ĐỌC CUỒNG VÂN TẬP CỦA THI TĂNG NHẤT HƯU (phần 2)
狂雲集
Đi tìm chân thực trong hư cấu
Biên soạn: Nguyễn Nam Trân
1)
Thơ vịnh mỹ nhân
thời xưa và tình cảm đối với người mẹ bạc mệnh:
Bên
cạnh người cha như thế, Ikkyuu còn có một người mẹ bạc phước mà ông đã phải
chia tay từ bé.Tuy vậy, hình như bà vẫn theo dõi cuộc sống của ông. Bằng cớ là
khi không hiểu vì cớ gì vào năm 21 tuổi Ikkyuu đâm ra tuyệt vọng và tìm cách lao
xuống cầu tự sát thì một nguời đầy tớ trai bà phái đi theo canh chừng đã cản lại
được.
Trong
thi tập của Ikkyuu, ông viết nhiều bài thơ vịnh mỹ nhân. Đó cũng là chuyện thường
làm của văn nhân đời xưa. Tuy nhiên, những nhân vật cổ điển Ikkyuu nhắc tới thường
là những người đẹp bị ruồng rẫy hay bỏ rơi, nghĩa là chịu sự khắc nghiệt của số
phận. Người ta tự hỏi những Trần A Kiều, Ban Tiệp Dư, Dương Quí Phi, Vương Chiêu
Quân, Nga Hoàng và Nữ Anh... có là hình ảnh, dù một phần nào, của người mẹ bị đuổi
ra khỏi hoàng cung đó hay không. Xin đọc những vần thơ “cung oán” sau đây (bà
Sonja Arntzen đã khéo léo dịch sang tiếng Anh thành “boudoir lament”):
Trường Môn xuân
thảo
Thu hoang Trường
Tín mỹ nhân ngâm,
Kinh lộ vô môi
thượng uyển âm.
Vinh nhục bi
hoan mục tiền sự,
Quân ân thiển xứ
thảo phương thâm.
Cỏ xuân cung Trường
Môn
Quạnh
hiu Trường Tín mối tình câm,
Vườn
chẳng ai qua, rủ bóng thầm.
Vinh
nhục khóc cười bày trước mắt,
Ơn
vua ghẻ lạnh, cỏ xanh thâm.
Bài
thơ trên được biết làm ra vào năm Ikkyuu 13 tuổi. Thật là một tài năng chín sớm.
Đề tài nói về truyện nàng A Kiều tức Trần Hoàng Hậu bị Hán Vũ Đế bỏ rơi chịu lạnh
lùng trong cung Trường Môn. Câu khởi nhắc đến cung Trường Tín, nơi Ban Tiệp Dư
đến hầu hạ Thái Hậu sau khi tình yêu nồng nàn của Hán Thành Đế đã chuyển qua
cho chị em Triệu Phi Yến và Triệu Hợp Đức. Câu thừa “Kinh lộ vô môi” lấy tứ thơ
Đỗ Mục (có thuyết cho là Hứa Hồn) trong “Tống ẩn giả nhất tuyệt” (Thơ tuyệt cú
tiễn đưa người đi ở ẩn) nhưng tác giả đã chuyển cảnh ẩn sĩ không người tiến cử
(vô môi) nên vua không dùng sang cảnh nàng cung phi bị vua chẳng đoái hoài.
Mã Ngôi (tam thủ
kỳ nhất)
Thiên tuế Mã
Ngôi tàn nguyệt hồn,
Hoàng kim dụng tận
thụ quân ân.
Hải đường thụy ổn
xuân phong diện,
Do thị thi nhân
thiêm lệ ngân.
Gò Mã Ngôi
Hồn
nương trăng xế gò nghìn năm,
Ơn
vua hoang phí của bao lăm.
Hải
đường say giấc trong hương gió,
Để
khách thơ thêm giọt lệ xuân.
Dĩ
nhiên đây là thơ nói đến cảnh người đẹp Dương Thái Chân bị quân đội gây áp lực
khiến Đường Huyền Tông quay mặt làm ngơ cho nàng bị treo cổ ở nhà trạm Mã Ngôi
trên đường lánh giặc vào đất Thục.
Vương Chiêu Quân
Quân vương tại
chẩm mộng hồn tàn,
Xuất tái càn
khôn phong sắc hàn.
Duy hữu tỳ bà
thân bạn thiếp,
Kim tiêu nhất
khúc hướng thùy đàn.
Quốc gia an nguy
thiếp nhất thân,
Vũ thanh phong sắc
lệ ngân tân.
Quân ân thiên tuế
thâm ư thảo,
Hồ lỗ hòa thân
thanh nhãn xuân.
Nàng Vương Tường
Mộng
tàn trên gối nhớ vua hoài,
Ngoài
ải đất trời gió lạnh dài.
Chỉ
có tỳ bà làm bạn thiếp,
Đêm
nay dạo khúc, hỏi cho ai?
Một
thân chống đỡ nước non nhà,
Gió
táp mưa sa mắt lệ nhòa.
Cỏ
dày muôn thuở ơn sâu ấy,
Khiến
gượng hòa thân đất rợ xa.
Chiêu
Quân Vương Tường làm vật hy sinh để Hán Nguyên Đế có thể củng cố ngoại giao với
các bộ tộc phương bắc cũng là một chủ đề về sự bội bạc của người đàn ông và sự
rẻ rúng của thân phận phụ nữ.
Hoàng Lăng miếu
(tứ thủ, kỳ tam kỳ tứ)
Cổ miếu Hoàng
Lăng trúc nhất tùng,
Giai nhân hà xứ
động thanh phong.
Trùng Hoa chân
thị phong lưu chủ,
Thiên Bảo Minh
Hoàng đế nghiệp không.
Hà xứ ngư thê
chu tự khinh,
Thiến quần nhị nữ
xướng ca thanh.
Dâm phong Thiên
Bảo cổ phong Thuấn,
Triều thủy, Ly Sơn
vô hạn tình.
Miếu Hoàng Lăng
(bài 3 và 4)
Miếu
cũ Hoàng Lăng trúc một lùm,
Nghe
như trong gió mỹ nhân rung,
Thuấn
kia mới thật vua tài đức,
Rõ
khổ Minh Hoàng đại nghiệp không.
Vợ
chài lướt sóng hỏi về đâu,
Váy
xanh hai ả hát đôi câu,
Khúc
xưa đứng đắn, mới, bôn phóng.
Tương
thủy, Ly Sơn tình xiết bao.
Hai
bà cung phi vua Thuấn tuy không bị vua ruồng bỏ nhưng cũng lẽo đẽo theo chồng
khi ông xuống miền Nam dẹp loạn Xí Vưu rồi chết ở đất Thương Ngô. Cuối cùng hai
bà đã tự trầm trên dòng sông Tương và đó cũng là một hình ảnh đau lòng khác của
thân phận phụ nữ. Miếu Hoàng Lăng là nơi thờ hai bà. Trúc vùng sông Tương được
biết có chấm chấm như ngấn nước mắt.
Mượn
đề tài Đỗ Mục để nói về Dương Quí Phi:
Tán Đỗ Mục (đệ
ngũ thủ)
Thiên Bảo triều
đình vô thị thần,
Hàn nho đáo xứ
ký ngâm thân.
Vong quốc Dương
phi kim ngọc cảnh,
Hải đường thụy
thục Mã Ngôi xuân.
Vịnh Đỗ Mục (bài
thứ năm)
Cả
triều Thiên Bảo có ai chầu?
Qua
đó hàn nho cám nỗi đau.
Xuân
Mã Ngôi Pha hờn mất nước,
Hải
đường giấc quạnh đến thiên thâu.
Tuy
xót thương Dương Quí Phi nhưng cũng ngầm chê đạo đức thời Thiên Bảo. Khác với
Nga Hoàng Nữ Anh trung trinh tiết liệt, Thái Chân dù sao vẫn là một “ác nữ” đã
làm sụp đổ đế nghiệp của Huyền Tông. Nàng nào có khác chi Bao Tự (bài U Vương)
hay Trương Quý Phi, Khổng Quí Tân (bài Mỹ nhân khuynh thành) đã nhảy xuống giếng
tự tầm với Trần Hậu Chủ... là những nhân vật lịch sử khác. Đặc biệt, qua đó, Ikkyuu
đã chĩa mũi dùi gián tiếp công kích phu nhân Hino Tomita, vợ Shôgun Yoshimasa, người
đàn bà đam mê quyền lực và của cải, đầu mối cho cuộc đại loạn Ônin.
Ngoài
ra, về việc người mẹ đáng thương của ông, nhà nghiên cứu Kino Kazuyoshi còn kể
lại rằng năm Ôei 25 (1418) trong thời gian ông theo học Kasô Sôdon, một hôm có
nhà sư mù đàn biwa đến Hưng Thiền Am chơi và diễn tấu trước mặt Kasô cũng như
chư đệ tử một biến khúc từ Truyện Heike. Đến đoạn Nàng Giô xuất gia (Giô shukke)
rất bi ai, bỗng dưng Shuuken (Ikkyuu) lúc đó khoảng 25 tuổi, ôm mặt khóc ròng. Ông
phải chạy ra ngoài bãi lau để tiếp tục khóc một mình. Ai đọc Truyện Heike đều biết
nàng Giô là một người con hát, xinh đẹp tài giỏi nhưng bị quyền thần Taira no
Kiyomori thất sủng sau khi chán nàng vì đã nếm được của lạ khác. Chính Hotoke,
cô gái đến sau, do Giô thương hại đưa vào, không ngờ trở thành đầu mối của sự bạc
phước của nàng. Khi đến lượt Hotoke chịu số phận hẩm hiu, nàng đã tìm đến thảo
am nơi Giô tu hành để xin được tha lỗi. Có phải chăng Shuuken đã chạnh lòng nhớ
đến người mẹ đã bị đuổi khỏi cung son, tìm nơi sinh nở hòn máu hoàng gia ở khu
ngoại thành là Sagano trong nhà dân dã.
