Nho pháp tịnh dụng và con đường bành trướng của thiên triều
- Trần Đình Hượu (1927-1995)
Ngày nay đã thành sự thật hiển nhiên, không có gì để nghi ngờ, không có gì phải bàn cãi cái việc những nhà cầm quyền Bắc Kinh là một bọn phản động, thực hiện chính sách đối nội phản nhân dân, đối ngoại xâm lược, chống chủ nghĩa xã hội. Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa không phải đi theo một con đường đặc thù nào đó lên chủ nghĩa xã hội mà là đi theo vết xe cũ của các triều đại phong kiến. Ở đó mấy chục năm nay, với danh nghĩa Đảng và Chính phủ Nhân dân, họ tước đoạt mọi quyền dân chủ, cưỡng bức lao dịch, vơ vét nhân tài vật lực, dốc vào việc quân sự hóa, chuẩn bị chiến tranh. Có lực lượng quân sự mạnh không phải để giải phóng Đài Loan hay đề phòng đất nước bị xâm lược mà để có thế mạnh, áp đặt địa vị siêu cường cho thế giới, nếu cần có thể bằng cách gây chiến tranh xâm lược. Ở đó các phe phái không ngớt cấu xé nhau, giành vị trí lãnh đạo, giành nhau làm chủ việc thực hiện mục tiêu đó. Những từ “Cách mạng vô sản”, “Chủ nghĩa Mác-Lênin”, “Đảng Cộng sản” chỉ là những cái nhãn hào nhoáng che đậy thực chất phản động.
Thực tế đó là kết quả áp dụng tư tưởng Mao Trạch Đông, mà nhiều người khi đi tìm nguồn gốc - ngoài những điều kiện thực tế và lịch sử khác - đều chú ý đến ý thức hệ truyền thống, đến tư tưởng Nho gia và Pháp gia, được truyền bá hàng ngàn năm, tạo thành một thứ tâm lý có tính dân tộc.
Vấn đề tư tưởng Nho gia và Pháp gia đã thành một vấn đề khá nổi bật trong các cuộc thảo luận ở Trung Quốc, trực tiếp hay không trực tiếp nêu tên hai học phái cổ đại đó. Hoạt động học thuật đó tiến hành một cách hoàn toàn khác thường. Tinh thần "cổ vi kim dụng" không chỉ là gắn với thực tế, gắn với chính trị, không phải là kế thừa có phê phán truyền thống mà là lấy xưa bàn nay, là khoác cái áo lịch sử khoa học cho các ý đồ chính trị, cho các mục tiêu tuyên truyền. Nghiên cứu, thảo luận học thuật có khi chỉ là một cách nói bóng gió của các phe phái đang xâu xé nhau, hơn thế nữa chỉ là quả bóng thăm dò, là cái bẫy của các phe phái ấy. Chiến dịch “phê Lâm phê Khổng” trực tiếp đề cập tư tưởng Nho gia và Pháp gia là như vậy. Người ngoài cuộc khó lòng hình dung được sự gán ghép kỳ quặc giữa Lâm Bưu và Khổng Tử và càng ngạc nhiên khi người ta phê Khổng chỉ căn cứ vào vào một vài câu mà Lâm Bưu nhắc lại ở đâu đó. Trước cách thảo luận học thuật như vậy người càng am hiểu chuyên môn bao nhiêu, càng mù tịt bấy nhiêu. Thế nhưng chính cuộc tranh luận quanh tư tưởng Nho gia và Pháp gia đó lại làm cho ta hiểu gián tiếp con đường Trung Quốc.
Chúng tôi bàn tư tưởng Nho gia và Pháp gia về mặt quan hệ của nó với tư tưởng bành trướng thiên triều, có đề cập đến chiến dịch "phê Lâm phê Khổng", mà không phê Khổng, phê Pháp theo cách đặt vấn đề của chiến dịch đó. Chúng tôi cũng không thảo luận tư tưởng Nho gia và Pháp gia như là nguồn gốc tư tưởng Mao Trạch Đông, theo cách đặt vấn đề của nhiều nhà nghiên cứu trong nước và ngoài nước. Chúng tôi hạn chế trong phạm vi quan hệ giữa hai học thuyết đó và con đường bành trướng Đại Hán. Tư tưởng Mao Trạch Đông không chỉ có bành trướng. Những người không theo Mao, trước hay sau Mao, cũng theo con đường bành trướng. Nhưng cả Mao và họ, tuy đều khó có thể gọi là Nho hay Pháp, đều có liên hệ với tư tưởng Nho gia và Pháp gia. Làm cơ sở cho tư tưởng Mao Trạch Đông là một thực tế. Đằng sau màn khói “phê Lâm phê Khổng” cũng là một thực tế. Thực tế đó là nước Trung Hoa ngày nay. Thế thì tại sao các phe phái theo Mao hay chống Mao lại phải giương hai ngọn cờ cũ kỹ là hai học phái thời cổ đại lên để đấu đá nhau gay gắt đến thế?
Chúng tôi muốn bàn mấy điểm chính:
Thực tế đó là kết quả áp dụng tư tưởng Mao Trạch Đông, mà nhiều người khi đi tìm nguồn gốc - ngoài những điều kiện thực tế và lịch sử khác - đều chú ý đến ý thức hệ truyền thống, đến tư tưởng Nho gia và Pháp gia, được truyền bá hàng ngàn năm, tạo thành một thứ tâm lý có tính dân tộc.
Vấn đề tư tưởng Nho gia và Pháp gia đã thành một vấn đề khá nổi bật trong các cuộc thảo luận ở Trung Quốc, trực tiếp hay không trực tiếp nêu tên hai học phái cổ đại đó. Hoạt động học thuật đó tiến hành một cách hoàn toàn khác thường. Tinh thần "cổ vi kim dụng" không chỉ là gắn với thực tế, gắn với chính trị, không phải là kế thừa có phê phán truyền thống mà là lấy xưa bàn nay, là khoác cái áo lịch sử khoa học cho các ý đồ chính trị, cho các mục tiêu tuyên truyền. Nghiên cứu, thảo luận học thuật có khi chỉ là một cách nói bóng gió của các phe phái đang xâu xé nhau, hơn thế nữa chỉ là quả bóng thăm dò, là cái bẫy của các phe phái ấy. Chiến dịch “phê Lâm phê Khổng” trực tiếp đề cập tư tưởng Nho gia và Pháp gia là như vậy. Người ngoài cuộc khó lòng hình dung được sự gán ghép kỳ quặc giữa Lâm Bưu và Khổng Tử và càng ngạc nhiên khi người ta phê Khổng chỉ căn cứ vào vào một vài câu mà Lâm Bưu nhắc lại ở đâu đó. Trước cách thảo luận học thuật như vậy người càng am hiểu chuyên môn bao nhiêu, càng mù tịt bấy nhiêu. Thế nhưng chính cuộc tranh luận quanh tư tưởng Nho gia và Pháp gia đó lại làm cho ta hiểu gián tiếp con đường Trung Quốc.
Chúng tôi bàn tư tưởng Nho gia và Pháp gia về mặt quan hệ của nó với tư tưởng bành trướng thiên triều, có đề cập đến chiến dịch "phê Lâm phê Khổng", mà không phê Khổng, phê Pháp theo cách đặt vấn đề của chiến dịch đó. Chúng tôi cũng không thảo luận tư tưởng Nho gia và Pháp gia như là nguồn gốc tư tưởng Mao Trạch Đông, theo cách đặt vấn đề của nhiều nhà nghiên cứu trong nước và ngoài nước. Chúng tôi hạn chế trong phạm vi quan hệ giữa hai học thuyết đó và con đường bành trướng Đại Hán. Tư tưởng Mao Trạch Đông không chỉ có bành trướng. Những người không theo Mao, trước hay sau Mao, cũng theo con đường bành trướng. Nhưng cả Mao và họ, tuy đều khó có thể gọi là Nho hay Pháp, đều có liên hệ với tư tưởng Nho gia và Pháp gia. Làm cơ sở cho tư tưởng Mao Trạch Đông là một thực tế. Đằng sau màn khói “phê Lâm phê Khổng” cũng là một thực tế. Thực tế đó là nước Trung Hoa ngày nay. Thế thì tại sao các phe phái theo Mao hay chống Mao lại phải giương hai ngọn cờ cũ kỹ là hai học phái thời cổ đại lên để đấu đá nhau gay gắt đến thế?
Chúng tôi muốn bàn mấy điểm chính:
- Chế độ chuyên chế của hoàng đế - thiên tử
- Đường lối bành trướng thiên triều
- Quan hệ giữa đối nội chuyên chế và đối ngoại bành trướng
- Tư tưởng Nho gia và Pháp gia trước các vấn đề đó.
Vấn đề thuộc phạm vi lịch sử tư tưởng, nhưng chúng tôi không muốn coi đó chỉ là vấn đề lịch sử, thuộc quá khứ. Được chỉ đạo theo nguyên tắc "cổ vi kim dụng" mà vấn đề đặt ra quan trọng đến thế, thảo luận gay gắt đến thế, tức là trong thực tế có vấn đề tương tự. Cuối thế kỷ XX mà có vấn đề tương tự với thời kỳ Chiến Quốc trước công nguyên, thì đó là vấn đề của cả lịch sử Trung Quốc. Và vì vậy, biết đâu nó cũng còn là vấn đề của tương lai - xa hay gần - của Trung Quốc.
Vài năm nay, sau khi đánh đổ “bè lũ bốn tên” , người ta đã “tiến hành chiến dịch” “chiêu tuyết”, “bình phản”, gác các chuyện “kỳ quặc” lại, gác các chuyện “phê Lâm phê Khổng” lại. Thế nhưng nếu đó là vấn đề của thực tế hiện tại hay hơn nữa của cả lịch sử Trung Quốc thì nêu ra hay gác lại vấn đề vẫn cứ còn tồn tại.
Với một nước Trung Hoa đang ra sức “bốn hiện đại hóa” và giả định là thành công, thì quan tâm về quan hệ của nó với hai học thuyết Nho gia và Pháp gia liệu có là vô lý? Liệu có thành chuyện gán ghép kiểu “phê Lâm phê Khổng”?
I. Nho gia và Pháp gia với chế độ chuyên chế của Hoàng đế - Thiên tử
Pháp gia ra đời chậm hơn Nho gia. Học thuyết của họ đối lập với học thuyết Nho gia. Tư tưởng Nho gia lúc bấy giờ mới được Khổng Tử hệ thống hoá lại, nhưng lại là hệ tư tưởng truyền thống chi phối xã hội Trung Quốc từ thời Ân Chu, tức là hàng chục thế kỷ trước đó. Vào lúc ra đời, tư tưởng Pháp gia là một trong ba dạng tư tưởng phủ định đối với tư tưởng truyền thống.
Trong lịch sử Trung Quốc, giữa Pháp gia và Nho gia có mối thù truyền kiếp. Không những về mặt lý luận hai bên mâu thuẫn gay gắt, mà trong hành động thực tế, Pháp gia là kẻ chủ mưu "đốt sách chôn Nho". Ngay từ khi tư tưởng Pháp gia ra đời, chưa thành hệ thống, Nho gia đã lên án kịch liệt; và đời sau, khi Pháp gia về mặt học thuật đã thất thế, suốt trong hai mươi thế kỷ, các nhà Nho vẫn không ngớt chửi rủa họ. Vào thời Chiến Quốc, Nho và Pháp ở thế bất tương dung. Kết thúc sự xung đột không phải một bên nào đó bị tiêu diệt, không phải dung hoà, xích lại gần nhau mà được sắp xếp thành "hai hàng văn võ" để thành học thuyết ngự dụng.
Nho giáo là hệ tư tưởng suốt trong lịch sử Trung Quốc - trừ đời Tần - vẫn làm chủ địa hạt chính trị, và tất nhiên do đó, ảnh hưởng đến nhiều mặt khác. Nho gia tuy cũng có mâu thuẫn với các học phái khác như Mặc gia, Đạo gia và Phật giáo. Nhưng chỉ với Pháp gia mới có một quan hệ đặc biệt: vừa là thù vừa là kẻ cộng tác không rời nhau để bảo vệ ngai vàng của hoàng đế.
Pháp gia ra đời trong cơ sở cục diện tranh bá tranh hùng thời Xuân Thu - Chiến Quốc, đã đưa nước Tần đến chế độ chuyên chế với ngôi hoàng đế. Chế độ mới cần lựa chọn một học thuyết làm hệ tư tưởng chính thống. Tranh chấp gay gắt giữa các học phái, nhất là giữa Nho và Pháp, phản ánh xu hướng của các lực lượng xã hội khác nhau trước thực tế mới và trước sự lựa chọn đó. Cùng với ngôi hoàng đế Tần - Hán ta thấy xuất hiện hai nét nổi bật của chính quyền: chuyên chế tuyệt đối và bành trướng. Nhà Tần dựa vào Pháp gia mà được thiên hạ nên độc tôn Pháp gia, tiêu diệt các học phái khác, trước hết là Nho gia. Nhà Hán sau một thời gian rút kinh nghiệm của nhà Tần lựa chọn "Nho pháp tịnh dụng"
Vài năm nay, sau khi đánh đổ “bè lũ bốn tên” , người ta đã “tiến hành chiến dịch” “chiêu tuyết”, “bình phản”, gác các chuyện “kỳ quặc” lại, gác các chuyện “phê Lâm phê Khổng” lại. Thế nhưng nếu đó là vấn đề của thực tế hiện tại hay hơn nữa của cả lịch sử Trung Quốc thì nêu ra hay gác lại vấn đề vẫn cứ còn tồn tại.
Với một nước Trung Hoa đang ra sức “bốn hiện đại hóa” và giả định là thành công, thì quan tâm về quan hệ của nó với hai học thuyết Nho gia và Pháp gia liệu có là vô lý? Liệu có thành chuyện gán ghép kiểu “phê Lâm phê Khổng”?
I. Nho gia và Pháp gia với chế độ chuyên chế của Hoàng đế - Thiên tử
Pháp gia ra đời chậm hơn Nho gia. Học thuyết của họ đối lập với học thuyết Nho gia. Tư tưởng Nho gia lúc bấy giờ mới được Khổng Tử hệ thống hoá lại, nhưng lại là hệ tư tưởng truyền thống chi phối xã hội Trung Quốc từ thời Ân Chu, tức là hàng chục thế kỷ trước đó. Vào lúc ra đời, tư tưởng Pháp gia là một trong ba dạng tư tưởng phủ định đối với tư tưởng truyền thống.
Trong lịch sử Trung Quốc, giữa Pháp gia và Nho gia có mối thù truyền kiếp. Không những về mặt lý luận hai bên mâu thuẫn gay gắt, mà trong hành động thực tế, Pháp gia là kẻ chủ mưu "đốt sách chôn Nho". Ngay từ khi tư tưởng Pháp gia ra đời, chưa thành hệ thống, Nho gia đã lên án kịch liệt; và đời sau, khi Pháp gia về mặt học thuật đã thất thế, suốt trong hai mươi thế kỷ, các nhà Nho vẫn không ngớt chửi rủa họ. Vào thời Chiến Quốc, Nho và Pháp ở thế bất tương dung. Kết thúc sự xung đột không phải một bên nào đó bị tiêu diệt, không phải dung hoà, xích lại gần nhau mà được sắp xếp thành "hai hàng văn võ" để thành học thuyết ngự dụng.
Nho giáo là hệ tư tưởng suốt trong lịch sử Trung Quốc - trừ đời Tần - vẫn làm chủ địa hạt chính trị, và tất nhiên do đó, ảnh hưởng đến nhiều mặt khác. Nho gia tuy cũng có mâu thuẫn với các học phái khác như Mặc gia, Đạo gia và Phật giáo. Nhưng chỉ với Pháp gia mới có một quan hệ đặc biệt: vừa là thù vừa là kẻ cộng tác không rời nhau để bảo vệ ngai vàng của hoàng đế.
Pháp gia ra đời trong cơ sở cục diện tranh bá tranh hùng thời Xuân Thu - Chiến Quốc, đã đưa nước Tần đến chế độ chuyên chế với ngôi hoàng đế. Chế độ mới cần lựa chọn một học thuyết làm hệ tư tưởng chính thống. Tranh chấp gay gắt giữa các học phái, nhất là giữa Nho và Pháp, phản ánh xu hướng của các lực lượng xã hội khác nhau trước thực tế mới và trước sự lựa chọn đó. Cùng với ngôi hoàng đế Tần - Hán ta thấy xuất hiện hai nét nổi bật của chính quyền: chuyên chế tuyệt đối và bành trướng. Nhà Tần dựa vào Pháp gia mà được thiên hạ nên độc tôn Pháp gia, tiêu diệt các học phái khác, trước hết là Nho gia. Nhà Hán sau một thời gian rút kinh nghiệm của nhà Tần lựa chọn "Nho pháp tịnh dụng"
+ Hoàng đế tham vọng vô độ, nắm hết cả vào trong tay một thiên hạ quá lớn mà không đủ sức độc quyền khai thác để vơ vét;
+ Nhân dân trong làng - họ còn khá nguyên thuỷ chưa có nhu cầu nào hơn là được an cư lạc nghiệp trong khung cảnh sống nhỏ hẹp đó;
+ Quý tộc và thổ hào tuy không kém tham tàn so với hoàng đế nhưng bị hạn chế từ hai phía nên không thể phát triển được.
Đó là mảnh đất hoãn xung cho các thế lực yếu, không thanh toán được lực lượng để phát triển. Các thế lực phân tán yếu nhưng hoàng đế cũng bất lực.
Chủ trương Nho - Pháp tịnh dụng phản ảnh thực tế đó. Hán Võ đế đã biết lợi dụng cái thế đó và sử dụng cả Nho cả Pháp phục vụ cho quyền lợi của hoàng đế. Ngoài là nói "độc tôn Nho thuật" lên án Pháp gia, nhưng bên trong lặng lẽ dùng luật pháp theo tinh thần Pháp gia để trị nước. Theo Nho, đề cao nhân nghĩa, chống tham bạo cũng không phải là chọn cách cai trị nhân đạo hơn mà thực tế là vì yếu nên phải nhân nhượng và hơn thế, che dấu sự tàn bạo bằng lời nhân nghĩa giả dối.
II. Tư tưởng Nho gia và Pháp gia phục vụ cho chính sách bành trướng thiên triều
Chế độ chuyên chế muốn thiết lập một trật tự xã hội chặt chẽ và bền vững. Nó quy định cho mỗi người một phận, một vị, theo nhu cầu lợi ích của hoàng đế rồi vừa dùng pháp độ vừa dùng lễ vừa dùng giáo hoá để duy trì. Có vị là có danh. Căn cứ vào danh mà có quyền, có uy, có lợi. Lợi là lộc vua ban, thế nhưng đó chỉ là phần nhỏ, phần danh nghĩa. Phần quan trọng hơn là “bổng ngoại”, thu nhập của biếu xén siêu kinh tế dựa vào danh, vào uy, vào thủ đoạn chứ không chỉ theo phận. Mọi con đường phát triển khác đều cắt cụt chỉ chừa lại một lối thông thoáng: cầu danh, lập công, phục vụ hoàng đế trong bộ máy quan lại và quân sự. Đi học, thi đỗ, làm quan văn hay luyện tập võ nghệ cũng thi đỗ làm quan võ. Đó là con đường tiến thân, lập nghiệp. Chính xã hội sống bằng danh vị như vậy mới làm con người hiếu học và chỉ lo dùi mài kinh sử, không ham tìm tòi hiểu biết thế giới khách quan, không chuộng khoa học kỹ thuật, cường điệu tu dưỡng và lại không suy nghĩ nhiều về nhân cách. Tri thức hay đạo đức cũng chỉ là nhằm lọt vào cửa làm quan. Cũng chính xã hội như vậy mới đẻ ra thói bảo vệ danh vị, bảo vệ uy tín, và giành giật nó bằng mọi thủ đoạn. Nó cũng đẻ ra cả những hiện tượng quái gở: sính làm kẻ cả, thích có danh vị, kể cả bằng con đường mua quan bán tước và cả bằng thủ đoạn côn đồ. Không phải chỉ thần dân mới sống bằng danh vị, cả hoàng đế, người ban phát danh vị cũng sống bằng danh vị. Ông vua là người giàu nhất vì có cả thiên hạ. Thế nhưng uy quyền thực tế không phải có được từ cái sở hữu không thực tế đó mà từ ngôi vua, một thứ danh vị, được đảm bảo bằng sự lừa dối tôn giáo (thiên mệnh) bằng danh nghĩa chính quyền và bảo vệ bằng bạo lực quân sự và chính trị. Ôm lấy một thiên hạ quá lớn, ngoài khả năng tổ chức quản lý của một tên độc tài, hết giai đoạn đánh dẹp để cướp thiên hạ thiên tử chỉ cầu mong có được cảnh "bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng", chỉ mong êm ấm, ít xáo trộn để rủ áo hưởng thái bình. Muốn thế phải đảo lộn được uy danh, làm cho trong nước và ngoài nước tôn trọng ngôi vua. Sự đình đốn có khi không phải là điều đáng lo mà ngược lại có khi lại là cảnh thái bình đáng mừng. Tuy vậy làm sao có được cảnh mọi người yên phận cho nhà vua thái bình. Tô thuế nhà vua đã thu hết, bổng lộc nhà vua ban phát cho quí tộc, quan lại và phần giành cho thổ hào vốn đạm bạc. Họ đâu chịu ngồi yên mà không giành giật thêm. Thế là thổ hào chấp chiếm cả ruộng công, bắt dân phục dịch vô độ. Biên thần, võ tướng cát cứ cắt xén phần nộp lên triều đình. Quan lại xà xẻo, ăn hối lộ, kiếm bổng hậu bù vào lộc bạc. Bọn sai nha xui nguyên dục bị, quấy rối để kiếm chác. Nông dân bị cột chặt vào làng họ, vào ruộng đất, bị áp bức bóc lột cùng cực, đã an phận cam chịu hết sức, đổi bằng mọi giá đắt để lấy cảnh an cư lạc nghiệp mà cũng không được. Chỉ cần hoặc là hào cường chiếm ruộng công, chiến tranh cát cứ, hoặc gặp cảnh kiện tụng là họ phải bỏ quê hương lang thang kiếm ăn. Nếu lại gặp năm mất mùa hay chiến tranh cản trở đi lại là hàng loạt cùng dân bị đẩy vào chỗ hết đường sống. Trong tình hình đó, nếu có người “đàn anh” hào kiệt, giỏi giang - có sức khỏe, có mưu trí, có can đảm - đứng ra tập hợp và lại có sông, hồ, núi, rừng, bãi rậm làm chỗ ẩn nấp thuận tiện là nổ ra “khởi nghĩa nông dân”.
Những cuộc khởi nghĩa nông dân như vậy thường bắt đầu bằng việc kết nghĩa anh em, đùm bọc, cưu mang, che chở cho nhau trong khi trốn tránh, rồi lớn lên thành những cánh cướp nhỏ và cuối cùng lập sơn trại, thuỷ trại thành những đội quân thổ phỉ, đánh phá các địa phương, có khi chống cả quân đội triều đình. Những cuộc khởi nghĩa như vậy nổ ra khá sớm - từ đời Hán - và nổ ra rất nhiều, tính có đến hàng mấy ngàn, hầu như không ngớt, không nơi này thì nơi khác. Khẩu hiệu của các cuộc khởi nghĩa đó thường phản ánh tư tưởng: bình quân chủ nghĩa, mong ước thái bình của nông dân, nhưng không nêu ra yêu cầu ruộng đất. Đối tượng đấu tranh của các cuộc khởi nghĩa vẫn chỉ là hào cường, quan lại địa phương. Tuy có lúc phát triển đến quy mô cực rộng rãi, giương cả ngọn cờ "đại thiên hành hoá", tức là không thừa nhận triều đại đang cầm quyền thì cũng chỉ đòi hỏi một vị hoàng đế sáng suốt, nhân từ, giữ cho họ việc quân cấp công điền và cuộc sống làng họ yên ổn chứ không nhằm thay đổi chế độ chuyên chế. Điều quan trọng là trong những cuộc khởi nghĩa quy mô rộng lớn như vậy, khẩu hiệu chính trị thường do đám “đàn anh” biết lợi dụng tình thế, lôi kéo nông dân đề ra chứ không phải là do chính nông dân đề ra. Những cuộc khởi nghĩa nông dân như vậy tuy có nhiều và gây ra đảo lộn trong xã hội nhưng chưa hẳn đã có những tác dụng tích cực đối với lịch sử như Mao Trạch Đông gán cho nó.
Khởi nghĩa nông dân là dịp cho các võ tướng đem quân ra ngoài trấn nhậm cướp bóc và lập công. Thế là cường hào quan lại bóc lột đẩy đến nông dân khởi nghĩa và nông dân khởi nghĩa đẩy đến quân phiệt cát cứ. Đất nước luôn luôn có mặt hào cường, thổ phỉ và quân phiệt. Cả ba gây ra cảnh rối loạn của đất nước, cảnh khổ cực của nông dân và cũng uy hiếp cả ngôi vua. Chế độ chuyên chế không có cách gì khắc phục vòng luẩn quẩn đó. Hoàng đế chỉ có thể dùng cả ân uy bắt mọi người tôn trọng ngôi vua, bảo vệ danh nghĩa và uy thế của ngôi vua mà duy trì quyền áp bức bóc lột. Một mặt nhà vua dùng ân huệ để liên kết đám quân lại, dùng vinh hoa đó mua chuộc đám quý tộc, hào trưởng. Thế là dùng ân dùng đức. Mặt khác trừng phạt cực nặng những ai dám coi thường thiên mệnh, thiên chức, uy quyền nhà vua. Thế là ra uy. Đối với dân Hoàng đế cũng dùng ân - uy: cái uy thường trực làm họ thành quen sợ phép nước và cái ân làm họ xúc động khi gặp cảnh cùng khốn quá hay khi gặp những dịp vui của nhà vua, hoàng đế giảm thuế, miễn thuế hay phát chẩn cứu tế. Đó là cách dùng thuật bảo vệ uy thế và duy trì tình trạng giằng co giữa các thế lực.
Xâm lược nước láng giềng là cách kiếm thêm lợi, nhưng chủ yếu là để tăng thêm uy thế. Đánh là cướp bóc mà cũng là để đòi thêm cống nạp. Nhưng đánh cũng là để ra oai, tỏ ra còn đủ sức trừng phạt những ai lăm le, chống đối. Cho nên nhiều khi đánh là để mua danh. Sự thuần phục của chư hầu - nhiều khi chỉ là về danh nghĩa - cũng tăng thêm uy thế đối nội và đối ngoại, cứu vớt được thế suy sụp. Đó là con đường “lấy ngoài yên trong” của hoàng đế. Xâm lược cũng là con đường lập công của võ tướng biên thần. Nói chung thì hoàng đế thường quý trọng quan văn hơn quan võ, những kẻ chăn dân - theo dõi, giữ trật tự, đôn đốc tô thuế, bắt phu, bắt lính - tức là những công việc có ý nghĩa sinh tử của ngôi vua, không tốn nhiều bổng lộc, không có khả năng cạnh tranh đáng kể tất nhiên thành chỗ dựa đáng tin cậy. Quan võ bình thường chỉ là một loại hầu cận nhưng quan võ lại có thể lập công đột xuất. Pháp luật đã quy định không có quân công thì không được phong hầu. Đối với quan võ đánh dẹp là cơ hội để cướp bóc, để làm giàu, và cũng là cơ hội lập chiến công mà giành tước cao, thưởng hậu. Cả một đám quý tộc, quan lại đều tham lam, đều bị kìm hãm, đều muốn giành danh vị, lợi lộc, uy quyền nhưng không dám tham vọng dòm ngó ngôi vua nên đều lợi dụng tham vọng của hoàng đế để cầu công. Dẹp loạn, xâm lược là dịp lập công béo bở nhất. Vua cần uy danh gặp văn võ tham công tạo ra tính hiếu chiến. Mâu thuẫn nội bộ chuyển thành mâu thuẫn với bên ngoài.
Khả năng gây chiến như thế lại nhờ cơ sở kinh tế - xã hội của chế độ chuyên chế mà dễ dàng thành chiến tranh thực tế. Với chế độ chuyên chế một mặt là lãnh thổ quốc gia thống nhất và mặt khác làng xã thành đơn vị cơ sở tổ chức chặt chẽ. Nhà vua có thuận lợi trong việc trưng binh, thu lương, huy động dân phu. Vốn sẵn có một đội quân thường trực đông, lúc có chiến tranh, giao cho quan lại địa phương bắt thêm phu, lính ở làng xã không khó khăn như điều động nhân lực của các lãnh chúa. Triều đình lại có kho lẫm sẵn ở các đầu mối giao thông, trưng lương ở các địa phương, vận lương qua các địa phương không gặp cản trở như qua các lãnh ấp thuộc các lãnh chúa phong kiến. Nhân dân đều không tán thành chiến tranh nhưng sống phân tán, cô lập ra từng làng xã, lại quen cam chịu làm nghĩa vụ với vua nên không thành sức mạnh cản trở có hiệu quả. Chế độ chuyên chế không những dễ gây ra tham vọng cho vua quan mà lại tạo ra điều kiện để tiến hành chiến tranh. Thế là với một nước lớn, đông dân, nằm giữa nhiều nước láng giềng nhỏ yếu hơn, mỗi một triều đại vừa lên là đã xâm lược, mà lúc suy yếu lại cũng xâm lược. Lúc đầu sung sức, nó xâm lược để bắt các nước láng giềng thừa nhận “thiên mệnh” thậm chí là ra oai trước để đảm bảo cho con cháu; lúc suy yếu nó đánh để xác nhận uy quyền, đề cao uy tín, cảnh cáo các thế lực dám khinh nhờn, chống đối nó ở bên trong hay bên ngoài. Chiến tranh xâm lược trở thành một thói quen, có khi là chủ động, có khi là bị động, có khi là do hoàng đế “nổi giận”, có khi là do biên thần gây sự, xúc xiểm, có khi là vì ngoài, có khi là vì trong. Đánh để cướp bóc, đánh để trả thù, đánh để vớt vát uy tín.
Sùng bái bạo lực, sùng bái chiến tranh là Pháp gia. Học thuyết của họ đề xướng nguyên tắc trọng lợi chứ không trọng nghĩa, chuộng sức mạnh phú quốc cường binh mà cướp lấy thiên hạ chứ không chuộng đức. Họ chủ trương làm cho dân ngu, biết sợ, nghe theo mệnh lệnh, tuân lời quan lại, ra trận thì dũng cảm nhưng ở với nhau thì nhút nhát, không dám tranh giành. Xã hội tổ chức thành nhóm hộ (bảo) năm nhà hay mười nhà, giám sát nhau chặt chẽ, biến thành một khối, một công cụ mạnh, chỉ biết chờ lệnh hoàng đế cày ruộng đánh giặc. Xã hội canh chiến (cày ruộng đánh giặc) với những người dân bị làm cho ngu muội, bị quản chế chặt chẽ, chỉ biết ăn no đánh khoẻ, tức là một xã hội quân sự hoá, đó là nước Tần mà Thương Ưởng đã tổ chức làm vốn cho sự hùng cường, sự hưng thịnh dẫn đến đế chế Tần Thuỷ Hoàng.
Nền tảng của xã hội canh chiến là con người “tự vị”, là những vị hoàng đế chuyên đoán độc tài, là quan hệ mua bán giữa hoàng đế và thần dân. Bản tính con người, theo Pháp gia, không phải là vốn thiện, có xu hướng vươn đến cái thiện như lời Khổng Mạnh; nó cũng không phải là “vị ngã” chỉ lo giữ gìn sinh mệnh và lạc thú của thân mình từ đó mà có thái độ xa lánh đi đến phi chính trị, phi xã hội như Đạo gia. “Tự vị” cũng là vì mình, mưu cầu hạnh phúc cho riêng mình nhưng hạnh phúc là ăn no mặc đẹp, là giàu sang không cần đạo đức, không cần cái vui cái đẹp tinh thần. Bản tính tự vị của con người, như cách Pháp gia hiểu, là thói vị kỷ, là xu hướng đòi thoả mãn những dục vọng tầm thường theo bản năng của con người trong cuộc sống còn dã man, chưa có đòi hỏi văn hoá nhưng lại sợ phép nước, gắn bó với vua – hay là quây lại thành bầy cho họ biết vua quan – chứ không phi xã hội, phi chính trị.
Vua chuyên đoán ý thức đầy đủ mình là chủ đất nước và thần dân, có quyền hành vô hạn, biết lợi dụng “thế”, “vị”, tức là ngôi vua của mình và tính “tự vị” của thần dân, quy định ý muốn thành “pháp độ” dùng thưởng hậu phạt nặng để kích thích, đưa thần dân thực hiện ý chí của mình làm cho mọi hoạt động của xã hội rút lại chỉ còn là canh chiến để phú cường, mở rộng quyền lực.
Giữa vua và dân là quan hệ chủ tớ, là quan hệ mua bán, thuê mướn “vua bán quan tước, tôi bán tài năng”, còn dân thì theo pháp độ mà nhận thưởng hay lãnh phạt. Hình phạt có mục đích khủng bố “tội nhẹ mà phạt nặng, thì không ai dám phạm tội nặng”. Vua cần làm cho dân sợ mà khép vào kỷ luật chứ không cần dân mến dân thương. Theo Pháp gia thì tình nghĩa, ân đức không những là hỏng việc trị nước mà còn làm hỏng cả con người. Lòng từ ái của bà mẹ chỉ làm con hư, sự nghiêm khắc của ông bố mới làm con ngoan ngoãn. Nổi bật trong tinh thần của Pháp gia là tính vô nhân đạo, là tinh thần bài văn hoá. Pháp gia coi con người là súc vật, là công cụ, và tìm mọi cách để biến con người thành súc vật, thành công cụ. Nước Tần tổ chức theo Pháp gia kiếm cớ gây chiến với tất cả mọi nước, đối xử với các nước láng giềng bằng những thủ đoạn lừa dối trơ tráo nhất (xem các truyện Trương Nghi, Phạm Thư trong Sử ký) bằng những thái độ hống hách láo xược nhất (xem các truyện đòi ngọc bích nước Triệu, đòi Thái tử Đan sang Tần…)
Trung Quốc từ đời Ân, Chu đã quen cách đi chiếm đất rồi sai người đồng tông mang dân đến xây thành lập quốc, làm phên dậu cho thiên tử - đại tông. Chính sách di dân và đồng hoá đó được Tần áp dụng quy mô lớn bằng cách đưa người vào ở chung với Hung nô, ở chung với Bách Việt ngoài Ngũ lĩnh. Từ đời Hán chính sách đó càng được áp dụng liên tục. Từ đời Tần Trung Quốc đã trở thành một đế chế rất lớn. Về sau đời Hán, đời Đường, đời Minh đế chế còn lớn hơn. Tham vọng của hoàng đế từ Tần Thuỷ hoàng – hoàng đế số một – cũng càng ngày càng lớn hơn. Thế nhưng trong lịch sử Trung Quốc, tư tưởng Pháp gia chỉ được đề cao dưới triều nhà Tần. Các đời sau đều “độc tôn Nho thuật”, ít ra là trong phạm vi chính trị.
Khi Pháp gia ra đời, Nho gia đã thấy bộ mặt kẻ thù ngay từ khi còn trứng nước. Khổng Tử và Mạnh Tử, hai tổ sư Nho gia, đều sống trước Hàn Phi tử, đều đã chống tinh thần của Pháp gia, và chống ở những điều căn bản nhất. Nho gia lấy “nghĩa” chống “lợi”, lấy đức hoá, văn hiến “chống canh chiến”, lấy “đức trị” “lễ trị” chống hình, chính, pháp trị, lấy mệnh phận chống lực. Khổng Tử và nhất là Mạnh Tử chống chiến tranh một cách quyết liệt. Tinh thần đó cũng là tinh thần của các nhà Nho đời sau thường can ngăn vua “cùng binh độc vũ”. Khuyên vua dùng đức thay cho hình phạt, dùng văn đức thay cho chiến tranh đối với lân bang. Điều đó làm cho người ta dễ có ý kiến sai lầm tưởng như Nho gia không phục vụ đắc lực cho chủ nghĩa bành trướng.
Xây dựng hệ thống lý luận trên cơ sở vương quốc nô lệ chủng tộc Ân Chu là giai đoạn một bộ tộc chủ thể dùng sức mạnh chinh phục các bộ tộc chung quanh, biến thành chư hầu, di dân đến đồng hoá, bằng cách đó mở rộng đất nuớc, Nho gia có quan niệm về ngôi “thiên tử” có “thiên mệnh” được Trời giao cho cai quản cả “thiên hạ”. Đó là cơ sở của trật tự xã hội và cũng là cơ sở của uy quyền thiên tử.
Thiên hạ là đất đai của Trời, là lãnh thổ nhưng lại không có biên giới. Thiên hạ có nhiều địa vực, với dân cư có trình độ văn minh khác nhau. Văn minh nhất là vùng Hoa hạ, quốc gia của thiên tử, nơi thánh nhân – cũng chính là thiên tử – bắt chước Trời mà định ra lễ nhạc văn hiến. Xung quanh Hoa hạ là di địch, dã man chưa được giáo hoá. Từ xa xưa người ta đã hình dung thiên hạ thành Ngũ phục, bốn vòng đất đồng tâm quanh Hoa hạ. Phân biệt Hoa di là phân biệt giữa các nước, các địa vực có biên giới, nhưng di địch ở ngoài Trung thổ – vùng Hoa hạ - chứ không phải ở ngoài thiên hạ. Thiên hạ tuy nhiều nước nhưng phải thống nhất, và thống nhất theo lễ giáo Hoa hạ là nơi trời đã chọn thánh nhân làm thiên tử; giao cho trách nhiệm giáo hoá tứ di. Cho nên nếu thiên tử làm cho tứ di thần phục triều cống – người ta gọi như thế là đức hoá của thiên tử lan xa, là “tứ di mến đức theo về” – làm cho thiên hạ mở rộng phạm vi thống nhất thì đó là bằng chứng để nói thiên tử trị vì có thánh đức. Như thế không chỉ là biểu hiện việc thiên tử làm tròn chức trách của Trời, được Trời ủng hộ. Nói cách khác thiên tử về danh nghĩa là chủ cả những vùng đất đai chưa nằm trong lãnh thổ của mình. Và ai không chống lại Trời thì phải nhận rằng thiên tử chinh phục đồng hoá là gia ân giáo hoá cho nước mình. Trong thiên hạ càng ngày càng mở rộng hình thành một trật tự theo hình ảnh gia đình: cha anh chỉ huy con em, nước chia ra nước lớn, nước nhỏ ; nước nhỏ có nghĩa vụ phải theo nước lớn như em theo anh, và tất cả đều phải nghe theo thiên tử, ông vua làm cha, làm anh các vua khác. Thiên tử có quyền vô hạn không phải vì nắm sở hữu toàn thiên hạ mà vì có thiên chức linh thiêng. Chỉ có thiên tử mới trực tiếp được nhận thiên mệnh. Các vua khác đều là chư hầu chỉ được nhận mệnh của thiên tử, người đại diện duy nhất của Trời. Vì là con trưởng được nhận thiên mệnh, nên chỉ thiên tử mới có quyền tế Trời, Đất, thần núi, thần sông. Thiên tử không chỉ là người cầm đầu về chính trị, về quân sự, về kinh tế, về tôn giáo. Thiên tử còn là người có thánh đức, có trách nhiệm truyền bá giáo hoá. Ý kiến của thiên tử là chân lý. Cho nên chỉ có thiên tử mới có quyền định ra lễ nhạc, chỉ thiên tử mới là người trọng tài cầm quyền xét xử và thưởng phạt không chỉ thần dân trong nước mà còn cả các nước trong thiên hạ, thưởng phạt với tư cách là vua, là cha, là thầy: chỉ thiên tử mới có quyền chinh tru. Chinh tru là cất quân đánh nuớc khác để hỏi tội, để trừng trị. Vì là người thay mặt Trời, có trách nhiệm giáo hoá, cho nên không phải chỉ khi có lỗi với thiên tử mới bị hỏi tội. Nếu nước kia “vô đạo” con cướp ngôi cha, tôi cướp ngôi vua, vợ cướp ngôi chồng hay tỏ ra không kính trọng Trời… thiên tử cũng có trách nhiệm vì Đạo, Nghĩa mà cất quân chinh phạt.
Cho nên về lý thuyết thì Nho gia chủ trương dùng đức để cảm hoá, kịch liệt lên án chiến tranh, kể cả chiến tranh giành giật lẫn nhau, chiến tranh chống thiên tử và chiến tranh xâm lược. Thế nhưng mặt khác khi chủ trương một vị thiên tử uy quyền vô hạn, cầm quyền thưởng phạt, độc quyền nắm giữ quân đội, dùng vũ lực và bắt mọi người – kể cả dân trong nước và tứ di, tức là các nước láng giềng - phải theo mệnh, tuyệt đối không được trái ý thiên tử ; đối với thiên tử họ chỉ có thể có một thái độ là trủng nghĩa, biết ơn phúc tùng như con đối với cha mẹ, thì kết quả tất nhiên chỉ có thể là bênh vực mọi hành động xâm lược.
Cho nên không chỉ có Pháp gia mới làm cho thiên triều thành bành trướng xâm lược. Bằng lý thuyết chuộng võ lực, biện chính mọi sự tàn bạo, mọi sự dối trá, mọi ý đồ xâm lược, Pháp gia chuẩn bị và thực hiện chiến tranh xâm lược. Nhưng chính Nho gia lại cung cấp danh nghĩa, tăng thêm lòng tin làm cho hoàng đế không chỉ là tham lam vô độ mà còn thấy bao giờ mình cũng có lý, cũng có quyền gây chiến tranh xâm lược.
Pháp gia và Nho gia đề ra đời trên cơ sở kinh tế – xã hội của chế độ chuyên chế Trung Quốc. Cả hai học thuyết bổ sung cho nhau, kết hợp với nhau và tạo cho chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc – chủ nghĩa bành trướng thiên triều- những đặc trưng mang dấu ấn của chế độ chuyên chế đó. Ta có thể thấy chủ nghĩa bành trướng thiên triều Đại Hán có mấy đặc điểm.
1. Hiếu chiến, hống hách và ảo tưởng
Thiên triều là một chế độ độc tài tham lam vô độ đến mức hạn chế mọi thế lực, không giành quyền lợi kinh tế đáng kể cho một lực lượng nào làm cơ sở xã hội cho chế độ. Đó là sự thống trị của một họ, thậm chí chỉ là của một người trên một đất nước rộng lớn luôn luôn ly tán, loạn lạc. Đó là một nền thống trị mỏng manh nhưng lại rất hiếu chiến, đặt biệt là lúc yếu cũng lại gây chiến. Nhiều tham vọng tất nhiên là cái bệnh chung của bất cứ giai cấp thống trị nào thế nhưng ông vua chuyên chế Trung Quốc khác với tất cả ở chỗ ảo tưởng: ảo tưởng về thiên chức, ảo tưởng về sự lớn mạnh, ảo tưởng lẽ phải thuộc về mình. Dẫn đến điều đó là quan niệm về thiên chức của thiên tử chứ không phải là về phẩm chất ưu việt của một dân tộc. Hoàng đế tuy có tự hào về lễ văn của vùng Hoa hạ, nhưng điều đó cũng do thiên tử được Trời phú dữ riêng, bắt chước Trời mà có. Trong người Hán không truyền bá tư tưởng về ưu thế của cả dân tộc. Với ảo tưởng về thiên chức, hoàng đế dễ thấy bị xúc phạm khi không được các nước nhỏ phục tùng, càng yếu thì càng dễ phát khùng. Vừa thấy mình lớn mạnh, vừa thấy mình phải lẽ, vừa thấy mình riêng được Trời phù hộ làm cha anh người khác, nên xử sự hống hách. ít có tính toán lợi hại thực tế, dễ hành động một cách phiêu lưu cầu may.
2. Ngụy thiện
Chủ nghĩa bành trướng Đại Hán hình thành từ trước, nhất là từ đời Tần nhưng từ đời Hán về sau mới thành xu hướng ổn định. Chủ nghĩa bành trướng từ Hán về sau – tức là sau khi tìm ra phương hướng Nho Pháp tịnh dụng - không trắng trợn như đời Tần. Khi chinh phạt các nước láng giềng bao giờ cũng là “lễ tiền binh hậu”, bao giờ hoàng đế cũng tuyên xưng không có tham vọng đất đai và thần dân, thậm chí còn dè bĩu “đất cằn cỗi”, “dân khó bảo”, hoàng đế không thèm; chinh phạt chẳng qua là bất đắc dĩ vì đạo lý, vì mục đích giáo hoá, vì mục đích cứu vớt. Lừa dối ngụy thiện thành một nét đặc trưng. Cướp phá, chém giết, phá hoại văn hoá, đồng hoá đó là một chính sách bành trướng rất tàn bạo. Nhưng sự tàn bạo bao giờ cũng được nguỵ trang bằng những lời lẽ nhân nghĩa, đạo lý. Trơ tráo nhất là tấm lòng từ thiện chỉ muốn “kẻ có tội” hối hận, đầu hàng ngay để khỏi phải dùng đến khí giới vì hoàng đế vốn nhân ái không nỡ nhìn thấy cảnh tàn phá giết chóc.
Chế độ chuyên chế vốn yếu. Sự tồn tại của nó về bản chất là dựa vào sự lừa dối, dựa vào thủ đoạn thâm hiểm. Càng yếu lại càng mong dùng cách đe doạ, sự lừa dối ngụy thiện mà thắng người.
3. Trọng danh hơn thực
Bắt thêm một nước thần phục không phải bao giờ cũng mang lại lợi ích thực tế cho thiên triều. Ta không nói đến nhân dân hai nước hoàn toàn bị thiệt hại nặng khi có chiến tranh xâm lược như vậy. Ngay cả với hoàng đế Trung Quốc, chiến tranh làm tốn công tốn của, lại làm mạnh lên thế lực của võ tướng, quý tộc, và khi chiến thắng, không trực tiếp quản lý khai thác được đất đai nên cũng chỉ thu được món tuế cống không phải là nhiều. Nhiều khi hoàng đế chỉ thu được cái danh suông: Được một nước chịu tiếng là bề tôi thiên triều. Thế nhưng vì là thiên triều, hoàng đế Trung Quốc không chấp nhận ai đứng ngang hàng. Thiên tử có thái độ kẻ cả không chỉ với các nước như Lào, Thái Lan, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên, Hung Nô, những nước láng giềng, về danh nghĩa, phải tự nhận là phiên bang, thiên triều từ xưa theo lệ phong vương, đối xử như chư hầu; tuy một số trong đó đã nhiều phen đánh cho thiên triều thua liểng xiểng. Ngay cả các nước phương Tây như Anh, Pháp, ngay từ khi mới tiếp xúc đã đánh bại, đã làm nhục thiên triều bao chuyến, lại chưa bao giờ là chư hầu cũng chỉ được thiên tử coi là Tổng đốc nước Anh, Tổng đốc nước Pháp và công khai đối xử như di địch. Thiên triều không bao giờ chịu cảnh bị khinh thường đến mức để các nước láng giềng độc lập, không nghe theo mệnh lệnh của mình. Để buộc các nước đó chịu phận đàn em, có khi thiên triều sẵn sàng làm ông anh đối xử rộng rãi, biết quà cáp cho em – những ông em bất trị – khá hậu hĩnh. Trường hợp nhà Tống đối với Khiết đan, nhà Thanh đối với vua Quang Trung là như vậy. Chịu nhận là đàn em thì đâu có ngỗ nghịch hay vòi vĩnh một chút thiên triều cũng ngơ cho.
Chế độ chuyên chế đó sống bằng uy tín chính trị. Nó xâm lược để bảo vệ danh hơn là giành lợi thực. Thói quen muốn làm bề trên cũng dẫn đến sự quan tâm, suy tính về danh nghĩa hơn là tính toán thực tế. Điều đó cũng thường thành nguyên nhân gây ra hành động phiêu lưu.
Đáng ngạc nhiên không phải là xu hướng bành trướng ở giai cấp thống trị ở một nước rộng lớn như Trung Quốc mà đáng ngạc nhiên là tâm lý bành trướng có cả trong nhân dân Trung Quốc. Bành trướng Đại Hán là dựa vào thiên chức thiên tử chứ không phải dựa vào sự ưu việt của dân tộc. Vì thánh đức của thiên tử chứ không phải vì vinh quang của dân tộc. Người dân Trung Quốc sống dưới chế độ chuyên chế, trong tổ chức xã hội quân sự hóa, có cuộc sống thấp kém nhất, nghèo đói, ngu dốt và vô quyền. Có chiến tranh lại phải làm thêm nghĩa vụ đi phu nộp thuế, đi lính, mang thêm chết chóc và nghèo đói. Sống lâu đời trong cảnh bi đát đó, họ trở thành cần cù, chịu khó đến nhẫn nhục, lầm lỳ, cam chịu. Thế nhưng không phải họ bất bình vì bị lôi kéo vào chiến tranh xâm lược mà nhiều khi lại có tâm lý say sưa chia sẻ cái hống hách, kẻ cả của chính kẻ áp bức mình. Tâm lý lạ lùng đó tồn tại cả trong những người Hoa Kiều vì bị áp bức bóc lột làm cho phá sản phải bỏ quê hương lưu lạc, kiếm ăn ở tận nước khác bằng những nghề hèn mọn như bán thuốc, bán phở…
Cái thân phận thần dân tử đệ, cái liên minh tự nhiên lâu đời giữa hoàng đế và dân chống các lực lượng phân tán, đạo lý sống trung nghĩa đã che lấp quan hệ thực giữa vua và dân. Không gọi là nô lệ mà gọi là xích tử, cũng như không gọi là đầy tớ mà gọi là gia nhân (người nhà). Họ thấy mình dự phần cao sang của ông chủ, thậm chí vì thế mà khoe khoang tự hào còn mong cả lợi dụng uy thế, danh nghĩa của ông chủ để ra oai, bắt nạt đàn em.
Xâm lược, bành trướng vốn gắn liền với chuyên chế, với điều kiện quốc gia thống nhất rộng lớn. Tư tưởng Pháp gia đầu tiên tạo ra cục diện đó nhưng nó không có khả năng giữ chuyên chế và thống nhất được lâu dài. Sự kết hợp Nho Pháp mới duy trì được những cái đó, có khi là mong manh, có khi chỉ là hình thức nhưng dai dẳng, khó phá vỡ. Tư tưởng Pháp gia làm cho tính hiếu chiến lộ rõ tàn bạo. Sự kết hợp Nho Pháp mới làm cho nó có bộ mặt giả dối để đánh lừa. Kết hợp Nho Pháp mới là cơ sở tư tưởng của chủ nghĩa bành trướng và điều đó được xác lập từ đời Hán. Sự kết hợp lạ lùng giữa hai hệ tư tưởng đối lập như vậy phản ảnh sự kết hợp cũng rất lạ lùng giữa sự tập trung chuyên chế với sự phân tán của làng xã, sự kết hợp lạ lùng giữa tên độc tài là hoàng đế với người dân cùng khổ vô quyền. Sự kết hợp như thế tồn tại trên cơ sở liên minh giữa hai lực lượng đều yêu cầu chống lại sự uy hiếp của lực lượng thứ ba: quý tộc và thổ hào theo xu thế tự nhiên tự nhiên hướng đến chế độ lãnh chúa.
Sự kết hợp đó tạo ra một thế giằng co lâu dài. Ổn định thống nhất chỉ là bề ngoài, chỉ là khéo che đậy, nhưng mâu thuẫn sâu sắc.
Nhưng hợp chất nào cũng có khe hở, có khả năng bị phá vỡ liên kết. Đó chính là chỗ cần phát hiện, khai thác để phá vỡ sự chuyên chế và chủ nghĩa bành trướng.
III. Đề cao tinh thần Pháp gia để hiện đại hóa quá khứ và hiện tại
Nho gia và Pháp gia là hai anh em, con đẻ của chế độ chuyên chế Trung Quốc. Tuy cả hai đều được hoàng đế cưng chiều, tịnh dụng mỗi bên một cách, nhưng giống như cảnh con cái tranh quyền đoạt lợi trong nhiều nhà, hai anh em Nho Pháp xung khắc gay gắt. Mở đầu xung đột là thời kỳ Chiến Quốc đến Tần Hán. Cuộc tranh luận trùng với thời điểm vương chế Ân Chu nhường chỗ cho chế độ hoàng đế Tần Hán. Hoàng đế Tần Hán nối tiếp nhau giành được thiên hạ. Sau khi đế chế thành lập vấn đề đặt ra cho nó là giữ vững sự thống nhất thiên hạ, củng cố và phát triển uy quyền hoàng đế, tức là củng cố chế độ chuyên chế và tiếp tục bành trướng. Tranh luận Nho Pháp biểu hiện sự lựa chọn một ý thức hệ thích hợp với nhu cầu đó của đế chế. Bách gia tranh minh kết thúc ở kết luận Nho Pháp tịnh dụng của Hán Võ đế. Tịnh dụng không phải để bất phân thắng phụ, dung hòa, chấp nhận nhau mà là Nho gia được tuyên bố độc tôn, công khai thống trị, còn Pháp gia thành học thuyết ngự dụng, bí truyền. Thực chất nội dung tranh chấp là độc tài tuyệt đối hay là nhân nhượng một mức độ nhất định với làng xã, ưu đãi, tin cậy, đối xử có lễ độ chứ không phải khinh miệt, nô dịch quan lại và đẳng cấp sĩ, nói tóm lại là làm thế nào bảo vệ chế độ chuyên chế có hiệu quả hơn. Từ khi đế chế kiểu nhà Hán ổn định, Nho gia trở thành học thuyết thống trị, Pháp gia tuy là đồ ngự dụng, nhưng bên ngoài ở vào cảnh tội phạm, thành cái đích cho các nhà nho suốt hai mươi thế kỉ công kích mạt sát mà không bao giờ phản kích lại.
Cho đến sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời, năm 1957 một phong trào mang tên: “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng” làm sống dậy không khí học thuật thời Chiến Quốc. Khắp nơi tranh luận về rất nhiều vấn đề chính trị và học thuật - theo cách nhìn của những người theo Mao thì học thuật cũng là chính trị. Tiếp theo đó là phong trào chống phái hữu, cũng tức là trừng trị những người đã đua tiếng, khác với giọng chính thống. Rồi phong trào chống xét lại, và hơn mười năm sau, sau đại cách mạng văn hóa vô sản, vấn đề Nho Pháp nổi bật lên.
Trong chiến dịch “phê Lâm phê Khổng” những kẻ thù của Mao được gán cho cái nhãn hiệu là Nho, với tội trạng là âm mưu phục hồi chủ nghĩa tư bản, là bảo thủ, là phản cách mạng. Ngày xưa cuộc tranh luận Nho Pháp không chỉ tốn nhiều thì giờ, nhiều nước bọt, nhiều thẻ tre mà còn tốn khá nhiều máu. Tần Thủy Hoàng theo đề nghị của Pháp gia đã “đốt sách chôn Nho”. Pháp lệnh thi hành triệt để, có hiệu quả đến mức mấy chục năm sau khó khăn lắm nhà Hán mới tìm được người còn nhớ, đọc cho chép lại các kinh điển Nho gia. Còn ở Trung Quốc ngày nay, những người bị phe Mao ghép tội theo Nho bị đấu tố, bị đưa đi cải tạo và bị tiêu diệt. Con số người bị nạn gấp hàng trăm lần thời Tần Thủy Hoàng nhưng Mao Trạch Đông cho thế vẫn còn là ít.
Tôi muốn nhấn mạnh sự giống nhau giữa hai hoàn cảnh đặt vấn đề và cũng giống nhau trong nội dung vấn đề tranh luận nữa. Đặc điểm của lịch sử Trung Quốc là những thời đại lịch sử kéo rất dài thường là nhân tuần, thay đổi dần, không có đột biến cách mạng. Thời Tần Hán và thời cận hiện đại là hai thời điểm có chuyển biến mạnh nhất. Ở hai thời điểm đó rõ ràng xuất hiện nhu cầu tổng kết quá khứ, tìm đường đi cho lịch sử hướng đến tương lai.
Trước kia trên cơ sở tồn tại khách quan của làng họ và cục diện thống nhất, thời Tần Hán đã phải giải quyết quan hệ giữa tập trung và phân tán theo hướng nhân nhượng làng-họ, duy trì tàn dư công xã để chống lại xu hướng lãnh chúa, hàng ngày dễ nảy nở trực tiếp uy hiếp sự tập trung chuyên chế của hoàng đế và nuôi dưỡng xu hướng bành trướng, mở rộng thiên hạ do chế độ chuyên chế đẻ ra. Cách giải quyết của Hán Võ đế đã thành khuôn vàng thước ngọc cho mọi triều đại từ nhà Hán đến nhà Thanh.
Cuối đời Thanh mâu thuẫn xã hội đã cực kỳ trầm trọng. Mâu thuẫn dân tộc Hán-Mãn, mâu thuẫn giữa Trung Quốc và các đế quốc phương Tây lại càng làm cho tình hình càng rối loạn hơn. Sự thắng lợi của Đảng cộng sản Trung Quốc dẫn đến việc thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử Trung Quốc. Thắng lợi của Đảng cộng sản Trung Quốc năm 1949 đã giải quyết cùng một lúc các mâu thuẫn do lịch sử để lại. Trong sự hoạt động của mình, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tiếp tục nhiệm vụ bỏ dở của phong trào nông dân Thái Bình Thiên Quốc, nhiệm vụ bỏ dở của phong trào dân tộc chống đế quốc. Từ Vạn lí Trường chinh, theo sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã học tập và phát triển kinh nghiệm khởi nghĩa xây dựng căn cứ và tiến hành chiến tranh nông dân, huy động và tổ chức quân chủ lực là nông dân để giải quyết các vấn đề đó. Về sau khi thắng lợi, vấn để đặt ra là tìm con đường cụ thể xây dựng đất nước hướng đến tương lai. Cứ nhìn những vấn đề được đem ra thảo luận và các phong trào được phát động, ta cũng có thể thấy được nội dung phương hướng được lựa chọn là gì. Sau khi tiến hành cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp và phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, tam phản, ngũ phản, chống phái hữu, đại nhảy vọt, toàn dân làm gang thép, xây dựng công xã, đại cách mạng văn hóa vô sản, bốn hiện đại hóa với các chủ trương học tập Lôi Phong, hạ phóng, xây dựng công xã kiểu Đại Trại, xí nghiệp kiểu Đại Khánh và các cuộc tranh luận về quan hệ sản xuất, về vô sản chuyên chính, về “một phân đôi”, về chống dùng vật chất kích thích… Quán xuyến tất cả là việc học tập tư tưởng Mao Trạch Đông. Việc tranh luận Nho - Pháp được đặt ra trong bối cảnh như vậy, và hướng giải quyết của nó, theo tinh thần “cổ vi kim dụng”, có ý nghĩa nhìn lại quá khứ, lựa chọn một giải pháp cho tương lai.
Nội dung của tất cả những việc vừa kể trên chỉ là:
Chủ trương Nho - Pháp tịnh dụng phản ảnh thực tế đó. Hán Võ đế đã biết lợi dụng cái thế đó và sử dụng cả Nho cả Pháp phục vụ cho quyền lợi của hoàng đế. Ngoài là nói "độc tôn Nho thuật" lên án Pháp gia, nhưng bên trong lặng lẽ dùng luật pháp theo tinh thần Pháp gia để trị nước. Theo Nho, đề cao nhân nghĩa, chống tham bạo cũng không phải là chọn cách cai trị nhân đạo hơn mà thực tế là vì yếu nên phải nhân nhượng và hơn thế, che dấu sự tàn bạo bằng lời nhân nghĩa giả dối.
II. Tư tưởng Nho gia và Pháp gia phục vụ cho chính sách bành trướng thiên triều
Chế độ chuyên chế muốn thiết lập một trật tự xã hội chặt chẽ và bền vững. Nó quy định cho mỗi người một phận, một vị, theo nhu cầu lợi ích của hoàng đế rồi vừa dùng pháp độ vừa dùng lễ vừa dùng giáo hoá để duy trì. Có vị là có danh. Căn cứ vào danh mà có quyền, có uy, có lợi. Lợi là lộc vua ban, thế nhưng đó chỉ là phần nhỏ, phần danh nghĩa. Phần quan trọng hơn là “bổng ngoại”, thu nhập của biếu xén siêu kinh tế dựa vào danh, vào uy, vào thủ đoạn chứ không chỉ theo phận. Mọi con đường phát triển khác đều cắt cụt chỉ chừa lại một lối thông thoáng: cầu danh, lập công, phục vụ hoàng đế trong bộ máy quan lại và quân sự. Đi học, thi đỗ, làm quan văn hay luyện tập võ nghệ cũng thi đỗ làm quan võ. Đó là con đường tiến thân, lập nghiệp. Chính xã hội sống bằng danh vị như vậy mới làm con người hiếu học và chỉ lo dùi mài kinh sử, không ham tìm tòi hiểu biết thế giới khách quan, không chuộng khoa học kỹ thuật, cường điệu tu dưỡng và lại không suy nghĩ nhiều về nhân cách. Tri thức hay đạo đức cũng chỉ là nhằm lọt vào cửa làm quan. Cũng chính xã hội như vậy mới đẻ ra thói bảo vệ danh vị, bảo vệ uy tín, và giành giật nó bằng mọi thủ đoạn. Nó cũng đẻ ra cả những hiện tượng quái gở: sính làm kẻ cả, thích có danh vị, kể cả bằng con đường mua quan bán tước và cả bằng thủ đoạn côn đồ. Không phải chỉ thần dân mới sống bằng danh vị, cả hoàng đế, người ban phát danh vị cũng sống bằng danh vị. Ông vua là người giàu nhất vì có cả thiên hạ. Thế nhưng uy quyền thực tế không phải có được từ cái sở hữu không thực tế đó mà từ ngôi vua, một thứ danh vị, được đảm bảo bằng sự lừa dối tôn giáo (thiên mệnh) bằng danh nghĩa chính quyền và bảo vệ bằng bạo lực quân sự và chính trị. Ôm lấy một thiên hạ quá lớn, ngoài khả năng tổ chức quản lý của một tên độc tài, hết giai đoạn đánh dẹp để cướp thiên hạ thiên tử chỉ cầu mong có được cảnh "bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng", chỉ mong êm ấm, ít xáo trộn để rủ áo hưởng thái bình. Muốn thế phải đảo lộn được uy danh, làm cho trong nước và ngoài nước tôn trọng ngôi vua. Sự đình đốn có khi không phải là điều đáng lo mà ngược lại có khi lại là cảnh thái bình đáng mừng. Tuy vậy làm sao có được cảnh mọi người yên phận cho nhà vua thái bình. Tô thuế nhà vua đã thu hết, bổng lộc nhà vua ban phát cho quí tộc, quan lại và phần giành cho thổ hào vốn đạm bạc. Họ đâu chịu ngồi yên mà không giành giật thêm. Thế là thổ hào chấp chiếm cả ruộng công, bắt dân phục dịch vô độ. Biên thần, võ tướng cát cứ cắt xén phần nộp lên triều đình. Quan lại xà xẻo, ăn hối lộ, kiếm bổng hậu bù vào lộc bạc. Bọn sai nha xui nguyên dục bị, quấy rối để kiếm chác. Nông dân bị cột chặt vào làng họ, vào ruộng đất, bị áp bức bóc lột cùng cực, đã an phận cam chịu hết sức, đổi bằng mọi giá đắt để lấy cảnh an cư lạc nghiệp mà cũng không được. Chỉ cần hoặc là hào cường chiếm ruộng công, chiến tranh cát cứ, hoặc gặp cảnh kiện tụng là họ phải bỏ quê hương lang thang kiếm ăn. Nếu lại gặp năm mất mùa hay chiến tranh cản trở đi lại là hàng loạt cùng dân bị đẩy vào chỗ hết đường sống. Trong tình hình đó, nếu có người “đàn anh” hào kiệt, giỏi giang - có sức khỏe, có mưu trí, có can đảm - đứng ra tập hợp và lại có sông, hồ, núi, rừng, bãi rậm làm chỗ ẩn nấp thuận tiện là nổ ra “khởi nghĩa nông dân”.
Những cuộc khởi nghĩa nông dân như vậy thường bắt đầu bằng việc kết nghĩa anh em, đùm bọc, cưu mang, che chở cho nhau trong khi trốn tránh, rồi lớn lên thành những cánh cướp nhỏ và cuối cùng lập sơn trại, thuỷ trại thành những đội quân thổ phỉ, đánh phá các địa phương, có khi chống cả quân đội triều đình. Những cuộc khởi nghĩa như vậy nổ ra khá sớm - từ đời Hán - và nổ ra rất nhiều, tính có đến hàng mấy ngàn, hầu như không ngớt, không nơi này thì nơi khác. Khẩu hiệu của các cuộc khởi nghĩa đó thường phản ánh tư tưởng: bình quân chủ nghĩa, mong ước thái bình của nông dân, nhưng không nêu ra yêu cầu ruộng đất. Đối tượng đấu tranh của các cuộc khởi nghĩa vẫn chỉ là hào cường, quan lại địa phương. Tuy có lúc phát triển đến quy mô cực rộng rãi, giương cả ngọn cờ "đại thiên hành hoá", tức là không thừa nhận triều đại đang cầm quyền thì cũng chỉ đòi hỏi một vị hoàng đế sáng suốt, nhân từ, giữ cho họ việc quân cấp công điền và cuộc sống làng họ yên ổn chứ không nhằm thay đổi chế độ chuyên chế. Điều quan trọng là trong những cuộc khởi nghĩa quy mô rộng lớn như vậy, khẩu hiệu chính trị thường do đám “đàn anh” biết lợi dụng tình thế, lôi kéo nông dân đề ra chứ không phải là do chính nông dân đề ra. Những cuộc khởi nghĩa nông dân như vậy tuy có nhiều và gây ra đảo lộn trong xã hội nhưng chưa hẳn đã có những tác dụng tích cực đối với lịch sử như Mao Trạch Đông gán cho nó.
Khởi nghĩa nông dân là dịp cho các võ tướng đem quân ra ngoài trấn nhậm cướp bóc và lập công. Thế là cường hào quan lại bóc lột đẩy đến nông dân khởi nghĩa và nông dân khởi nghĩa đẩy đến quân phiệt cát cứ. Đất nước luôn luôn có mặt hào cường, thổ phỉ và quân phiệt. Cả ba gây ra cảnh rối loạn của đất nước, cảnh khổ cực của nông dân và cũng uy hiếp cả ngôi vua. Chế độ chuyên chế không có cách gì khắc phục vòng luẩn quẩn đó. Hoàng đế chỉ có thể dùng cả ân uy bắt mọi người tôn trọng ngôi vua, bảo vệ danh nghĩa và uy thế của ngôi vua mà duy trì quyền áp bức bóc lột. Một mặt nhà vua dùng ân huệ để liên kết đám quân lại, dùng vinh hoa đó mua chuộc đám quý tộc, hào trưởng. Thế là dùng ân dùng đức. Mặt khác trừng phạt cực nặng những ai dám coi thường thiên mệnh, thiên chức, uy quyền nhà vua. Thế là ra uy. Đối với dân Hoàng đế cũng dùng ân - uy: cái uy thường trực làm họ thành quen sợ phép nước và cái ân làm họ xúc động khi gặp cảnh cùng khốn quá hay khi gặp những dịp vui của nhà vua, hoàng đế giảm thuế, miễn thuế hay phát chẩn cứu tế. Đó là cách dùng thuật bảo vệ uy thế và duy trì tình trạng giằng co giữa các thế lực.
Xâm lược nước láng giềng là cách kiếm thêm lợi, nhưng chủ yếu là để tăng thêm uy thế. Đánh là cướp bóc mà cũng là để đòi thêm cống nạp. Nhưng đánh cũng là để ra oai, tỏ ra còn đủ sức trừng phạt những ai lăm le, chống đối. Cho nên nhiều khi đánh là để mua danh. Sự thuần phục của chư hầu - nhiều khi chỉ là về danh nghĩa - cũng tăng thêm uy thế đối nội và đối ngoại, cứu vớt được thế suy sụp. Đó là con đường “lấy ngoài yên trong” của hoàng đế. Xâm lược cũng là con đường lập công của võ tướng biên thần. Nói chung thì hoàng đế thường quý trọng quan văn hơn quan võ, những kẻ chăn dân - theo dõi, giữ trật tự, đôn đốc tô thuế, bắt phu, bắt lính - tức là những công việc có ý nghĩa sinh tử của ngôi vua, không tốn nhiều bổng lộc, không có khả năng cạnh tranh đáng kể tất nhiên thành chỗ dựa đáng tin cậy. Quan võ bình thường chỉ là một loại hầu cận nhưng quan võ lại có thể lập công đột xuất. Pháp luật đã quy định không có quân công thì không được phong hầu. Đối với quan võ đánh dẹp là cơ hội để cướp bóc, để làm giàu, và cũng là cơ hội lập chiến công mà giành tước cao, thưởng hậu. Cả một đám quý tộc, quan lại đều tham lam, đều bị kìm hãm, đều muốn giành danh vị, lợi lộc, uy quyền nhưng không dám tham vọng dòm ngó ngôi vua nên đều lợi dụng tham vọng của hoàng đế để cầu công. Dẹp loạn, xâm lược là dịp lập công béo bở nhất. Vua cần uy danh gặp văn võ tham công tạo ra tính hiếu chiến. Mâu thuẫn nội bộ chuyển thành mâu thuẫn với bên ngoài.
Khả năng gây chiến như thế lại nhờ cơ sở kinh tế - xã hội của chế độ chuyên chế mà dễ dàng thành chiến tranh thực tế. Với chế độ chuyên chế một mặt là lãnh thổ quốc gia thống nhất và mặt khác làng xã thành đơn vị cơ sở tổ chức chặt chẽ. Nhà vua có thuận lợi trong việc trưng binh, thu lương, huy động dân phu. Vốn sẵn có một đội quân thường trực đông, lúc có chiến tranh, giao cho quan lại địa phương bắt thêm phu, lính ở làng xã không khó khăn như điều động nhân lực của các lãnh chúa. Triều đình lại có kho lẫm sẵn ở các đầu mối giao thông, trưng lương ở các địa phương, vận lương qua các địa phương không gặp cản trở như qua các lãnh ấp thuộc các lãnh chúa phong kiến. Nhân dân đều không tán thành chiến tranh nhưng sống phân tán, cô lập ra từng làng xã, lại quen cam chịu làm nghĩa vụ với vua nên không thành sức mạnh cản trở có hiệu quả. Chế độ chuyên chế không những dễ gây ra tham vọng cho vua quan mà lại tạo ra điều kiện để tiến hành chiến tranh. Thế là với một nước lớn, đông dân, nằm giữa nhiều nước láng giềng nhỏ yếu hơn, mỗi một triều đại vừa lên là đã xâm lược, mà lúc suy yếu lại cũng xâm lược. Lúc đầu sung sức, nó xâm lược để bắt các nước láng giềng thừa nhận “thiên mệnh” thậm chí là ra oai trước để đảm bảo cho con cháu; lúc suy yếu nó đánh để xác nhận uy quyền, đề cao uy tín, cảnh cáo các thế lực dám khinh nhờn, chống đối nó ở bên trong hay bên ngoài. Chiến tranh xâm lược trở thành một thói quen, có khi là chủ động, có khi là bị động, có khi là do hoàng đế “nổi giận”, có khi là do biên thần gây sự, xúc xiểm, có khi là vì ngoài, có khi là vì trong. Đánh để cướp bóc, đánh để trả thù, đánh để vớt vát uy tín.
Sùng bái bạo lực, sùng bái chiến tranh là Pháp gia. Học thuyết của họ đề xướng nguyên tắc trọng lợi chứ không trọng nghĩa, chuộng sức mạnh phú quốc cường binh mà cướp lấy thiên hạ chứ không chuộng đức. Họ chủ trương làm cho dân ngu, biết sợ, nghe theo mệnh lệnh, tuân lời quan lại, ra trận thì dũng cảm nhưng ở với nhau thì nhút nhát, không dám tranh giành. Xã hội tổ chức thành nhóm hộ (bảo) năm nhà hay mười nhà, giám sát nhau chặt chẽ, biến thành một khối, một công cụ mạnh, chỉ biết chờ lệnh hoàng đế cày ruộng đánh giặc. Xã hội canh chiến (cày ruộng đánh giặc) với những người dân bị làm cho ngu muội, bị quản chế chặt chẽ, chỉ biết ăn no đánh khoẻ, tức là một xã hội quân sự hoá, đó là nước Tần mà Thương Ưởng đã tổ chức làm vốn cho sự hùng cường, sự hưng thịnh dẫn đến đế chế Tần Thuỷ Hoàng.
Nền tảng của xã hội canh chiến là con người “tự vị”, là những vị hoàng đế chuyên đoán độc tài, là quan hệ mua bán giữa hoàng đế và thần dân. Bản tính con người, theo Pháp gia, không phải là vốn thiện, có xu hướng vươn đến cái thiện như lời Khổng Mạnh; nó cũng không phải là “vị ngã” chỉ lo giữ gìn sinh mệnh và lạc thú của thân mình từ đó mà có thái độ xa lánh đi đến phi chính trị, phi xã hội như Đạo gia. “Tự vị” cũng là vì mình, mưu cầu hạnh phúc cho riêng mình nhưng hạnh phúc là ăn no mặc đẹp, là giàu sang không cần đạo đức, không cần cái vui cái đẹp tinh thần. Bản tính tự vị của con người, như cách Pháp gia hiểu, là thói vị kỷ, là xu hướng đòi thoả mãn những dục vọng tầm thường theo bản năng của con người trong cuộc sống còn dã man, chưa có đòi hỏi văn hoá nhưng lại sợ phép nước, gắn bó với vua – hay là quây lại thành bầy cho họ biết vua quan – chứ không phi xã hội, phi chính trị.
Vua chuyên đoán ý thức đầy đủ mình là chủ đất nước và thần dân, có quyền hành vô hạn, biết lợi dụng “thế”, “vị”, tức là ngôi vua của mình và tính “tự vị” của thần dân, quy định ý muốn thành “pháp độ” dùng thưởng hậu phạt nặng để kích thích, đưa thần dân thực hiện ý chí của mình làm cho mọi hoạt động của xã hội rút lại chỉ còn là canh chiến để phú cường, mở rộng quyền lực.
Giữa vua và dân là quan hệ chủ tớ, là quan hệ mua bán, thuê mướn “vua bán quan tước, tôi bán tài năng”, còn dân thì theo pháp độ mà nhận thưởng hay lãnh phạt. Hình phạt có mục đích khủng bố “tội nhẹ mà phạt nặng, thì không ai dám phạm tội nặng”. Vua cần làm cho dân sợ mà khép vào kỷ luật chứ không cần dân mến dân thương. Theo Pháp gia thì tình nghĩa, ân đức không những là hỏng việc trị nước mà còn làm hỏng cả con người. Lòng từ ái của bà mẹ chỉ làm con hư, sự nghiêm khắc của ông bố mới làm con ngoan ngoãn. Nổi bật trong tinh thần của Pháp gia là tính vô nhân đạo, là tinh thần bài văn hoá. Pháp gia coi con người là súc vật, là công cụ, và tìm mọi cách để biến con người thành súc vật, thành công cụ. Nước Tần tổ chức theo Pháp gia kiếm cớ gây chiến với tất cả mọi nước, đối xử với các nước láng giềng bằng những thủ đoạn lừa dối trơ tráo nhất (xem các truyện Trương Nghi, Phạm Thư trong Sử ký) bằng những thái độ hống hách láo xược nhất (xem các truyện đòi ngọc bích nước Triệu, đòi Thái tử Đan sang Tần…)
Trung Quốc từ đời Ân, Chu đã quen cách đi chiếm đất rồi sai người đồng tông mang dân đến xây thành lập quốc, làm phên dậu cho thiên tử - đại tông. Chính sách di dân và đồng hoá đó được Tần áp dụng quy mô lớn bằng cách đưa người vào ở chung với Hung nô, ở chung với Bách Việt ngoài Ngũ lĩnh. Từ đời Hán chính sách đó càng được áp dụng liên tục. Từ đời Tần Trung Quốc đã trở thành một đế chế rất lớn. Về sau đời Hán, đời Đường, đời Minh đế chế còn lớn hơn. Tham vọng của hoàng đế từ Tần Thuỷ hoàng – hoàng đế số một – cũng càng ngày càng lớn hơn. Thế nhưng trong lịch sử Trung Quốc, tư tưởng Pháp gia chỉ được đề cao dưới triều nhà Tần. Các đời sau đều “độc tôn Nho thuật”, ít ra là trong phạm vi chính trị.
Khi Pháp gia ra đời, Nho gia đã thấy bộ mặt kẻ thù ngay từ khi còn trứng nước. Khổng Tử và Mạnh Tử, hai tổ sư Nho gia, đều sống trước Hàn Phi tử, đều đã chống tinh thần của Pháp gia, và chống ở những điều căn bản nhất. Nho gia lấy “nghĩa” chống “lợi”, lấy đức hoá, văn hiến “chống canh chiến”, lấy “đức trị” “lễ trị” chống hình, chính, pháp trị, lấy mệnh phận chống lực. Khổng Tử và nhất là Mạnh Tử chống chiến tranh một cách quyết liệt. Tinh thần đó cũng là tinh thần của các nhà Nho đời sau thường can ngăn vua “cùng binh độc vũ”. Khuyên vua dùng đức thay cho hình phạt, dùng văn đức thay cho chiến tranh đối với lân bang. Điều đó làm cho người ta dễ có ý kiến sai lầm tưởng như Nho gia không phục vụ đắc lực cho chủ nghĩa bành trướng.
Xây dựng hệ thống lý luận trên cơ sở vương quốc nô lệ chủng tộc Ân Chu là giai đoạn một bộ tộc chủ thể dùng sức mạnh chinh phục các bộ tộc chung quanh, biến thành chư hầu, di dân đến đồng hoá, bằng cách đó mở rộng đất nuớc, Nho gia có quan niệm về ngôi “thiên tử” có “thiên mệnh” được Trời giao cho cai quản cả “thiên hạ”. Đó là cơ sở của trật tự xã hội và cũng là cơ sở của uy quyền thiên tử.
Thiên hạ là đất đai của Trời, là lãnh thổ nhưng lại không có biên giới. Thiên hạ có nhiều địa vực, với dân cư có trình độ văn minh khác nhau. Văn minh nhất là vùng Hoa hạ, quốc gia của thiên tử, nơi thánh nhân – cũng chính là thiên tử – bắt chước Trời mà định ra lễ nhạc văn hiến. Xung quanh Hoa hạ là di địch, dã man chưa được giáo hoá. Từ xa xưa người ta đã hình dung thiên hạ thành Ngũ phục, bốn vòng đất đồng tâm quanh Hoa hạ. Phân biệt Hoa di là phân biệt giữa các nước, các địa vực có biên giới, nhưng di địch ở ngoài Trung thổ – vùng Hoa hạ - chứ không phải ở ngoài thiên hạ. Thiên hạ tuy nhiều nước nhưng phải thống nhất, và thống nhất theo lễ giáo Hoa hạ là nơi trời đã chọn thánh nhân làm thiên tử; giao cho trách nhiệm giáo hoá tứ di. Cho nên nếu thiên tử làm cho tứ di thần phục triều cống – người ta gọi như thế là đức hoá của thiên tử lan xa, là “tứ di mến đức theo về” – làm cho thiên hạ mở rộng phạm vi thống nhất thì đó là bằng chứng để nói thiên tử trị vì có thánh đức. Như thế không chỉ là biểu hiện việc thiên tử làm tròn chức trách của Trời, được Trời ủng hộ. Nói cách khác thiên tử về danh nghĩa là chủ cả những vùng đất đai chưa nằm trong lãnh thổ của mình. Và ai không chống lại Trời thì phải nhận rằng thiên tử chinh phục đồng hoá là gia ân giáo hoá cho nước mình. Trong thiên hạ càng ngày càng mở rộng hình thành một trật tự theo hình ảnh gia đình: cha anh chỉ huy con em, nước chia ra nước lớn, nước nhỏ ; nước nhỏ có nghĩa vụ phải theo nước lớn như em theo anh, và tất cả đều phải nghe theo thiên tử, ông vua làm cha, làm anh các vua khác. Thiên tử có quyền vô hạn không phải vì nắm sở hữu toàn thiên hạ mà vì có thiên chức linh thiêng. Chỉ có thiên tử mới trực tiếp được nhận thiên mệnh. Các vua khác đều là chư hầu chỉ được nhận mệnh của thiên tử, người đại diện duy nhất của Trời. Vì là con trưởng được nhận thiên mệnh, nên chỉ thiên tử mới có quyền tế Trời, Đất, thần núi, thần sông. Thiên tử không chỉ là người cầm đầu về chính trị, về quân sự, về kinh tế, về tôn giáo. Thiên tử còn là người có thánh đức, có trách nhiệm truyền bá giáo hoá. Ý kiến của thiên tử là chân lý. Cho nên chỉ có thiên tử mới có quyền định ra lễ nhạc, chỉ thiên tử mới là người trọng tài cầm quyền xét xử và thưởng phạt không chỉ thần dân trong nước mà còn cả các nước trong thiên hạ, thưởng phạt với tư cách là vua, là cha, là thầy: chỉ thiên tử mới có quyền chinh tru. Chinh tru là cất quân đánh nuớc khác để hỏi tội, để trừng trị. Vì là người thay mặt Trời, có trách nhiệm giáo hoá, cho nên không phải chỉ khi có lỗi với thiên tử mới bị hỏi tội. Nếu nước kia “vô đạo” con cướp ngôi cha, tôi cướp ngôi vua, vợ cướp ngôi chồng hay tỏ ra không kính trọng Trời… thiên tử cũng có trách nhiệm vì Đạo, Nghĩa mà cất quân chinh phạt.
Cho nên về lý thuyết thì Nho gia chủ trương dùng đức để cảm hoá, kịch liệt lên án chiến tranh, kể cả chiến tranh giành giật lẫn nhau, chiến tranh chống thiên tử và chiến tranh xâm lược. Thế nhưng mặt khác khi chủ trương một vị thiên tử uy quyền vô hạn, cầm quyền thưởng phạt, độc quyền nắm giữ quân đội, dùng vũ lực và bắt mọi người – kể cả dân trong nước và tứ di, tức là các nước láng giềng - phải theo mệnh, tuyệt đối không được trái ý thiên tử ; đối với thiên tử họ chỉ có thể có một thái độ là trủng nghĩa, biết ơn phúc tùng như con đối với cha mẹ, thì kết quả tất nhiên chỉ có thể là bênh vực mọi hành động xâm lược.
Cho nên không chỉ có Pháp gia mới làm cho thiên triều thành bành trướng xâm lược. Bằng lý thuyết chuộng võ lực, biện chính mọi sự tàn bạo, mọi sự dối trá, mọi ý đồ xâm lược, Pháp gia chuẩn bị và thực hiện chiến tranh xâm lược. Nhưng chính Nho gia lại cung cấp danh nghĩa, tăng thêm lòng tin làm cho hoàng đế không chỉ là tham lam vô độ mà còn thấy bao giờ mình cũng có lý, cũng có quyền gây chiến tranh xâm lược.
Pháp gia và Nho gia đề ra đời trên cơ sở kinh tế – xã hội của chế độ chuyên chế Trung Quốc. Cả hai học thuyết bổ sung cho nhau, kết hợp với nhau và tạo cho chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc – chủ nghĩa bành trướng thiên triều- những đặc trưng mang dấu ấn của chế độ chuyên chế đó. Ta có thể thấy chủ nghĩa bành trướng thiên triều Đại Hán có mấy đặc điểm.
1. Hiếu chiến, hống hách và ảo tưởng
Thiên triều là một chế độ độc tài tham lam vô độ đến mức hạn chế mọi thế lực, không giành quyền lợi kinh tế đáng kể cho một lực lượng nào làm cơ sở xã hội cho chế độ. Đó là sự thống trị của một họ, thậm chí chỉ là của một người trên một đất nước rộng lớn luôn luôn ly tán, loạn lạc. Đó là một nền thống trị mỏng manh nhưng lại rất hiếu chiến, đặt biệt là lúc yếu cũng lại gây chiến. Nhiều tham vọng tất nhiên là cái bệnh chung của bất cứ giai cấp thống trị nào thế nhưng ông vua chuyên chế Trung Quốc khác với tất cả ở chỗ ảo tưởng: ảo tưởng về thiên chức, ảo tưởng về sự lớn mạnh, ảo tưởng lẽ phải thuộc về mình. Dẫn đến điều đó là quan niệm về thiên chức của thiên tử chứ không phải là về phẩm chất ưu việt của một dân tộc. Hoàng đế tuy có tự hào về lễ văn của vùng Hoa hạ, nhưng điều đó cũng do thiên tử được Trời phú dữ riêng, bắt chước Trời mà có. Trong người Hán không truyền bá tư tưởng về ưu thế của cả dân tộc. Với ảo tưởng về thiên chức, hoàng đế dễ thấy bị xúc phạm khi không được các nước nhỏ phục tùng, càng yếu thì càng dễ phát khùng. Vừa thấy mình lớn mạnh, vừa thấy mình phải lẽ, vừa thấy mình riêng được Trời phù hộ làm cha anh người khác, nên xử sự hống hách. ít có tính toán lợi hại thực tế, dễ hành động một cách phiêu lưu cầu may.
2. Ngụy thiện
Chủ nghĩa bành trướng Đại Hán hình thành từ trước, nhất là từ đời Tần nhưng từ đời Hán về sau mới thành xu hướng ổn định. Chủ nghĩa bành trướng từ Hán về sau – tức là sau khi tìm ra phương hướng Nho Pháp tịnh dụng - không trắng trợn như đời Tần. Khi chinh phạt các nước láng giềng bao giờ cũng là “lễ tiền binh hậu”, bao giờ hoàng đế cũng tuyên xưng không có tham vọng đất đai và thần dân, thậm chí còn dè bĩu “đất cằn cỗi”, “dân khó bảo”, hoàng đế không thèm; chinh phạt chẳng qua là bất đắc dĩ vì đạo lý, vì mục đích giáo hoá, vì mục đích cứu vớt. Lừa dối ngụy thiện thành một nét đặc trưng. Cướp phá, chém giết, phá hoại văn hoá, đồng hoá đó là một chính sách bành trướng rất tàn bạo. Nhưng sự tàn bạo bao giờ cũng được nguỵ trang bằng những lời lẽ nhân nghĩa, đạo lý. Trơ tráo nhất là tấm lòng từ thiện chỉ muốn “kẻ có tội” hối hận, đầu hàng ngay để khỏi phải dùng đến khí giới vì hoàng đế vốn nhân ái không nỡ nhìn thấy cảnh tàn phá giết chóc.
Chế độ chuyên chế vốn yếu. Sự tồn tại của nó về bản chất là dựa vào sự lừa dối, dựa vào thủ đoạn thâm hiểm. Càng yếu lại càng mong dùng cách đe doạ, sự lừa dối ngụy thiện mà thắng người.
3. Trọng danh hơn thực
Bắt thêm một nước thần phục không phải bao giờ cũng mang lại lợi ích thực tế cho thiên triều. Ta không nói đến nhân dân hai nước hoàn toàn bị thiệt hại nặng khi có chiến tranh xâm lược như vậy. Ngay cả với hoàng đế Trung Quốc, chiến tranh làm tốn công tốn của, lại làm mạnh lên thế lực của võ tướng, quý tộc, và khi chiến thắng, không trực tiếp quản lý khai thác được đất đai nên cũng chỉ thu được món tuế cống không phải là nhiều. Nhiều khi hoàng đế chỉ thu được cái danh suông: Được một nước chịu tiếng là bề tôi thiên triều. Thế nhưng vì là thiên triều, hoàng đế Trung Quốc không chấp nhận ai đứng ngang hàng. Thiên tử có thái độ kẻ cả không chỉ với các nước như Lào, Thái Lan, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên, Hung Nô, những nước láng giềng, về danh nghĩa, phải tự nhận là phiên bang, thiên triều từ xưa theo lệ phong vương, đối xử như chư hầu; tuy một số trong đó đã nhiều phen đánh cho thiên triều thua liểng xiểng. Ngay cả các nước phương Tây như Anh, Pháp, ngay từ khi mới tiếp xúc đã đánh bại, đã làm nhục thiên triều bao chuyến, lại chưa bao giờ là chư hầu cũng chỉ được thiên tử coi là Tổng đốc nước Anh, Tổng đốc nước Pháp và công khai đối xử như di địch. Thiên triều không bao giờ chịu cảnh bị khinh thường đến mức để các nước láng giềng độc lập, không nghe theo mệnh lệnh của mình. Để buộc các nước đó chịu phận đàn em, có khi thiên triều sẵn sàng làm ông anh đối xử rộng rãi, biết quà cáp cho em – những ông em bất trị – khá hậu hĩnh. Trường hợp nhà Tống đối với Khiết đan, nhà Thanh đối với vua Quang Trung là như vậy. Chịu nhận là đàn em thì đâu có ngỗ nghịch hay vòi vĩnh một chút thiên triều cũng ngơ cho.
Chế độ chuyên chế đó sống bằng uy tín chính trị. Nó xâm lược để bảo vệ danh hơn là giành lợi thực. Thói quen muốn làm bề trên cũng dẫn đến sự quan tâm, suy tính về danh nghĩa hơn là tính toán thực tế. Điều đó cũng thường thành nguyên nhân gây ra hành động phiêu lưu.
Đáng ngạc nhiên không phải là xu hướng bành trướng ở giai cấp thống trị ở một nước rộng lớn như Trung Quốc mà đáng ngạc nhiên là tâm lý bành trướng có cả trong nhân dân Trung Quốc. Bành trướng Đại Hán là dựa vào thiên chức thiên tử chứ không phải dựa vào sự ưu việt của dân tộc. Vì thánh đức của thiên tử chứ không phải vì vinh quang của dân tộc. Người dân Trung Quốc sống dưới chế độ chuyên chế, trong tổ chức xã hội quân sự hóa, có cuộc sống thấp kém nhất, nghèo đói, ngu dốt và vô quyền. Có chiến tranh lại phải làm thêm nghĩa vụ đi phu nộp thuế, đi lính, mang thêm chết chóc và nghèo đói. Sống lâu đời trong cảnh bi đát đó, họ trở thành cần cù, chịu khó đến nhẫn nhục, lầm lỳ, cam chịu. Thế nhưng không phải họ bất bình vì bị lôi kéo vào chiến tranh xâm lược mà nhiều khi lại có tâm lý say sưa chia sẻ cái hống hách, kẻ cả của chính kẻ áp bức mình. Tâm lý lạ lùng đó tồn tại cả trong những người Hoa Kiều vì bị áp bức bóc lột làm cho phá sản phải bỏ quê hương lưu lạc, kiếm ăn ở tận nước khác bằng những nghề hèn mọn như bán thuốc, bán phở…
Cái thân phận thần dân tử đệ, cái liên minh tự nhiên lâu đời giữa hoàng đế và dân chống các lực lượng phân tán, đạo lý sống trung nghĩa đã che lấp quan hệ thực giữa vua và dân. Không gọi là nô lệ mà gọi là xích tử, cũng như không gọi là đầy tớ mà gọi là gia nhân (người nhà). Họ thấy mình dự phần cao sang của ông chủ, thậm chí vì thế mà khoe khoang tự hào còn mong cả lợi dụng uy thế, danh nghĩa của ông chủ để ra oai, bắt nạt đàn em.
Xâm lược, bành trướng vốn gắn liền với chuyên chế, với điều kiện quốc gia thống nhất rộng lớn. Tư tưởng Pháp gia đầu tiên tạo ra cục diện đó nhưng nó không có khả năng giữ chuyên chế và thống nhất được lâu dài. Sự kết hợp Nho Pháp mới duy trì được những cái đó, có khi là mong manh, có khi chỉ là hình thức nhưng dai dẳng, khó phá vỡ. Tư tưởng Pháp gia làm cho tính hiếu chiến lộ rõ tàn bạo. Sự kết hợp Nho Pháp mới làm cho nó có bộ mặt giả dối để đánh lừa. Kết hợp Nho Pháp mới là cơ sở tư tưởng của chủ nghĩa bành trướng và điều đó được xác lập từ đời Hán. Sự kết hợp lạ lùng giữa hai hệ tư tưởng đối lập như vậy phản ảnh sự kết hợp cũng rất lạ lùng giữa sự tập trung chuyên chế với sự phân tán của làng xã, sự kết hợp lạ lùng giữa tên độc tài là hoàng đế với người dân cùng khổ vô quyền. Sự kết hợp như thế tồn tại trên cơ sở liên minh giữa hai lực lượng đều yêu cầu chống lại sự uy hiếp của lực lượng thứ ba: quý tộc và thổ hào theo xu thế tự nhiên tự nhiên hướng đến chế độ lãnh chúa.
Sự kết hợp đó tạo ra một thế giằng co lâu dài. Ổn định thống nhất chỉ là bề ngoài, chỉ là khéo che đậy, nhưng mâu thuẫn sâu sắc.
Nhưng hợp chất nào cũng có khe hở, có khả năng bị phá vỡ liên kết. Đó chính là chỗ cần phát hiện, khai thác để phá vỡ sự chuyên chế và chủ nghĩa bành trướng.
III. Đề cao tinh thần Pháp gia để hiện đại hóa quá khứ và hiện tại
Nho gia và Pháp gia là hai anh em, con đẻ của chế độ chuyên chế Trung Quốc. Tuy cả hai đều được hoàng đế cưng chiều, tịnh dụng mỗi bên một cách, nhưng giống như cảnh con cái tranh quyền đoạt lợi trong nhiều nhà, hai anh em Nho Pháp xung khắc gay gắt. Mở đầu xung đột là thời kỳ Chiến Quốc đến Tần Hán. Cuộc tranh luận trùng với thời điểm vương chế Ân Chu nhường chỗ cho chế độ hoàng đế Tần Hán. Hoàng đế Tần Hán nối tiếp nhau giành được thiên hạ. Sau khi đế chế thành lập vấn đề đặt ra cho nó là giữ vững sự thống nhất thiên hạ, củng cố và phát triển uy quyền hoàng đế, tức là củng cố chế độ chuyên chế và tiếp tục bành trướng. Tranh luận Nho Pháp biểu hiện sự lựa chọn một ý thức hệ thích hợp với nhu cầu đó của đế chế. Bách gia tranh minh kết thúc ở kết luận Nho Pháp tịnh dụng của Hán Võ đế. Tịnh dụng không phải để bất phân thắng phụ, dung hòa, chấp nhận nhau mà là Nho gia được tuyên bố độc tôn, công khai thống trị, còn Pháp gia thành học thuyết ngự dụng, bí truyền. Thực chất nội dung tranh chấp là độc tài tuyệt đối hay là nhân nhượng một mức độ nhất định với làng xã, ưu đãi, tin cậy, đối xử có lễ độ chứ không phải khinh miệt, nô dịch quan lại và đẳng cấp sĩ, nói tóm lại là làm thế nào bảo vệ chế độ chuyên chế có hiệu quả hơn. Từ khi đế chế kiểu nhà Hán ổn định, Nho gia trở thành học thuyết thống trị, Pháp gia tuy là đồ ngự dụng, nhưng bên ngoài ở vào cảnh tội phạm, thành cái đích cho các nhà nho suốt hai mươi thế kỉ công kích mạt sát mà không bao giờ phản kích lại.
Cho đến sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời, năm 1957 một phong trào mang tên: “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng” làm sống dậy không khí học thuật thời Chiến Quốc. Khắp nơi tranh luận về rất nhiều vấn đề chính trị và học thuật - theo cách nhìn của những người theo Mao thì học thuật cũng là chính trị. Tiếp theo đó là phong trào chống phái hữu, cũng tức là trừng trị những người đã đua tiếng, khác với giọng chính thống. Rồi phong trào chống xét lại, và hơn mười năm sau, sau đại cách mạng văn hóa vô sản, vấn đề Nho Pháp nổi bật lên.
Trong chiến dịch “phê Lâm phê Khổng” những kẻ thù của Mao được gán cho cái nhãn hiệu là Nho, với tội trạng là âm mưu phục hồi chủ nghĩa tư bản, là bảo thủ, là phản cách mạng. Ngày xưa cuộc tranh luận Nho Pháp không chỉ tốn nhiều thì giờ, nhiều nước bọt, nhiều thẻ tre mà còn tốn khá nhiều máu. Tần Thủy Hoàng theo đề nghị của Pháp gia đã “đốt sách chôn Nho”. Pháp lệnh thi hành triệt để, có hiệu quả đến mức mấy chục năm sau khó khăn lắm nhà Hán mới tìm được người còn nhớ, đọc cho chép lại các kinh điển Nho gia. Còn ở Trung Quốc ngày nay, những người bị phe Mao ghép tội theo Nho bị đấu tố, bị đưa đi cải tạo và bị tiêu diệt. Con số người bị nạn gấp hàng trăm lần thời Tần Thủy Hoàng nhưng Mao Trạch Đông cho thế vẫn còn là ít.
Tôi muốn nhấn mạnh sự giống nhau giữa hai hoàn cảnh đặt vấn đề và cũng giống nhau trong nội dung vấn đề tranh luận nữa. Đặc điểm của lịch sử Trung Quốc là những thời đại lịch sử kéo rất dài thường là nhân tuần, thay đổi dần, không có đột biến cách mạng. Thời Tần Hán và thời cận hiện đại là hai thời điểm có chuyển biến mạnh nhất. Ở hai thời điểm đó rõ ràng xuất hiện nhu cầu tổng kết quá khứ, tìm đường đi cho lịch sử hướng đến tương lai.
Trước kia trên cơ sở tồn tại khách quan của làng họ và cục diện thống nhất, thời Tần Hán đã phải giải quyết quan hệ giữa tập trung và phân tán theo hướng nhân nhượng làng-họ, duy trì tàn dư công xã để chống lại xu hướng lãnh chúa, hàng ngày dễ nảy nở trực tiếp uy hiếp sự tập trung chuyên chế của hoàng đế và nuôi dưỡng xu hướng bành trướng, mở rộng thiên hạ do chế độ chuyên chế đẻ ra. Cách giải quyết của Hán Võ đế đã thành khuôn vàng thước ngọc cho mọi triều đại từ nhà Hán đến nhà Thanh.
Cuối đời Thanh mâu thuẫn xã hội đã cực kỳ trầm trọng. Mâu thuẫn dân tộc Hán-Mãn, mâu thuẫn giữa Trung Quốc và các đế quốc phương Tây lại càng làm cho tình hình càng rối loạn hơn. Sự thắng lợi của Đảng cộng sản Trung Quốc dẫn đến việc thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử Trung Quốc. Thắng lợi của Đảng cộng sản Trung Quốc năm 1949 đã giải quyết cùng một lúc các mâu thuẫn do lịch sử để lại. Trong sự hoạt động của mình, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tiếp tục nhiệm vụ bỏ dở của phong trào nông dân Thái Bình Thiên Quốc, nhiệm vụ bỏ dở của phong trào dân tộc chống đế quốc. Từ Vạn lí Trường chinh, theo sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã học tập và phát triển kinh nghiệm khởi nghĩa xây dựng căn cứ và tiến hành chiến tranh nông dân, huy động và tổ chức quân chủ lực là nông dân để giải quyết các vấn đề đó. Về sau khi thắng lợi, vấn để đặt ra là tìm con đường cụ thể xây dựng đất nước hướng đến tương lai. Cứ nhìn những vấn đề được đem ra thảo luận và các phong trào được phát động, ta cũng có thể thấy được nội dung phương hướng được lựa chọn là gì. Sau khi tiến hành cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp và phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, tam phản, ngũ phản, chống phái hữu, đại nhảy vọt, toàn dân làm gang thép, xây dựng công xã, đại cách mạng văn hóa vô sản, bốn hiện đại hóa với các chủ trương học tập Lôi Phong, hạ phóng, xây dựng công xã kiểu Đại Trại, xí nghiệp kiểu Đại Khánh và các cuộc tranh luận về quan hệ sản xuất, về vô sản chuyên chính, về “một phân đôi”, về chống dùng vật chất kích thích… Quán xuyến tất cả là việc học tập tư tưởng Mao Trạch Đông. Việc tranh luận Nho - Pháp được đặt ra trong bối cảnh như vậy, và hướng giải quyết của nó, theo tinh thần “cổ vi kim dụng”, có ý nghĩa nhìn lại quá khứ, lựa chọn một giải pháp cho tương lai.
Nội dung của tất cả những việc vừa kể trên chỉ là:
· Tăng cường chuyên chế đến mức tập trung tất cả quyền hành vào chỉ một người; hạn chế đến tiêu diệt mọi thế lực đối lập dẫu là cá nhân, tổ chức quần chúng, tổ chức Đảng hay thể chế của nhà nước…
· Tổ chức công xã thành đơn vị cơ sở phổ biến; cải tạo xí nghiệp, trường học – các tổ chức có tính chất thành thị - theo mẫu công xã, nhất thể hóa thành xã hội quân sự hóa, một thứ xã hội canh chiến.
· Cải tạo mọi tầng lớp thành nông dân. Các loại dân thành thị dầu là tư sản, trí thức hay là công nhân công nghiệp đều phải học tập nông dân, học tập quân đội, học tập “giáo sư chân đất”, lấy bần cố nông làm thầy, biến tất cả thành những người giống như nông dân, gắn bó với công xã, tuyệt đối cảm ơn, sùng tín, nghe lệnh lãnh tụ, hết sức lao động, thắt lưng buộc bụng hy sinh cho nhà nước chuyên chế.
· Cả nước võ trang, toàn dân luyện tập quân sự, mọi sinh hoạt quân sự hóa. Cả nước thành một trại lính chuẩn bị chiến tranh.
Đề cao Pháp gia thực chất là tăng cường chuyên chế và phát triển chủ nghĩa bành trướng.
Nông dân khởi nghĩa đã thắng lợi. Đại ca đã lên ngôi hoàng đế. Rút kinh nghiệm “chính quyền từ mũi súng”, đại ca muốn dùng mũi súng trong tay nông dân mà mở rộng chính quyền của hoàng đế ra cả thiên hạ. Và thiên hạ vào thời hiện đại, với tri thức địa lý đã mở rộng, ngũ phục đã lan đến năm châu bốn bể, nếu không phải là rộng hơn.
Những người theo Mao nói tìm ra ở Pháp gia tinh thần cách mạng, tức là không nửa đường dừng bước, không thủ cựu, dám nghĩ dám làm, dám thay đổi. Đó chỉ là giả nhân, giả nghĩa theo thủ đoạn “ngoại Nho” của hoàng đế mà thôi. Còn phần “nội Pháp” thì họ muốn tìm ở đó tinh thần cực quyền, tinh thần vũ lực, hiếu chiến và coi dân là công cụ. Không phải chỉ có đối với tư tưởng Pháp gia, cả đối với tư tưởng Mác-Lênin, Mao Trách Đông cũng chẳng phải chỉ tìm ở đó lý thuyết mâu thuẫn, đấu tranh giai cấp, vô sản chuyên chính và quan hệ sản xuất (tập thể hóa, quốc hữu hóa tư liệu sản xuất) đó sao? Cái họ thích ở chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Cộng sản không phải là lý luận xây dựng xã hội tiền tiến, tự do, hạnh phúc, dân chủ, nhân đạo cao, mà chỉ là phương pháp củng cố được chuyên chính hiệu quả hơn, thu sản phẩm lao động của dân được dễ dàng hơn và được nhiều hơn để chuẩn bị chiến tranh làm cho Trung Quốc thành siêu cường. Tư tưởng Mao Trạch Đông cũng được biểu đạt bằng những thuật ngữ Mácxít như mâu thuẫn, biện chứng pháp, đấu tranh giai cấp… nhưng không phải dựa vào một cơ sở khoa học, một phương pháp luận khoa học nào mà là lựa chọn, lấy bỏ trong tất cả mớ lý luận hỗn tạp xưa và nay, đông và tây theo một lập trường, đúng những quan điểm củng cố chuyên chế (với nhãn hiệu vô sản chuyên chính) và phát triển bành trướng (với nhãn hiệu làm cách mạng thế giới).
Rõ ràng một xu hướng phục tích nhưng không phải phục tích tư bản chủ nghĩa. Sau cách mạng thành công, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã tiến hành nhiều hoạt động cải tạo và xây dựng với tốc độ đáng phấn khởi. Những hoạt động đó có ý nghĩa cách mạng, có lợi cho nhân dân Trung Quốc và chuẩn bị điều kiện cho Trung Quốc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vấn đề được đặc biệt nhấn mạnh và cũng là kết quả đã thu được là làm hình thành quan hệ sản xuất mới. Thế nhưng sự thay đổi đó, tự thân nó, trong điều kiện của nền sản xuất thấp kém và trình độ văn hóa và xã hội lạc hậu của Trung Quốc chỉ đang là đứng trước ngã ba đường: Trung Quốc có khả năng phát triển lên chủ nghĩa xã hội, cũng có khả năng hướng sang chủ nghĩa tư bản hay nằm ỳ ở phong kiến. Cả một nông thôn bao la với số nông dân khổng lồ đang nằm trong tình trạng lạc hậu đe dọa níu sự phát triển lại. Mặt khác, ở một số điểm, những cải cách nói trên lại làm cho xã hội Trung Quốc giống chế độ chuyên chế xưa hơn.
Trong quan hệ sản xuất mới, tư liệu sản xuất được tập thể hóa, quốc hữu hóa, người ta thấy gắn với chế độ vương hữu hơn chế độ tư hữu tư sản. Người nông dân thấy ở việc tập thể hóa nông nghiệp hình ảnh chế độ công điền, hợp với lí tưởng quân bình mà họ ôm ấp xưa nay. Trong một xã hội công nông binh mà các tổ chức phi nông thôn cũng đều công xã hóa, như Mao Trạch Đông đã muốn làm triệt để như vậy, người dân sẽ thấy mình sống trong làng xã phổ biến hơn, rất hợp với tư tưởng ghét thành thị, ghét tư sản, ghét trí thức, ghét mọi cái xa lạ họ. Về mặt chính quyền, cũng lại là bộ máy quan liêu, đội quân thường trực và trên cùng cũng lại là một người cầm lái vĩ đại, anh minh, thần thánh, chẳng khác thiên tử. Do đặc điểm lịch sử, kinh tế và xã hội của Trung Quốc, chủ nghĩa tư bản tuy đã phát triển nhưng chỉ tập trung ở vùng ven biển và các thành phố lớn. Quan hệ tư sản chưa thành phổ biến để sự phục tích hướng vào đó. Mao đã xây dựng chính quyền mới không khác sau các cuộc khởi nghĩa nông dân thắng lợi xưa kia: những người có mặt ở tụ nghĩa đường chia nhau cầm quyền thiên hạ trong đó đại ca lên ngôi hoàng đế. Mao đã lập một tân trào cũng có hai ban văn võ (phái quân sự, phái hành chánh) cũng có xung đột phe phái, xung khắc giữa địa phương và trung ương và cuối cùng lại xuất hiện cả thái tử và hoàng hậu nữa. Cho nên nếu như đối với các nước láng giềng tân trào này có nảy ra tham vọng thiên triều thì cũng chỉ là việc tự nhiên: ngựa đi theo đường cũ.
Người nông dân được cách mạng giải phóng lại tiếp tục sống trong một môi trường đã được cải tạo thành ra quen thuộc, tư tưởng lại không được cải tạo theo hướng xã hội chủ nghĩa chân chính. Họ được lãnh tụ đưa lại ruộng đất giúp họ trả thù phú nông, địa chủ, hàng ngàn đời áp bức bóc lột và làm nhục họ, lại đưa họ lên làm gương, làm mẫu, làm thầy để cải tạo dân thành thị là những người họ vẫn kỳ thị, thỏa mãn được lòng ghét kẻ giầu sang, ghét trí thức, trả thù cái thành thị vừa phức tạp vừa kiêu hãnh khó hiểu. Với cuộc sống cô lập vì cột chặt vào công xã, với thói quen sống đói rách, ít đòi hỏi tự do, hạnh phúc, văn hóa, họ dễ thỏa mãn và cam chịu. Thỏa mãn vì những cái họ có được hưởng, thỏa mãn vì ơn nghĩa, thỏa mãn vì ít đòi hỏi. Họ chỉ phải lao động nhiều, đóng góp nhiều, bị ràng buộc hơn, nhưng những cái đó đối với họ cũng đã thành quen. Trước cách mạng họ còn khổ hơn. Họ sẵn sàng tin tưởng ở lãnh tụ, cũng do thói quen của nông dân, từ lâu đã được đồng nhất với Thánh nhân: nhân ái, sáng suốt và linh thiêng. Giữa một bên là Hoàng đế và một bên là lê dân - xích tử, những người được đưa vào bộ máy Đảng, chính quyền, quân đội cũng đã có sẵn những mẫu mực, những con đường để bước theo: quan, lại, thổ hào, quân phiệt và kẻ sĩ.
Trong tình hình thực tế đã đi đến như vậy, thật không có gì lạ lùng vấn đề con đường phát triển được đưa ra bàn lại, xuất hiện dưới dạng tranh luận Nho - Pháp.
Con đường Mao Trạch Đông lựa chọn đã đưa Trung Quốc quay lại với các triều đại phong kiến, nhưng Mao thiết tha muốn Trung Quốc thành một cường quốc của thế giới hiện đại, dè bỉu sự nghiệp tầm thường của Tần Thủy Hoàng, Hán Võ đế, Đường Thái Tông. Những người chống Mao, bị Mao coi là Nho cũng vậy. Họ có thừa nhiệt tình, quyết tâm, không ngại san bằng mọi trở lực và học được không ít những kinh nghiệm thế giới trong vấn đề hiện đại hóa. Nhắm mục đích đó những nhà lãnh đạo Bắc Kinh đã cố gắng giải quyết vấn đề vốn, vấn đề kỹ thuật, vấn đề chuyên gia, không ngần ngại dùng cả những biện pháp phản động, nhục nhã như bắt tay với các nước đế quốc, quan hệ với các chế độ phản động để đạt mục đích. Quan niệm một nước hiện đại, cường quốc hiện đại của họ là có nền công nghiệp hiện đại, có nền nông nghiệp hiện đại, có nền kỹ thuật hiện đại, có nền quốc phòng hiện đại - bốn cái hiện đại theo thứ tự này hay thứ tự khác. Nói cách khác bốn hiện đại cũng là phú cường, phú cường dựa trên sản xuất hiện đại, với khoa học kỹ thuật hiện đại. Nước Trung Hoa phú cường hiện đại mà họ định xây dựng cũng theo chế độ xã hội chủ nghĩa, và tính đến sự sốt ruột đại nhảy vọt của Mao Trạch Đông của những năm 50 thì còn muốn nó là cộng sản chủ nghĩa trước cả Liên Xô nữa. Có lẽ cũng không nên nghĩ rằng họ nói như vậy hoàn toàn chỉ là để lừa dối. Nhưng có phần chắc là chưa bao giờ những người lãnh đạo Bắc Kinh cả Mao và những người kế tục Mao, hiểu đúng thực chất xã hội xã hội chủ nghĩa cả. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa hay Cộng sản chủ nghĩa của Mao chưa bao giờ quan tâm đến chủ nghĩa nhân đạo, đến chủ nghĩa dân chủ, đến tự do hạnh phúc của con người, đến nền văn hoá phát triển, đến lợi ích quốc tế, lợi ích các dân tộc bình đẳng. Thiếu một cơ chế xã hội dân chủ, một nền văn hóa nhân đạo chủ nghĩa, một cường quốc hiện đại như vậy – dẫu có thực hiện được - cũng chưa thể coi là dân chủ chứ chưa nói đến xã hội chủ nghĩa hay cộng sản. Việc đề cao tinh thần Pháp gia của những người lãnh đạo Bắc Kinh cho ta thấy khuynh hướng hạn chế thêm nữa những quyền dân chủ đã quá ít ỏi, bóp nghẹt hơn nữa những đòi hỏi nhân đạo chủ nghĩa vốn đã quá nghèo nàn trong xã hội Trung Quốc. Cho nên nếu có giải quyết được mọi vấn đề mà họ đặt ra để thực hiện được bốn hiện đại hóa thì nước Trung Hoa đó đi theo hướng chuyên chế và bành trướng, tức là phát xít hóa.
Lịch sử thật là bướng bỉnh. Hơn hai mươi thế kỉ đã trôi qua mà khi giải quyết phương hướng cho tương lai thực tế lại quay lại vấn đề Nho hay Pháp, và cũng có thể cả Nho, Pháp, Đạo - một cái thế chân vạc vững vàng xưa nay trong lịch sử Trung Quốc. Sự luẩn quẩn như vậy bắt chúng ta phải nghĩ đến một cái gì đó thuộc về phần sâu xa nhất trong quy luật phát triển của xã hội Trung Quốc, của lịch sử Trung Quốc, chi phối lâu dài sự phát triển của Trung Quốc.
Có thể rồi đây vấn đề Nho Pháp không đặt ra một cách lố bịch như phong trào “phê Lâm phê Khổng” nữa. Mao Trạch Đông và tư tưởng Mao Trạch Đông cũng có thể bị lên án, đem ra phê phán kịch liệt. Nước Trung Hoa có thể thành cường quốc hiện đại. Nhưng cường quốc hiện đại, để theo hướng phát xít đó, có tránh khỏi những nét rất Tầu? Và để đối phó với cái hiểm họa mà nó sẽ gây ra cho cả loài người, và trước tiên cho nước Việt Nam, không may quá gần gũi lại án ngữ ngay cửa ngõ bành trướng của họ, mọi người nên tìm trong bộ mặt hiện đại của nó cái bản chất mang dấu ấn sâu sắc của quá khứ?
Kết luận
Giữa một thời đại mà tất cả các dòng thác cách mạng đang đổ về một hướng, lôi kéo mọi thế lực không cưỡng lại được, thì con đường Trung Quốc thật độc đáo. Mọi người hướng về dân chủ thì Trung Quốc tăng cường chuyên chế, mọi người tìm kiếm hòa bình thì Trung Quốc gây chiến, mọi người đổ xô vào kinh tế, khoa học kỹ thuật thì Trung Quốc dốc sức vào chiến tranh, mọi người đang hướng vào tương lai tìm lời giải đáp thì Trung Quốc quay về quá khứ. Trong hoạt động quân sự Mao Trạch Đông muốn chọn một cách đi độc đáo, hơn thế lại muốn cả thế giới coi đó là duy nhất đúng, muốn cả thế giới đi theo con đường của mình. Kết quả là dẫn Trung Quốc đến một chế độ quân sự hóa cực tàn bạo, một chủ nghĩa bành trướng thật phiêu lưu, tàn bạo, phiêu lưu đặc biệt Tầu. Quá khứ đang định hướng sự phát triển của Trung Quốc hiện đại. Dân tộc Trung Hoa có một nền văn minh lâu đời một quá khứ vĩ đại. Nó làm vinh quang cho cả dân tộc. Thế nhưng nó cũng là cây cổ thụ thân to, gốc bền, rễ và cành của nó trùm lên cả thời hiện tại; nó cũng là một gánh nặng cho sự phát triển của Trung Quốc hiện đại. Đối với mọi người suy nghĩ lành mạnh con đường của Mao, cách làm, cách nghĩ của những người theo Mao thật phi lí, khó hiểu, tưởng như không thể nào có thực. Nhiều người vì vậy trong một thời gian dài đã không tin có thể là như vậy. Thế nhưng đó lại là thực tế kéo được hàng mấy trăm triệu con người đi theo, ngày nay thành một sức mạnh hung bạo chống cách mạng. Không tìm được bản chất của hiện tượng đó thì không cải tạo được nó, không giải được cái lí của cái phi lí thì không làm chủ khắc phục được nó.
Rõ ràng là không thể bỏ qua cái đặc thù của Trung Quốc, tất nhiên làm vậy không phải theo hướng cường điệu cái đặc thù để đối lập đi đến phủ nhận cái phổ biến, phủ nhận quy luật chung của lịch sử loài người, phủ nhận tính chân lý của chủ nghĩa Mác và kinh nghiệm của phong trào công nhân các nước, biện hộ cho những mưu mô xảo trá, dựa vào tính đặc thù để biện hộ con đường dân tộc chủ nghĩa tư sản. Tìm hiểu nét đặc thù Trung Quốc chỉ là để, và nhất định sẽ giúp ta, hiểu cái phổ biến cụ thể hơn, hành động có kết quả hơn.
Vấn đề Nho Pháp là một chứng tích cho ta đi tìm cái đặc thù như vậy. Tôi đã không bàn nội dung và giá trị của hai học thuyết đó, không bàn chiến dịch “phê Lâm phê Khổng” mà chỉ nhấn mạnh cách đặt vấn đề và hướng giải quyết vấn đề như vậy có ý nghĩa lịch sử bộc lộ một cái gì cố hữu rất quen thuộc của Trung Quốc.
Lịch sử lâu dài đã rèn luyện cho giai cấp thống trị từ vua, quan, quân phiệt, thổ hào đến nha lại những thủ đoạn, những thói quen, những lý thuyết để thống trị. Tư tưởng Nho gia và Pháp gia, biện pháp Nho pháp tịnh dụng chính là tổng kết lý luận của nhóm thống trị cao nhất. Hướng tịnh dụng Nho và Pháp đã cung cấp cho các thế hệ người cầm quyền trong lịch sử cho đến cả ngày nay hướng để sắp xếp, xử lí với các lực lượng, cách quan niệm chức trách, làm hình thành những mưu đồ, những tham vọng, những cách đối phó với thực tế. Theo dấu vết đó ta có thể tìm được cái tham, cái phi lý, cái thâm hiểm đang chi phối cách tính toán của những người theo chủ nghĩa bành trướng đại Hán hiện tại.
Nhưng lịch sử cũng lại rèn luyện cho nhân dân sống dưới ách thống trị như vậy những mánh khóe để đối phó với các biện pháp thống trị trên. Cách đối phó thường là “dùng gậy ông đập lưng ông”. Ở đây hầu như chỉ thấy Nho mà không thấy Pháp. Nhưng không nên quan niệm Nho và Pháp hoàn toàn đối lập, cô lập, không nên quan niệm chỉ có bộ hai Nho Pháp. Đằng sau hệ tư tưởng còn có một cơ sơ kinh tế - xã hội, một cơ chế chính trị xã hội còn có sức tác động mạnh hơn là hệ tư tưởng, là tàn dư của hệ tư tưởng.
Tìm hiểu những điều đó và sự tương ứng giữa những cái đó, chúng tôi nghĩ có thể cung cấp được những dữ kiện khoa học giúp ta hiểu xu hướng của nước Trung Hoa ngày nay, góp phần vào việc tìm hướng đối phó bằng hành động thực tế chống nguy cơ bành trướng Đại Hán.
Huế 07/05/1979
Nông dân khởi nghĩa đã thắng lợi. Đại ca đã lên ngôi hoàng đế. Rút kinh nghiệm “chính quyền từ mũi súng”, đại ca muốn dùng mũi súng trong tay nông dân mà mở rộng chính quyền của hoàng đế ra cả thiên hạ. Và thiên hạ vào thời hiện đại, với tri thức địa lý đã mở rộng, ngũ phục đã lan đến năm châu bốn bể, nếu không phải là rộng hơn.
Những người theo Mao nói tìm ra ở Pháp gia tinh thần cách mạng, tức là không nửa đường dừng bước, không thủ cựu, dám nghĩ dám làm, dám thay đổi. Đó chỉ là giả nhân, giả nghĩa theo thủ đoạn “ngoại Nho” của hoàng đế mà thôi. Còn phần “nội Pháp” thì họ muốn tìm ở đó tinh thần cực quyền, tinh thần vũ lực, hiếu chiến và coi dân là công cụ. Không phải chỉ có đối với tư tưởng Pháp gia, cả đối với tư tưởng Mác-Lênin, Mao Trách Đông cũng chẳng phải chỉ tìm ở đó lý thuyết mâu thuẫn, đấu tranh giai cấp, vô sản chuyên chính và quan hệ sản xuất (tập thể hóa, quốc hữu hóa tư liệu sản xuất) đó sao? Cái họ thích ở chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Cộng sản không phải là lý luận xây dựng xã hội tiền tiến, tự do, hạnh phúc, dân chủ, nhân đạo cao, mà chỉ là phương pháp củng cố được chuyên chính hiệu quả hơn, thu sản phẩm lao động của dân được dễ dàng hơn và được nhiều hơn để chuẩn bị chiến tranh làm cho Trung Quốc thành siêu cường. Tư tưởng Mao Trạch Đông cũng được biểu đạt bằng những thuật ngữ Mácxít như mâu thuẫn, biện chứng pháp, đấu tranh giai cấp… nhưng không phải dựa vào một cơ sở khoa học, một phương pháp luận khoa học nào mà là lựa chọn, lấy bỏ trong tất cả mớ lý luận hỗn tạp xưa và nay, đông và tây theo một lập trường, đúng những quan điểm củng cố chuyên chế (với nhãn hiệu vô sản chuyên chính) và phát triển bành trướng (với nhãn hiệu làm cách mạng thế giới).
Rõ ràng một xu hướng phục tích nhưng không phải phục tích tư bản chủ nghĩa. Sau cách mạng thành công, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã tiến hành nhiều hoạt động cải tạo và xây dựng với tốc độ đáng phấn khởi. Những hoạt động đó có ý nghĩa cách mạng, có lợi cho nhân dân Trung Quốc và chuẩn bị điều kiện cho Trung Quốc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vấn đề được đặc biệt nhấn mạnh và cũng là kết quả đã thu được là làm hình thành quan hệ sản xuất mới. Thế nhưng sự thay đổi đó, tự thân nó, trong điều kiện của nền sản xuất thấp kém và trình độ văn hóa và xã hội lạc hậu của Trung Quốc chỉ đang là đứng trước ngã ba đường: Trung Quốc có khả năng phát triển lên chủ nghĩa xã hội, cũng có khả năng hướng sang chủ nghĩa tư bản hay nằm ỳ ở phong kiến. Cả một nông thôn bao la với số nông dân khổng lồ đang nằm trong tình trạng lạc hậu đe dọa níu sự phát triển lại. Mặt khác, ở một số điểm, những cải cách nói trên lại làm cho xã hội Trung Quốc giống chế độ chuyên chế xưa hơn.
Trong quan hệ sản xuất mới, tư liệu sản xuất được tập thể hóa, quốc hữu hóa, người ta thấy gắn với chế độ vương hữu hơn chế độ tư hữu tư sản. Người nông dân thấy ở việc tập thể hóa nông nghiệp hình ảnh chế độ công điền, hợp với lí tưởng quân bình mà họ ôm ấp xưa nay. Trong một xã hội công nông binh mà các tổ chức phi nông thôn cũng đều công xã hóa, như Mao Trạch Đông đã muốn làm triệt để như vậy, người dân sẽ thấy mình sống trong làng xã phổ biến hơn, rất hợp với tư tưởng ghét thành thị, ghét tư sản, ghét trí thức, ghét mọi cái xa lạ họ. Về mặt chính quyền, cũng lại là bộ máy quan liêu, đội quân thường trực và trên cùng cũng lại là một người cầm lái vĩ đại, anh minh, thần thánh, chẳng khác thiên tử. Do đặc điểm lịch sử, kinh tế và xã hội của Trung Quốc, chủ nghĩa tư bản tuy đã phát triển nhưng chỉ tập trung ở vùng ven biển và các thành phố lớn. Quan hệ tư sản chưa thành phổ biến để sự phục tích hướng vào đó. Mao đã xây dựng chính quyền mới không khác sau các cuộc khởi nghĩa nông dân thắng lợi xưa kia: những người có mặt ở tụ nghĩa đường chia nhau cầm quyền thiên hạ trong đó đại ca lên ngôi hoàng đế. Mao đã lập một tân trào cũng có hai ban văn võ (phái quân sự, phái hành chánh) cũng có xung đột phe phái, xung khắc giữa địa phương và trung ương và cuối cùng lại xuất hiện cả thái tử và hoàng hậu nữa. Cho nên nếu như đối với các nước láng giềng tân trào này có nảy ra tham vọng thiên triều thì cũng chỉ là việc tự nhiên: ngựa đi theo đường cũ.
Người nông dân được cách mạng giải phóng lại tiếp tục sống trong một môi trường đã được cải tạo thành ra quen thuộc, tư tưởng lại không được cải tạo theo hướng xã hội chủ nghĩa chân chính. Họ được lãnh tụ đưa lại ruộng đất giúp họ trả thù phú nông, địa chủ, hàng ngàn đời áp bức bóc lột và làm nhục họ, lại đưa họ lên làm gương, làm mẫu, làm thầy để cải tạo dân thành thị là những người họ vẫn kỳ thị, thỏa mãn được lòng ghét kẻ giầu sang, ghét trí thức, trả thù cái thành thị vừa phức tạp vừa kiêu hãnh khó hiểu. Với cuộc sống cô lập vì cột chặt vào công xã, với thói quen sống đói rách, ít đòi hỏi tự do, hạnh phúc, văn hóa, họ dễ thỏa mãn và cam chịu. Thỏa mãn vì những cái họ có được hưởng, thỏa mãn vì ơn nghĩa, thỏa mãn vì ít đòi hỏi. Họ chỉ phải lao động nhiều, đóng góp nhiều, bị ràng buộc hơn, nhưng những cái đó đối với họ cũng đã thành quen. Trước cách mạng họ còn khổ hơn. Họ sẵn sàng tin tưởng ở lãnh tụ, cũng do thói quen của nông dân, từ lâu đã được đồng nhất với Thánh nhân: nhân ái, sáng suốt và linh thiêng. Giữa một bên là Hoàng đế và một bên là lê dân - xích tử, những người được đưa vào bộ máy Đảng, chính quyền, quân đội cũng đã có sẵn những mẫu mực, những con đường để bước theo: quan, lại, thổ hào, quân phiệt và kẻ sĩ.
Trong tình hình thực tế đã đi đến như vậy, thật không có gì lạ lùng vấn đề con đường phát triển được đưa ra bàn lại, xuất hiện dưới dạng tranh luận Nho - Pháp.
Con đường Mao Trạch Đông lựa chọn đã đưa Trung Quốc quay lại với các triều đại phong kiến, nhưng Mao thiết tha muốn Trung Quốc thành một cường quốc của thế giới hiện đại, dè bỉu sự nghiệp tầm thường của Tần Thủy Hoàng, Hán Võ đế, Đường Thái Tông. Những người chống Mao, bị Mao coi là Nho cũng vậy. Họ có thừa nhiệt tình, quyết tâm, không ngại san bằng mọi trở lực và học được không ít những kinh nghiệm thế giới trong vấn đề hiện đại hóa. Nhắm mục đích đó những nhà lãnh đạo Bắc Kinh đã cố gắng giải quyết vấn đề vốn, vấn đề kỹ thuật, vấn đề chuyên gia, không ngần ngại dùng cả những biện pháp phản động, nhục nhã như bắt tay với các nước đế quốc, quan hệ với các chế độ phản động để đạt mục đích. Quan niệm một nước hiện đại, cường quốc hiện đại của họ là có nền công nghiệp hiện đại, có nền nông nghiệp hiện đại, có nền kỹ thuật hiện đại, có nền quốc phòng hiện đại - bốn cái hiện đại theo thứ tự này hay thứ tự khác. Nói cách khác bốn hiện đại cũng là phú cường, phú cường dựa trên sản xuất hiện đại, với khoa học kỹ thuật hiện đại. Nước Trung Hoa phú cường hiện đại mà họ định xây dựng cũng theo chế độ xã hội chủ nghĩa, và tính đến sự sốt ruột đại nhảy vọt của Mao Trạch Đông của những năm 50 thì còn muốn nó là cộng sản chủ nghĩa trước cả Liên Xô nữa. Có lẽ cũng không nên nghĩ rằng họ nói như vậy hoàn toàn chỉ là để lừa dối. Nhưng có phần chắc là chưa bao giờ những người lãnh đạo Bắc Kinh cả Mao và những người kế tục Mao, hiểu đúng thực chất xã hội xã hội chủ nghĩa cả. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa hay Cộng sản chủ nghĩa của Mao chưa bao giờ quan tâm đến chủ nghĩa nhân đạo, đến chủ nghĩa dân chủ, đến tự do hạnh phúc của con người, đến nền văn hoá phát triển, đến lợi ích quốc tế, lợi ích các dân tộc bình đẳng. Thiếu một cơ chế xã hội dân chủ, một nền văn hóa nhân đạo chủ nghĩa, một cường quốc hiện đại như vậy – dẫu có thực hiện được - cũng chưa thể coi là dân chủ chứ chưa nói đến xã hội chủ nghĩa hay cộng sản. Việc đề cao tinh thần Pháp gia của những người lãnh đạo Bắc Kinh cho ta thấy khuynh hướng hạn chế thêm nữa những quyền dân chủ đã quá ít ỏi, bóp nghẹt hơn nữa những đòi hỏi nhân đạo chủ nghĩa vốn đã quá nghèo nàn trong xã hội Trung Quốc. Cho nên nếu có giải quyết được mọi vấn đề mà họ đặt ra để thực hiện được bốn hiện đại hóa thì nước Trung Hoa đó đi theo hướng chuyên chế và bành trướng, tức là phát xít hóa.
Lịch sử thật là bướng bỉnh. Hơn hai mươi thế kỉ đã trôi qua mà khi giải quyết phương hướng cho tương lai thực tế lại quay lại vấn đề Nho hay Pháp, và cũng có thể cả Nho, Pháp, Đạo - một cái thế chân vạc vững vàng xưa nay trong lịch sử Trung Quốc. Sự luẩn quẩn như vậy bắt chúng ta phải nghĩ đến một cái gì đó thuộc về phần sâu xa nhất trong quy luật phát triển của xã hội Trung Quốc, của lịch sử Trung Quốc, chi phối lâu dài sự phát triển của Trung Quốc.
Có thể rồi đây vấn đề Nho Pháp không đặt ra một cách lố bịch như phong trào “phê Lâm phê Khổng” nữa. Mao Trạch Đông và tư tưởng Mao Trạch Đông cũng có thể bị lên án, đem ra phê phán kịch liệt. Nước Trung Hoa có thể thành cường quốc hiện đại. Nhưng cường quốc hiện đại, để theo hướng phát xít đó, có tránh khỏi những nét rất Tầu? Và để đối phó với cái hiểm họa mà nó sẽ gây ra cho cả loài người, và trước tiên cho nước Việt Nam, không may quá gần gũi lại án ngữ ngay cửa ngõ bành trướng của họ, mọi người nên tìm trong bộ mặt hiện đại của nó cái bản chất mang dấu ấn sâu sắc của quá khứ?
Kết luận
Giữa một thời đại mà tất cả các dòng thác cách mạng đang đổ về một hướng, lôi kéo mọi thế lực không cưỡng lại được, thì con đường Trung Quốc thật độc đáo. Mọi người hướng về dân chủ thì Trung Quốc tăng cường chuyên chế, mọi người tìm kiếm hòa bình thì Trung Quốc gây chiến, mọi người đổ xô vào kinh tế, khoa học kỹ thuật thì Trung Quốc dốc sức vào chiến tranh, mọi người đang hướng vào tương lai tìm lời giải đáp thì Trung Quốc quay về quá khứ. Trong hoạt động quân sự Mao Trạch Đông muốn chọn một cách đi độc đáo, hơn thế lại muốn cả thế giới coi đó là duy nhất đúng, muốn cả thế giới đi theo con đường của mình. Kết quả là dẫn Trung Quốc đến một chế độ quân sự hóa cực tàn bạo, một chủ nghĩa bành trướng thật phiêu lưu, tàn bạo, phiêu lưu đặc biệt Tầu. Quá khứ đang định hướng sự phát triển của Trung Quốc hiện đại. Dân tộc Trung Hoa có một nền văn minh lâu đời một quá khứ vĩ đại. Nó làm vinh quang cho cả dân tộc. Thế nhưng nó cũng là cây cổ thụ thân to, gốc bền, rễ và cành của nó trùm lên cả thời hiện tại; nó cũng là một gánh nặng cho sự phát triển của Trung Quốc hiện đại. Đối với mọi người suy nghĩ lành mạnh con đường của Mao, cách làm, cách nghĩ của những người theo Mao thật phi lí, khó hiểu, tưởng như không thể nào có thực. Nhiều người vì vậy trong một thời gian dài đã không tin có thể là như vậy. Thế nhưng đó lại là thực tế kéo được hàng mấy trăm triệu con người đi theo, ngày nay thành một sức mạnh hung bạo chống cách mạng. Không tìm được bản chất của hiện tượng đó thì không cải tạo được nó, không giải được cái lí của cái phi lí thì không làm chủ khắc phục được nó.
Rõ ràng là không thể bỏ qua cái đặc thù của Trung Quốc, tất nhiên làm vậy không phải theo hướng cường điệu cái đặc thù để đối lập đi đến phủ nhận cái phổ biến, phủ nhận quy luật chung của lịch sử loài người, phủ nhận tính chân lý của chủ nghĩa Mác và kinh nghiệm của phong trào công nhân các nước, biện hộ cho những mưu mô xảo trá, dựa vào tính đặc thù để biện hộ con đường dân tộc chủ nghĩa tư sản. Tìm hiểu nét đặc thù Trung Quốc chỉ là để, và nhất định sẽ giúp ta, hiểu cái phổ biến cụ thể hơn, hành động có kết quả hơn.
Vấn đề Nho Pháp là một chứng tích cho ta đi tìm cái đặc thù như vậy. Tôi đã không bàn nội dung và giá trị của hai học thuyết đó, không bàn chiến dịch “phê Lâm phê Khổng” mà chỉ nhấn mạnh cách đặt vấn đề và hướng giải quyết vấn đề như vậy có ý nghĩa lịch sử bộc lộ một cái gì cố hữu rất quen thuộc của Trung Quốc.
Lịch sử lâu dài đã rèn luyện cho giai cấp thống trị từ vua, quan, quân phiệt, thổ hào đến nha lại những thủ đoạn, những thói quen, những lý thuyết để thống trị. Tư tưởng Nho gia và Pháp gia, biện pháp Nho pháp tịnh dụng chính là tổng kết lý luận của nhóm thống trị cao nhất. Hướng tịnh dụng Nho và Pháp đã cung cấp cho các thế hệ người cầm quyền trong lịch sử cho đến cả ngày nay hướng để sắp xếp, xử lí với các lực lượng, cách quan niệm chức trách, làm hình thành những mưu đồ, những tham vọng, những cách đối phó với thực tế. Theo dấu vết đó ta có thể tìm được cái tham, cái phi lý, cái thâm hiểm đang chi phối cách tính toán của những người theo chủ nghĩa bành trướng đại Hán hiện tại.
Nhưng lịch sử cũng lại rèn luyện cho nhân dân sống dưới ách thống trị như vậy những mánh khóe để đối phó với các biện pháp thống trị trên. Cách đối phó thường là “dùng gậy ông đập lưng ông”. Ở đây hầu như chỉ thấy Nho mà không thấy Pháp. Nhưng không nên quan niệm Nho và Pháp hoàn toàn đối lập, cô lập, không nên quan niệm chỉ có bộ hai Nho Pháp. Đằng sau hệ tư tưởng còn có một cơ sơ kinh tế - xã hội, một cơ chế chính trị xã hội còn có sức tác động mạnh hơn là hệ tư tưởng, là tàn dư của hệ tư tưởng.
Tìm hiểu những điều đó và sự tương ứng giữa những cái đó, chúng tôi nghĩ có thể cung cấp được những dữ kiện khoa học giúp ta hiểu xu hướng của nước Trung Hoa ngày nay, góp phần vào việc tìm hướng đối phó bằng hành động thực tế chống nguy cơ bành trướng Đại Hán.
Huế 07/05/1979
[1]Trong bản gốc, tác giả đánh máy là “tĩnh dụng”. Thực ra từ này đọc là “tịnh dụng” hoặc “tính dụng” nghĩa là “kiêm dùng” hoặc “cùng dùng”. Theo chúng tôi, từ này tác giả phát âm theo lối xứ Nghệ, vì vậy chúng tôi mạo muội sửa lại cho đúng âm đọc. Gs Nguyễn Tài Cẩn cũng xác định như vậy (Tất cả các chú thích đều của người đánh máy.)[2]Chiến tranh “kiêm tính”: Chữ dùng của Mặc Tử trong thiên “Thiên chí hạ”, để chỉ việc chiến tranh thôn tính đất đai[3]Kha lão: Từ để tôn xưng những người cao tuổi tôn quý ở trong làng xã[4]Tam lão: Thời xưa mỗi làng cử ra một người từ 50 tuổi trở lên có đức hạnh, nắm giữ việc giáo hóa dân chúng ở trong làng gọi là “tam lão”. Như nước Ngụy thời Chiến Quốc có “tam lão”, nước Tần thì đặt ra chức “hương tam lão”, đến đời Hán thì lại thêm “huyện tam lão”, đến thời Đông Hán còn có “quận tam lão”, và “quốc tam lão”…[5]Cỗ thái lao: Cỗ hiến sinh dùng thịt của ba loài vật là: ngưu (bò), dương (dê), thỉ (lợn)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét