên suốt trực tiếp mảng đề tài lễ hội đã được xác định,
đến hình tượng các trò chơi, những lời tiên tri, trò bói toán. Ảnh hưởng của
các hình thức hội hè-dân gian hội giả trang, tất nhiên, còn xa mới được khai
thác hết nếu chỉ qua những tình tiết đó. Chúng tôi còn quay lại những phản
chiếu khác của ảnh hưởng ấy trong các chương sau. Ở đây chúng tôi chỉ xử lý hai
vấn đề: ý nghĩa thế giới quan chủ đạo của các hình thức hội hè-dân gian hội giả
trang và các chức năng đặc biệt của những hình thức đó trong tiểu thuyết của
Rabelais.
Vậy ý nghĩa thế giới quan
chung của các hình thức hội hè-dân gian hội giả trang (ở nghĩa rộng) là gì?
Khi xem xét vấn đề này
chúng tôi lấy những miêu tả về hội giả trang La Mã do Goethe đưa ra làm xuất
phát điểm. Bài miêu tả tuyệt vời này xứng đáng có những nghiên cứu sâu rộng
hơn. Goethe, với một sự giản dị và chiều sâu lớn lao, đã thành công trong việc
nắm bắt và trình bày hầu hết những gì căn bản nhất của hiện tượng này. Việc câu
chuyện ở đây nói về hội giả trang La Mã năm 1788 - nghĩa là về một hiện tượng
tương đối muộn hơn, - cũng không có ảnh hưởng gì nhiều trong trường hợp này.
Hạt nhân thế giới quan cơ bản của hệ thống các hình tượng hội giả trang vẫn được bảo lưu tương đối muộn hơn về sau.
Goethe được chuẩn bị tốt
hơn bất kỳ người nào khác để mô tả hội giả trang La Mã. Trong suốt đời mình
Goethe luôn thể hiện mối quan tâm và tình yêu đặc biệt tới các hình thức hội
hè-dân gian và một đặc tính nổi bật của các hình thức ấy là biểu tượng hoá
hiện thực. Đặc biệt, một trong những ấn tượng mạnh mẽ nhất vào thời niên
thiếu của ông là lễ hội lựa chọn và đăng quang hoàng đế của “dân tộc Đức thuộc
Đế chế La Mã thần thánh”, khi ông có mặt ở Frankfurg. Mãi sau này ông mới miêu
tả lại lễ hội ấy, nhưng cái cách mà ông thực hiện nó, cùng với một loạt kiến
giải khác đã khiến chúng tôi tin tưởng rằng đó là một trong những ấn tượng mạnh
nhất xác lập nên cảm quan thời trẻ của ông, nghĩa là ở chừng mực nhất định
quyết định hình thức cảm nhận cho toàn bộ phần đời tiếp theo. Đó là quang cảnh
một trò chơi nửa thực, nửa biểu tượng với các tượng trưng của quyền lực, cuộc
lựa chọn, sự đăng quang và lễ khánh hạ. Những thế lực lịch sử có thực trình
diễn một vở hài kịch biểu tượng về các mối tương quan đẳng cấp của mình. Đó là
một trò diễn có tầm cỡ quốc gia mà không cần ánh đèn sân khấu, nơi giữa hiện
thực và biểu tượng không thể đưa ra một ranh giới rõ ràng. Quả thực, câu chuyện
ở đây không phải nói về sự hạ bệ của toàn dân, mà là việc lên ngôi. Nhưng sự
gần gũi về cốt lõi, hình thức và nghệ thuật của cuộc lựa chọn, màn đăng quang, lễ
khải hoàn, trò phế truất, sự cười nhạo là không thể nghi ngờ. Bởi vì thoạt đầu
tất cả các nghi thức đó và các hình tượng cấu tạo nên chúng đều mang tính nhị
chức năng (nghĩa là sự lên ngôi của cái mới luôn song hành với sự phế truất cái
cũ, lễ khải hoàn luôn song hành với sự cười nhạo).
Chúng ta đều biết tình yêu
lớn lao của Goethe đối với những hiện tượng nguyên thuỷ nhất của các hình thức
hội hè-dân gian - với đủ trò cải trang và màn yêu thuật, ông đã tham gia vào
chúng từ những ngày niên thiếu và kể lại cho chúng ta trong tác phẩm “Thơ ca và
sự thật”.
Chúng ta cũng biết đến
tuổi trưởng thành Goethe thích làm một người ẩn danh chu du khắp các vùng đất
của công quốc Veimar và vui thú với điều đó. Nhưng vấn đề ở đây không phải là
một thú vui tiêu khiển bình thường, - ông cảm nhận được ý nghĩa sâu xa và quan
trọng hơn của tất cả các trò cải trang, những thay đổi và làm mới quần áo và
địa vị xã hội ấy.
Goethe cũng say mê các trò
khôi hài trong lễ tiễn mùa đông trên quảng trường Gans Saks1. Và cuối cùng, trong thời kỳ ở Veimar,
Goethe với tư cách là người tổ chức thường xuyên các lễ hội và vũ hội hoá trang
cung đình, đã nghiên cứu kỹ lưỡng những truyền thống muộn màng và mang tính
chất đặc thù của lễ hội-cung đình trong các hình thức và mặt nạ của hội giả trang.
Những yếu tố cơ bản đó
(chúng tôi cũng chưa kể ra hết) đã chuẩn bị cho Goethe một sự lĩnh hội đúng đắn
và sâu xa hội giả trang La Mã.
Chúng tôi xin khảo sát bài
miêu tả của Goethe về hội giả trang trong tác phẩm “Cuộc du ngoạn đến nước Ý”
của ông để tách ra những gì đáp ứng cho nhiệm vụ của chúng tôi. Trước hết,
Goethe nhấn mạnh tính chất toàn dân của lễ hội đó, tinh thần chủ động sáng tạo
của nhân dân trong đó: “Hội giả trang La Mã là một ngày hội, về bản chất, diễn
ra không phải cho nhân dân, mà là của nhân dân trình diễn cho bản thân mình”2.
Nhân dân ở đây không cảm
thấy mình là người được nhận một cái gì đó mà họ phải đón nhận với lòng ngưỡng
mộ và biết ơn. Ở đây đúng là người ta chẳng cho họ cái gì cả, nhưng người ta để
cho họ yên. Ngày hội ấy không có khách thể mà đối với nó có thể đòi hỏi sự
ngạc nhiên, lòng ngưỡng mộ, niềm kính trọng tôn sùng, nghĩa là không có vừa
đúng những gì người ta đòi hỏi ở một ngày lễ chính thống: “Ở đây không có những
đám rước lung linh huyền ảo mà khi đến gần người dân phải cầu nguyện và ngạc
nhiên; ở đây chỉ bộc lộ dấu hiệu rằng bất kỳ ai cũng có thể đùa tếu hoặc hoá
điên bao nhiêu tuỳ thích, và ngoại trừ ẩu đả và dao kiếm, hầu như mọi thứ đều
có thể được cho phép” (tr. 511).
Điều đó rất quan trọng đối
với toàn bộ không khí của hội giả trang, nó diễn ra không phải bằng điệu thức
ngưỡng mộ, không phải bằng giọng điệu trang nghiêm, không phải bằng mệnh lệnh,
bằng sự được phép, mà đơn giản chỉ phát lộ tín hiệu để bắt đầu những trò đùa
vui vẻ và tinh nghịch.
Tiếp theo Goethe nhấn mạnh
sự thay đổi tất cả các ranh giới thứ bậc, chức tước và địa vị, nhấn mạnh tính
chất suồng sã tuyệt đối của trò vui hội giả trang: “Khoảng cách giữa người cao
sang và kẻ thấp hèn trong khoảnh khắc dường như ngừng tồn tại: tất cả xích lại
gần nhau, mỗi người ứng xử nhẹ nhàng với tất cả những gì có thể xảy đến với anh
ta, người ta bỏ qua cho nhau mọi nghi thức, và không khí tự do được xác lập bởi
một tâm trạng chung thật là tuyệt vời”.
“Trong những ngày ấy, và
cả đến bây giờ, các công dân La Mã đều vui sướng trước việc ngày lễ Chúa Giáng
sinh tuy có thể kéo dài một vài tuần, nhưng không phá huỷ hoàn toàn lễ hội Saturnalia với những đặc
quyền của nó” (tr. 511).
Hiệu lệnh mở đầu ngày hội
đã được phát ra và: “Vào giây phút đó một người La Mã dù nghiêm trang đến đâu,
dù suốt năm giữ gìn cẩn thận từng hành vi nhỏ đến đâu, cũng đồng loạt dẹp sang
một bên sự nghiêm trang và tính cẩn trọng của mình” (tr. 515).
Chúng tôi xin nhấn mạnh sự
giải phóng trọn vẹn khỏi tính nghiêm trang thường ngày đó.
Trong không khí tự do,
thoải mái của hội giả trang, các trò khiếm nhã cũng tìm được chỗ cho mình. Mặt
nạ Pulcinella thường cho phép có những cử chỉ dung tục trước mặt phụ nữ: “Khi
nói chuyện với phụ nữ, bằng một động tác nhỏ, nó có thể ngụ ý một cách táo bạo
về gương mặt vị thần vườn cổ xưa của đất nước La Mã thần thánh, và sự nông nổi
của hành vi đó chỉ gợi nên niềm vui sướng hơn là sự không hài lòng” (tr. 517).
Goethe cũng đưa vào không
khí hội giả trang đề tài hạ bệ lịch sử. Trong cảnh chật chội và chen chúc của
những ngày hội giả trang “quận công Albanski đi xe qua… mỗi ngày, luồn lách khó khăn trong đám đông, làm
người ta nhớ đến vị nữ chúa cổ xưa của các Sa hoàng vào những ngày vũ hội hoá
trang toàn dân trong vở hề kịch về lễ tiễn mùa đông với những cao vọng đoạt được
ngai vàng” (tr. 525).
Tiếp theo Goethe mô tả các
trận đánh kiểu hội giả trang với sự trợ giúp của hoa giấy, đôi khi mang
tính chất gần như nghiêm túc. Ông cũng mô tả những cuộc tranh luận hội giả
trang – cuộc đấu khẩu giữa các mặt nạ, ví dụ, giữa Capital và Pulcinella.
Tiếp theo là cảnh mô tả các Pulcinella lựa chọn vua hề: người ta trao
cho ông vua cây vương trượng hề và chở ông ta trên một cỗ xe trang hoàng
sặc sỡ trong tiếng nhạc và tiếng hò reo vang xa khắp vùng Korso.
Cuối cùng là đoạn mô tả
một cảnh diễn vô cùng đặc trưng cho hội giả trang tại một trong các ngách phố
nhỏ. Xuất hiện một nhóm đàn ông cải trang: một số người mặc quần áo nông dân,
số khác cải trang làm phụ nữ; trong số phụ nữ một người có những dấu hiệu rõ
ràng đang mang thai. Bỗng nhiên trong những người đàn ông bùng lên một
cuộc cãi vã; những con dao (bằng giấy bạc) được dùng tới. Đám phụ nữ can ngăn
những kẻ đánh nhau; vì quá sợ hãi người phụ nữ mang thai bắt đầu trở dạ
ngay trên đường phố: bà ta rên rỉ và quằn quại, những người phụ nữ khác quây
lại, đặt bà ta lên ghế, và ngay tại đó trước toàn thể dân chúng bà ta đẻ ra
một sinh vật nào đó trông không rõ hình thù. Đến đây màn trình diễn kết thúc.
Có lẽ không cần bất cứ một
lời giải thích đặc biệt nào về đoạn mô tả cuộc ẩu đả và hành vi sinh đẻ
đó, sau toàn bộ những gì chúng tôi vừa trình bày ở trên: việc giết gia súc, cơ
thể bị phanh xé thành từng mảnh và hành vi sinh sản trong sự thống nhất mật
thiết của chúng, như chúng ta thấy, đã tạo nên tình tiết thứ nhất của
“Gargantua”. Kết hợp giết chóc và sinh đẻ là biểu hiện vô cùng đặc trưng của
quan niệm nghịch dị về thân thể và đời sống thân xác. Toàn bộ cảnh diễn trên
ngách phố là một vở kịch nghịch dị nhỏ về thân thể.
Đến phần kết thúc hội giả
trang diễn ra lễ hội ngọn lửa “Moccoli” (nghĩa là ngọn nến tàn). Đó là
một cảnh chuyển động kỳ vĩ của những ngọn lửa dọc vùng Korso và các con phố lân
cận. Mỗi người tham gia nhất thiết phải mang theo một ngọn nến cháy: “Sia
ammazzato chi non porte moccolo!”, nghĩa là “Cái chết sẽ đến với kẻ nào không
mang tàn nến”. Cùng với những tiếng thét "khát máu" đó người này cố
gắng dập tắt ngọn lửa của người kia. Ngọn lửa kết hợp với lời đe doạ cái
chết. Nhưng hành động đe dọa cái chết đó, tiếng thét “Sia ammazzato!” càng
to bao nhiêu, thì càng mất đi ý nghĩa trực tiếp và đơn nghĩa của sự giết chóc
bấy nhiêu: nó mở ra ý nghĩa nhị chức năng sâu xa của lời cầu chúc cái chết.
Khi mô tả quá trình biến đổi ý nghĩa của thành ngữ này, Goethe đã mở rộng hoàn
toàn có lý hiện tượng đó như sau: “Thành ngữ ấy dần dần mất đi ý nghĩa của mình. Và giống như ở các
ngôn ngữ khác không hiếm khi người ta phải nghe những lời nguyền rủa hoặc lời
nói tục, sử dụng để biểu thị niềm ngạc nhiên hay vui sướng, thì “Sia ammazzato”
vào buổi tối hôm ấy cũng trở thành một khẩu hiệu, một tiếng hò reo hân hoan,
thành điệp khúc kèm theo bất kỳ trò đùa, trò trêu chọc hay tán dương nào” (tr.
539).
Hiện tượng hai nghĩa trong
các thành ngữ nguyền rủa được Goethe quan sát và mô tả hoàn toàn chính xác.
Nhưng khẳng định của ông “ý nghĩa ban đầu của thành ngữ dần dần bị mất hẳn”
chưa chắc đã đúng. Trong tất cả những mối liên hợp ông vừa dẫn ra ở trên, trong
đó lời cầu chúc cái chết dùng để biểu thị niềm vui, sự chế nhạo tốt bụng, sự
tâng bốc và tán dương, thì ý nghĩa ban đầu của chúng hoàn toàn không bị mất
đi: chính nó lại tạo ra tính chất đặc thù và sự hấp dẫn đặc biệt của cách xưng
hô và biểu đạt hội giả trang không thể có vào bất kỳ thời điểm nào khác. Vấn
đề chính là ở sự kết hợp nhị chức năng lời chửi rủa và lời ngợi ca, cầu chúc
cái chết và cầu chúc sự tốt lành cho cuộc sống, trong không khí ngày hội ngọn
lửa có ý nghĩa thiêu trụi và hồi sinh.
Nhưng đằng sau sự tương
phản hình thức về ý nghĩa và giọng điệu của thành ngữ này, đằng sau trò chơi
chủ quan của những điều đối lập là tính nhị chức năng khách quan của
sinh tồn và sự trùng hợp khách quan các đối lập, sự trùng hợp ấy mặc dù còn
chưa được tư duy một cách rõ ràng, nhưng ở mức độ nào đấy đã được những người
tham gia hội giả trang cảm nhận.
Kết hợp “Sia ammazzato”
với ngữ điệu vui sướng, với lời chào bạn bè âu yếm, với lời ngợi khen-tán dương
hoàn toàn tương đương với sự kết hợp cảnh giết chóc-dao kiếm với hành vi
sinh đẻ tại con ngách phố chúng tôi đã mô tả. Đó, về bản chất, vẫn chính là
vở kịch về cái chết đang mang thai và sinh hạ, được trình diễn trong
cảnh diễn nói trên cũng như trong “lễ hội ngọn lửa” (moccoli) kết thúc hội giả
trang. Trong “moccoli” đã sống lại tính nhị chức năng cổ xưa của những lời chúc
cái chết, vang lên như lời chúc đổi mới và tái sinh: hãy chết đi – và hãy
tái sinh. Và tính nhị chức năng cổ xưa này ở đây cũng không phải là một tàn
dư đông cứng. Nó vẫn sống động và tìm được sự hưởng ứng chủ quan ở tất cả những
người tham gia hội giả trang chính là bởi nó hoàn toàn khách quan, dù ý nghĩa
khách quan ấy của nó cũng chưa được nhận thức một cách rõ ràng và trọn vẹn.
Tại hội giả trang tính
chất hai mặt của sinh tồn (như quá trình hình thành) được sống lại bằng việc tô
điểm cho các hình tượng truyền thống cũ (dao, giết người, mang thai, sinh đẻ,
lửa). Vẫn tính nhị chức năng khách quan của sinh tồn ấy được Goethe thể hiện ở
cấp độ cao của nhận thức trữ tình và triết học trong bài thơ bất tử “Sagt es
niemand…”
Khi trong anh còn chưa có
Khát vọng chết,
Thì hãy chết đi và hãy hồi sinh,
Anh chỉ là vị khách u sầu
Trên mặt đất tối tăm này.
Song đó cũng chính là câu
nói “Sia ammazzato” của hội giả trang, vang lên trong không khí tràn đầy ngọn
lửa và kết hợp với niềm vui, lời chào hỏi, lời tán tụng. Bởi vì ở đó, trong hội
giả trang, lời chúc cái chết – “hãy chết đi” (stirb) vang lên đồng thời như
“hãy hồi sinh”, “hãy sống lại” (werde). Và những người tham gia hội giả trang
hoàn toàn không phải là “những vị khách u sầu”. Thứ nhất, họ hoàn toàn không
phải là khách: Goethe đã nhấn mạnh chính xác rằng hội giả trang - đó là ngày lễ
duy nhất mà nhân dân tự tạo cho mình, nhân dân ở đây không nhận được cái
gì cả, không phải sùng kính trước ai, họ cảm thấy mình là chủ nhân – và chỉ
là chủ nhân (trong hội giả trang không ai là khách mời, không ai là khán
giả, tất cả đều là người tham gia, đều là chủ). Thứ hai, những người tham gia
hội giả trang ít mang vẻ buồn rầu hơn cả: khi tín hiệu ngày hội bắt đầu thì tất
cả họ, thậm chí những người nghiêm trang nhất, đều rũ bỏ khỏi mình bất kỳ tính
trang nghiêm nào (điều này được chính Goethe nhấn mạnh). Cuối cùng, ít khả năng
hơn cả là nói về bóng tối trong thời gian “moccoli”, nghĩa là trong thời gian
lễ hội ngọn lửa, khi toàn bộ vùng Korso tràn ngập ánh sáng của những ngọn lửa,
ngọn nến và ánh đuốc luân chuyển. Phép đối ngẫu, như vậy, ở đây là trọn vẹn: người
tham gia hội giả trang – nhân dân – là chủ nhân vui vẻ tuyệt đối của
mặt đất tràn đầy ánh sáng, bởi họ biết cái chết chứa đầy sự ra đời mới, bởi họ
biết hình ảnh vui vẻ của sự hình thành và thời gian, bởi họ nắm được toàn bộ
cái “stirb und werde” ấy. Vấn đề ở đây không phải ở các cấp độ nhận thức
chủ quan toàn bộ những điều ấy của từng người riêng lẻ tham gia hội giả trang,
- vấn đề là ở sự tham dự khách quan của họ vào cảm giác toàn dân về tính tập
thể vĩnh cửu của mình, sự bất tử lịch sử của toàn dân trên trái đất và sự đổi mới-trưởng thành không ngừng.
Và hai câu thơ đầu trong
bài thơ của Goethe:
Đừng nói với ai về điều đó, trừ những người thông thái,
Bởi đám đông lập tức sẽ cười nhạo…
được
viết không phải bởi Goethe, với tư cách một người tham gia hội giả trang La Mã,
mà chính xác hơn, là bởi Goethe – một tay lão luyện trong trò lừa bịp kiểu
Mason1. Ông muốn biến thành minh triết bí
truyền chính cái mà vào thời ông chỉ đông đảo các tầng lớp dân chúng mới cảm
nhận được với tất cả sự trọn vẹn và cụ thể của nó. Và trên thực tế, chính là
“die Menge” bằng ngôn ngữ của mình, thơ ca của mình, các hình tượng của mình,
trong đó có các hình tượng hội giả trang và lễ tiễn mùa đông, đã mách bảo sự
thật đó cho nhà thông thái Goethe biết, người đủ uyên bác để không cười nhạo
nó.
Xin
dẫn thêm một đoạn tương tự, khẳng định luận điểm của chúng tôi.
Trong
“Những cuộc nói chuyện với Ekkerman (viết ngày 17 tháng Giêng năm 1827) về
những ngọn lửa trong đêm Ivanovo,
Goethe trích dẫn những câu thơ của mình và chú giải chúng:
Từ nay hãy để trẻ em chiêm ngưỡng
Những ngọn lửa trong đêm Ivanovo!
Bất kỳ chiếc chổi nào rồi cũng phải cùn
mòn,
Và
trẻ con tiếp tục được sinh ra
trên đời.
“Tôi chỉ còn cách ngó qua
cửa sổ, để nhìn thấy trong những chiếc chổi người ta dùng để quét đường,
và trong những đứa trẻ đang chạy rông trên hè phố những biểu tượng
của cuộc sống vĩnh viễn cùn mòn và vĩnh viễn đổi mới”.
Goethe hiểu rất rõ ngôn
ngữ của các hình tượng hội hè-dân gian. Và cảm giác bút pháp của ông không chút
bối rối trước sự kết hợp thuần tuý hội giả trang giữa hình tượng những
chiếc chổi quét đường và những đứa trẻ với tư cách những biểu tượng phổ quát
nhất của cuộc sống vĩnh viễn chết đi và vĩnh viễn tái sinh.
Nhưng chúng ta hãy quay
lại với bài miêu tả của Goethe về hội giả trang La Mã, và lời nguyền rủa quả
quyết mang tính nhị chức năng “sia ammazzato” nói riêng.
Trong thế giới hội giả
trang bất kỳ tôn ti trật tự nào cũng bị thay đổi. Mọi tầng lớp và lứa tuổi ở
đây bình đẳng như nhau. Và thế là chú bé cố dập tắt ngọn nến của cha mình và
hét lên với ông ta: Sia ammazzato il signore Padre!” (nghĩa là “Thần chết bắt
mày đi, bố già ơi!”. Tiếng thét hội giả trang tuyệt vời này của cậu bé vui vẻ
đe dọa cái chết cho bố mình và dập tắt ngọn nến của ông ta, sau tất cả những gì
chúng tôi vừa trình bày, không cần thêm một sự chú giải đặc biệt nào nữa.
Hội giả trang được kết
thúc tại đây. Khoảng gần nửa đêm tại tất cả các gia đình diễn ra những bữa
tiệc, ở đó người ta ăn thịt thoả thích: bởi vì nó sắp sửa bị cấm.
Sau ngày cuối cùng của hội
giả trang là đến “ngày thứ tư tro tàn”, và Goethe kết thúc bài miêu tả của mình
về hội giả trang bằng “Những suy ngẫm trong ngày thứ tư tro tàn”. Ông đưa ra
một dạng “triết học về hội giả trang”. Ông cố gắng phát hiện ý nghĩa nghiêm
túc của trò hề hội giả trang. Đây là phần chính của những suy ngẫm đó: “Vào
lúc cao điểm của những trò tinh nghịch ấy, khi chàng Pulcinella thô thiển bằng
một điệu bộ thô tục nhắc chúng ta nhớ về những khoái cảm yêu đương mà chúng ta
phải có trách nhiệm bởi sự tồn tại của chính bản thân, khi một nàng Baubo nào
đó thể hiện ngay trên quảng trường những bí mật của việc sinh đẻ, khi vô vàn
những ngọn nến cháy trong đêm nhắc ta nhớ tới những nghi thức trang nghiêm cuối
cùng của cuộc đời, thì từ những điều vặt vãnh xung quanh, suy tư của chúng ta hướng
về những thời điểm quan trọng nhất của cuộc sống của mình” (tr. 541).
Những suy nghĩ đó của
Goethe phần nào gợi nên trong chúng tôi sự thất vọng: ở đây không tập hợp được
tất cả các yếu tố của hội giả trang (ví dụ, không có phần lựa chọn vua hài, các
trận chiến kiểu hội giả trang, môtip giết người, v.v…). Ý nghĩa của hội giả
trang bị giới hạn ở phương diện cuộc sống và cái chết cá nhân. Yếu tố tập
thể-lịch sử căn cốt không được đặt ra. “Cơn đại hoả hoạn thế giới” của ngọn lửa
đổi mới trong hội giả trang gần như bị thu hẹp thành những ngọn nến đưa tang
trong nghi thức đám ma cá nhân. Động tác khiếm nhã của Pulcinella, hành vi mô
tả sự sinh đẻ ngay trên đường phố, hình tượng cái chết được biểu tượng hoá bằng
ngọn lửa trong những suy ngẫm của Goethe đã được gắn kết chính xác làm một, như
những yếu tố của một cuộc thao diễn có ý nghĩa phổ quát sâu xa, nhưng ông lại
liên kết chúng trên nền tảng hạn hẹp của bình diện cuộc sống và cái chết cá
nhân.
Vậy là những hình tượng
được mô tả tuyệt vời trước đó của hội giả trang trong “Những suy ngẫm vào ngày
thứ tư tro tàn” gần như được chuyển hoàn toàn sang khu vực cảm quan thế giới cá
nhân-chủ quan. Các hình tượng hội giả trang sẽ được tiếp tục nhận thức như vậy
cả trong thời kỳ chủ nghĩa lãng mạn. Trong chúng người ta sẽ chỉ nhìn thấy
những biểu tượng của số phận cá nhân, trong khi đó chúng mở ra chính là số phận
của nhân dân, gắn liền không rời với đất đai và xuyên suốt nhân tố vũ trụ. Bản
thân Goethe trong sáng tác nghệ thuật của mình không hề bước lên con đường cá nhân
hoá các hình tượng hội giả trang ấy, nhưng “Những suy ngẫm trong ngày thứ tư
tro tàn” của ông đã bộc lộ con đường đó1.
Công lao của Goethe ở bài
viết mô tả hội giả trang ấy, thậm chí ngay cả những suy ngẫm mang tính kết luận
của ông là rất lớn: ông có khả năng nhìn thấy và vạch ra sự thống nhất và tính
cảm quan thế giới sâu xa của hội giả trang. Đằng sau những trò đùa cợt tinh
nghịch, những trò bất nhã, suồng sã thô tục riêng lẻ, dường như chẳng gắn kết
gì với nhau ấy của hội giả trang, thậm chí đằng sau bản thân tính không nghiêm
túc của nó, ông có khả năng cảm thấy một giác độ nhất quát nhìn vào thế giới
và một bút pháp thống nhất, mặc dù trong những suy nghĩ mang tính kết luận
ông cũng chưa trao cho chúng một diễn đạt đúng đắn và rõ ràng về mặt lý luận.
Liên quan đến vấn đề biểu tượng hoá hiện thực của các hình
thức hội hè-dân gian theo cách hiểu của Goethe, xin dẫn ra hai ý kiến ông rút
ra từ những cuộc chuyện trò với Ekkerman. Thứ nhất là về bức tranh của
Korredzho “Rời vú mẹ”: “Đúng, thế mới là tranh chứ! Ở đây chất trí tuệ, sự hồn
nhiên ngây thơ, sự nhạy cảm sinh động – tất cả được kết lại làm một. Và một
đề tài thiêng liêng trở nên rất người và trở thành biểu tượng của
một nấc thang trong cuộc sống mà chúng ta tất cả đã đi qua. Bức
tranh như vậy đã trở thành vĩnh cửu, bởi nó đưa chúng ta trở lại thời gian
sớm nhất của nhân loại và dự đoán về những thời kỳ xa xôi nhất” (13 tháng
12 năm 1826). Thứ hai là về tác phẩm “Những con bò” của Miron: "Ở đây
trước mắt chúng ta là một cái gì đó vô cùng cao cả: trong hình tượng tuyệt vời
này thể hiện nguyên tắc hấp thụ, nhờ nó mà toàn bộ thế giới này tồn
tại và toàn bộ tự nhiên đều thấm nhuần nó; tôi gọi nó và những bức họa
tương tự là những biểu tượng đích thực của Đấng toàn năng”. Từ hai nhận
xét trên chúng ta thấy Goethe hiểu rất rõ ý nghĩa mở rộng về mặt biểu tượng
của các hình tượng bú mớm (trong bức tranh thứ nhất là đứa con đang bú mẹ,
trong bức tranh thứ hai là bò mẹ cho bê con bú).
Chúng tôi xin dẫn thêm hai
đoạn trích nữa trong những câu chuyện với Ekkerman, chứng tỏ cách hiểu gần như
mang tính hội giả trang của Goethe về tư tưởng cái chết và sự đổi mới của từng
con người riêng lẻ, cũng như của toàn nhân loại: “Nói chung các vị có thể nhận
thấy ở khoảng giữa cuộc đời con người thường xuất hiện những bước ngoặt, và nếu
lúc còn trẻ mọi sự đều thuận lợi đối với họ và họ thành công trong mọi sự, thì
bây giờ mọi thứ dường như thay đổi, thất bại và bất hạnh cứ kế tiếp nhau xảy
đến. Các vị có biết, tôi nghĩ thế nào về điều đó không? Con người cần bị huỷ
hoại một lần nữa! Mỗi con người xuất chúng đều có thiên chức thực hiện một sứ
mệnh nhất định. Nếu anh ta đã thực hiện xong nó, như vậy anh ta đã không còn
cần thiết trên mặt đất này, và mệnh trời sẽ ấn định anh ta cho một cái gì đó
khác hơn (11 tháng 3 năm 1828).
Và đây là một đoạn khác:
“Tôi nhìn thấy bước tiến của thời gian, khi nhân loại sẽ không còn vui sướng
trước tạo hoá nữa và họ sẽ lại phải phá bỏ tất cả, để đổi mới sự
sáng tạo. Tôi tin tưởng chắc chắn rằng mọi sự sẽ dẫn đến điều đó và trong
tương lai xa đã ấn định những thời khắc và thời hạn khi nào thời đại đổi mới
ấy sẽ đến. Nhưng từ nay đến lúc đó, tất nhiên, còn khá nhiều thời gian, và
chúng ta còn có thể hàng nghìn, hàng nghìn năm nữa vui đùa trên mặt đất già
nua đáng yêu này” (23 tháng 10 năm 1828).
Cần phải nói rằng các quan
điểm của Goethe đối với tự nhiên, như một chỉnh thể, như cái “tất
cả”, trong đó có cả con người, đều thấm nhuần những yếu tố của thế giới
quan hội giả trang. Khoảng năm 1782 Goethe viết theo tinh thần Spinoza một bài
thơ tuyệt vời bằng văn xuôi với nhan đề “Tự nhiên”. Gertsen đã dịch nó làm phụ
đề cho bài viết thứ hai trong “Những nghiên cứu về tự nhiên” của mình.
Đây là một số đoạn trong
tác phẩm ấy của Goethe, khẳng định những suy nghĩ của chúng tôi:
“Tự nhiên. Bị vây bọc và
tóm chặt bởi nó, chúng ta không thể bước ra khỏi nó, cũng không thể đi sâu vào
nó. Không mời mọc, không chờ đợi, nó cuốn chúng ta vào cơn lốc của vũ điệu
của mình và cùng chúng ta phi chóng mặt, cho đến khi mệt lử, chúng ta tuột ra
khỏi vòng tay nó.
“Tự nhiên không có lời nói và ngôn từ, nhưng
nó tạo ra hàng nghìn ngôn ngữ và trái tim để nói và cảm.
“Tự nhiên là tất cả. Nó
vừa tự ban thưởng cho mình, vừa tự trừng phạt mình, tự vui sướng và dằn vặt. Nó
nghiêm khắc và hiền dịu, yêu thương và đe dọa, bất lực và toàn năng.
“Tất cả mọi người ở trong
nó, và nó ở trong mọi người. Nó thân thiện chơi cùng với tất cả, và
người ta càng thắng nhiều của nó, nó càng vui thích hơn. Với nhiều người
nó chơi kín đáo đến mức trò chơi kết thúc mà họ cũng không nhận thấy.
“Các cảnh diễn của
nó vĩnh viễn mới, bởi nó không ngừng sáng tạo ra những người thưởng ngoạn mới.
Cuộc sống - đó là phát minh tốt nhất của nó; cái chết đối với nó là phương
tiện cho cuộc sống lớn hơn.
“…Nó toàn vẹn và vĩnh
viễn không kết thúc. Thật nên luôn luôn sáng tạo, như là nó sáng
tạo”1
Từ những đoạn trích trên
chúng ta thấy “Tự nhiên” của Goethe về tinh thần là tác phẩm mang tính hội giả
trang sâu sắc.
Về cuối đời (1828), Goethe
viết “Lời chú giải” cho cuốn “Tự nhiên”. Trong đó có những dòng tuyệt vời như
sau:
“Có thể thấy rõ thiên
hướng đối với một kiểu phiếm thần luận, còn hơn thế nữa, trong cốt lõi các hiện
tượng của thế giới hiện lên một sinh vật không thể nào hiểu nổi, vô điều kiện, hài
hước, mâu thuẫn với mình, và có thể biến tất cả những gì hết sức nghiêm túc
thành trò chơi”2
Goethe hiểu rằng tính
nghiêm trang đơn điệu và nỗi sợ hãi - đó là những tình cảm của bộ phận,
cảm thấy mình bị tách rời khỏi tổng thể. Còn bản thân tổng thể trong “sự chưa
hoàn tất vĩnh viễn” của nó luôn mang tính
“hài hước”, vui vẻ, nghĩa là rất dễ hiểu trên bình diện tiếng cười.
Nhưng chúng ta hãy quay
lại với Rabelais. Mô tả của Goethe về hội giả trang ở mức độ nhất định có thể
dùng để mô tả thế giới của Rabelais và hệ thống các hình tượng của Rabelais.
Quả thật: tính hội hè đặc thù không chút sùng kính, sự giải phóng hoàn toàn
khỏi tính nghiêm trang, không khí bình đẳng, tự do và suồng sã, tính cảm quan
thế giới của những trò bất nhã, trò lên ngôi-phế truất đùa cợt, các cuộc chiến
trận và đánh đấm vui vẻ kiểu hội giả trang, các cuộc tranh luận nhại, mối liên
hệ giữa dao kiếm và hành vi sinh đẻ, những lời nguyền rủa tích cực, - không
lẽ chúng ta không tìm thấy tất cả những yếu tố hội giả trang ấy của Goethe
trong tiểu thuyết của Rabelais? Tất cả chúng đều có trong thế giới của Rabelais,
tất cả chúng ở đây cũng căn bản như thế, và hơn nữa chúng đều có chung một ý
nghĩa thế giới quan đó. Vậy ý nghĩa ấy là gì?
Đám đông hội giả trang
quảng trường-nhân gian trên các đường phố hay trên quảng trường - đó không đơn
thuần chỉ là đám đông. Đó là tổng thể nhân dân, nhưng được tổ chức theo
kiểu của mình, theo kiểu dân gian, bên ngoài và bất chấp tất cả những hình
thức đang tồn tại của cơ cấu kinh tế-xã hội và chính trị cưỡng bức của nó, mà
trong thời gian ngày hội dường như đã bị phế bỏ.
Trước hết, cái tổ chức hội
hè của nhân dân đó cụ thể và nhạy cảm đến sâu xa. Thậm chí bản thân cảnh chen
chúc, bản thân sự tiếp xúc thể xác giữa các cơ thể cũng có một ý nghĩa
nào đó. Cá nhân cảm thấy mình là một bộ phận không tách rời của tập thể, một
thành viên của thân thể quảng đại nhân dân. Trong tổng thể đó cơ thể cá nhân
đến một mức độ nào đó không còn là bản thân mình: có thể dường như hoán đổi
thân thể cho nhau, làm mới mình (cải dạng, đeo mặt nạ). Đồng thời nhân
dân cảm thấy tính thống nhất vật chất-thân xác có thể cảm giác cụ thể được của
mình và tính cộng đồng.
Trong thời gian chu du đến
nước Ý, Goethe quan sát ở Veron một nhà hát tròn cổ kính. Tất nhiên, vào thời
gian đó nó đã bị bỏ hoang. Nhân chuyện này Goethe đã có một nhận xét rất thú
vị về sự tự cảm giác đặc biệt của nhân dân, nhờ nhà hát tròn mà có được hình
thức nhìn bằng cảm giác cụ thể về tính quần chúng và sự thống nhất một khối của
mình: “Khi cùng nhìn thấy nhau, người ta sẽ phải ngạc nhiên về bản thân
mình: thông thường họ chỉ nhìn thấy nhau lăng xăng chạy tới chạy lui, trong
cảnh chen lấn, xô đẩy thường xuyên, không có bất kỳ trật tự và kỷ cương gì, còn
ở đây cái khối sinh vật nhiều đầu, có tư duy trí tuệ khác nhau, dao động và
phiêu lãng đủ hướng đó được liên kết làm một cơ thể cao quí, có tổ chức, để trở
thành thống nhất, được gắn bó và cố kết thành một quần chúng, thể hiện trong
một bộ mặt thống nhất và sống động bởi một tinh thần thống nhất”
(tr. 52).
Cảm giác toàn dân về sự
thống nhất của mình cũng được sinh ra tương tự như vậy nhờ tất cả các hình thức
và hình tượng của đời sống hội hè-dân gian thời trung cổ. Nhưng sự thống nhất đó ở đây không mang
tính chất hình học và tĩnh tại giản đơn như thế. Ở đây nó phức tạp hơn, khác
biệt hơn nhiều, mà chủ yếu là ở đây nó mang tính lịch sử. Cơ thể toàn
dân trên quảng trường hội giả trang trước hết cảm thấy sự thống nhất của
mình trong thời gian, cảm thấy sự kéo dài không dứt của mình trong
đó, sự bất tử lịch sử tương đối của mình. Vì vậy, ở đây, nhân dân cảm thấy
không phải một hình ảnh tĩnh về sự thống nhất của mình (“eine Gestalt”), mà
là sự thống nhất và tính không ngừng nghỉ của quá trình hình thành và sinh
trưởng của mình. Vì thế tất cả các hình tượng hội hè dân gian định vị chính là
cái thời khắc hình thành-sinh trưởng, sự chuyển hoá không kết thúc, cái
chết-đổi mới. Bởi vì tất cả các hình tượng đó đều có hai thân thể (ở
phạm vi nhất định): khắp nơi nhấn mạnh đến yếu tố sinh sản – sự mang thai, sự sinh đẻ, sức sinh sản
(cái túi đựng thức ăn to gấp đôi của Pulcinella, những cái bụng phưỡn ra, v.v…).
Về việc này chúng tôi đã nói và sẽ còn nói đến ở những phần khác. Hội giả
trang với tất cả các hình tượng của mình, các cảnh diễn, những trò bất nhã,
những lời nguyền rủa khẳng định của mình đã thao diễn sự bất tử và không thể
huỷ diệt ấy của nhân dân. Trong thế giới hội giả trang cảm giác về sự bất
tử của nhân dân được kết hợp với cảm giác về tính tương đối của quyền lực
hiện hành và chân lý đang thống trị.
Các hình thức hội hè dân
gian nhìn tới tương lai và trình diễn chiến thắng của tương lai ấy
– của “thế kỷ hoàng kim” trước quá khứ: chiến thắng của dồi dào sung mãn
của cải vật chất toàn dân, của tự do, bình đẳng, tình bằng hữu. Chiến thắng đó
của tương lai được đảm bảo bởi sự bất tử toàn dân. Sinh ra cái mới, cái lớn hơn
và tốt hơn cũng là điều tất yếu và không tránh khỏi, giống như sự diệt vong của
cái cũ. Cái này chuyển hoá thành cái kia, cái tốt hơn khiến cái xấu hơn trở nên
buồn cười và loại trừ nó. Trong tổng thể thế giới và nhân dân không có chỗ
cho nỗi sợ hãi: nỗi sợ hãi chỉ có thể thâm nhập vào một bộ phận bị tách
ra khỏi tổng thể, chỉ vào một mắt xích đang suy tàn bị tách rời khỏi cái
đang sinh ra. Cái tổng thể toàn dân và thế giới cùng vui vẻ hân hoan và
không sợ hãi. Cái tổng thể đó nói bằng ngôn ngữ của tất cả các hình
tượng hội giả trang, nó ngự trị ngay trong bản thân bầu không khí hội giả
trang, bắt tất cả và mỗi người tham gia vào cảm giác của toàn thể.
Nói về cảm giác toàn thể
của hội giả trang ấy (của cái “vĩnh viễn không hoàn kết”) tôi những muốn dẫn
lại một đoạn trong tác phẩm “Tự nhiên” của Goethe:
“Tự nhiên không có lời nói
và ngôn từ, nhưng nó tạo nên hàng nghìn ngôn ngữ và trái tim để nói và
cảm.
“Vòng hoa của nó là tình
yêu. Mọi người chỉ đến với nó bằng tình yêu. Nó đặt ra vực sâu giữa các
tạo vật, và tất cả các tạo vật khát khao được hoà trong một vòng ôm
chung. Nó chia rẽ họ, để lại liên kết họ. Chỉ cần chạm khẽ làn môi
vào chiếc cốc tình yêu, nó sẽ cứu chuộc cả cuộc đời đầy đau khổ”.
Để kết luận, cần đặc biệt
nhấn mạnh rằng trong thế giới quan hội giả trang sự bất tử của nhân dân được
cảm nhận trong khối thống nhất khăng khít với sự bất tử của toàn thể sinh tồn
đang hình thành, hoà làm một với nó. Con người cảm nhận sống động trong thân
thể mình và trong cuộc sống của mình cả đất đai và các khí chất khác, cả
mặt trời và bầu trời đầy trăng sao. Về tính vũ trụ này của cơ thể nghịch dị
chúng tôi sẽ đặc biệt nói tới trong
chương năm của công trình này.
* * *
Chúng tôi xin chuyển sang
vấn đề thứ hai chúng tôi đã đặt ra, - vấn đề những chức năng đặc biệt của các
hình thức hội hè-dân gian trong tiểu thuyết của Rabelais.
Xuất phát điểm là bài phân
tích ngắn vở hài kịch Pháp cổ nhất – “Trò chơi trong quán hóng mát” (“Jeu de la
Feuillée”) – của nhà thơ trữ tình Adam de la Hale vùng Arras. Vở kịch đó được
sáng tác vào năm 1262, và như vậy, được viết gần như ba thế kỷ trước bộ tiểu
thuyết của Rabelais. Vở hài kịch đầu tiên của nước Pháp này dựa vào một ngày
hội kiểu hội giả trang, tận dụng mảng đề tài của nó và những đặc quyền gắn với
nó để được vượt ra khỏi đường ray cuộc sống thường ngày, được tự do đối với tất
cả những gì là chính thống và thiêng liêng. Ở đây tất cả chúng được sử dụng còn
tương đối đơn giản, nhưng bù lại rất sinh động. Vở kịch từ đầu đến cuối mang
tính hội giả trang sâu sắc.
“Trò chơi trong quán hóng
mát” hầu như không có dàn đèn sân khấu. Vở kịch được trình diễn ở Arras, và các
cảnh của nó cũng diễn ra ở Arras, thành phố quê hương của tác giả. Tham gia vào
vở diễn là bản thân tác giả, một nhà thơ trữ tình trẻ và bố của nhà thơ (ngài
Anri) cùng các công dân khác của Arras được dẫn ra ở đây bằng tên thật của mình
(Rikess Ori, Gilio Nhỏ, An le Merxie, Rikie, v.v…). Câu chuyện trong vở kịch
nói về ý định của Adam rời xa vợ và thành phố quê hương, để đi học ở Paris. Sự
việc xảy ra đúng là như vậy trên thực tế. Vì vậy, cả cốt truyện cũng hầu như
không vì ánh đèn sân khấu mà tách rời với cuộc sống hiện thực. Ở đây cũng có
những yếu tố hoang đường xen lẫn với những yếu tố hiện thực. Vở kịch được trình
diễn vào ngày mồng 1 tháng Năm, là ngày hội chợ và ngày hội toàn dân
ở Arras, - và toàn bộ diễn biến của vở kịch là nhằm làm trùng với ngày 1 tháng
Năm.
“Trò chơi trong quán hóng
mát” chia làm ba phần, phần đầu có thể gọi là phần tiểu sử tự thuật kiểu hội
giả trang, phần hai – phần hoang tưởng hội giả trang và phần ba – phần tiệc
tùng hội giả trang.
Phần một đưa ra những mô
tả vô cùng thoải mái theo tinh thần phóng khoáng và suồng sã hội giả trang về
các công việc cá nhân và gia đình của bản thân tác giả (Adam), sau đó là phần
mô tả đặc điểm cũng cởi mở như thế về các công dân khác của Arras và bóc trần
các bí mật sinh hoạt và chăn gối của họ.
Phần một bắt đầu với sự
xuất hiện của Adam trong bộ quần áo tu sĩ (đó là một sự cải dạng, bởi anh ta
còn chưa là tu sĩ). Anh báo tin sẽ chia tay vợ để lên đường đến Paris hoàn
thiện việc học hành; còn vợ thì anh muốn gửi lại chỗ cha mình. Adam kể về việc
anh đã từng mê đắm vẻ mỹ miều của Mari (tên cô vợ) trước ngày cưới như thế nào.
Một bảng liệt kê chi tiết, vô cùng thoải mái và tự do những điều hấp dẫn ấy
được đưa ra. Cha Adam – ngài Anri xuất hiện. Trước câu hỏi ông có cho con trai
tiền hay không, ngài Anri trả lời là ông không thể, bởi ông đã già nua và đau
ốm. Một vị bác sĩ (li fisisciens) có mặt ở đó đưa ra lời chẩn đoán
là căn bệnh của ông bố là bệnh keo kiệt. Bác sĩ còn kể tên một vài công
dân của Arras cũng mắc căn bệnh đó. Tiếp theo một phụ nữ có tính cách nông nổi
(dame douce) đến xin tư vấn bác sĩ. Nhân
cớ này một bản gần như là “tổng quan” về đời sống chăn gối riêng tư của
thành phố Arras và tên các mệnh phụ có bản tính hai nghĩa được nêu ra. Trong
khi vị bác sĩ tư vấn như vậy nước tiểu được nhắc tới như là tiêu chí chủ
yếu để xác định tính cách và số phận con người.
Hình tượng vị bác sĩ và
các bệnh tật-các thói hư tật xấu được xử lý theo tinh thần nghịch dị-hội giả
trang. Sau đó xuất hiện một tu sĩ sửa soạn đồ biếu xén cho thánh Akari vừa được
chữa khỏi bệnh điên và bệnh ngớ ngẩn. Xuất hiện những người muốn được ban phép
chữa bệnh từ vị thánh đó. Tiếp theo xuất hiện một thằng điên có bố đi kèm. Vai
trò của thằng điên và nói chung đề tài điên rồ và ngớ ngẩn là tương đối đáng kể
trong vở kịch. Qua cửa miệng thằng điên đưa ra những lời luận giải mang tính
phê phán thoải mái một sắc lệnh của giáo hoàng Aleksandre IV, trong đó chèn ép
các đặc quyền của giới tăng lữ (kể cả ngài Anri). Đến đây phần một của vở kịch
kết thúc. Các nhà nghiên cứu thường lý giải tính suồng sã và dung tục của phần
này như là “sự thô lậu của thế kỷ”. Nhưng vấn đề là ở chỗ trong “sự thô lậu”
này có tính hệ thống và tính bút pháp. Tất cả những điều đó là những yếu tố
quen thuộc với chúng ta trên bình diện trào tiếu thống nhất mang tính hội giả
trang của thế giới.
Ranh giới giữa trò chơi và
cuộc sống ở đây bị cố tình xoá nhoà. Bản thân cuộc sống đang sắm vai.
Phần hai, phần hoang tưởng
của hội giả trang bắt đầu sau khi vị tu sĩ cùng với những thánh tích – ở đây
trong mức độ nào đó hắn là đại diện của nhà thờ, và vì thế là của thế giới
chính thống và chân lý chính thống – ngủ gật và bị gạt ra khỏi cuộc đàm đạo
(phần chính của vở kịch). Trong lúc đàm đạo một bàn ăn được dọn ra cho ba nàng
tiên, những người chỉ vào buổi tối mồng 1 tháng Năm mới có thể xuất hiện và hơn
thế, chỉ khi nào kẻ đại diện của nhà thờ (nghĩa là của thế giới chính thống)
không có mặt. Trước lúc họ xuất hiện, “đoàn quân của quỉ Erlequin” diễu hành
qua trong tiếng lục lạc. Thoạt tiên xuất hiện sứ giả của Erlequin, là một loại
quỉ hài hước. Sau đó chính các nàng tiên xuất hiện. Diễn ra bữa tối của họ
trong lúc đàm đạo, những cuộc đàm đạo giữa họ với nhau và với sứ giả của Erlequin.
Nhân thể xin nói thêm, tên của vị sứ giả là “Crocquesot”- nghĩa là “kẻ xơi tái
những thằng ngốc”. Các nàng tiên nói những lời chúc tiên tri cả tốt lẫn
xấu (trong đó có những điều liên quan
tới số phận của bản thân tác giả Adam). Ở đây cũng nói tới “bánh xe số phận”,
gắn với những lời bói toán và tiên đoán. Đến cuối bữa ăn của các nàng tiên,
xuất hiện một phụ nữ có tính cách nông nổi (“dame douce”). Các nàng tiên bảo
trợ cho những phụ nữ như thế, những người cũng giống như họ, thuộc về đêm mồng
1 tháng Năm với các quyền tự do và sự không kiềm chế của nó. “Dame douce”, cũng
như các nàng tiên – là đại diện cho thế giới phi chính thống, có quyền thoải
mái và không bị trừng phạt vào đêm mồng 1 tháng Năm.
Phần cuối cùng – phần tiệc
tùng hội giả trang – diễn ra ngay trước lúc bình minh trong một quán rượu, nơi
những người tham gia ngày hội mồng 1 tháng Năm và tham gia vở kịch tụ tập để
chè chén, có cả vị tu sĩ với các thánh tích của mình. Tất cả đều ăn uống, cười
đùa, hát hò và chơi bài xương. Người ta chơi thay cho cả vị tu sĩ lại bắt đầu
ngủ gật. Nhân lúc ông ta ngủ, người chủ quán giơ lên cái hòm đựng thánh tích
của ông ta và giữa những tràng cười của mọi người ông giới thiệu vị tu sĩ có
thể chữa lành bệnh cho những thằng ngốc, nghĩa là chế nhạo ông ta. Vào cuối
cảnh, một thằng điên xộc vào quán rượu (chính là kẻ được giới thiệu ở phần đầu
vở kịch). Nhưng đúng lúc đó bình minh ló rạng và trong các nhà thờ các quả
chuông bắt đầu ngân vang. Đêm mồmg 1 tháng Năm với sự tự do phóng khoáng của nó
đã kết thúc. Trong tiếng chuông rền vang những người tham gia vở kịch đi đến
nhà thờ theo lời mời của vị tu sĩ.
Đó là các cảnh chính trong
nội dung của vở hài kịch Pháp cổ xưa nhất đó. Dù có lạ lùng đến đâu, nhưng
chúng tôi tìm thấy ở đó gần như toàn bộ thế giới của Rabelais ở dưới dạng phôi
thai.
Trước hết chúng tôi xin
nhấn mạnh đến mối liên hệ cực kỳ chặt chẽ của vở kịch với ngày hội mồng 1 tháng
Năm. Toàn bộ vở kịch cho đến những chi tiết nhỏ nhất được triển khai từ không
khí và mảng đề tài của ngày hội này. Nó cũng quyết định cả hình thức lẫn tính
chất dàn dựng, cũng như nội dung của vở kịch. Trong thời gian ngày hội, quyền
lực của thế giới chính thống – của giáo hội và nhà nước – với những chuẩn mực
và hệ thống đánh giá của nó dường như ngừng tồn tại. Thế giới được phép bứt ra
khỏi đường ray thường ngày của mình. Trong vở kịch phần kết thúc tự do của ngày
hội được đánh dấu rất rõ ràng bằng tiếng chuông buổi sáng (trong vở kịch, khi
vị tu sĩ vừa đi khỏi, thì bắt đầu vang lên những tiếng lục lạc hội giả trang
của đội quân Erlequin đi ngang qua sân khấu). Trong mảng đề tài ngày hội, bữa
tiệc chiếm vị trí quan trọng – bữa tối của các nàng tiên tham gia đàm đạo
và bữa tiệc của những người tham dự ngày hội trong quán rượu. Chúng tôi nhấn
mạnh đề tài trò chơi quân bài xương, nó không chỉ là yếu tố sinh hoạt
giết thì giờ trong ngày hội: trò chơi từ sâu xa bên trong đã gần gũi với ngày
hội, nó phi chính thống, trong nó thống trị những qui luật trái ngược với bước
đi thông thường của cuộc sống. Tiếp theo, sự phế truất tạm thời quyền lực độc
tôn của thế giới giáo hội chính thống dẫn đến sự trở về tạm thời của các vị
thần đa thần giáo đã bị phế truất: cho nên có thể xảy ra chuyện các con quỉ
của Erlequin diễu hành, các nàng tiên xuất hiện, xuất hiện sứ giả của Erlequin,
ngày hội của các cô gái điếm cũng trở nên có thể trên quảng trường dưới
sự chỉ đạo của các nàng tiên. Đặc biệt cần nhấn mạnh là đề tài gái điếm
(“dame douce”); thế giới phi chính thống của các cô gái điếm vào đêm mồng 1
tháng Năm có được mọi quyền năng và thậm chí có cả quyền lực: trong vở kịch,
các “dame douce” tập hợp lại để tính sổ với những kẻ thù của mình. Cuối cùng rất quan trọng là
đề tài bánh xe Số mệnh, những tiên đoán và lời nguyền của các bà tiên vào
đêm mồng 1 tháng Năm. Ngày hội nhìn vào tương lai, và tương lai đó
tiếp nhận không chỉ các hình thức không tưởng, mà cả các hình thức nguyên thuỷ
cổ xưa hơn: các tiên đoán và lời nguyền-chúc phúc (thoạt đầu là về vụ mùa sắp
tới, lứa con của súc vật nuôi, v.v…). Cũng điển hình là đề tài thánh tích,
gắn liền với quan niệm thân thể bị xé nhỏ thành nhiều mảnh. Đóng vai trò quan
trọng là vị bác sĩ với biểu tượng bất biến của ông ta – nước tiểu. Cũng rất
quan trọng là đề tài ngốc nghếch và điên rồ. Một cái gì đó giống như “những
lời rao” quảng trường nhằm vào những thằng ngốc được đưa lên sân khấu và ở
mức độ đáng kể, cùng với ngày hội, quyết định không khí của nó. Ngày hội trao
cho người ta quyền được ngốc nghếch.
Sự ngốc nghếch, tất nhiên,
mang tính nhị chức năng sâu xa: trong nó vừa có yếu tố tiêu cực hạ thấp và huỷ
hoại (chỉ mình yếu tố này còn lưu lại trong câu chửi “đồ ngốc” ngày nay), vừa
có yếu tố tích cực của đổi mới và sự thật. Ngốc nghếch – là mặt trái của thông
thái, mặt trái của chân lý. Đó là sự lộn trái và hạ tầng của chân lý chính
thống đang thống trị. Sự ngốc nghếch thể hiện trước hết ở việc không hiểu gì
cả về luật lệ, về tính ước lệ của thế giới chính thống và việc đi chệch khỏi
chúng. Ngốc nghếch - đó là trí thông thái của tự do hội hè, tự do khỏi tất
cả các chuẩn mực và gò bó của thế giới chính thống, cũng như các mối quan tâm
và tính trang nghiêm của nó.
Chúng tôi xin nhắc lại lời
biện hộ cho ngày hội những thằng ngốc từ thế kỷ XV đã trình bày ở phần trước
(chương 1). Những người bênh vực ngày hội ấy hiểu nó như sự được bộc lộ vui
vẻ và tự do tính ngốc nghếch – “bản tính thứ hai của chúng ta”. Tính ngốc
nghếch vui vẻ được họ đặt đối lập với tính trang nghiêm của “lòng sùng kính và
nỗi sợ hãi trước Chúa”. Như vậy, những người bênh vực ngày hội những thằng
ngốc nhìn thấy trong đó không chỉ sự giải phóng “một lần trong năm” ra khỏi
đường ray của cuộc sống thường nhật, mà cả sự giải phóng khỏi góc độ tôn giáo
đối với thế giới, khỏi lòng sùng kính và nỗi sợ hãi trước Chúa. Người ta được
phép nhìn ra thế giới bằng cặp mắt “ngớ ngẩn”, và quyền đó thuộc về không chỉ
ngày hội những thằng ngốc, mà còn có ở phương diện hội hè-quảng trường của
bất kỳ lễ hội nào.
Chính vì thế trong không
khí hội hè của “Trò chơi trong quán hóng mát”, đề tài ngốc nghếch và
hình tượng thằng ngốc không thể chữa khỏi là mang ý nghĩa đó. Và
vở kịch kết thúc chính là bằng hình tượng thằng điên xuất hiện ngay trước hồi
chuông cuối cùng.
Xin nhắc lại rằng ngay cả
Goethe trong khi mô tả hội giả trang cũng vài lần nhấn mạnh đến việc mỗi người
tham gia vào nó, dù có nghiêm túc và quan cách đến đâu trong suốt năm, ở đây
cũng cho phép mình – một lần trong năm – có đủ mọi trò đùa tếu và ngớ ngẩn.
Rabelais, khi nói về anh hề Tribule, đã đưa vào miệng Pantagruel lời bàn luận
như sau về sự thông thái và sự ngốc nghếch:
“Tôi nghĩ rằng quí vị sẽ thấm nhần lý lẽ của tôi: kẻ nào
nhiệt tâm thực hiện các công việc riêng tư và gia đình mình, kẻ nào tỉnh táo
nhìn thấu cả ra ngoài nhà mình, kẻ nào thể hiện sự thận trọng, kẻ nào không bỏ
lỡ cơ hội tìm kiếm và tích luỹ hạnh phúc và của cải trần thế, kẻ nào áp dụng
các biện pháp từ sớm để không nghèo khổ, những người đó chắc sẽ được quí vị
gọi là những người thông thái trong cuộc đời, mặc dù dưới con mắt của trí tuệ
thần thánh hắn ta chỉ là một thằng ngốc, bởi để được trí tuệ thần thánh công
nhận là con người thông thái, nghĩa là thông thái và nhìn xa trông rộng theo sự
khơi gợi của đấng bề trên và sẵn sàng tri giác sự tốt lành của thần khải, thì
cần phải quên đi bản thân, phải thoát ra khỏi mình, giải phóng những tình cảm của
mình khỏi tất cả những ràng buộc trần thế, tẩy sạch trí tuệ mình khỏi tất cả
những xáo động trần gian và không quan tâm đến một cái gì cả, những điều mà đối
với những kẻ ít học là dấu hiệu của sự điên rồ.
Theo cách lập luận này đám dân đen chưa được khai hoá gọi
Favn vĩ đại, con trai của Pik, vua của những người Latinh là kẻ ngốc nghếch.
Chính vì thế khi những diễn viên hài phân công vai diễn với nhau, thì vai kẻ
ngây ngô và thằng hề nhất thiết phải được giao cho những diễn viên lành nghề và
có tài nhất. Cũng trên cơ sở này mà các nhà chiêm tinh học khẳng định rằng các
ông vua và thằng ngốc có lá số tử vi giống nhau…" (quyển III, chương
XXXVII).
Phần luận giải này được
viết bằng một thứ ngôn ngữ sách vở và văn phong cao cả. Vì thế ở đây khi lựa
chọn từ và bản thân các khái niệm, các qui phạm tôn kính chính thống
được tác giả tuân thủ. Điều đó được giải thích qua việc để phân tích đặc tính
ngốc nghếch của thằng hề người ta sử dụng các khái niệm cao quí như "trí
tuệ thần thánh" và "tri giác sự tốt lành của thần khải". Trong
phần đầu lời trích dẫn của mình Rabelais mô tả thằng hề và thằng ngốc như những
vị thánh (vào thời đại ông quan niệm đó chẳng có gì là khác thường; Rabelais
hơn thế nữa còn là một tu sĩ dòng Fransisco). Ở đây ông chuyển hầu như toàn bộ
nội dung của Kitô giáo truyền thống vào “sự khước từ thế giới hiện tại” của
thằng ngốc (thằng điên). Nhưng trên thực tế
Rabelais hiểu sự chối từ thế giới của thằng hề và thằng ngốc chính là sự
chối từ thế giới chính thống với thế giới quan của nó, với hệ thống các đánh
giá, với tính nghiêm trang của nó. Bản thân hình tượng Tribule được thể hiện
trong cuốn sách cũng là như vậy. Và đối với Rabelais chân lý vui cười
đòi hỏi phải giải thoát khỏi những
lợi ích vật chất cá nhân, khỏi những kỹ xảo tầm thường sắp đặt có
lợi các công việc gia đình và cá nhân, - nhưng ngôn ngữ của chân lý đùa cợt đó
đồng thời cũng vô cùng trần thế và vật chất. Nhân tố vật chất, tuy
nhiên, không phải mang tính vị kỷ-cá nhân, mà là mang tính toàn dân. Nếu
chúng ta tạm quên đi trong đoạn trích vừa rồi những khái niệm chính thống, được
đưa vào đây bằng văn phong cao cả và ngôn ngữ sách vở, thì trước mắt chúng ta
sẽ là lời biện giải của Rabelais về tính ngốc nghếch như một trong những hình
thức của chân lý phi chính thống, như một góc độ đặc biệt nhìn ra thế
giới, giải phóng khỏi tất cả các quyền lợi vị kỷ-cá nhân, các chuẩn mực và cách
đánh giá của “thế giới này” (nghĩa là thế giới chính thống đang thống trị, hơn
thế nữa, nếu làm vừa lòng nó thì chỉ luôn luôn có lợi). Phần kết luận của đoạn trích
nêu tên đích danh những anh hề và thằng ngốc của sân khấu nhà hát lễ hội.
Chúng ta hãy quay trở lại
vở hài kịch ngày mồng 1 tháng Năm của Adam de la Hale. Các chức năng của ngày
hội và sự ngốc nghếch ngày hội trong đó có ý nghĩa gì? Đó là chúng trao cho
tác giả quyền có những đề tài phi chính thống; hơn thế nữa – quyền có giác
độ phi chính thống để nhìn ra thế giới. Vở hài kịch ấy, với tất cả sự đơn
giản và không kỳ vọng của nó, đưa ra một bình diện đặc biệt của thế giới,
hoàn toàn xa lạ và - trong cốt lõi của mình – thù địch sâu xa với thế giới quan
trung cổ và trật tự của cuộc sống chính thống. Trước hết bình diện đó vui vẻ
và nhẹ nhõm; trong đó đóng vai trò quan trọng là cỗ tiệc, sức mạnh sinh
sản, trò chơi, các cải biên nhại giới tăng lữ với những thánh tích của họ, các
vị thần từng bị phế truất của đa thần giáo (các bà tiên, quỉ Erlequin). Thế
giới tỏ ra vật chất hơn, thể xác hơn,
người hơn và vui vẻ hơn, dù là viễn tưởng. Đó là bình diện hội hè của
thế giới và, với tư cách như vậy, nó hợp pháp. Vào đêm mồng 1
tháng Năm người ta được phép nhìn ra thế giới không cần phải sợ hãi và tôn kính.
Vở kịch này không có cao vọng đến một tính vấn đề nào. Nhưng
đồng thời nó có tính phổ quát sâu xa. Ở đây không có chút gì của đạo đức trừu
tượng. Ở đây không có chất hài của các tính cách, không có chất hài của các
tình huống, nói chung không có chất hài của các khía cạnh riêng lẻ, cá nhân về
thế giới và đời sống xã hội. Không có, tất nhiên, cả sự phủ định trừu tượng.
Toàn bộ thế giới ở đây được đưa ra trên bình diện vui vẻ và tự do, và
bình diện đó được tác giả tư duy như một thế giới phổ quát, bao trùm tất cả.
Quả thật, thế giới đó hữu hạn, nhưng không phải bởi những khía cạnh hay hiện
tượng này hay khác của thế giới, mà hoàn toàn bởi giới hạn thời gian của ngày
hội - giới hạn của đêm mồng 1 tháng Năm. Tiếng chuông buổi sáng sẽ đưa người ta
quay trở về tính trang nghiêm của nỗi sợ hãi và lòng sùng kính cố hữu.
Bộ tiểu thuyết của Rabelais được viết gần như ba thế kỷ sau
"Trò chơi trong quán hóng mát", nhưng những chức năng của các hình
thức hội hè-dân gian ở đây là tương tự. Thật ra ở đây mọi thứ trở nên rộng hơn,
sâu hơn, phức tạp hơn, có ý thức và
triệt để hơn.
Trong quyển bốn của bộ tiểu thuyết bên cạnh câu chuyện đánh
đòn những tên hớt lẻo trong nhà de Base còn có câu chuyện về "vở bi hài
kịch" mà ngài Francois Villon trình diễn.
Câu chuyện ấy như sau. Quí ngài Villon vô cùng già cả, đang
sống ở Sen-Macsan, quyết định dựng vở "Thánh kịch về những khát vọng của
Chúa" cho hội chợ Nior, mà trong thành phần của nó có một "màn quỉ
kịch lớn". Tất cả đã được chuẩn bị xong cho vở dựng, chỉ còn thiếu mỗi
trang phục cho đức Chúa Cha. Người giữ kho đồ lễ ở địa phương tên là Poseiam
cương quyết từ chối cho mượn bất kỳ cái gì từ những trang phục của nhà thờ, bởi
ông ta cho rằng việc sử dụng chúng vào mục đích trình diễn sân khấu là bất
kính. Không ai có thể thuyết phục được ông ta. Khi đó quí ngài Villon quyết
định trả thù. Ông biết lúc nào thì Poseiam sẽ cưỡi con ngựa cái đến, và khi đó
ông chuẩn bị cuộc tổng diễn tập cho màn quỉ kịch. Rabelais mô tả kỹ lưỡng các
con quỷ, trang phục và "vũ khí" của chúng (các đồ dùng nhà bếp), như
chúng tôi đã phần nào nói tới. Cuộc tổng diễn tập diễn ra trong thành phố và
trên quảng trường của khu chợ. Sau đó Villon đưa các con quỷ đi nhậu
nhẹt ở quán rượu ven đường, nơi Poseiam nhất định phải đi qua. Cuối cùng,
khi ông ta xuất hiện, các con quỷ liền bủa vây lấy ông cùng với những tiếng gào
rú kinh khủng, chúng ném nhựa cây cháy dở đầy khói khủng khiếp vào người ông ta
và dọa con ngựa của ông ta:
"Con ngựa hốt hoảng gõ móng cồm cộp, chuyển sang phi
nước kiệu, rồi lồng lên phi nước đại, nó bắt đầu đá hậu, nhảy lồng lên, lắc
người bên này qua bên kia, nổi khùng lên và, cuối cùng, dù Poseiam có bấu chặt
đến đâu vào mỏ yên cương, nó vẫn hất ông ta xuống đất. Bàn đạp của ông ta lại
có dây buộc, chiếc xăng-đan bên phải bị dây quấn chặt đến nỗi ông ta không làm
sao dứt ra được. Con ngựa kéo lê ông ta đằng sau trên mặt đất, tiếp tục phi
nước đại bằng cả bốn vó và vì hoảng sợ nó phi qua cả các bờ dậu, bụi cây và
rãnh nước. Vụ việc kết thúc bằng việc nó đập vỡ sọ ông ta, và ở đầu xương
sống phọt ra cả tuỷ. Sau đó nó thiến đứt
hai tay ông ta, chúng văng đi mỗi chiếc một nơi, tiếp theo nó làm rụng chân,
sau đó làm sổ ruột ông ta, và khi phi được về đến tu viện, thì trên người nó
chỉ còn treo lại mỗi cái chân phải của ông ta với chiếc xăng-đan bị rối dây
buộc" (quyển IV, chương XIII).
“Vở bi hài kịch" mà Villon trình diễn là như vậy. Thực
chất đó là sự băm vằm, xâu xé cơ thể Poseiam thành từng mảnh trên quảng
trường, bên quán rượu, trong thời gian tiệc tùng, trong khung cảnh hội hè-dân
gian hội giả trang của màn quỉ kịch. Vở hề kịch đó mang tính bi kịch - bởi
vì Poseiam trên thực tế đã bị xé tan ra thành từng mảnh.
Câu chuyện đó được đưa vào cửa miệng de Base, ông gắn nó với
màn đánh đập những tên hớt lẻo trong nhà mình và kể nó ra để cổ vũ các gia
nhân. "Các bạn thân mến, - Base nói, - tôi đã thấy trước là từ nay các bạn
cũng sẽ đóng xuất sắc vở bi hài kịch này".
Vậy sự giống nhau giữa "mánh khóe của quí ngài
Villon" và trận đòn trong nhà de Base là ở chỗ nào?
Trong cả hai cảnh, để việc đánh đập không bị trừng phạt
(nhưng, như tiếp theo chúng ta sẽ thấy, không chỉ vì điều đó), các quyền
năng và quyền tự do của hội giả trang được sử dụng: ở trường hợp đầu - đó
là nghi thức đám cưới, ở trường hợp thứ hai – đó là màn quỉ kịch.
Bởi phong tục "nopces à mitaines" đã ban cho quyền tự do cho những
điều không được phép trong cuộc sống thường ngày: có thể vung nắm đấm mà không
sợ bị trừng phạt vào bất kì ai có mặt, không phụ thuộc vào chức tước và địa vị
của họ. Thể chế và trật tự cuộc sống thông thường và trước hết là tôn ti đẳng
cấp xã hội bị phế bỏ trong thời gian ngắn ngủi của bữa tiệc đám cưới. Trong
thời gian ngắn ấy, các phép tắc lịch sự giữa những người ngang hàng và việc
tuân thủ các nghi thức và phân chia đẳng cấp giữa người trên kẻ dưới đã ngừng
hoạt động: tính ước lệ bị dỡ bỏ, tất cả các khoảng cách giữa người với người bị
xoá nhoà, điều đó thể hiện về mặt biểu
tượng là quyền suồng sã thụi nắm đấm vào những người đáng kính và quan trọng
bên cạnh. Yếu tố xã hội-không tưởng
của nghi thức này là hoàn toàn rõ ràng. Trong thời gian ngắn của bữa tiệc đám
cưới, tất cả những người tham gia nó dường như gia nhập vào một vương quốc
không tưởng của tự do và bình đẳng tuyệt đối1.
Yếu tố không tưởng ở đây, cũng như trong tất cả những gì không tưởng của
hội hè-dân gian, được biểu hiện bằng vật chất-thể xác, được biểu lộ một
cách sắc cạnh: bởi tự do và bình đẳng được hiện thực hoá trong những nắm đấm
suồng sã, nghĩa là trong sự tiếp xúc thể xác thô bạo. Các đòn đánh, như
chúng ta thấy, cũng hoàn toàn tương đương với những lời chửi mắng. Trong trường
hợp này nghi thức là đám cưới: đêm tân hôn sẽ có sự tiếp xúc thể xác trọn vẹn
giữa người chồng và người vợ mới cưới, hành vi thụ thai sẽ được thực
hiện, sức mạnh sinh sản sẽ chiến thắng. Không khí của hành vi trung tâm ấy của
buổi lễ lan rộng sang tất cả mọi người và mọi sự vật; những nắm đấm chính
là bức xạ của nó. Tiếp theo, yếu tố không tưởng ở đây, cũng như trong tất
cả tính chất không tưởng hội hè-dân gian, hoàn toàn mang tính vui vẻ (bởi những
nắm đấm chỉ là nhẹ nhàng, vui đùa). Cuối cùng - và đây là điều rất quan trọng -
chất không tưởng ở đây mặc dù chỉ là trò diễn, nhưng là trò diễn không có
bất kỳ dàn đèn sân khấu nào, trò diễn trong chính cuộc sống. Quả thật, nó
bị giới hạn nghiêm ngặt về thời gian – là thời hạn của bữa tiệc đám cưới, nhưng
trong thời hạn đó không hề có ánh đèn sân khấu: không có sự phân biệt giữa
người tham gia (người thủ vai) và khán giả, ở đây tất cả đều là người diễn.
Trong thời gian phế bỏ trật tự thế giới thường ngày, trật tự không tưởng mới
đến thay thế cho nó, có chủ quyền và lan sang tất cả mọi người. Vì thế ngay cả
những tên hớt lẻo, tình cờ rơi vào giữa bữa tiệc đám cưới, cũng buộc phải tuân thủ
các qui tắc của vương quốc không tưởng và không dám than phiền về các đòn đánh.
Giữa trò chơi-sự trình diễn và cuộc sống ở đây không có ranh giới rõ ràng: cái
này lẫn vào cái kia. Vì vậy de Base mới có thể sử dụng hình thức đùa cợt của
bữa tiệc đám cưới để trừng trị một cách nghiêm túc và hiện thực những tên mách
lẻo.
Sự vắng mặt sân khấu nghiêm ngặt, vắng mặt dàn đèn là rất
đặc trưng đối với tất cả các hình thức hội hè-dân gian. Chân lý không tưởng
diễn trò trong bản thân cuộc sống. Trong một thời gian ngắn ngủi chân lý đó ở
mức độ nhất định trở thành sức mạnh hiện thực. Chính vì thế, nhờ sự trợ giúp
của nó, người ta mới có thể trừng trị thẳng tay những kẻ thù không đội trời
chung với chân lý đó, như de Base và quí ngài Villon đã làm.
Trong khung cảnh của "vở bi hài kịch" mà Villon
diễn chúng ta tìm thấy tất cả những yếu
tố có trong "nopces à mitaines" của de Base. Màn quỉ kịch là phần hội
hè-dân gian quảng trường của các vở thánh kịch. Bản thân vở thánh kịch, tất
nhiên, là có dàn đèn và sân khấu; màn quỉ kịch, với tư cách bộ phận cấu thành
của vở thánh kịch, cũng có dàn đèn, sân khấu. Nhưng theo phong tục, trước khi
diễn một vở thánh kịch - đôi khi thậm chí trước đó cả một vài ngày - "bầy quỷ sứ", nghĩa là những
người tham gia vở thánh kịch mặc những bộ trang phục của chúng - được phép chạy
rông khắp cả thành phố và thậm chí ra các làng mạc ngoại ô. Về việc này đã có
hàng loạt chứng cứ và tư liệu.
Ví dụ, vào năm 1500 ở thành phố Amien một số tu sĩ và dân
thường đã khẩn khoản nài xin được dựng vở "Thánh kịch về khát vọng của
Chúa", hơn thế, họ đặc biệt nài nỉ cho phép có các màn quỉ kịch. Một trong
những màn quỉ kịch phổ biến và nổi tiếng nhất của thế kỷ XVI được diễn ở
Chaumont (Chaumont nằm trong viện Marna Tối cao)1.
Màn quỉ kịch đó là một phần của vở "Thánh kịch về thánh Ioann". Trong
những bản thông cáo về thánh kịch Chaumont luôn luôn đặc biệt chỉ ra rằng các
con quỷ tham gia vở thánh kịch sẽ được phép trong vòng mấy ngày trước khi vở
diễn bắt đầu được tự do chạy rông khắp các thành phố và làng mạc. Những người
mặc các bộ trang phục quỷ sứ cảm thấy mình ở mức độ nhất định nằm ngoài các cấm
đoán thường ngày và làm lây lan tâm trạng đặc biệt đó sang những người tiếp xúc với họ. Xung quanh họ
tạo nên một bầu không khí tự do hội giả trang không thể kìm hãm. Coi như
mình nằm ngoài các phép tắc thông thường, "các con quỷ", mà đa phần
là những người nghèo (từ đây mà có thành ngữ "pauvre diable"), phần
nào cũng vi phạm các quyền sở hữu cá nhân, cướp bóc những người nông dân và tận
dụng vai của mình để cải thiện các vấn đề vật chất của bản thân. Họ còn làm
nhiều điều càn quấy khác. Vì thế thường xuyên có những cấm đoán đặc biệt ban ra
không cho phép các con quỷ lộng hành bên ngoài vai của chúng.
Nhưng ngay cả khi bị giới hạn ở vai diễn của mình trong vở
thánh kịch, các con quỷ vẫn lưu giữ bản chất phi chính thống sâu xa của
chúng. Vai của chúng bao giờ cũng có những lời chửi bới và các trò khiếm nhã.
Chúng diễn và nói bất chấp thế giới quan Kitô giáo chính thống: chính vì thế
chúng mới là những con quỷ. Chúng tạo nên trên sân khấu những tiếng ồn và tiếng
gào khủng khiếp, đặc biệt nếu là một "màn quỉ kịch lớn" (nghĩa là có
sự tham gia của bốn hay nhiều hơn các con quỷ). Từ đó mà có câu thành ngữ tiếng
Pháp: "faire le diable à quatre". Cần nói thêm rằng phần lớn các câu
nguyền rủa và chửi mắng mà có từ "con quỷ" là do trong quá trình phát
sinh hoặc phát triển của mình đều trực tiếp gắn với các cảnh của thánh kịch.
Trong bộ tiểu thuyết của Rabelais có không ít những câu nguyền rủa và thành ngữ
rõ ràng có xuất xứ thánh kịch như: "La grande diablerie á quatre
personnages" (quyển I, chương IV). "Faire d'un diable deux"
(quyển III, chương I),"Crioit comme diables" (quyển I, chương XXIII),
"Crient et unlent comme diable" (quyển III, chương XXIII) và các biểu
đạt rất phổ biến trong ngôn ngữ như "faire diables", "en
diable", "pauvre diable". Mối quan hệ ấy giữa chửi mắng, nguyền
rủa với phép yêu ma hoàn toàn dễ hiểu: chúng thuộc về cùng một hệ thống các
hình thức và hình tượng.
Nhưng con quỷ của thánh kịch không chỉ là một nhân
vật phi chính thống, - đó cũng là một hình tượng nhị chức năng, về
phương diện này nó giống với thằng ngốc và thằng hề. Nó là đại diện cho sức
mạnh diệt trừ và tái sinh của hạ tầng vật chất-thân xác. Hình tượng quỷ sứ
trong các màn quỉ kịch thường có hình thức của hội giả trang. Chúng ta đã thấy,
ví dụ trong tiểu thuyết của Rabelais, với tư cách là trang bị vũ khí của bầy
quỷ trong màn quỉ kịch, Villon dùng các đồ làm bếp (điều đó cũng được khẳng
định qua các dẫn chứng khác). O.Driesen trong cuốn sách "Xuất xứ của quỉ
Erlequin" (1904) cũng đưa ra một so sánh tương tự giữa màn quỉ kịch với
charivari (theo "Roman du Fauvel") và phát hiện ra sự giống nhau rất
lớn giữa tất cả các hình tượng cấu thành nên chúng. Charivari cũng có quan hệ
thân thuộc với hội giả trang1.
Những đặc điểm ấy của hình tượng con quỷ (và trước hết là
tính nhị chức năng của nó và mối quan hệ của nó với hạ tầng vật chất-thân xác)
khiến việc biến các con quỷ thành những hình nộm khôi hài dân gian trở nên hoàn
toàn dễ hiểu. Ví dụ, quỷ Erlequin (quả thật, trong các vở thánh kịch chúng ta
không hề gặp nó) biến thành hình nộm hài hước theo kiểu hội giả trang của
Harlekin. Chúng tôi xin nhắc là bản thân Pantagruel thoạt đầu cũng từng là một
con quỷ trong thánh kịch.
Như vậy, màn quỉ kịch, mặc
dù là một phần của vở thánh kịch, vốn gần gũi với hội giả trang, đã bước ra
khỏi ánh đèn sân khấu, hoà lẫn vào cuộc sống quảng trường, có những quyền năng
tương tự như hội giả trang đối với tự do và suồng sã.
Chính vì thế mà màn quỉ
kịch, khi bước xuống quảng trường, đã cho phép quí ngài Villon trừng trị tới
nơi tới chốn tên coi đồ lễ Poseiam mà không bị trừng phạt. Ở đây hoàn toàn cũng
giống như ở nhà de Base, màn trình diễn của tự do không tưởng không có
ánh đèn sân khấu đã cho phép trừng trị một cách hiện thực kẻ thù của tự do
ấy.
Nhưng vì sao Poseiam lại
xứng đáng bị trừng trị tàn khốc như vậy? Có thể nói từ góc độ thờ phụng thần
Dionisos, Poseiam với tư cách kẻ thù của Dionisos đã đứng ra ngáng trở các trò
chơi của Dionisos (vì ông ta với những lập luận nguyên tắc đã từ chối
cho mượn trang phục để dựng vở sân khấu) sẽ phải chịu cái chết của Penfei,
nghĩa là bị những người cúng tế Tửu thần phanh thây thành từng mảnh2. Nhưng ngay cả trên góc độ của
Rabelais, Poseiam cũng là kẻ thù độc ác nhất, hắn đúng là hiện thân của cái mà
Rabelais căm thù hơn hết thảy, - Poseiam là một tên agelast, nghĩa là một
kẻ không biết cười và có thái độ thù địch với tiếng cười. Quả thật,
Rabelais không sử dụng trực tiếp từ đó ở đây, nhưng hành động của Poseiam là
hành động điển hình của một tên agelast. Trong hành động ấy bộc lộ tính
trang nghiêm sùng kính độc ác và xuẩn ngốc, sợ biến những y phục thiêng
liêng thành đối tượng của trình diễn và trò vui. Poseiam từ chối phục vụ và từ
chối ban tặng niềm vui toàn dân dựa theo những lập luận chính thống:
trong ông ta tồn tại một nỗi thù địch cổ xưa của giáo hội đối với các trò diễn,
với kịch câm và tiếng cười. Hơn thế nữa, ông ta từ chối chính là quần áo cải
trang, dành cho vũ hội hoá trang, nghĩa là cuối cùng là để đổi mới và tái sinh.
Ông ta là kẻ thù của đổi mới và cuộc sống mới. Đó là tuổi già không biết sinh
đẻ và diệt vong, đó là tuổi già vô sinh và ngoan cố. Poseiam chính
là kẻ thù của chân lý vui vẻ quảng trường đổi mới và tái sinh, chân lý
đó xuyên suốt những hình tượng của màn quỉ kịch mà Villon nghĩ ra. Và thế là
cái chân lý ấy, trong một thời gian nào đó đã trở thành sức mạnh tiêu diệt ông
ta. Ông ta chết chính bằng cái chết theo kiểu hội giả trang qua việc bị xâu xé,
phanh thây ra thành từng mảnh.
Hình tượng Poseiam, qua
những mô tả hành động của ông ta có ý nghĩa mở rộng về mặt biểu tượng, đối với
Rabelais thể hiện tinh thần của thế kỷ Gôtích, với tính nghiêm trang đơn
điệu của nó, dựa trên sự sợ hãi và cưỡng bức, với khát khao của nó tiếp
nhận tất cả sub specie aeternitatis, nghĩa là ở giác độ vĩnh cửu, phi thời gian
hiện thực. Tính nghiêm trang đó khát khao một trật tự đẳng cấp bất di bất dịch,
không thay đổi và không cho phép bất kỳ sự thay thế vai trò và sự đổi mới nào.
Về thực chất, từ tính nghiêm trang đông cứng một chiều của thế kỷ Gôtích ấy đến
thời Rabelais chỉ còn lưu lại những chiếc áo lễ, thích hợp với những trò cải
trang vui vẻ của hội giả trang. Nhưng những chiếc áo lễ ấy lại được những kẻ
giữ đồ ngu ngốc và nghiêm trang cau có như Poseiam trông chừng đầy ghen tị. Vì
thế mà Rabelais mới tính sổ với Poseiam, còn những chiếc áo lễ thì ông vẫn dùng
cho những trò vui đổi mới của hội giả trang.
Trong tiểu thuyết của
mình và qua tiểu thuyết của mình Rabelais cũng hành xử hoàn toàn giống như quí
ngài Villon và de Base.
Ông hành động theo phương pháp của họ. Ông sử dụng hệ thống các hình tượng hội
hè-dân gian với những quyền năng được công nhận và được linh thiêng hoá từ bao
thế kỷ đối với tự do và suồng sã, để trừng phạt một cách nghiêm túc kẻ thù của
mình là thế kỷ Gôtích. Đó chỉ là một trò vui, và vì thế nó sẽ không bị để ý
đến. Nhưng đó là một màn diễn không có ánh đèn sân khấu. Và thế là Rabelais
trong không khí tự do được thừa nhận của trò chơi ấy đã thực hiện một cuộc tấn
công thực sự vào những tín điều và bí tích cơ bản, những gì thiêng liêng nhất
trong những điều thiêng liêng của thế giới quan trung cổ.
Phải công nhận rằng
Rabelais hoàn toàn thành công với “mánh khóe kiểu Villon” ấy. Mặc dù đã nói ra
được công khai những ý kiến của mình, ông không chỉ né tránh được giàn lửa hoả
thiêu, mà về thực chất thậm chí còn không phải chịu bất kỳ sự truy bức và khó
chịu nào. Tất nhiên, ông cũng ngay lập tức áp dụng những biện pháp đề phòng,
đôi khi biến mất khỏi chân trời một thời gian ngắn, thậm chí vượt ra ngoài biên
giới nước Pháp. Nhưng nói chung mọi việc đều kết thúc tốt đẹp, và có lẽ không có những xáo trộn và lo lắng gì đặc
biệt. Trong khi đó thì vì những điều tương đối vặt vãnh, nhưng được nói ra
không phải bằng tiếng cười, mà người bạn cũ của Rabelais – Echien Dole - đã phải
chịu thiêu trên giàn lửa. Ông ấy chưa nắm được thủ thuật của de Base và Villon.
Rabelais cũng bị bọn agelast,
nghĩa là những kẻ không công nhận quyền năng đặc biệt của tiếng cười, tấn công.
Tất cả các cuốn sách của ông đều bị Sorbonne chỉ trích (tuy nhiên không mảy may
ngăn được việc phổ biến và tái bản chúng). Về cuối đời ông phải chịu sự phê
phán kịch liệt của linh mục Piuy-Erbo. Từ phía đạo Tin Lành ông gánh chịu sự
chỉ trích của Calvin. Nhưng tiếng nói của những kẻ không biết cười đó vẫn là
đơn độc; các quyền năng hội giả trang của tiếng cười vẫn tỏ ra mạnh hơn1. Chúng tôi xin nhắc lại, mánh khóe của
Villon được Rabelais thực hiện hoàn toàn thành công.
Nhưng không nên hiểu việc sử dụng hệ thống các hình thức và
hình tượng hội hè-dân gian chỉ như là một thủ pháp bề ngoài và cơ học để che
chắn sự kiểm duyệt, như một thứ "ngôn ngữ Edop" phải tuân theo một
cách miễn cưỡng. Bởi nhân dân đã hàng nghìn năm sử dụng các quyền năng và sự tự
do của các hình tượng trào tiếu hội hè, để bộc lộ qua chúng tinh thần phê phán
sâu xa nhất của mình, thái độ không tin tưởng vào chân lý chính thống, những
hoài bão và khát khao tốt đẹp nhất của mình. Có thể nói tự do không hẳn chỉ
là cái quyền bề ngoài, mà đúng hơn chính là nội dung bên trong của các hình
tượng ấy. Đó là thứ ngôn ngữ được tạo dựng hàng nghìn năm của loại
"ngôn từ không sợ hãi", ngôn từ không có cửa hậu và không câm lặng
trước thế giới và quyền lực. Hoàn toàn dễ hiểu là thứ ngôn từ tự do không run
sợ ấy của các hình tượng đã trao một nội dung tích cực phong phú nhất
cho thế giới quan mới.
De Base sử dụng hình thức truyền thống "nopces à
mitaines" không chỉ đơn giản để việc đánh đập những tên hớt lẻo không bị
trừng phạt. Chúng ta thấy việc đánh đập ấy được thực hiện như một nghi thức
long trọng, như một vở trào tiếu khôn ngoan và được điều tiết đến từng chi
tiết. Đó là màn đánh đập của một bút pháp lớn. Các đòn đánh phủ xuống
đầu những tên hớt lẻo dựa trên những đòn đánh đám cưới; chúng phủ xuống thế
giới cũ (những tên mách lẻo là đại diện của nó) và đồng thời giúp cho sự phôi
thai và sinh hạ ra thế giới mới. Tự do bề ngoài và việc không bị trừng phạt
không tách rời với ý nghĩa tích cực bên trong của các hình thức ấy, với ý nghĩa
thế giới quan của chúng.
Việc phanh thây Poseiam theo kiểu hội giả trang cũng mang
tính chất như vậy. Nó cũng được điều tiết bởi một bút pháp lớn và được tính
toán đến từng chi tiết. Poseiam là đại diện của thế giới cũ, và việc phanh thây
hắn được sắp đặt một cách tích cực. Cả ở đây tự do và việc không bị trừng phạt
cũng không tách rời với nội dung tích cực của tất cả các hình tượng và hình
thức của tình tiết đó.
Việc tạo ra hình thức hội giả trang cho hành động trừng trị
thế giới cũ không làm cho chúng ta ngạc nhiên. Thậm chí những đảo lộn kinh tế,
chính trị-xã hội lớn của thời đại ấy cũng không thể không mang chứa một
kiểu nhận thức và một hình thức hội giả trang nhất định. Tôi xin đề cập đến hai
hiện tượng mà tất cả chúng ta đều biết trong lịch sử nước Nga. Ivan Lôi Đế khi
đấu tranh với giới phong kiến điền địa, với truyền thống và tính thiêng liêng
lãnh địa cha truyền con nối cổ xưa, để lập lại những nền tảng xã hội, chính
trị-nhà nước, và ở mức độ nhất định, nền tảng đạo đức cũ, đã không thể không
chịu những ảnh hưởng quan trọng của các hình thức hội hè-dân gian quảng trường,
hình thức cười nhạo chân lý cũ và quyền lực cũ với toàn bộ hệ thống các cải
dạng của chúng (cải trang trong vũ hội hoá trang), những đảo lộn tôn ti thứ bậc (lộn trái ra ngoài),
phế truất và hạ bệ.
Không đoạn tuyệt được với tiếng chuông nhà thờ, Ivan Lôi Đế
cũng không thể thoả mãn với việc thiếu những tiếng lục lạc vui nhộn. Thậm chí
trên phương diện tổ chức bề ngoài của các opritrnina cũng có các yếu tố
của hình thức hội giả trang (ví dụ, những đặc trưng cho hội giả trang như cái
chổi), còn sinh hoạt bên trong của opritrnina (đời sống và các bữa
tiệc của nó trong các ngôi làng Aleksandri) thì thể hiện rất rõ tính chất hội
giả trang và quyền được hưởng ngoại phạm kiểu quảng trường. Sau này, khi đến
giai đoạn ổn định, opritrnina không những bị bãi bỏ và phủ nhận, mà còn
diễn ra một cuộc đấu tranh với chính tinh thần của nó, vốn thù địch với bất kỳ
sự bình ổn nào.
Tất cả những điều đó cũng bộc lộ tương đối rõ trong thời đại
của Pie Đại Đế: tiếng ngân của những chiếc lục lạc vui tươi đối với ông gần như
át hẳn hoàn toàn tiếng chuông nhà thờ. Chúng ta đều biết Pie khuyến khích rộng
rãi các hình thức mới nhất của ngày hội những thằng ngốc (trong suốt hàng nghìn
năm tồn tại của mình ngày hội đó chưa bao giờ và chưa ở đâu có được sự hợp thức
hoá và công nhận ở cấp quốc gia như vậy). Trò tấn phong và phế truất vui cười
của ngày hội ấy xộc thẳng vào đời sống của quốc gia, kể cả việc hoà lẫn các tên
gọi hề cười với quyền lực thực tế của nhà nước (ví dụ, đối với Romodanovski).
Cái mới được áp dụng vào cuộc sống thoạt đầu là qua loại quần áo "ngộ
nghĩnh". Trong quá trình cải cách, hàng loạt yếu tố của chúng đan quyện
với các yếu tố cải trang và hạ bệ gần như là hề nhộn (cắt râu, váy dài châu Âu,
cung cách lịch sự…). Tuy nhiên các hình thức hội giả trang vào thời đại Pie vẫn
mang tính chất du nhập nhiều hơn. Vào
thời Ivan Lôi Đế các hình thức ấy mang tính dân gian hơn, sống động,
phức tạp và mâu thuẫn hơn.
Như vậy, tự do bên ngoài của các hình thức hội hè-dân gian
không tách rời với tự do bên trong của chúng và với toàn bộ nội dung thế giới
quan tích cực của chúng. Chúng đưa ra bình diện tích cực mới về thế giới và
đồng thời đưa ra quyền thể hiện mà không bị trừng phạt của mình.
Trên đây chúng tôi đã làm rõ ý nghĩa thế giới quan của các
hình thức và hình tượng hội hè-dân gian và sẽ không quay lại vấn đề đó nữa. Bây
giờ chúng ta đã hiểu được những chức năng đặc biệt của các hình thức ấy trong
bộ tiểu thuyết của Rabelais.
Các chức năng đặc biệt đó còn trở nên rõ ràng hơn dưới ánh
sáng của vấn đề mà toàn bộ nền văn học thời Phục Hưng đã giải quyết. Thời đại
tìm kiếm những điều kiện và hình thức nào mà chúng có thể khiến sự tự do tột
bậc và sự cởi mở tư duy và ngôn từ trở nên có thể và được biện hộ. Thêm vào
đó quyền bên ngoài (có thể nói, là sự kiểm duyệt) và bên trong của
sự tự do và cởi mở đó không hề tách rời với nhau. Tính cởi mở ở thời đại đó,
tất nhiên, được hiểu không phải theo ý nghĩa chủ quan hạn hẹp như "sự chân
thành", "sự thật của tâm hồn", "sự thân tình", v.v…
Thời đại tương đối phức tạp hơn tất cả những khái niệm đó. Vấn đề là ở chỗ tính
cởi mở quảng trường hoàn toàn khách quan, toàn dân, to tát, liên quan đến tất
cả mọi người và mọi sự vật. Cần đặt tư duy và lời nói vào những hoàn cảnh sao
cho thế giới phải quay cái mặt bên kia về với chúng, cái mặt nó còn giấu kín,
cái mặt mà người ta hoàn toàn không nói đến hoặc nói đến không đúng thực chất,
cái mặt không được đưa vào ngôn từ và các hình thức của thế giới quan thống
trị. Cả trong lĩnh vực tư duy và ngôn từ người ta cũng muốn tìm ra châu Mỹ,
muốn phát hiện ra những kẻ đối lập, khao khát nhìn sang nửa phía Tây của địa
cầu và hỏi: "Cái gì ở dưới chân chúng ta đây?". Tư duy và ngôn từ tìm
kiếm hiện thực mới đằng sau chân trời nhìn thấy được của thế giới quan thống
trị. Người ta thường cố tình lộn trái tư duy và lời nói để nhìn xem cái gì thực
chất nằm sau chúng, mặt trái của chúng ra sao. Người ta cố tìm kiếm một vị trí
nào đó để từ đấy có thể nhìn thấy mặt bên kia của các hình thức tư duy thống
trị và các cách đánh giá thống trị, từ đó có thể xem xét thế giới này theo một
cách mới.
Một trong những người đầu
tiên đặt ra vấn đề này với nhận thức đầy đủ là Boccaccio. Dịch hạch, viền quanh
tác phẩm “Decameron” của ông, phải tạo ra những điều kiện tàng ẩn cho tính cởi
mở và phi chính thống của ngôn từ và các hình tượng. Trong phần kết luận của
“Decameron”, Boccaccio nhấn mạnh rằng những cuộc đàm thoại trong cốt lõi cuốn
sách của ông diễn ra “không phải trong nhà thờ, nơi các công việc của nó cần
được thể hiện bằng những ý nghĩ và lời nói thanh sạch nhất…, cũng không phải ở
các trường học triết học… mà là ở ngoài vườn, ở những chỗ vui vẻ, giữa
những người phụ nữ trẻ trung, tuy nhiên đã trưởng thành và dày dạn trong những
câu chuyện suồng sã, và vào khoảng thời gian, khi đối với những con
người đáng kính thật là bất nhã đi tìm sự cứu rỗi với cái quần lộn ngược
lên đầu”.
Ở đoạn khác (cuối ngày thứ
sáu) một trong những người tham gia cuộc đàm đạo – Dioneo – nói: “Chẳng nhẽ các
vị không biết rằng vì sự đen đủi của khoảng thời gian này mà các vị quan toà
bỏ bê các vụ án của mình, tất cả các luật lệ của cả Chúa lẫn con người đều im
lặng, và mỗi người được trao cho cái quyền lớn lao nhằm mục đích bảo tồn
cuộc sống của mình? Vì thế nếu trong lúc đàm đạo, lòng chính trực của quí vị có
sa vào những khu vực phần nào tự do hơn, thì không phải là để học theo
những hành vi bất nhã đó, mà là để đem đến cho quí vị và những người khác một
sự hài lòng”.
Phần cuối là những câu rào
đón và giảm nhẹ rất đặc trưng cho Boccaccio, nhưng phần mở đầu của chúng đã
khai mở rất đúng vai trò của dịch hạch theo ý đồ của ông: nó trao cho người ta
quyền có ngôn từ khác, cách tiếp cận khác đối với cuộc sống và thế giới, không
chỉ bóc đi tất cả mọi sự ước lệ, mà ngay cả các luật lệ “của cả Chúa lẫn con
người cũng đều im lặng”. Cuộc sống được quyền đi trệch ra khỏi đường ray thông
thường của mình, cái mạng nhện của sự ước lệ bị xé toang, tất cả các ranh giới
chính thống và phân biệt đẳng cấp đều bị xoá nhoà. Một bầu không khí đặc biệt
được tạo ra, trao cả quyền năng bên ngoài lẫn bên trong cho sự tự do và cởi mở.
Thậm chí những người đáng kính nhất cũng có thể mặc “quần lộn ngược lên đầu”.
Vì thế vấn đề cuộc sống ở đây được bàn luận “không phải trong nhà thờ, cũng
không phải trong các trường học triết học”, mà là “ở những chỗ vui vẻ”.
Ở đây chúng tôi nói tới
những chức năng đặc biệt của hình tượng dịch hạch trong tác phẩm “Decameron”:
nó trao cho những người đối thoại và tác giả cả cái quyền bên ngoài lẫn bên
trong được cởi mở và tự do đặc biệt. Nhưng ngoài điều ấy ra, dịch hạch, như một
biểu tượng cô đặc của cái chết, - là hợp phần cần thiết của toàn bộ hệ thống
các hình tượng của “Decameron”, nơi hạ tầng vật chất-thân xác tái sinh đóng vai
trò chủ đạo. “Decameron” là phần hoàn kết kiểu Italia cho chủ nghĩa hiện thực
nghịch dị hội giả trang, nhưng dưới những hình thức nhợt nhạt và nông cạn hơn.
Một cách giải quyết khác
vẫn vấn đề đó là đề tài sự điên rồ hoặc ngốc nghếch của nhân vật chính. Người
ta tìm kiếm sự tự do bên trong và bên ngoài khỏi tất cả mọi hình thức và giáo
lý của thế giới quan đang chết đi, nhưng vẫn còn thống trị, để nhìn ra thế giới
bằng con mắt khác và thấy nó theo kiểu khác. Sự điên rồ hoặc ngốc nghếch của
nhân vật (tất nhiên, với ý nghĩa nhị chức năng của nó) đã trao quyền cho cái
nhìn đó.
Còn cách giải quyết của
Rabelais cũng vấn đề này – là hướng trực tiếp tới các hình thức hội hè-dân
gian. Chúng ban cho cả tư duy lẫn ngôn từ sự tự do triệt để nhất, nhưng đồng
thời tích cực nhất và có nội dung phong phú nhất, cả bên trong lẫn bên ngoài.
* * *
Ảnh hưởng của hội giả
trang – ở nghĩa rộng nhất của từ đó – là rất to lớn trong mọi thời kỳ phát
triển của văn học, nhưng ảnh hưởng ấy trong đa phần trường hợp là ngấm ngầm,
không công khai, khó nắm bắt, - còn vào thời kỳ Phục Hưng nó không chỉ mạnh mẽ
khác thường, mà còn công khai, trực tiếp và được thể hiện rõ rệt thậm chí cả
trong các hình thức bề ngoài. Thời Phục Hưng – có thể nói, đó là sự hội hè
hoá trực tiếp nhận thức, thế giới quan và văn học của nhân loại.
Văn hoá chính thống thời
trung cổ được sàng lọc trong suốt nhiều thế kỷ, nó cũng có giai đoạn sáng tác anh
hùng ca của mình, nó bao trùm tất cả và thấu suốt tất cả. Nó bao phủ và quấn
quanh toàn bộ thế giới cũng như mỗi góc nhỏ của nhận thức con người, nó được
duy trì bởi một tổ chức duy nhất theo kiểu của mình là giáo hội Thiên Chúa
giáo. Vào thời kỳ Phục Hưng hình thái phong kiến đã kết thúc, nhưng quyền lực
của ý thức hệ của nó đối với nhận thức vẫn còn vô cùng mạnh mẽ.
Vậy thì các tư tưởng gia
thời Phục Hưng có thể dựa vào cái gì trong cuộc đấu tranh của mình với văn hoá
chính thống thời trung cổ? Bởi vì cuộc đấu tranh của họ tỏ ra rất mạnh mẽ và
toàn thắng. Các cội nguồn sách vở cổ đại, bản thân chúng, tất nhiên, không đủ
sức để làm chỗ dựa. Bởi vì ngay cả thời cổ đại cũng có thể được lĩnh hội (và
thực sự đã được nhiều người lĩnh hội) qua lăng kính của thế giới quan trung
cổ. Để khai mở được thời cổ đại nhân văn, thì phải giải phóng nhận thức khỏi
quyền lực hàng nghìn năm của các phạm trù tư duy trung cổ, phải nắm bắt được
góc độ nhìn về phía bên kia của văn hoá chính thống, bứt ra khỏi đường ray
nhiều thế kỷ của sự phát triển ý thức hệ.
Chỉ có nền văn hoá trào
tiếu dân gian hùng mạnh được hình thành hàng nghìn năm mới có thể đưa ra được
chỗ dựa đó. Các nhà hoạt động tiến bộ thời Phục Hưng đã có quan hệ trực tiếp
với nền văn hoá ấy, và trước hết là với phương diện hội hè-dân gian hội giả
trang của nó, như chúng tôi đã nói đến trong chương này. Hội giả trang (xin
nhắc lại, ở nghĩa rộng nhất của từ đó) giải phóng nhận thức của con người khỏi
quyền lực của thế giới quan chính thống. Nó cho phép nhìn vào thế giới theo
cách mới, không sợ hãi, không sùng kính, hoàn toàn phê phán, nhưng đồng thời
cũng không hư vô chủ nghĩa, mà tích cực, bởi nó khai mở khởi nguồn vật chất dồi
dào của thế giới, sự hình thành và biến đổi, sự vô địch và thắng lợi vĩnh cửu
của cái mới, sự bất tử của nhân dân. Đó là chỗ dựa vững chãi để công phá thế kỷ
Gôtich và xây dựng nền tảng cho thế giới quan mới. Đó cũng là sự hội hè hoá
nhận thức mà chúng tôi đã nói ở trên, - sự giải phóng đầy đủ khỏi tính trang
nghiêm Gôtích, để mở ra con đường đến với tính trang nghiêm mới, tự do và tỉnh
táo hơn.
Dobroliubov trong một bài phê bình của mình đã phát biểu một
suy nghĩ tuyệt vời như sau: "Cần gia cố trong tâm hồn chúng ta một tín
niệm kiên định vào sự cần thiết và khả năng có thể thoát hoàn toàn ra khỏi trật
tự hiện hành của cuộc sống này, để có được sức mạnh mô tả nó bằng hình
tượng thơ"1.
Cốt lõi của văn học tiến bộ thời Phục Hưng chính là cái
"tín niệm kiên định ấy vào sự cần thiết và khả năng có thể thoát hoàn toàn
ra khỏi trật tự hiện hành của cuộc sống này". Chỉ nhờ có tín niệm ấy vào
sự cần thiết và khả năng có thể thay đổi và làm mới triệt để tất cả những gì
hiện hành thì những người sáng tạo nên thời Phục Hưng mới có thể nhìn thấy
thế giới như họ đã nhìn thấy nó. Chính tín niệm ấy đã xuyên suốt toàn bộ nền
văn hoá trào tiếu dân gian, xuyên suốt không phải như một tư tưởng trừu tượng,
mà như một cảm quan thế giới sống động, quyết định tất cả các hình thức và hình
tượng của nền văn hoá đó. Văn hoá chính thống thời trung cổ bằng tất cả các
hình thức, hình tượng và hệ thống trừu tượng các tư tưởng của mình đã gợi nên
công khai một niềm tin đối lập vào tính bất di bất dịch và bất biến của trật tự
thế giới hiện hành và chân lý hiện hành, vào tính vĩnh cửu và bất động của tất
cả những gì đang tồn tại nói chung. Sự khơi gợi đó vào thời Phục Hưng rất mãnh
liệt, và không thể giải thích nó chỉ qua các tìm kiếm của tư tưởng cá nhân hoặc
các nghiên cứu thư phòng về những cội nguồn cổ đại (những nghiên cứu chưa được
rọi sáng bởi “nhận thức hội giả trang”). Chỉ có nền văn hoá dân gian mới có thể
đưa ra được một điểm tựa thực sự.
Chính điều đó giải thích
vì sao trong tất cả các tác phẩm vĩ đại của thời Phục Hưng chúng ta lại cảm
nhận rõ rệt đến thế không khí hội giả trang, ngọn gió tự do của quảng trường
hội hè-dân gian thấm đẫm trong chúng. Và ngay trong cấu trúc của chúng, trong
bản thân lôgic độc đáo các hình tượng của chúng, chúng ta có thể phát hiện thấy
cái cốt lõi hội giả trang, mặc dù chưa được biểu hiện với tất cả sự sinh động
và rõ ràng bề ngoài được như ở tác phẩm của Rabelais.
Qua cách phân tích tương
tự, như chúng tôi đã áp dụng trong chương này đối với Rabelais, cũng có thể cho
phép phát hiện ra yếu tố hội giả trang quan trọng trong cách tổ chức kịch của
Shakespeare. Vấn đề không phải chỉ là nói về phương diện hề cười thứ cấp của
ông. Lôgic hội giả trang phế truất-tấn phong – cả ở hình thức trực tiếp lẫn ẩn
khuất - đã tổ chức nên phương diện nghiêm túc của chúng. Nhưng điều chủ yếu là
“niềm tin vào khả năng giải thoát hoàn toàn khỏi trật tự hiện hành của cuộc
sống”, vốn xuyên suốt kịch của Shakespeare, đã quyết định thứ chủ nghĩa hiện
thực vô cùng tỉnh táo, không sợ hãi (nhưng không biến thành trơ tráo) của
Shakespeare và chủ nghĩa phi giáo điều tuyệt đối của ông. Niềm cảm hứng hội giả
trang của những cải biến và đổi mới triệt để là nền tảng thế giới quan của
Shakespeare. Điều đó cho phép ông nhìn thấy sự thay đổi kỳ vĩ của các thời đại
diễn ra trong thực tế và đồng thời hiểu cả những hạn chế của sự đổi thay đó.
Trong sáng tác của Shakespeare
cũng có không ít những biểu hiện bề ngoài của tố chất hội giả trang: các hình
tượng của hạ tầng vật chất-xác thịt, những ngôn từ khiếm nhã nhị chức năng, các
hình tượng cỗ tiệc dân gian, v.v… (chúng tôi đã đề cập đến trong chương dẫn
luận).
Cốt lõi hội giả trang
trong tác phẩm Don Quijote của Cervantes, cũng như các truyện ngắn của ông là
hoàn toàn không thể nghi ngờ: cuốn tiểu thuyết thực sự được xây dựng như một
cuộc trình diễn hội giả trang phức tạp với tất cả những biểu hiện bề ngoài của
nó. Chiều sâu và tính nhất quán của chủ nghĩa hiện thực của Cervantes cũng được
quyết định bởi cảm hứng về những đổi thay và tái sinh thuần tuý hội giả trang.
Văn học thời kỳ Phục Hưng
còn cần đến những nghiên cứu đặc biệt dưới ánh sáng của các hình thức hội
hè-dân gian hội giả trang được hiểu đúng.
* * *
Bộ tiểu thuyết của
Rabelais là tác phẩm hội hè nhất trong toàn bộ nền văn học thế giới. Nó biểu
hiện chính cái bản chất của tính hội hè nhân dân. Nhờ thế nó nổi bật một cách
tách biệt đến vậy trên toàn bộ phông nền của loại văn học nghiêm túc-đời thường
và long trọng-chính thống của các thế kỷ cuối, đặc biệt là văn học thế kỷ XIX.
Vì thế sẽ không thể hiểu Rabelais từ góc độ của những quan niệm thuần tuý phi
hội hè về thế giới, vốn thống trị trong những thế kỷ đó.
Tuy nhiên, tính hội hè
trong những điều kiện của văn hoá tư sản chỉ bị co hẹp và bóp méo đi, chứ không chết hẳn. Lễ hội là
phạm trù hàng đầu và không thể huỷ diệt của văn hoá loài người. Nó có thể nghèo
nàn đi và thậm chí thoái hoá, nhưng không thể biến mất hoàn toàn. Những lễ lạt
mang tính cá nhân và gia đình của con người thời đại tư sản dù sao vẫn bảo lưu
trong mình dưới dạng bóp méo bản chất cổ xưa của lễ hội: vào ngày lễ cánh cửa
mọi nhà luôn luôn rộng mở đón khách (ở phạm vi cho tất cả, cho toàn thế gian),
trong ngày lễ tất cả đều dư dả hơn (các món ăn ngày lễ, quần áo, đồ trang trí
nhà cửa…), tất nhiên còn bảo lưu được cả những lời cầu chúc ngày lễ mọi điều
hạnh phúc (nhưng đã gần như mất đi hoàn toàn tính chất nhị chức năng), việc
nâng cốc ngày lễ, các trò chơi bình thường và trò chơi cải trang ngày lễ, tiếng
cười vui vẻ lễ hội, các trò đùa, điệu nhảy, v.v… Lễ hội không cho phép
đưa ra bất kỳ một nhận thức thực dụng nào (như là sự nghỉ ngơi, sự xả hơi,
v.v…). Lễ hội, ngược lại, đúng là được giải phóng khỏi bất kỳ tính vụ lợi và
thực dụng nào; đó là sự tạm thời bước vào một thế giới không tưởng. Không thể
đưa lễ hội vào một nội dung xác định giới hạn nào (ví dụ, một sự kiện lịch sử
được kỷ niệm bằng ngày lễ),- nó sẽ bứt ra khỏi giới hạn của bất kỳ nội dung hữu
hạn nào. Không thể bứt lễ hội ra khỏi
cuộc sống của cơ thể, đất đai, thiên nhiên, vũ trụ. Trong ngày lễ, đến “mặt trời cũng đùa dỡn trên bầu trời”. Dường như tồn tại một thứ
“thời tiết hội hè” đặc biệt1. Tất cả
những điều đó dưới dạng bị hao mòn vẫn còn lưu lại trong các lễ hội vào thời kỳ
tư sản.
Rất đặc trưng là trong triết học phương Tây những năm gần
đây, mà nhất là trong nhân học triết học đã có những cố gắng khai mở nhân
sinh quan hội hè (tâm thần hội hè) đặc biệt của con người, bình diện hội hè
đặc biệt của thế giới và sử dụng nó để khắc phục quan điểm bi quan của chủ
nghĩa hiện sinh. Tuy nhiên nhân học triết học với phương pháp hiện tượng học
của nó, xa lạ với tính lịch sử đích thực và tính xã hội, không thể giải quyết
được vấn đề này. Ngoài ra, nó chỉ định hướng đến tính hội hè đã bị hao tổn của
thời đại tư sản2.
[1] Chương 3, sách: Sáng
tác của Francois Rabelais và nền văn hóa dân gian Trung cổ và Phục hưng, Mikhail Mikhailovich Bakhtin. Từ Thị
Loan dịch
1 Sénèque đã
nói về chuyện này trong tác phẩm “Biến thành quả bí ngô”. Chúng tôi cũng đã nhắc tới tác phẩm trào phúng tuyệt vời kiểu Saturnalia về việc hạ thấp
một ông vua qua đời ngay cả khi ông
ta băng hà (ông ta chết trong khi đang
đại tiện), và sau khi chết, dưới vương quốc âm phủ ông ta biến thành “con ngáo ộp buồn cười”, thành thằng hề
thảm hại, thành tên nô lệ và con bạc thua bài.
2 Con lừa cũng là một trong những
hình tượng của hệ thống hội hè dân
gian trung cổ, ví dụ, “ngày hội con lừa”.
3 Với tư cách một hình tượng rời ngôi cao cả,
chúng tôi xin nhắc đến nghi thức cổ xưa ở Nga về nghi lễ rời ngôi trước
khi chết và cắt râu cho các Sa hoàng: người ta thay quần
áo cho họ, khoác bộ áo thụng tu sĩ, và họ chết trong tấm
áo đó. Chúng ta cũng đều biết đến cảnh cắt tóc và
thay quần áo cho Sa hoàng Boris Godunov trước khi chết trong vở kịch của Puskin. Ở đây gần như là sự tương đương trọn vẹn các hình
tượng.
1 Dư âm của nó còn lưu lại trong văn học thời kỳ tiếp theo, đặc biệt trong văn học theo dòng Rabelais, ví dụ, ở Scarron.
1 Chúng ta cũng
gặp những cặp đôi hội giả trang kiểu đó trên “đảo những kẻ hay thưa kiện”. Ngoài
tên thóc mách mặt đỏ mà thày dòng Jean đã chọn, còn có
tên thóc mách khác cao và gầy, hắn than vãn vì không được chọn.
2 Các cặp hài như vậy là hiện tượng vô cùng cổ xưa.
Diterikh đã tái hiện trong cuốn
sách “Pullcinella” của mình hình ảnh hài hước về một chiến binh huyênh hoang và tên người hầu mang vũ khí cho y trên một chiếc bình cổ đại ở vùng Hạ Italia (sưu tập của Hamilton).
Sự giống nhau giữa
người chiến binh và kẻ
vác vũ khí với Don Quijote và Santro thật là đáng kinh
ngạc (có điều hai nhân
vật này được lắp thêm những dương vật rất to) (xem
Dietrich, Pullcinella, tr. 239).
1 Các từ “đánh ky”
(quille) và “môn đánh ky” cũng được sử dụng với ý nghĩa tình dục. Những biểu đạt ban ý
nghĩa tình dục cho cú đánh, gậy, đánh ky, trống lục lạc, v.v… cũng thường gặp trong sáng tác của những người đồng
thời với Rabelais, ví dụ, trong tác phẩm chúng tôi đã
nhắc đến
“Triomphe de la dame Verolle”.
1 Chúng ta cũng gặp môtip
máu biến thành rượu trong Don Quijote, chính xác là ở cảnh nhân vật chính đánh nhau với những bao da đựng rượu mà chàng lầm tưởng là những người khổng lồ. Một phân tích còn thú vị hơn về tình tiết đó có trong “Con lừa vàng” của
Apulei. Liutsi giết người bên cửa nhà mình vì tưởng họ là những tên cướp; chàng
nhìn thấy máu của họ tuôn
trào. Sáng ra người ta bắt chàng đến toà án
vì tội giết người. Án tử hình lăm le chờ chàng. Nhưng
hoá ra chàng là nạn nhân của một trò lừa vui vẻ. Những người bị giết chỉ đơn giản là những túi da đựng rượu. Phiên toà u ám biến thành sân khấu của tiếng cười đồng thanh vui vẻ.
1. Trong một tác phẩm của Italia (không thuộc thể loại Macaronic) của Pholengo “Orlandino” có đoạn mô tả hoàn toàn theo kiểu hội giả trang trận đấu loại của Charles Đại đế:
các hiệp sĩ phi trên lưng
lừa, la và bò, thay cho lá chắn họ cầm những cái giỏ, thay cho mũ trụ là các đồ dùng nhà
bếp như xô, chảo nhỏ, nồi.
1. Tất cả những đại diện ấy của quyền lực cũ và chân
lý cũ, nói theo lời của K.
Marx,- chỉ là những nhân vật
hài của một trật tự thế giới, trong đó “các
nhân vật thực
đã chết” (xem K.Marx và Ph. Engels. Tuyển tập, tập I, tr. 418). Văn hóa trào tiếu
dân gian tiếp nhận tất cả những kỳ vọng của chúng (về
tính bất biến và vĩnh cửu) trong viễn cảnh của thời gian luôn đổi
thay và được làm mới.
1. Trong lần xuất bản qui chuẩn
hai cuốn đầu
tiên của bộ tiểu thuyết (năm 1542),
Rabelais nói chung xóa đi hết những ám chỉ trực tiếp đến
Sorbonne, thay thế cụm từ “những người
Sorbonne” thành “những người Sophie”
1 Về thực chất, mỗi ngày của lễ hội đều có sự hạ bệ và đăng quang,
vì vậy, đều có vua và hoàng hậu của mình.
Xem môtip đó trong “Decamerron”, nơi mỗi ngày đàm đạo hội hè đều có một ông vua và hoàng hậu của
mình.
1 Hai nhân vật của lễ hội dân gian
“vendange” quyết định
toàn bộ tính chất của tình tiết là: nhân vật
Bon-Temps quyết định
tư tưởng
của nó (chiến thắng chung
cuộc của hoà bình và sự phồn thịnh-sung túc của
toàn dân), còn nhân vật Mère
Folle, vợ anh ta, quyết định phong
cách hề nhộn-hội giả trang của tình tiết.
2 Trong bản dịch phóng
tác cuốn sách này, Phisart nhấn rất mạnh yếu tố hội hè, nhưng lại soi rọi nó theo tinh thần của chủ nghĩa Grobian.
Granguzie là người cực kỳ yêu thích
tất cả các loại lễ hội, bởi vì ở đấy người ta được phép uống rượu và đùa tếu. Một danh sách dài các lễ hội ở Đức thế kỷ XVI được dẫn ra: lễ thánh
Martin, lễ tiễn mùa đông, lễ ban phép thánh cho nhà thờ, hội chợ, các lễ rửa tội, v.v… Lễ hội này kế tiếp lễ hội kia, đến nỗi toàn bộ vòng quay
trong năm của Granguzie chỉ toàn là lễ hội. Đối với nhà đạo đức học Phisart, lễ hội - đó chỉ là sự phàm ăn tục uống và vô công rồi nghề. Cách hiểu và cách đánh
giá lễ hội
như thế, tất nhiên,
mâu thuẫn sâu sắc với cách mà
Rabelais sử dụng
chúng. Tuy nhiên, thái độ của bản thân
Phisart đối với chúng cũng
mang tính nước đôi.
1 Cơ thể kết hợp giữa quái vật và tên dâm đãng
cưỡi trên lưng, về thực chất, là tương đương với cái bụng ăn-bị ăn-sinh đẻ của
“ngày hội giết gia súc”.
1 Cả kịch châm biếm cổ đại, như chúng tôi đã
nói, cũng là vở kịch của cơ thể và đời sống thân xác. Những con quái vật
và người khổng lồ đều đóng
vai trò to lớn ở đó.
2 “Prognostication des Laboureurs”, được A. de Montaiglon’om tái bản trong cuốn
“Recueil de poésies francaises de XVe et XVIe siécles”,
t.II.
1. Nikolai Leonik, nhà nhân văn chủ nghĩa Ý đồng thời với
Rabelais, người sáng tác đoạn đối thoại về trò chơi bài xương (Lion,
1532).
1 Khẳng định này của chúng tôi liên quan đến cả những hình tượng
trò chơi của Lermontov, tất nhiên cũng
cần có thêm một vài giải thích
(“Vũ hội hoá
trang”, “Stos và Lugin”, “Nữ thủ quỹ”, “Người theo thuyết định mệnh”). Các hình tượng trò chơi của Dostoievski (“Cầu thủ”, “Thiếu niên”…) cũng có tính chất đặc biệt.
1 Chúng tôi, dĩ nhiên, chưa
khai thác hết tất cả các ý nghĩa của tình tiết tuyệt vời này về Bridua. Ở đây chúng
tôi chỉ quan tâm đến cách sử dụng hình tượng
trò chơi bài xương.
1. Cuộc tranh luận về phụ nữ được Abel
Lefranc đề cập
chi tiết trong bài viết nhập đề cho “Quyển ba” (xem tập V
lần tái bản qui chuẩn,
tr. XXX và tiếp theo).
1 Sau đây là những tác phẩm thuần tuý kiểu Gans
Saks của Goethe thời trẻ: “Hội chợ ở Pliunderveilern”, “Đám cưới của Gans Vurst”, “Buổi trình diễn hội chợ về linh mục Brei,
nhà tiên tri dối lừa”. Ở một trong
các tác phẩm hội hè-dân gian đó (“Đám cưới của Gans Vurst” còn chưa viết xong)
chúng tôi thậm chí đã tìm thấy những đặc điểm của phong cách hội giả trang như trò biến câu chửi quảng trường thành tên riêng (ở đây có khoảng vài chục
tên như thế)
2 Goethe. Tuyển tập các bài viết, 13 tập. Nxb Văn học quốc gia, 1935, tập XI, tr. 510.
Tiếp theo số trang của ấn phẩm sẽ được chỉ ra trong công trình này.
1 Tố chất hội giả trang (tính nghịch dị, tính nhị chức năng) trở nên khách quan hơn so với chủ nghĩa lãng mạn trong sáng tác của Heine, mặc dù cả ở ông yếu tố chủ quan kế thừa từ chủ nghĩa lãng mạn dù sao cũng vẫn chiếm ưu thế. Đây là những câu thơ điển hình cho nhận thức về tính nhị chức năng của Heine trong “Att Troll”:
Đó là sự điên rồ thông thái!
Sự thông thái phát cuồng!
Hơi thở hắt trước khi chết,
Bỗng biến thành tràng cười!
1 Trích dẫn theo sách: I.V. Goethe. Tuyển tập các bài viết về tự nhiên học. Nxb Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô, 1957, tr. 361 và tiếp theo.
1 Với tư cách một ví dụ tương đương, chúng tôi xin dẫn ra truyền
thuyết dân gian kiểu hội giả trang và Saturnalia thú vị về vua Peto
và triều đình
của ông. Rabelais cũng có nhắc tới truyền thuyết này (quyển
III, chương VI); "Thơ trào phúng của
Menippos" và Moliere trong "Tartuyf" (hồi 1, cảnh 1) cũng nhắc đến nó. Oudin đã đưa ra lời giải thích như sau về vua Peto
trong tác phẩm "Những câu chuyện
ngộ nghĩnh" của
mình ("Curiositez", 1640): "Triều đình của vua Peto: ở đây tất cả đều là ông chủ, nói cách khác, đó là nơi tất cả đều ra lệnh, nơi không
phân biệt ông chủ và người hầu". Trong tác phẩm khuyết danh
"Thử nghiệm về tục ngữ" của nửa cuối thế kỷ XVI có lời
giải thích như sau: "Đó
là triều đình
của vua Peto, nơi mỗi người đều
là ông chủ".
1 Xem Otto Driesen, Der Ursprung des Harlekin, 1904.
2 Trong văn học thế kỷ XVI rất phổ biến một thành ngữ kiểu nhà bếp-hội giả trang “món thịt hầm của Penfei”.
1 Abel Lefranc đã làm tiêu tan hoàn toàn câu chuyện huyền thoại lưu truyền đến tận thời gian gần đây về những truy bức khốc liệt mà hình như
Rabelais phải chịu cho đến trước khi chết. Rabelais mất,
có lẽ, hoàn toàn bình thản, không hề mất đi sự bảo trợ của triều đình, cũng như sự ủng hộ của những người bạn có chức vụ cao.
1 Dobroliubov, Thơ Ivan
Nikitin, Tuyển tập các luận văn gồm chín tập, tập 6, Nxb Văn học Quốc gia, L., 1963, tr. 167.
1 Một công việc cũng rất thú vị là phân tích các từ nguyên và các sắc thái ý nghĩa của các từ biểu đạt ngày lễ trong các ngôn ngữ khác nhau, cũng như khảo cứu các hình tượng hội hè trong ngôn ngữ dân gian, trong văn hoá dân gian và văn học nghệ thuật: trong tổng thể của mình chúng tạo nên một bức tranh trọn vẹn về thế giới hội hè, vũ trụ hội hè.
2 Cố gắng thú vị hơn cả nhằm khai mở nhân sinh quan hội hè của con người được
thực hiện trong cuốn
sách của O. Bollnow. Xem O.F.Bollnow, Neue
Geborgenheit. Das Problem einer Uberwindung des Existentialismus. Stuttgart, 1955 (O.
Bollnow, Yberezhenost mới. Vấn đề khắc phục chủ nghĩa hiện sinh. Stuttgart,
1955). Ở cuối cuốn sách đưa ra phần khảo cứu bổ sung đặc biệt dành cho ngày lễ: Zur Anthropologie des Festes, tr. 195-243. Tác giả hoàn toàn không sử dụng các tư liệu lịch sử, không
phân biệt sự khác nhau giữa
các lễ hội
dân gian (kiểu hội giả trang) và
các lễ hội
chính thức, không đếm xỉa đến bình diện trào tiếu của thế giới, tính toàn dân, tính không tưởng của ngày hội. Mặc dù những điều đó, cuốn sách của Bollnow
vẫn có rất nhiều quan sát
giá trị.