Mỹ nhân thất sủng
Cựu thì hảo cảnh
chỉ vinh hoa,
Dụng tận hoàng
kim lao quốc gia.
Hoa diễm ngọc
nhan linh lạc tịch,
Không ngâm ngọc ảnh
chiếu hàn nha.
Người đẹp bị bỏ
rơi.
Vàng
son một thuở đã trôi qua,
Tán
tận của tiền, khổ quốc gia.
Nhan
sắc tàn phai, bước lưu lạc
Ngậm
ngùi vóc ngọc hóa hàn nha.
2)
Thơ đánh dấu những
chặng đường khoắc khoải đi tìm lẽ đạo:
Sau
khi từ giã mẹ để đi từ chùa này đến chùa khác tìm đường tu học, Ikkyuu đã sáng
tác nhiều bài thơ đánh dấu các chặng đường này. Trong đó có những bài như sau:
Tú cú hàn nga (tên
đặt tạm)
Tú cú hàn nga ngũ
thập niên,
Quý nê nhưng tổ
Động Tào thiền.
Thu phong hốt
sái tiểu thời lệ,
Dạ vũ thanh đăng
bạch phát tiền.
Thơ đẹp thơ buồn
Tuy
tìm thi hứng đã bao thu
Nào
dám thơ mình sánh tổ đâu.
Gió
vàng ráo lệ thời trai trẻ,
Mưa
tối đèn xanh tóc trắng màu.
Bài
thơ trên Ikkyuu làm ra vào năm 1463, lúc ông 70 tuổi, có thể xem như một hồi ức
với biết bao cảm khái về chặng đường nửa thế kỷ tu hành và làm thơ. Thơ có nguồn
gốc gần là 2 câu nổi tiếng của Động Xuân Ông tức Biệt Nguyên Viên Chỉ, một thiền
gia lớp trước thuộc tông Tào Động (Thu
phong bạch phát tam thiên trượng, Dạ vũ thanh đăng nhị thập niên) mà
Ikkyuu tôn kính với nguồn gốc xa hơn nữa là thơ Lý Bạch thời Thịnh Đường (Bạch phát tam thiên trượng, Duyên sầu
tự cá trường. Bất tri minh kính lý, Hà xứ đáo thu sương).
Xuân y túc hoa
Ngâm hành khách
tụ kỷ thời tình,
Khai lạc bách
hoa thiên địa thanh.
Chẩm thượng hương
phong mỵ da ngộ,
Nhất trường xuân
mộng bất phân minh.
Mặc áo mát, đêm
xuân xem hoa
Xuân
sang giục khách lại lên đường,
Vui
hoa phất phới, đất đưa hương.
Trên
gối tình ai vương mộng lẻ,
Hư
thực không sao nhận tỏ tường.
.
Ngược
lại với bài trước, đây là một bài thơ tương truyền ông làm lúc mới có 15 tuổi,
thời là một chú tiểu. Lời tựa viết “Chu Kiến khát thực[1], Giáp Tý thập
ngũ tuế”. Chu Kiến là tên ông ngày bé. Hai câu cuối trong bài phỏng theo thơ Hàn
Hoành đời Thịnh Đường: Cấp quản trú thôi
Bình Lạc tửu, Xuân y dạ túc Đỗ Lăng hoa. Ý nói
cuộc sống phong lưu hưởng lạc chỉ biết uống rượu và thưởng hoa. Qua bài thơ này,
Ikkyuu ca tụng niềm vui lúc xuân về cũng như cái đẹp của mỹ nhân (chẩm thượng hương phong). Câu cuối giữ
nguyên văn thơ thi nhân Trung Đường Trương Đỉnh trong bài Ký Nhân thấy trong
Tam Thể Thi: Khốc liên phong nguyệt vị đa
tình, Hoàn đáo xuân thì biệt hận tình. Ỷ trụ tầm tư bội trù trướng, Nhất trường
xuân mộng bất phân minh. Tuy nhiên, phải nói đây là một bài đạo ca xem
mọi cái đẹp xuân thì như là mộng huyễn (hoa
khai hoa lạc, mỵ da ngộ, nhất trường xuân mộng). “Hương phong” ý nói hơi thở
thơm tho của mỹ nhân, như ý từng thấy trong Điện tiền khúc cũng của Vương Xương
Linh.
Trung thu vô
nguyệt
Thị vô nguyệt chỉ
hữu danh minh,
Độc tọa nhàn
ngâm đối thiết kềnh ,
Thiên hạ thi
nhân đoạn trường tịch,
Vũ thanh nhất dạ
thập niên tình.
Đêm Trung Thu
không trăng
Mang
tiếng trung thu chả thấy trăng,
Riêng
mình đối bóng ngọn hàn đăng.
Đoạn
trường thi sĩ trong thiên hạ,
Gió
mưa một tối, chuyện mười năm.
Bài
thơ tương truyền làm ra vào năm 17 tuổi. Còn trẻ như thế mà thấy rõ Ikkyuu đã có
cái nhìn bi quan về cuộc đời. Đêm trung thu mà không thấy trăng, chỉ có nỗi đoạn
trường, ngồi đếm hạt mưa rơi, tưởng đến mười năm nuôi mối hận trong lòng. Tâm tình
độc tọa giống như Vương Duy trong Thu dạ
độc tọa. Thiết kềnh là đế đèn bằng sắt, vẽ nên khung cảnh vô cùng lạnh lẽo.
Thơ Lý Nguyện: Dục ngữ nhân duyên khủng
đoạn trường. Hoàng Sơn Cốc lại có câu: “Ngã
cư bắc hải quân nam hải, Ký nhạn truyền thư tạ bất năng. Đào lý xuân phong nhất
bôi tửu. Giang hồ dạ vũ thập niên đăng (Phục ký Hoàng Cơ) cũng là tâm trạng
bên đèn riêng bóng, nhìn mưa rơi nhớ chuyện bạn bè xưa.
Cửu kệ đệ nhị thủ
Tàm ngã danh
thanh do vị thao,
Tham thiền học đạo
trường trần lao.
Linh Sơn chính
pháp tảo địa diệt,
Bất ý Ma vương
thập trượng cao
Bài kệ số hai
trong chín bài
Thẹn
nỗi tên mình ai biết đâu,
Học
Thiền lâu lắc, khổ là bao.
Linh
Sơn chính pháp vừa vùi đất,
Đã
thấy yêu ma chục trượng cao.
Bài
thơ nói về sự khó khăn lao khổ của việc tu học. Lúc ấy vào năm 1447, có một tăng
sĩ ở Daitokuji tự sát. Việc báo quan và năm bảy tăng chúng trong chùa bị nhà nước
bắt giam. Tinh thần Ikkyuu suy sụp.
Văn nha hữu tỉnh
Hào cơ sân khuể thức
tình tâm,
Nhị thập niên tiền
tại tức câm.
Nha tiếu xuất trần
La Hán quả,
Nại hà nhật ánh ngọc
nhan ngâm.
Nghe quạ kêu, tỉnh
ngộ
Tình
yêu đánh thức hận lòng xưa,
Hai
chục năm trôi, giờ chẳng ngờ.
Nghe
tiếng quạ cười, phiền não dứt.
Hỏi
người, mặt ngọc sáng ra chưa?
Bài
này tương truyền được làm ra lúc ông 27 tuổi,khi nghe tiếng quạ kêu mà ngộ đạo.
Trước kia, trong Trường Môn xuân tảo (làm vào năm 13 tuổi), ông tỏ ra đồng cảm
với tâm sự Ban Tiệp Dư mà Vương Xương Linh (698-757) đã khai triển trong Trường
Tín Thu Từ (Phụng trữu bình minh kim điện
khai. Thả tương đoàn phiến cộng bồi hồi. Ngọc nhan bất cập hàn nha sắc,
Do đới Chiêu Dương nhật ảnh lai). Trong bài thơ cũ, ông chia sẻ tình cảm
ghen tuông của Ban Tiệp Dư khi gọi tình địch là “con quạ lạnh”. Nay thì thay
vào Hàn nha là Nha tiếu, trước kia còn so đo ngọc nhan,
nay thì nại hà nhật ánh ngọc nhan
ngâm, chứng tỏ ông đã khắc phục được tâm trạng sân si trước đó. Yanagida
Seizan giải thích “thức tình tâm” là “dục tình sống lại”. La Hán ở đây nói về Địa
Tạng Vương, một vị bồ tát trong tiểu thừa đã dẹp hết được phiền não. “Người ngọc”
ám chỉ nàng Ban Tiệp Dư, giờ đây như đã tươi tỉnh vì thấy lại ánh mặt trời (nhật
ánh, chiêu dương tức tình yêu của nhà vua).
Tự sơn trung qui
thị trung
Cuồng Vân thùy
thức thuộc cuồng phong,
Triêu tại sơn
trung mộ thị trung.
Ngã nhược đương
cơ hành bổng yết,
Đức Sơn Lâm Tế
diện thông hồng.
Từ trong núi đi
vào chợ
Cuồng
Vân ai biết tựa cuồng phong,
Sáng
trong núi thẳm chiều chợ nhong.
Nếu
như tớ quát và vung trượng,
Đức
Sơn Lâm Tế thẹn mà trông.
Sơn lộ Nhượng Vũ
Thôn thanh thấu
quá quỷ môn quan,
Báo hổ tung đa cổ
lộ gian.
Ngâm trượng
chung vô phong nguyệt hứng,
Hoàng tuyền cánh
tại mục tiền sơn.
Đường núi Yuzuriha
Cửa
quỷ im hơi lánh thật xa,
Bao
nhiêu hổ báo vết chân qua .
Nương
gậy, gió trăng đà cạn hứng,
Suối
vàng: núi ấy chứ đâu xa.
Cảnh
hổ báo tung hoành giống như những gì Tứ Tổ Đạo Tín đã gặp phải trên đường đi gặp
Ngưu Đầu Pháp Dung ngày xưa (chữ dùng trong Tổ Đường Tập). Ngâm trượng là chống
gậy (ý buồn vì thời thế suy vi) không còn hứng thú thưởng thức thanh phong minh
nguyệt nữa. Bài thơ này làm trong giai đoạn khó khăn và tuyệt vọng của Ikkyuu
(năm 1442, ông 49 tuổi). Để tránh loạn Kakitsu (xảy ra nhân vì tướng Akamatsu ám
sát Shôgun Yoshinori), ông phải vào ẩn trong núi Yuzuriha (Nhượng Vũ Sơn).
Tuy
nhiên, trong cuộc đời đi tìm lẽ đạo, cũng có những giây phút sảng khoái, cao hứng
như cuộc gặp gỡ giữa ông và người con hát mù, sau là thị giả Mori:
Trú Cát Dược Sư
Đường tinh tự
Ưu du thả hỷ Dược
Sư Đường,
Độc khí tiện tiện
thị ngã trường.
Quý tàm bất quản
tuyết sương mấn,
Ngâm tận nghiêm
hàn thu điểm trường
Ức tích Tân viên
cư trú thì,
Vương tôn mỹ dự
thính tương tư.
Đa niên cựu ước
tức vong hậu,
Cánh ái ngọc
giai tân nguyệt tư.
Bài tự đề Dược Sư
Đường ở Sumiyoshi
Dược
Sư thong thả ghé chùa này,
Khí
độc còn sôi một bụng đây,
Quản
chi tóc ngả màu mây bạc,
Thơ
suốt đêm thu giá lạnh đầy.
Nhớ
xưa Xóm Củi mình nằm không.
Nghe
danh công tử, nàng hằng mong.
Bao
năm tưởng đã quên lời ước,
Thềm
ngọc trăng non ý lại nồng.
Hai
bài thơ trước tiên nói về việc lần đầu nghe Mori đàn tỳ bà và hát ở Dược Sư Đường
vào mùa đông năm Bunmei thứ 2 (1470), Ikkyuu cảm động trước nhan sắc của nàng.
Sau đó nói về cái duyên giải cấu tương phùng khiến cho hai người gặp lại nhau
khi ông về ngụ ở Shôsaian (Tùng Thê Am) vùng Sumiyoshi (Trú Cát). Nhân đó, nàng
trở thành thị giả và nguồn cảm hứng cho cuộc đời ông.
Sau
đây là một trong những bài thơ giã biệt cuộc đời được truyền lại nhưng thử hỏi
một danh tăng như ông thì còn mơ mộng những gì? Đâu phải là được tiếp rước về Tây
thiên!
Từ thế thi
Thập niên hoa hạ
lý phương minh,
Nhất đoạn phong
lưu vô hạn tình.
Tích biệt chẩm đầu
nhi nữ tất,
Dạ thâm vân vũ ước
tam sinh.
Thơ lúc lìa đời
Mười
năm kết ước dưới đài hoa,
Sao
vẫn còn chưa thỏa mộng ta.
Tiếc
nỗi đùi nàng đầu hết gối,
Mây
mưa kiếp tới thỏa chăng là.
Đây
là một bài kệ nữa làm ra lúc từ giã cuộc đời, chỉ thấy chép trong Kyôunshuu bản
nhà in Minyuusha (Dân Hữu Xã). Phương minh tức là ước hẹn vợ chồng. Đối tượng của
lời giao ước này chắc là thị giả Mori, người mà ông tỏ ra rất quyến luyến. “Nhi
nữ tất” là đầu gối (đùi) người đàn bà mà ông tựa đầu. Dạ thâm tức đêm sâu, còn
có ý nói thế giới bên kia, kiếp mai sau.
3)
Thơ vịnh tán chư
tôn sư và văn nhân tài tử:
Ikkyuu
để lại nhiều thơ vịnh tán.
Phật đản sinh
Tam thế nhất
thân dị hiệu đa,
Hà nhân kim nhật
định ngao ngoa.
Ta bà lai trú
bát thiên độ,
Mã phúc lư thai
hựu Thích Ca.
Phật ra đời
Danh
hiệu nhiều, tam thế nhất thân.
Ai
nay tìm Phật chẳng phân vân.
Ta
bà thế giới tám ngàn lượt,
Mượn
bụng ngựa lừa xuống cõi trần.
Trước
tiên là tán Phật. Bài này ca tụng công đức của Phật Thích Ca. Bảo Phật trở lại
thế gian không biết bao nhiêu lần (bát thiên độ) là theo lời chép trong Kinh Phạm
Võng. Nhưng theo đó mà cho rằng Phật đã
mượn cả hình thù lừa ngựa (mã phúc lư
thai) thì có thể bị chê trách là phạm thượng đối với bậc tôn quí. Tuy nhiên
đấy là ngôn ngữ nhà Thiền vốn dùng cách ăn nói mạnh bạo để chứng minh “Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tính”
mà hình tượng “tai lừa mặt ngựa trở về từ cõi súc sinh” mới chính là hình ảnh đích
thực của bậc chân nhân vô vị.
Tán Ngư Lam Quan
Âm
Đan kiểm thanh
hoàn từ ái thâm,
Tự nghi vân vũ mộng
trung tâm.
Thiên nhãn đại
bi khan bất kiến,
Ngư thê giang hải
nhất sinh ngâm.
Vịnh Quan Âm xách
giỏ cá
Tóc
đen má đỏ bao từ ái,
Mây
mưa trong mộng hãy ngờ lòng.
Nghìn
mắt đại bi sao chẳng thấy,
Vợ
chài một kiếp hát bên sông.
Quan
Âm xách giỏ cá là một trong 33 cách biến hoá của Quan Âm bồ tát
(Avalokistesvara), lúc ấy mang hình ảnh vợ một người thường dân. Theo truyện kể
của Trung Quốc thì Quan Âm hiện ra như người đàn bà đẹp nên nhiều đàn ông chết
mê chết mệt. Có chàng họ Mã thắng cuộc thi đọc kinh, được chọn làm chồng, nhưng
anh ta lại chết trong đêm tân hôn. Bài thơ này không thấy có mối liên hệ với câu
chuyện đó. Ở đây họa chăng Ikkyuu muốn cho rằng không có biên giới giữa sự
thánh thiện (Quan Âm) và phàm tục (vợ người dân chài).
Tán Đạt Ma đại sư
bán thân
Đông thổ Tây
thiên đồ lộng thần,
Bán thân hình tượng
hiện toàn thân.
Thiếu Lâm trung
tọa thành hà sự,
Hương Chí vương
cung mai liễu xuân.
Vịnh tượng bán
thân của Đạt Ma
Đông
tây hành đạo khắp đường trần,
Bán
thân mà hiện được toàn thân.
Thiếu
Lâm ngồi bệt thì sao tỏ,
Hương
Chí cung xưa đẹp sắc xuân.
Bài
này ca tụng Đạt Ma sư tổ đã từ Tây thiên đến Đông độ rao giảng chính pháp. Ông
ngụ ở Thiếu Lâm Tự (Tung Sơn, Hà Nam) và đã để lại những giai thoại như Cửu niên
diện bích, Huệ Khả đoạn tý. “Lộng thần” 弄神có nghĩa là “nỗ
lực tu hành”. Hương Chí tức Hương Chí Quốc ở Ấn Độ và Đạt Ma được xem như hoàng
tử thứ 3 của nước ấy. Thế nhưng theo Ikkyuu thì nỗ lực tu hành chỉ có thể đem đến
kết quả tốt đẹp khi bôn ba bên ngoài giảng đạo chứ không phải lúc ngồi bệt một chỗ
(như việc cửu niên diện bích). Trong bài này, có lẽ Ikkyuu chỉ mượn chuyện Đạt
Ma để trách móc sư sải Thiếu Lâm và xa hơn nữa là tăng nhân Nhật Bản cứ cố thủ ôm
cột chùa.
Ikkyuu
làm bài tán này khoảng năm 1467, lúc ông 72 tuổi.
Thần
tượng số một của Ikkyuu có lẽ là Hòa thượng Phổ Hoá, nhà sư điên cuồng đời Đường,
một kỳ tăng, quái tăng! Từ khi Phổ Hóa ra đời hành đạo, Thiền tông không còn giữ
khuôn mặt ngày xưa nữa.
Tán Phổ Hóa
Đức Sơn Lâm Tế nại
đồng hành,
Nhai thị phong
điên quần chúng kinh.
Tọa thoát lập
vong đa bại khuyết,
Hòa minh ẩn ẩn bảo
linh thanh.
Vịnh Phổ Hoá
Đức
Sơn Lâm Tế khó theo cùng,
Giữa
chợ dân kinh cái lão khùng.
Sống
chết bày trò đều thất bại,
Còn
rung chuông báu giữa không trung.
Phổ Hóa hoà thượng
Nghị luận minh đầu
hựu ám đầu,
Lão thiền tác lược
sử nhân sầu.
Cổ vãng kim lai
phong điến hán,
Tông môn niên đại
nhất phong lưu.
Nói về hòa thượng
Phổ Hoá
Bàn
luận lúc mờ lúc rõ ràng,
Lão
thiền lắm kế, tớ bàng hoàng.
Xưa
nay cứ tưởng anh rồ dại,
Nào
biết người phong vận nhất làng.
Tương
truyền, Phổ Hoá (Trấn Châu Phổ Hóa, ? – 860) là học trò của người pháp tự Mã Tổ
Đạo Nhất tức Bàn Sơn Bảo Tịch (712-814). Phổ Hoá Tông sau được nhà sư đi du học
Trung Quốc là Shinchi Kakushin (Tâm Địa Giác Tâm, 1207-1298) truyền sang Nhật vào
thời Kamakura. Đó là tông phái của những vị tăng du hành, thường đội nón che úp
mặt và thổi sáo. Họ được goị là kyomusô (hư vô tăng).
Trong
bài đầu, “tọa thoát lập vong” là chữ trong Tọa Thiền Nghi nói về dạng thức thiên
hóa của người tu thiền. Theo đó thì lối chết trong khi ngồi kiết già trong tư
thế hoa sen là đẹp nhất[2]. “Bại khuyết” là
hỗ thẹn. Trước khi Phổ Hoá mất, ông đã có những hành tung kỳ dị như vác quan tài
đi rao mình sắp chết, thế rồi vào quan tài nằm đóng kín, khi mở ra lại không thấy
xác, rung chuông trên không vv... tựa hồ muốn tung hỏa mù làm kinh động dân chúng
ở bốn cửa thành Trấn Châu. Bài thứ hai có nói đến “nghị luận” thì chữ ấy ám chỉ
cuộc tranh luận giữa Lâm Tế và hai trưởng lão Hà Dương và Mộc Tháp. “Phong điến
hán” là gã điên khùng nhưng dĩ nhiên ở đây phải hiểu với ý nghĩa “con người thoát
tục, đáng tôn kính”. Đó là cách Hoàng Bá gọi Lâm Tế, Ikkyuu gọi Phổ Hóa nhưng cũng
là tự xưng về mình.
Là
học trò đàn cháu của Hư Đường Trí Ngu, Ikkyuu rất hâm mộ ông này. Điều đó được
chứng tỏ qua bài thơ sau:
Tán Hư Đường hòa
thượng
Dục Vương trú viện
thế gian quai,
Phóng hạ pháp y
như phá hài.
Lâm Tế chính
truyền vô nhất điểm,
Nhất thiên phong
nguyệt mãn ngâm hoài.
Vịnh Hoà thượng
Hư Đường
Trú
chân thiền viện, thế gian xa,
Coi
như dép rách tấm cà sa.
Lâm
Tế chính truyền không muốn nhắc,
Một
trời trăng gió đẹp lòng ta.
Dục
Vương Viện tức chùa Quảng Lợi Tự (Triết Giang) nơi Hư Đường Trí Ngu (1185-1269)
tu hành. Ông viên tịch năm 85 tuổi. Pháp của ông được Đại Đăng truyền sang Nhật.
Lúc ở Dục Vương Viện (từ 1258), vì liên lụy vào một việc gì đó mà có lần bị hạ
ngục, đoạt mất tăng y. Ikkyuu nghĩ về chuyện bị đầu ngục đó khi dùng chữ “ngâm
hoài” để nói về tâm sự của chính mình bởi vì Ikkyuu cũng có thời gặp khó khăn với
chính quyền. Ông có người học trò bị lao ngục, đã muốn nhịn đói mà chết nhưng được
chính Thiên hoàng Go Kameyama (Hậu Quy Sơn) viết thư can ngăn mới thôi.
Ông
cũng rất kính mến tôn sư Tông Phong Diệu Siêu tức Đại Đăng Quốc Sư:
Đề Đại Đăng quốc
sư hành trạng mạt
Khiêu khởi đại
đăng huy nhất thiên,
Loan dư cạnh dự
pháp đường tiền.
Phong xan thủy
túc vô nhân ký,
Đệ ngũ kiều biên
nhị thập niên.
Thơ đề cuối bản
tiểu sử quốc sư Đại Đăng
Đèn
lớn thầy soi một góc trời,
Tranh
nhau kiệu liễn ghé chùa chơi.
Bên
cầu hai chục năm xưa đó,
Sương
gió ai hay dáng tả tơi!
Năm
1426, Zenkô Shunsaku (Thiền Hưng Xuân Tác) chùa Daitokuji có soạn bài viết về hành
trạng của Hòa thượng Shuufuu Myôchô (Tông Phong Diệu Siêu) tức Daitô kokushi (Đại
Đăng quốc sư). Tuy được phong quốc sư và triều đình công khanh tranh nhau đến
chùa hỏi đạo, Daitô đã từng sống trong đám người khất thực, chịu đói chịu lạnh
suốt hai mươi năm[3]
ở bên cầu Gojô (Ngũ Điều đại kiều) trong thành phố Kyôto. Đó là bài thơ bày tỏ
cảm tưởng mà Ikkyuu đã đề ở cuối bài viết.
Ngoài
Phật Thích Ca, Đạt Ma hay những tôn sư Trung Hoa và Nhật Bản trong chốn thiền lâm
(Hàn Sơn, Thập Đắc, Tùng Nguyên, Viên Ngộ, Động Sơn, Triệu Châu, Nam Tuyền, Lâm
Tế, Nham Đầu, Quy Sơn, Bách Trượng, Bàng cư sĩ, Đại Ứng, Đại Đăng, Hư Đường, Huyền
Sa, Linh Sơn, Quan Sơn, Hoa Tẩu...), Ikkyuu cũng ca tụng những văn nhân thi sĩ
như Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, Đào Uyên Minh, Liễu Tôn Nguyên, Đỗ Mục, Bạch Cư Dị, Tô
Đông Pha, Vương An Thạch, Hoàng Đình Kiên...):
Đoan Ngọ
Thiên cổ Khuất
Bình tình khởi hưu,
Chúng nhân thử
nhật túy du du.
Trung ngôn nghịch
nhĩ thùy năng hội,
Chỉ hữu Tương
giang giải thuận lưu.
Thơ ngày mồng
năm tháng năm
Khuất
Nguyên tâm sự những vơi đầy,
Trần
thế xưa kia lắm kẻ say.
Lời
phải chối tai đời ngoảnh mặt,
Riêng
dòng Tương đó hiểu cho ai.
Bài
thơ này có ý điếu Khuất Nguyên ( 343 TCN? – 277 TCN), trung thần nước Sở, vì lời
dèm pha phải bỏ triều đình ra đi và cuối cùng tự trầm ở sông Mịch La (một nhánh
của sông Tương (Hồ Nam). Khuất Nguyên (hay Khuất Bình) là tác giả của Sở Từ và
Ly Tao. Ông mất vào ngày mùng 5 tháng 5 Âm Lịch, gọi là tiết Đoan Ngọ.
Khán Đỗ Phủ Phu
châu dĩ hậu thi hữu cảm
Viễn khách ngụ cư
hà xứ qui,
Nhất thân tiều tụy
yểm sài phi.
Phu châu nhật mộ
chung yên địa,
Tranh nại ngâm
tì nhiên tận vi.
Cảm hoài khi đọc
thơ Đỗ Phủ từ thời ở Phu châu
Cái
thân khách trọ biết về đâu,
Cửa
sài phong kín, dáng tiêu tao.
Phu
châu trạm cuối đêm dần xuống,
Thương
nỗi râu cằm sớm rụng mau.
Ikkyuu
yêu mến phong cách giản dị nhưng sâu sắc của Đỗ Phủ, nhà thơ gần gủi dân chúng.Họ
Đỗ cũng là một thiền khách nhưng đã sống cuộc đời đầy phẫn khái như Đỗ Mục, Liễu
Tôn Nguyên... Phu châu (biên giới Hồ Bắc và Tứ Xuyên, thượng lưu sông Trường
Giang, nơi ông đến ngụ vào mùa xuân năm Đại Lịch nguyên niên, 766) tưởng đó là trạm
cuối (chung yên địa) đoạn đường đời của mình, nơi ông có nhiều sáng tác nhất.
Chẳng ngờ ông lại để vợ con ở đó, đơn thân xuống Hồ Nam nhưng rốt cuộc chỉ luẩn
quẩn ở Hành châu và Đàm châu rồi chết trong cô độc, bệnh hoạn trên một chiếc thuyền
con bên Hồ Động Đình lúc mới 59 tuổi. Thơ Trương Tịch có 2 câu thơ hay nói về
viễn khách (Viễn khách du du bệnh nhiệm
thân, Ly gia trì thượng hựu phùng xuân), Yểm sài phi là chữ Lão Đỗ dùng trong thơ mình (bài Khương thôn). Tiều
tụy thấy ở thiên Ngư phụ (Sở Từ) nói về
hình dáng Khuất Nguyên lúc bị phóng trục.
Tán Đỗ Mục (ngũ
thủ kỳ nhất)
Tài điệu phong lưu
cánh tuyệt luân,
Đỗ thư ký nghiệp
ngụy trung chân.
Thi tình nho nhã
dâm ư sắc,
Bất thuyết thương
sinh thuyết mỹ nhân.
Vịnh Đỗ Mục
Sống
kiếp phong lưu, tài tuyệt luân,
Anh
chàng Đỗ Mục ngụy mà chân.
Thơ
tình nho nhã, yêu nhan sắc,
Không
nhắc dân đen, nhắc mỹ nhân.
.
Đỗ
Mục là nhà thơ của nòi tình, sống đời bạc hãnh như từng tự thú trong Bạc Tần Hoài
(Lạc phách giang hồ tái tửu hành, Sở yêu
triêm tế chưởng trung khinh). Thế nhưng trong lối sống phóng túng đó có hàm
chứa một sự chân thực (ngụy trung chân).
Ngoài ra, câu cuối bắt nguồn từ một bài tứ tuyệt của Lý Thương Ẩn. Khi Lý vịnh cuộc
gặp gỡ giữa nho sinh kỳ tài Giả Nghị và vua nhà Hán có lần trách Hán Văn Đế là bậc
quân chủ mà chẳng lo cho dân, chỉ thích hỏi Nghị việc bói toán (Khả liên dạ bán hư tiền tịch, Bất vấn thương
sinh vấn quỷ thần). Ở đây, Ikkyuu có ý khen Đỗ Mục hơn là chê vì ông xem đó
là bản chất (nghiệp) của Đỗ.
Bạch Lạc Thiên
Lưu đắc từ hoa
bách ức xuân,
Thiên ngôn vạn
cú dữ cư tân.
Cổ kim độc chứng
chi vô lão,
Thế hứa xuất đầu
thiên ngoại nhân.
Vịnh Bạch Cư Dị
Hoa
gấm văn chương tụ vạn đời,
Viết
bao tác phẩm, sống nhiều nơi.
Xưa
nay nổi tiếng thông minh sớm
Thi
bá thanh danh vượt cõi người.
Bạch
Cư Dị là tác giả ảnh hưởng đến văn học Nhật Bản nhiều và lâu dài hơn cả, từ thời
Heian (Truyện Genji ) cho đến Muromachi (văn học Gozan). Ông có đến 75 văn tập,
bị tá thiên khắp nơi (Giang châu, Hàng châu, Tô châu, Hà Đông), sau lập thảo đường
ở Hưong Sơn và Lô sơn, kinh lịch cũng nhiều. Tương truyền chưa đi học ông đã phân
biệt được hai chữ “chi” và “vô” nên được gọi là Chi vô lão. Ông cũng là một thiền
khách, tính bình dân, yêu thơ yêu rượu. Ikkyuu vô cùng khâm phục nhân cách, kiến
thức và tài năng của ông.
6)Thơ phúng thích,
đối kháng với giáo hội và xã hội:
Ikkyuu
và sư huynh Yôsô của ông đều thuộc dòng Daitokuji. Yôsô trở thành người cầm đầu
, gánh vác việc chùa, trong khi Ikkyuu chỉ là kẻ sống bên lề.
Kyôto
là bản sơn của 7 chùa thiền. Trong đó 5 chùa có một thiền phong riêng và gần gủi
với chính quyền quân nhân. Ba chùa Kenninji (Kiến Nhân Tự), Tôfukuji (Đông Phúc
Tự), và Nanzenji (Nam Thiền Tự) đều đã được xây dựng từ thời Kamakura. Đến thời
Mạc phủ Muromachi, nhà nước mới viện trợ cho việc xây dựng 2 chùa mới là Tenryuuji
(Thiên Long Tự) và Shôtokuji (Tướng Quốc Tự). Là quan tự, họ cấu kết với chính
quyền, bảo đảm tính chính thống của quyền lực, chia chác của cải thu lượm được
từ tín đồ và hệ thống kinh doanh của nhà chùa cho những người này để đổi lấy chức
vị và sự che chở.
Xin
mở ngoặc ở đây để có một đôi dòng nói về liên hệ giữa các chùa Gozan Jissetsu (Ngũ
sơn thập sát) với chính quyền Mạc Phủ. Trước tiên, chư tăng ở đó là những người
học rộng, đi ra nước ngoài nhiều, có tri thức thâm sâu, có tài ngôn ngữ nên đóng
được vai trò cố vấn về chính trị, ngoại giao lẫn ngoại thương cho các Shôgun
Ashikaga. Hai nữa là qua mậu dịch với các nước như Trung Quốc, chùa chiền dĩ
nhiên được hưởng huê lợi. Họ cũng được ban tặng hay mua lại nhiều đất đai thành
thử thâu thập địa tô từ nông dân tá điền. Với số tiền ấy, họ đem cho vay hay gián
tiếp đầu tư vào quán rượu và tiệm cầm đồ. Nhà chùa đã trở thành “ngân hàng”, cho
Mạc phủ vay và bù lại, nhận thêm nhiều ân huệ từ những người này. Điều đó giải
thích được tại sao khi có cuộc loạn Ônin hay các cuộc Ikki của nông dân thì các
chùa Gozan Jissetsu là cái đích nhắm đầu tiên cho những hành động đốt phá và bạo
lực.
Riêng
hai chùa Daitokuji (Đại Đức Tự) và Myôshinji (Diệu Tâm Tự) thì tu theo lối khác
5 chùa trên. Như đã nói, người khai sơn của Daitokuji là Đại Đăng quốc sư Shuuhô
Chôshô. Ông cũng là thầy học của Kanzan Egen (Quan Sơn Huệ Huyền), người khai sơn
Myôshinji. Quốc sư Đại Đăng là bậc cao đức, được người lãnh đạo của hai chi nhánh
khác nhau là Thiên hoàng Go Daigô (Hậu Đề Hồ) của dòng Daikakuji (Đại Giác Tự)
lẫn Thái thượng hoàng Hanazono (Hoa Viên) của dòng đối lập đều kính trọng một cách
sâu sắc. Đến khi giấc mộng trung hưng thời Kiến Vũ (Kenmu), tự mình nắm chính
quyền, không để Mạc Phủ qua mặt, không thành, Thiên hoàng Go Daigo phải bỏ trốn
vào vùng rừng núi Yoshino lập ra Nam Triều thì Đại Đăng vẫn được sự che chở của
Thiên Hoàng Hanazono ở Kyôto nên tiếp tục trụ trì ở chùa mình. Daitokuji duy trì
được phong cách tu hành đạm bạc và
nghiêm ngặt của vị khai tổ. Ikkyuu cho rằng đấy mới là phong cách tu thiền
chính thống. Trong khi đó sư huynh Yôsô của ông chỉ muốn làm kinh tế nghĩa là
chủ trương phải tăng con số thiện nam tính nữ (khách hàng) và có thu nhập dồi dào để Daitokuji trở thành
một đại tự viện. Do đó Ikkyuu mới chỉ
trích thậm tệ Yôsô chỉ biết chạy theo
danh lợi.
Đường
lối của Ikkyuu là người đi tu phải lao động để sống như hình ảnh Bách Trượng Hoài
Hải (749-814): Nhật nhật bất tác, nhất nhật
bất thực (Một ngày không làm, một ngày không ăn), điều mà thầy của hai người,
Kasô Sôdon, thường nhắc đến. Ông nhắc nhỡ sư huynh Yôsô rằng tôn sư Tettsuô Gikô
từng cấm các trò chạy theo tiền bạc và danh lợi. Ông còn trách Yôsô đã bãi bỏ hình
thức tham thiền (sanzen) hỏi đạo trong chùa. Trong Jikaishuu (Tự Giới Tập), một
tập thơ ngắn của mình, Ikkyuu kết án Yôsô và môn phái bằng những bài thơ hầu hết
viết theo vần sen (thuyền), sen (tiền) và Zen (Thiền). Thuyền ở đây muốn phúng thích thuyền buôn với nhà Minh
bên Trung Quốc.
Chê
bai hiện tượng chạy theo danh lợi đó, Ikkyuu mượn bài thơ ca tụng Ma Kha Ca Diếp
sau đây để đả kích những con người đi tu một cách giả dối đầy dẫy trong thiên hạ
thời đó kể cả sư huynh Yôsô:
Niêm hoa vi tiếu
Thế tôn niêm xuất
nhất chi hoa,
Nhất đại thiền
tông ý khí xa.
Kim sắc đầu đà độc
truyền pháp,
Cận niên tri thức
nhược sa hà.
Chìa hoa mĩm cười
Đức
Phật chìa ra một cánh hoa,
Pháp
môn bán rẻ giúp anh Ca.
Kim
sắc đầu đà một mình hưởng
Chứ
nay tri thức tựa Hằng sa.
Hoa
ở đây nói về tinh túy của Phật giáo sau một đời tu hành (nhất đại) mới tìm ra mà
Thích Ca muốn truyền thụ cho môn sinh (Ngô hữu Chính pháp nhãn tạng, Niết Bàn
diệu tâm, Thực tướng vô tướng, vi diệu pháp môn). Khốn nỗi, trong tăng chúng chỉ
có Ma Kha Ca Diếp lĩnh hội được. Xa có nghĩa xa xỉ, đem đồ tốt đi bán rẻ. Còn gọi
Ca Diếp là Kim sắc đầu đà vì có thuyết tiền thân ông là thợ kim hoàn giàu đạo tâm
nên khi mới sinh ra trên đầu đã lấp lánh hào quang. Theo Ikkyuu, pháp môn mà Ca
Diếp được độc truyền mới là chính đạo. Còn như gần đây (thời của ông), tri thức
thì đầy dẫy như cát trên sông (sa hà) nhưng toàn là đồ giả mạo.
Sự
tức bực đối với sư huynh còn được bày tỏ qua việc ông bỏ am Như Ý, rứt áo ra đi.
Như
Ý Am trong khuôn viên Daitokuji là nơi có tháp (chôn cất) một vị trụ trì của
Daitokuji, Hòa thượng Gongai Sôchuu (Ngôn Ngoại Tông Trung, 1315-1390), trong hệ
phổ theo thứ tự Đại Đăng à Triệt Ông à Ngôn Ngoại à Hoa Tẩu à Dưỡng Tẩu và Nhất Hưu. Năm 1440,
nhằm ngày kỵ lần thứ 13 của sư phụ Kasô (Hoa Tẩu), Ikkyuu được cử về trông coi
Như Ý Am. Chỉ được 10 hôm, tức giận vì hành động của sư huynh Yôsô (Dưỡng Tẩu)
mà ông cho trái với đạo phong, Ikkyuu đã để lại mấy bài thơ như sau rồi xách gói
ra đi.
Đề Như Ý Am hiệu
cát mạt
Tương thường trú
vật trí am trung,
Mộc thược khoa
ly quải bích đông.
Ngã vô như thử
nhàn gia cụ,
Giang hải đa
niên thoa lạp phong.
Thơ viết cuối bản
chuyển giao tài sản am Như Ý
Thói
thường phật cụ giữ bên trong,
Thìa
gỗ nậm bầu giắt chái đông.
Nhưng
ta nào phải đồ chưng ngắm,
Tơi
lá sông hồ[4] kiếp ruỗi rong.
Như ý Am thoái
viện ký Dưỡng Tẩu hòa thượng
Trú am thập nhật
ý mang mang,
Cước hạ hồng y
tuyến thậm trường.
Tha nhật quân
lai như vấn ngã,
Ngư hàng tửu tứ
hựu dâm phường.
Từ chức trụ trì
am Như Ý gửi Hòa thượng Yôsô
Giữ
am mười bữa nghĩ loanh quanh
Tu
vụng đường tu, chỉ vướng chân.
Mai
mốt nếu huynh mà kiếm tớ,
Chẳng
hàng rượu cá cũng lầu xanh
Bài
thứ nhất ông đề trên tờ báo cáo chuyển giao lại tài sản cho người kế nhiệm trước
khi ra đi. Nào là gáo gỗ, nào là bầu nậm lích ca lích kích ...Ông cho rằng tu
không phải ngồi yên chiếm chỗ như kiểu những phật cụ treo trên tường đông ở
trong am, thỏa mãn với giáo lý của chùa mình như vậy mà phải mang áo tơi nón lá
ra ngoài chốn giang hải giao lưu với các tông phái khác.
Bài
thứ hai bày tỏ cùng một thái độ nhưng ngôn từ gây choáng hơn. Hồng tuyến là sợi
chỉ đỏ vướng chân người tu hành, đã từng thấy trong Tùng Nguyên tam chuyển ngữ[5]. Ông bảo sư
huynh muốn tìm mình thì hãy đi đến những chỗ cấm kỵ đối với một tăng nhân: ngư
hàng, tửu tứ, dâm phường. Thế nhưng ngư hàng đã từng thấy trong Thập Ngưu Đồ với
nhà sư Bố Đại thỏng tay vào chợ, dâm phường tửu tứ lại là một trong ba nơi tương
truyền Văn Thù Bồ Tát đã sống qua mùa kiết hạ: Kỳ Viên tinh xá, Đồng tử học đường
và dâm phường tửu tứ. Nói chung, Ikkyuu cho rằng nhà tu hành khi bài bác chuyện
sắc dục là sai lầm vì như thế là cắt đứt với cõi người. Còn như nếu không thỏng
tay vào chợ để chung đụng với bàn dân thiên hạ thì dù thành đạo rồi chỉ giữ được
sự giác ngộ cho riêng mình. Những kẻ cần được giáo hoá (kỹ nữ, đồ tể, tội phạm,
con bạc, con buôn) thì lấy ai để hướng dẫn?
Có
khi ông trách cả bản thân đã không tránh nổi sự thỏa hiệp:
Đại Đăng môn đệ
Đại Đăng môn đệ
diệt tàn đăng
Nan giải ngâm
hoài nhất dạ băng.
Ngũ thập niên
lai thoa lạp khách,
Quý tàm kim nhật
tử y tăng.
Học trò cửa Đại
Đăng quốc sư
Học
thầy, để lụn tắt đèn thầy
Đêm
lạnh than dài, dạ chẳng khuây.
Tơi
nón một đời quen phóng lãng,
Thẹn
mình áo tía mặc hôm nay
Không
giữ được truyền thống tu hành nghiêm cẩn và đạm bạc của Đại Đăng mà ông là học
trò đàn cháu, lúc cuối đời, Ikkyuu đã chấm dứt năm mươi năm sống đời tự do bằng
cách vào trong khuôn khổ khi trở thành trụ trì Daitokuji và nhận tử y (áo tía) –
vinh dự hạng nhất của một nhà tu - do triều đình ban cho. Bài thơ này nói lên sự
phản tỉnh của ông.
Ông
từng phê phán những kẻ sống đọa lạc, xa vời đạo lý, ngoảnh mặc làm ngơ trước sự
đau khổ của chúng sinh:
Đại phong hồng
thủy
Đại phong hồng
thủy vạn nhân ưu,
Ca vũ quản huyền
thùy dạ du.
Pháp hữu hưng
suy kiếp tăng giảm,.
Nhiệm tha minh
nguyệt há Tây lâu.
Lụt to bão lớn
Lụt
to bão lớn khổ muôn người,
Tiệc
tùng lắm kẻ sáng đêm chơi.
Đạo
có hưng vong, kiếp dài ngắn,
Lầu
Tây nguyệt lặn, luống buông xuôi.
Hai
câu đầu nói lên những cảnh đời trái ngược. Hai câu sau như một tiếng than dài,
ngậm ngùi phó mặc cho vận mệnh luân hồi chuyển sinh. Câu thơ cuối cùng Nhiệm tha minh nguyệt há Tây lâu vốn là
một câu thơ tình của Lý Ích, thi nhân đời Đường. Thi sĩ đã làm một cuộc hành trình
dài để gặp người yêu (Lý Quần Ngọc) nhưng khi đến nơi thì nàng đã chết. Ikkyuu
chuyển ý thành một câu thơ hàm ý tôn giáo.
Những
đồng đạo trong Thiền môn cũng không ai hiểu mình và ông cảm thấy cô đơn:
Xích bát
Nhất chi xích
bát hận đa nhâm,
Xuy nhập hồ già
tái thượng ngâm.
Thập tự nhai đầu
thùy thị khúc,
Thiếu Lâm môn hạ
tuyệt tri âm.
Tiếng sáo
Shakuhachi
Sáo
dù một ngấn hận khôn cùng,
Vào
tiếng khèn hồ, ải lạnh lùng
Giữa
chợ đông người, ai biết khúc?
Thiếu
Lâm đồng đạo có bằng không!
Bài
này vịnh tiếng sáo Nhật Shakuhachi (Xích bát) não nùng bi ai nhưng ông muốn qua
đó bày tỏ nỗi lòng. Theo Ikkyuu, không thấy trong đám môn đệ Thiền tông (Thiếu
Lâm môn hạ) có lấy một nhà tu thiền đáng kính. Tri âm vốn mượn tích Bá Nha Tử Kỳ
trong sách Liệt Tử.
Cũng
nói lên tâm sự cô độc ấy:
Bệnh trung
Đa bệnh nan vi
an lão thân,
Thế gian thế ngoại
cộng phong trần.
Lãnh trường tịch
mịch thanh cao khách,
Lâm hạ hà tằng
kiến nhất nhân.
Trong khi nằm bệnh
Lắm
bệnh không yên được tuổi già,
Trong
ngoài cuộc thế lắm phong ba.
Để
khách thanh cao buồn quạnh quẽ,
Rừng
thiền nhìn lại mỗi mình ta.
Già
nua và đang nằm bệnh (sắp chết) mà vẫn phê phán sự tục hoá của thiền lâm. Câu
cuối “Lâm hạ hà tằng kiến nhất nhân”
mượn của tăng Linh Triệt trong bài Đông Lâm Tự thù Vi Đan thứ sử (Tiếp đón Thứ
sử Vi Đan ở chùa Đông Lâm). “Tuổi già trăm sự đã an bài, Thân nhàn nệm cỏ áo tơ
gai, Gặp nhau chuyện vãn, quan về nghỉ. Trong núi tôi chưa gặp một ai”. (Nguyên
văn như sau: Niên lão tâm nhàn ngoại sự
vô, Ma y thảo tọa diệc dung thân. Tương phùng đạo tận quan hưu hảo, Lâm hạ
hà tằng kiến nhất nhân). Tuy nhiên theo ý thơ Ikkyuu thì Lâm hạ không
phải là trong rừng như Linh Triệt viết nhưng là “chốn Thiền Lâm”, nơi mà ông không
thấy có ai xứng đáng là tri kỷ.
4)
Thơ triết lý Thiền
tông:
Ikkyuu
có nhiều bài thơ trực tiếp khai triển đề tài triết lý Thiền tông:
Triệu Châu tam
chuyển ngữ: nê Phật bất độ thủy, mộc phật bất độ hỏa, kim Phật bất độ lô.
Thi thành Tiểu
Diễm thuật sầu tình,
Nhất chẩm đa
niên dạ vũ thanh.
Trường địch mộ
lâu thùy thị khúc,
Khúc chung giang
thượng sổ phong thanh.
Ba câu nói dẫn đến
giác ngộ của Triệu Châu: Phật bùn không qua được sông, Phật gỗ không qua được lửa,
Phật sắt không qua được lò.[6]
Tiểu
Diễm làm thơ kể nỗi lòng,
Gối
đêm mưa lạnh mấy năm ròng.
Khúc
sáo bên lầu tên chẳng biết,
Chiều
về duy gió thoảng trên sông.
Nguyên
lý này được nói đến trong Bích Nham Lục thoại 96. Ý của nó là “Chân Phật tọa ốc
lý” nghĩa là Phật thực sự không phải ở ngoài ta nhưng đang ở chính trong nhà tức
ngay bản thân ta. Những Phật đất, Phật gỗ Phật sắt chỉ là những vật “vô thường
bại hoại”, dễ bị biến chất và dễ bị tiêu diệt.
Hòa
thượng Triệu Châu Tùng Thẩm (778-897) là một đại sư trong cửa Thiền trấn ở phiá
bắc, giỏi về ngôn từ (khẩu thần bì gia phong), đối đầu được với Tuyết Phong Nghĩa
Tồn phương Nam.
Câu
đầu nhắc đến nàng Tiểu Diễm. Bài thơ nói về nàng Tiểu Diễm (Tiểu Diễm chi từ
trong Đại Huệ vũ khố) đã giúp thiền sư Viên Ngộ giác ngộ. Nguyên văn: Nhất đoạn phong quang họa bất thành. Động
phòng thâm xứ thuật sầu tình. Tần hô Tiểu Ngọc nguyên vô sự. Duy yếu đàn lang
nhận đắc thanh. (Hình ảnh người thương vẽ được sao. Tường cao kín cổng dạ
riêng sầu. Không can chi cũng kêu con Ngọc. Đánh tiếng chàng hay em ở đâu). Ý nói
cô nàng Tiểu Diễm cô đơn vì nhớ người yêu nên không có duyên cớ cũng ơi ơí gọi
con hầu Tiểu Ngọc để đánh tiếng với chàng trai, cho anh ta biết mình đang ở đâu[7].
Hai
câu 3 và 4 lấy ý và chữ của Triệu Hổ (Triệu Ỷ Lâu) trong Trường An thu tịch (Tàn đăng sổ điểm nhạn hành tái. Trường địch
nhất thanh nhân ỷ lâu). Câu cuối cùng Khúc
chung giang thượng sổ phong thanh là một danh cú của Tiền Khởi làm được ở đầm
Vân Mộng. Hai ông đều là danh sĩ đời Đường.
Phải
chăng tất cả những biểu hiện bên ngoài chỉ là cơn gió thoảng vì không đích thực
trừ có nỗi niềm thương nhớ phát xuất tự đáy lòng Tiểu Diễm. Cũng vậy, đưa ra ba
ông Phật gỗ, Phật sắt, Phật bùn nhưng chỉ để nói đến ông Phật thứ tư trú ngụ
trong bản thân thì Triệu Châu thật khúc mắc, chẳng khác gì nàng Tiểu Diễm. Bài
thơ kết nối với điển cố với ngôn từ của danh sĩ thật là đẹp nhưng cũng khá khó
hiểu cho tục nhân.
Hương Nghiêm
kích trúc
Đàm thủy bắc hề
Tương thủy nam,
Trúc Chi khúc lý
khầu nam nam
Tôn tiền lạn túy
hào gia khách,
Bất thức sầu
nhân dạ vũ đàm.
Hương Nghiêm nghe
tiếng đá chạm thân trúc
Tương
Đàm hai phía bắc và nam,
Trúc
Chi khúc ấy hát nghe nhàm.
Biết
chăng, hỡi khách nồng men rượu,
Có
kẻ đêm mưa dạ xốn xang.
Bài
thơ liên quan đến Thiền sư Hương Nghiêm Trí Nhàn ( ? – 898). Ông lúc đầu là học
trò của Bách Trượng Hoài Hải. Tuy rất thông minh, học một biết mười nhưng có lẽ
vì quá nhiều tri thức, lúc thầy còn sống, không sao ngộ đạo được. Sau theo học sư
huynh là Quy Sơn Linh Hựu. Quy Sơn mới bảo: Nếu ngươi nói được một câu về bản
lai chân diện mục của ngươi (Nhữ vị xuất
bào thai, vị biện đông tây thì, bản phân sự) thì ta sẽ thay mặt tiên sư chứng
minh cho. Bao lần ông đưa ra lời giải đều bị Quy Sơn phủ nhận. Tuyệt vọng, Hương
Nghiêm bèn bỏ Quy Sơn đến lập am bên mộ Huệ Trung Quốc Sư ở Nam Dương, tập
trung suy nghĩ. Một hôm, khi đang cắt cỏ trong núi, nhân quẳng ngói và mấy hòn
sỏi chạm vào thân cây trúc, phát ra tiếng, bèn cất tiếng cười lớn và ngộ đạo.
Tiếng động của ngói sỏi vào thân trúc như một cơ duyên, cho nên trong một sát
na, Hương Nghiêm bừng tỉnh, thấy được “chân thực tự kỷ” của mình tức con người
bản lai trước khi cha mẹ sinh ra. Ông bèn tắm rửa, xông hương, ăn mặc tề
chỉnh đến gặp Quy Sơn để bái tạ. Trường hợp Hương Nghiêm ngộ đạo là vì ông đã
nhất thiết bỏ quên tất cả những phân biệt đến từ trí tuệ và học vấn (ngũ quan +
tư duy) để đi vào trạng thái “trực hạ vô tâm” “vô tướng tự kỷ”. Để diễn tả tâm
cảnh trống không (bần) đó, ông đã có
bài kệ: Khứ niên bần vị thị bần, Kim niên
bần thủy thị bần. Khứ niên bần do trác chùy địa, Kim niên bần chùy hựu vô. Năm
ngoái nghèo, chưa thể gọi đâu, Nghèo đấy, dùi còn cắm đất sâu. Năm nay mới thực
nghèo xơ xác. Cả cái dùi không chẳng thấy nào.[8]
Tương
Đàm là điển cố Trung Quốc, có liên quan đến đầm Vân Mộng thời thái cổ, đến Nhị phi của vua Thuấn và cả Khuất Nguyên. Còn
Trúc Chi Từ là khúc hát dân dã nói về chuyện Nhị phi nhập thủy đã từng thấy
trong thơ Lưu Vũ Tích đời Đường. Theo lời giải thích của Yanagida Seizan thì
hai chữ Tương Đàm đã có trong thơ của Hòa thượng Đam Nguyên vịnh cuộc vấn đáp
giữa Nam Dương Trung Quốc Sư và Hoàng đế Đại Tông về tháp Vô Phùng (cái tháp tự
nhiên, không do con người xây nên, ở đây ám chỉ người đệ tử chân chính có thể kế
nghiệp thầy). Nam Dương Huệ Trung (675?-775?) là môn đệ xuất sắc nhất của Lục Tổ
Huệ Năng và là người đầu tiên được ban danh hiệu quốc sư. Tương Đàm có thể xem
như biểu tượng của phần mộ quốc sư (được ví với nguồn cội của đạo pháp). Tiếng đá
đập vào thân trúc Hương Nghiêm đã nghe phải chăng là tiếng gọi của quốc sư giúp
ông ngộ đạo (vì những hào khách khác còn mãi say sưa túy lúy, không ai ý thức Tương
Đàm chính là nơi thánh địa vì có mộ của Quốc Sư).
Linh Vân đào hoa
Phong lưu ngộ đạo
thoại đầu tân,
Đài nhược hiền Sa
hư tả chân
Lưu Lang độc khí
thư hoàng khẩu,
Hoa trán Huyền
Đô quán ngoại xuân.
Linh Vân thấy
hoa đào
Phong
lưu ngộ đạo, mới nghe xong,
Chân
ngụy Huyền Sa định thử ông.
Văn
vẻ chàng Lưu lời tráo trở,
Huyền
Đô đào quán đã phai hồng.
Bài
thơ nói về hoàn cảnh ngộ đạo của thiền sư Linh Vân Chí Cần (năm sinh và mất không
rõ) người Phúc Châu, nhìn thấy hoa đào nở mà ngộ đạo, chép trong Cát Đằng Tập,
tắc 8). Linh Vân sau đó có bài tụng: Tam
thập niên lai tầm kiếm khách. Kỷ hồi diệp lạc hựu trừu chi. Đào hoa nhất
kiến thử thời hậu, Trực chí như kim cánh bất nghi. để đưa lên cho
thầy mình là Quy Sơn Linh Hựu. Trạng thái của Linh Vân là đã tự giác về bản thân
(nhìn hoa đào với tâm cảnh “trực hạ vô tâm” như cách nói của Hoàng Bá). Từ sau “nhất
kiến” ấy, ông
không còn nghi ngờ gì nữa (chính niệm tương tục). Có người giải thích rằng lúc đó không phải Linh Vân nhìn
thấy hoa đào mà hoa đào đã nhìn thấy Linh Vân. Đời sau, nhà thơ Bashô
của Nhật Bản có viết bài haiku giản dị nhưng khá được yêu chuộng: Yoku mireba /
Nazuna hana saku / Kakine kana = Nhìn kỹ, dưới bờ dậu. Nở một cánh hoa
tim[9]).
Lưu
Lang tức Lưu Vũ Tích (dù ám chỉ Lưu Thần Nguyễn Triệu trong Đào hoa nguyên ký).
Ông có thơ về hoa đào ở đạo quán Huyền Đô rất nổi tiếng. Tương truyền ông đã viết
về đề tài này đến hai lần (lời tráo trở). Một lần ở Lãng Châu để phúng thích
quan lại trong triều. Lại bị biếm sang Bá châu. Hiền Sa ám chỉ Huyền Sa Sư Bị
(835-908), một cao tăng đức độ nhưng mù chữ, nhờ vấp chân phải đá, đau điếng người
mà ngộ đạo.
Ngưu
Dị loại hành
trung thị ngã tằng,
Năng y năng dã
cánh y năng.
Xuất sinh vong
khước lai thời lộ,
Bất thức đương
niên thùy thị tăng.
Trâu
Lẫn
trong muông thú, dạy cho câu.
Ta
là chi, vốn đến từ đâu?
Mới
sinh sao vội quên nguồn gốc.
Có
biết xưa từng kiếp áo nâu.
Bài
thơ bắt nguồn từ một công án của Quy Sơn. Theo một giai thoại, Ikkyuu chỉ một
con trâu và hỏi các đệ tử của mình rằng nếu một trăm năm sau, có người bắt gặp
một con trâu bên hông có ghi chữ “Tăng Quy Sơn” thì người đó phải gọi nó là con
trâu hay là Quy Sơn. Câu thứ hai phải thoát dịch vì nguyên văn hơi hiểm hóc: Năng y cánh dã cánh năng y đại ý nói: Cái
mà anh có thể làm được tùy thuộc vào việc anh là cái gì, chỗ mà anh có mặt tùy
thuộc vào việc anh có thể làm được gì. Theo Ikkyuu thì con trâu chính là Quy Sơn
đã hóa kiếp. Giai thoại đi xa hơn một chút. Đêm đó, con trâu lăn đùng ra chết và
chủ nhân con trâu mới dằn vặt Ikkyuu: “Chính bài thơ của thầy đã giết mất con
trâu của tôi”.
Bệnh trung
Phá giới sa môn
bát thập niên,
Tự tàm nhân quả
bát vô thiền.
Bệnh bì quá khứ
nhân quả quả,
Kim hành hà tạ
kiếp không duyên.
Trong khi mang bệnh.
Thầy
chùa phá giới tám mươi năm,
Thẹn
lối thiền không quả chẳng nhân.
Lâm
bệnh mới hay nhân tạo quả,
Hỏi
làm sao dứt nghiệp tiền thân.
Bài
thơ này muốn làm sáng tỏ công án Bách Trượng dã hồ (Con chồn hoang của Bách Trượng)
nói về một thiền sư vì chấp nhất vào chuyện có nhân quả hay không mà bị đọa làm
kiếp chồn hoang suốt 500 năm (trả lời khẳng định hay phủ định nhân quả đều bị đọa,
rõ khổ!). Tắc này có chép trong Vô Môn Quan của Triệu Châu[10]. Qua bài thơ nói
trên, Ikkyuu tỏ ý e ngại rằng tu Thiền kiểu ông là không lý đến nhân quả trong
khi mắc bệnh mới biết phải có nhân nào đó trong quá khứ mới có quả như hôm nay.
Mặt
khác, Ikkyuu cũng có thơ trình bày về khái niệm triết học Tứ liệu giản của dòng
Lâm Tế. Khi tổ sư của Ikkyuu là thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền nhân có tăng hỏi “Tứ
liệu giản là gì?”[11] đã dùng hai câu
thơ để trả lời về vế thứ nhất của nó (Đoạt nhân bất đoạt cảnh).
Câu nhật phát
sinh phố địa cẩm,
Anh hài thùy
phát bạch như ti.
Nắng
hửng, vườn xanh ra tựa gấm,
Hài
nhi, tóc xỏa bạc như tơ.
Ý
Lâm Tế muốn nói thiên nhiên trường cửu lúc nào cũng đẹp song đứa trẻ thơ sinh
ra mới đó đã già vì cuộc đời vốn ngắn ngủi.
Bài
kệ giải thích khái niệm đó của Nhất Hưu cũng được chép trong Cuồng Vân Tập. Ta
thấy nó độc sáng và tài hoa hơn hai câu của tổ sư Lâm Tế vốn là người nghiêm khắc,
thích quát tháo, không có tinh thần thi ca là mấy:
Đoạt nhân bất doạt
cảnh (giả đề)
Bách Truợng Quy
Sơn danh vị hưu,
Dã hồ thân dữ thủy
cô ngưu.
Tiền triều cổ tự
vô tăng trú,
Hoàng diệp thu
phong cộng nhất lâu.
Thầy
Bách thầy Quy danh chửa vơi,
Thân
trâu thân cáo chuyện luân hồi.
Chùa
bao đời trước tăng đâu thấy,
Tháp
quạnh, thu phong, lá úa thôi.
Dĩ
nhiên 2 câu thơ đầu tóm tắt ý nghĩa của các công án nổi tiếng về Bách Trượng và
Quy Sơn đã được giải thích bên trên. Ý nói con người khó thoát vòng luân hồi
chuyển sinh. Nó tương xứng với “đoạt nhân” trong ngữ cảnh của Tứ Liệu Giản. Hai
câu thơ sau như muốn đặt câu hỏi không biết các nhà sư các đời trước chết di có
thành trâu thành cáo hay không chứ nhìn mà xem, dù con người khuất bóng nhưng cảnh
chùa xưa vẫn còn y nguyên đó với ngôi tháp quạnh quẽ, lá vàng trong ngọn gió
thu. Hai câu sau tương xứng với “bất đoạt cảnh” vậy.
Hai
câu đầu có tính triết lý, trừu tượng, hai câu thơ sau có tính cảm giác cụ thể.
Chúng trở thành một cặp đối chiếu. Đó là một thủ pháp mà Ikkyuu cũng như bao
thi nhân Nhật Bản hay dùng. Nó khác với thủ pháp trên dưới nhất quán của thi nhân
Trung Quốc (tuyệt cú Đường Tống, ví dụ bài Giang tuyết của Đỗ Phủ hay Giang Nam
Xuân của Đỗ Mục) nên người ta tự hỏi có phải chăng đây có thêm một bằng chứng nữa
về việc người Nhật tuy chịu ảnh hưởng sâu sắc nhưng lúc nào cũng muốn thoát ra
khỏi khuôn mẫu Trung Quốc.
Không
ngừng lại ở tầm cỡ tổ sư Lâm Tế, nghị luận triết học của Ikkyuu leo lên tận đại
tôn sư Thích Ca. Hãy đọc bài thơ sau đây thì rõ:
Phá tỉ dụ thị bệnh
tăng
Cung ảnh hào
manh tại tửu trung,
Độc xà ảnh lạc
khách bôi cung.
Phong lâm hoàng diệp
Thục giang cẩm,
Nhiễm đắc tâm đầu
mãn mục hồng.
Dạy học trò mắc
bệnh chớ tin vào tỉ dụ
Chén
rượu in hình cong cánh cung,
Mà
ngờ rắn độc sợ vô cùng.
Rừng
phong đất Thục sông như gấm,
Nhuộm
hết toàn thân một sắc hồng.
Bài
thơ như thể viết vội, không đầu đuôi, hai câu trên và hai câu dưới chẳng dính dáng
với nhau. Tích “bôi cung xà ảnh” và “lá phong đỏ trên sông Cẩm giang” đất Thục
có liên hệ gì chăng? Thực ra ý nghĩa của nó rất cao siêu.
Hai
chữ “bệnh tăng” trong đầu đề là để chỉ những tăng sĩ có thắc mắc về đạo muốn
tham vấn. Bởi vì nhà Phật có câu “ứng bệnh dữ dược” và Thích Ca thường dùng tỉ
dụ (ám thị) để giải tỏa thắc mắc cho họ chứ không hề nói thẳng. Tỉ dụ nhiều vô
số, nó trở thành phương tiện để dẫn dắt chúng sinh. Thế nhưng tỉ dụ không phải
là Phật pháp, nó chỉ là phương tiện để nắm bắt Phật pháp. Bệnh tăng lại “chấp”
vào tỉ dụ và tin đó như Phật pháp nên thành ra lầm đường.
Hào
manh có nghĩa là bệnh không trị được. Có kẻ đến chơi nhà bạn, thấy bóng cây
cung trên tường in vào chén rượu mình mà ngỡ ra rắn độc đang phun nọc. Đó là bệnh
nghi ngờ. Hoàng diệp (hồng diệp) còn là tỉ dụ của hoàng kim. Phong lâm cũng là
một thứ mê hoặc lòng người (Thơ Đỗ Mục: Đình
xa tọa ái phong lâm vãn, Sương diệp hồng ư nhị nguyệt hoa). Đỗ Phủ và Bạch Cư
Dị cũng đều có thơ nói về vẻ đẹp của Thục giang (Cẩm giang). Chớ thấy cảnh rừng
phong đất Thục đẹp mà để cho màu đỏ của nó nhuộm khắp người mình (tâm đầu mãn mục).
Như thế, tác giả khuyên người học đạo chớ “chấp” vào tỉ dụ, vì nếu như thế, sẽ
có tỉ dụ về tỉ dụ, chúng sinh sôi nẩy nở khôn cùng và làm ta ngày càng đi xa bản
chất của đạo.
[1] Khát thực (喝食katsujiki) là chú tiểu lo việc cơm
nước trong chùa.Tóc hãy còn để dài. Khi thành sa di ( sami) mới gọt tóc
[2] Nhất nhật nhất thiền, Akidzuki Ryômin
có thoại nói đến việc Đại Đăng bẻ gảy chân nhập thiền rồi chết ngồi (tọa vong)
trong khi Quan Sơn Huệ Huyền chết đứng dưới gốc cây (lập thoát) lúc đang truyền
y bát cho pháp tự của mình.
[3] Kỳ thực, giai đoạn này chỉ có 7 năm
(xem Lịch Sử Thiền Tông Nhật Bản ) của Ibuki Atsushi, Nguyễn Nam Trân biên dịch.
Tư liệu mạng. Có thể hiểu 20 năm như quãng đời tu tập mà thôi.
[5] Của Tùng Nguyên Sùng Nhạc (1139-1209)
, thiền sư nhà Tống dòng Dương Kỳ. Xin tham khảo Vô Môn Quan, tắc 20 Đại lực lượng
nhân, bản dịch Nguyễn Nam Trân, tư liệu mạng.
[7] Xem phần Thấy trâu (Kiến Ngưu) trong Tìm
hiểu nội dung và xuất xứ Thập Ngưu Đồ do Nguyễn Nam Trân dịch Yanagida Seizan.
Tư liệu trên mạng.
[10] Nhất nhật nhất thiền, Akidzuki Ryômin,
thoại 144, trang 343. “Bất lạc nhân quả, bất muội nhân quả”. Vô Môn Quan tắc số
2.
[11] Tứ liệu giản là cơ sở lý luận của
dòng Lâm Tế với những mệnh đề đối lập để trình bày chân lý dưới hình thức một
ma trận (matrix) Nó có 4 yếu tố: nhân, cảnh, đoạt và bất đoạt. Muốn hiểu thêm
xin xem các bản Việt dịch Lâm Tế Lục hay Lịch sử Thiền Tông Trung Quốc của
Ibuki Atsuki, Nguyễn Nam Trân dịch có trên mạng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét