Thứ Bảy, 9 tháng 3, 2024

NHO GIÁO TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ VẤN ĐỀ DÂN CHỦ Ở NƯỚC TA

 Bản đánh máy này có thể chưa đầy đủ

NHO GIÁO TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ VẤN ĐỀ DÂN CHỦ Ở NƯỚC TA

Trần Đình Hượu 

 

(Đề tài KX.05.06. Báo cáo khoa học tại Viện CNXHKH                                               ngày 26/6/1992 và 4/7/1992)

 

I. Vấn đề Nho giáo trong việc định hướng cho sự phát triển

Nho giáo phát triển qua ba thời kỳ: Trước tiên là Tiền Tần (thế kỷ III tr. CN và trước); Lưỡng Hán (thế kỷ II tr.CN đến thể kỷ II sau CN); Tống đến Minh Thanh (từ thế kỷ XII – XVI). Giai đoạn đầu, Nho giáo được coi là chỗ dựa tinh thần để bảo vệ độc lập dân tộc và chế độ vương quyền. Sau đó ví dụ ở Việt Nam trong những năm 20, 30 của thế kỷ này, tầng lớp nho học đề xướng: Nho giáo ngày nay đã hết thời, tiêu biểu là nhóm Tự lực văn đoàn. Họ đã ghi điều trên trong chính cương (Tuyên ngôn) của họ. Mặt khác cũng vào đầu thế kỷ này, chủ nghĩa Mác – Lênin phát triển sang châu Á. Có một điểm đáng chú ý là các nước châu Á hưởng ứng mạnh mẽ hơn các nước châu Âu. Cho nên các Đảng cộng sản châu Á được liên tiếp thành lập thành lập vào khoảng những năm 20, 30 và có rất nhiều đảng viên. Và cũng chính ở châu Á, nhiều nước đã giành chính quyền, và thành lập nhà nước vô sản sớm hơn các nước ở các châu lục và khu vực khác. Hiện tượng nhân dân các nước Đông Á (Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam) đều giành được chính quyền công nông và hưởng ứng CNXH là một hiện tượng đáng lưu ý. Khi Đảng cộng sản ra đời và cùng với nó là chính quyền công nông thì Nho giáo được coi là ý thức hệ phong kiến mang tính phản động. Vì bảo vệ chuyên quyền, bảo vệ vương quyền phụ quyền, nam quyền. Cho nên dễ đồng ý rằng cốt lõi của nó là tam cương, ngũ thường, tam tòng tứ đức…Vì vậy nó là học thuyết của giao cấp thống trị và ăn bám. Đây là nhận thức phổ biến sau khi có phong trào mác xít ở Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam. Lùi xa hơn một chút thì có thể nói rằng từ giữa thế kỷ XIX Nho giáo đã được coi là học thuyết không có ý nghĩa thực tế, và phản động. Cho đến tận những năm 60 thế kỷ này vẫn tồn tại quan niệm cần quét sạch Nho giáo, hay quét sạch tư tưởng phong kiến, (trong đó cũng có nghĩa là quét sạch tư tưởng Nho giáo). Như vậy đặc trưng của giai đoạn 2 coi Nho giáo là lạc hậu và phản động (từ giữa thế kỷ XIX đến những năm 60 của thế kỷ XX).

Sau cùng đến giai đoạn 3 (từ những năm 60 trở lại đây) được coi là thời kỳ nhận thức lại vấn đề Nho giáo do ảnh hưởng của chủ nghĩa Mao và sự phát triển thần kỳ Nhật Bản. Vào những năm 60, Trung Quốc giương cao ngọn cờ tư tưởng Mao Trạch Đông nhằm thay thế chủ nghĩa Mác trên thế giới nên đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu quốc tế. Nhất là do tình hình thế giới căng thẳng và do vấn đè “xét lại” của Khơ - rúp - sốp  ở Liên Xô cũ nên trong việc nghiên cứu chủ nghĩa Mao, nhiều nước  đã huy dộng hàng ngàn nhà khoa học, ví dụ ở Liên Xô cũ và Mỹ. Đặc biệt cuộc “cách mạng văn hóa” – nhưng lại dã man nhất trong lịch sử nhân loại ,và lại do Đảng cộng sản tiến hành ở Trung Quốc, đã làm thế giới phải kinh dị. Việc nghiên cứu chủ nghĩa Mao rút ra được kết luận rằng, nguồn gốc chủ nghĩa Mao là truyền thống tư tưởng phương Đông. Mà truyền thống tư tưởng phương Đông lại được hình dung là Nho giáo. Từ đó người ta nghiên cứu khả năng truyền bá của chủ nghĩa Mao, nhất là ở Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam - những nước  chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo. Khi đó ở nước ta cũng đã có đề nghị nghiên cứu vấn đề này nhưng không được chấp thuận.

Một dộng cơ làm sống động vấn đề Nho giáo là sự hần kỳ Nhật Bản và 4 con rồng châu Á. Năm 1964 Nhật Bản tổ chức thế vận hội Tôkiô. Khi đó thế giới mới được tận mắt chứng nghiệm “sự thần kỳ Nhật Bản”. Khái nbiệm này từ đó phổ cập hóa trên toàn thế giới. Năm 1968, Nhật Bản tổ chức long trọng 100 năm Minh Trị duy tân. Các nhà khoa học trên thế giới lúc đó mới tập rung nghiên cứu “sự thần kỳ Nhật Bản” và phát hiện thấy nước này đã phát triển với một tốc độ nhanh chóng mà châu Âu chưa bao giờ đạt tới. Tiếp theo, vào những năm 70 xuất hiện cụm ừ “các nước công nghiệp mới châu Á”, “4 con rồng châu Á”; đó là Nam Triều Tiên, Đài Loan, Hồng Công, Xinggapo. Thế giới Âu - Mỹ khi đó mới nhận thức được sự xuất hiẹn của một kẻ cạnh tranh đáng sợ. Theo tôi hình như phe XHCN khong thấy vấn đề này bằng các nước Âu Mỹ phải cạnh tranh trực tiếp với đối thủ châu Á trên thị trường.

Và thế là người ta tập trung nghiên cứu những vấn đề: Tại sao khu vực Đông Á này lại phát triển nhanh nưh vậy? Liệ các nước Âu Mỹ có thể tạo ra được một năng suất lớn như vậy, và với tốc độ cao như vậy trong nhiều năm không? Đặc biệt những câu trả lời đều hướng vào cách quản ký Nhật Bản. Người ta đi đến kết luận: Nếu không có truyền thống văn minh Đông Á thì không thể có sự phát triển thần kỳ như vậy. Và nười ta phân tích đến những ảnh hưởng tích cực của Nho giáo đối với việc gia tăng tốc độ phát triển đó. Chính văn minh Nho giáo đã hun đúc tinh thần hiếu học của người châu Á và do đó tạo ra nguồn nhân công có học vấn cao, tính cần kiệm, tinh thần cộng đồng, tuân thủ cấp trên. Đó là những tác nhân quan trọng cho phát triển. Mà những tính chất này thì do Nho giáo để lại.

Một nhà nghiên cứu đã phân tích những tính chất trên và đặt câu hỏi tại sao trong vùng Đông Á các nước đều phát triển với tốc độ gấp 2 lần các vùng khác, (các vùng khác có tốc độ phát triển cao nhất là 6 % còn thông thường là 2%, riêng khu vực Đông Á là 10 %, thậm chí hơn), mà Việt Nam lại thuộc diện phát triển chậm nhất thế giới. Như vậy hoặc có nghĩa là Việt Nam không thuộc khu vực ấy, hoặc Việt Nam đã triệt tiêu mất những tác nhân nội sinh tích cực của mình. Từ đó ông phân tích những lý do mà báo chí của ta vẫn nói là kìm hãm sự phát triển, như chiến tranh, tài nguyên, vốn…

Thứ nhất, phải nói rằng chiến tranh không phải là đặc thù của riêng Việt Nam, Nhật Bản cũng bị chiến tranh tàn phá năm 1945 về hậu quả nặng nề đến mức là các đại trí thức Nhật Bản phải ăn xin ngoài đường. Chiến tranh tàn phá 60% công nghiệp Nhật ; nông nghiệp còn bị tàn phá nghiêm trọng hơn. Binh lính giải ngũ và bj thất nghiệp hàng loạt… Triều Tiên là một nước nhỏ mà đnáh nhau từ Bắc chí Nam, chà đi chà lại bốn lấn. Trung Quốc cũng trải qua chiến tranh tàn khốc như vậy. Cho nên nguyên nhân chiến tranh đói với Việt Nam là có thật, nhưng so với những nước Đông Á thù nguyên nhân đó không phải là đặc thù của riêng Việt Nam. Thứ hai là tài nguyên, thì Việt Nam đứng đầu các nước Đông Á về mức độ giàu có. Nhật không có tài nguyên, Nam Triều Tiên cũng không có tài nguyên, thậm chí điều kiện tự nhiên còn rất khắc nghiệt cho nông nghiệp. Thứ ba là vốn, thì cả Nam Triều Tiên lẫn Đài Loan cũng đều không có vốn cả. Thứ tư là kỹ thuật, cũng tương tự như Việt Nam khi bước vào hiện đại hóa.

Còn một vấn đề nữa là xác định cột mốc của sự phát triển. Nhật Bản xác định mốc phát triển từ Minh Trị duy tân cho đến ngày nay, tuy có gián đoạn những phát triển đều đặn. Nam Triều Tiên tính cột mốc từ 1953 trở đi. Trung Quốc cũng tương tự. Riêng Việt Nam tính từ 1975. Vì quyển sách của nhà nghiên cứu này được viết vào năm 1978, và Việt Nam sau chiến tranh vẫn chưa lên được. Người ta cũng tính rằng số tiền tài trợ cho Việt Nam hàng năm (vào khoảng thời gian đó) là 300USD trên một người, đứng dầu Đông Á khi bắt đầu phát triển.

Cho nên mọi lý do Việt Nam đưa ra đều chứgn tỏ Việt Nam không ở hoàn cảnh khó hơn các nước Đông Á khác. Khi đó Việt Nam công bố mức tăng hàng năm 2% nhưng vì dân số tăng cao cho nên phát triển âm. Nhà nghiên cứu chỉ phân tích đến đó rồi dừng lại, để ngỏ lời kết luận. Việt Nam có nằm trong vùng Đông Á không? Còn nếu nằm trong vùng này thì đã tự triệt tiêu cái gì mà không phát triển được?

Như thế là từ những năm 60 có hai vấn đề: a) Chủ nghĩa Mao, b) Sự phát triển tăng tốc của Nhật bản và 4 con rồng châu Á, liên quan đến việc nhận thức lại vấn đề Nho giáo, và tác động đến Việt Nam. Ngày nay ở Việt Nam nhiều người co xu hướng cho Nho giáo là có ích nhưng chúng ta làm mất động lực tích cực của nó. Nhiều người suy nghĩ đến việc khôi phục lại Nho giáo.

Ngoài những ảnh hưởng từ bên ngoài riêng trong nước nhiều người cho rằng, đọa lễ, đạo hiếu mất đi đã làm cho các tệ nạn xã hội ngóc đầu dậy. Nếu òn gia dình truyền thống chắc chắn hạn chế được nhiều tệ  nạn xã hội. Do xu hướgn tư duy này mà hiện nay ở nước ta đang khôi phục lại nhiều truyền thống cũ, như lễ hội, họ hàng, nhà thờ, xây nghĩa dịa… Ở một số nơi đã làm lại gia phả và tộc ước. Tộc ước tức lặđt ra những quy định ở trong họ. Ví dụ tộc ước của một họ ở Điện An (Quảng Nam) xác định ngay ở phần đầu rằng, lập lại tộc ước để đoàn kết anh em họ mạc và để họ ta không thua những họ khác. Vấn đề khôi phục lại họ hàng kiểu Nho giáo khá phổ biến ở nông thôn từ Bắc chí Nam.

Như vậy vấn đề Nho giáo đã ồn tại rất lâu ở Việt Nam, và nó vẫn có ảnh hưởng rất sâu đối với xã hội nước ta. Trong sự phát triển hiện nay có 2 xu hướng đối lập nhau cùng tồn tại. Đó là xu hướng tán dương và xu hướng chống đối nhưng không biết chống đối như thế nào.

Nưm 1991 tôi có đi Nhật dự hội nghị về tư tưởng và văn hóa của vùng dùng chữ Hán, tức vùng Đông Á, người ta hỏi tôi phải chăng Việt Nam bỏ chữ Hán và bỏ Nho giáo nên khó khăn trong việc phát triển. Vấn đề này thực ra không chỉ đặt ra đối với riêng nước ta. Ở nhiều nước  châu Á, ngay cả ở Nhật Bản cũng có quan niệm cho rằng CNTB Nhật Bản à CNTB Nho giáo, tức là khác với CNTB Tin lành ở phương Tây. Một giáo sư nói với tôi rằng , vào giữa thế kỷ XIX, Nhật tiến hành Minh Trị duy tân, nhằm Âu hóa và đã thành công. Nhưng ngày nay nếu phải làm lại Minh trị duy tân thì Nhật không Âu hóa mà sẽ phát triển trên cơ sở truyền thống Nhật bản, tức là trên cơ sở Nho giáo.

Tôi nghĩ rằng trong nền văn minh phương Đông thì không phải chỉ duy nhất có Nho giáo mà còn có Phật giáo và Đạo giáo… Nhưng trong hệ thống tôn giáo đó thì vai trò của Nho giáo rất đặc biệt. Vì nó ciữ vai trò chi phối chính trị, giáo dục và học thuật. Ba lĩnh vực này không mở rộng đường cho Đạo giáo và Phật giáo. Như vậy khi nói văn minh phương Đông, truyền thống phương Đông thì trước tên phải coi trọng vấn đề Nho giáo. Cho nên trong quá trình dân chủ hóa thì vấn đề trọng tâm là giải quyết vấn đề truyền thống Nho giáo. Nho giáo phải coi là cái gốc xuất phát của dân chủ hóa, chứ không thể coi nó ngang hàng với Phật giáo và Đạo giáo.

II. Về cách nhận thức Nho giáo đúng với lịch sử và có ích cho thực tế.

Thực tế có một vùng Nho giáo tồn tại rong nhiều thế kỷ nay, và bao gồm 4 nước Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Ra đời từ thế kỷ V tr.CN và tồn tại trên một diện rộng như vậy nên Nho giáo là một đối tượng nghiên cứu phức tạp. Cho nên hiện nay quan niệm Nho giáo rất khác nhau. Tôi có phương pháp riêng thống qua quan niệm về một Nho giáo đúng vói lịch sử và cách tiếp cận có ích cho thực tế. Nhưng trước hết xin điểm lại những phương pháp tiếp cận khác đối với Nho giáo.

Thứ nhất, tìm hiểu Nho giáo qua kinh điển

Người ta chia Nho giáo thành ba giai đọna: Tiền Tần, Lưỡng Hán, Tống cho đến Minh Thanh. Ở Việt Nam, vò năm 1967 nhân một hội nghị nghiên cứu Nho giáo để kỷ niệm Phan Bội Châu và Nguyễn Trãi tại viện Triết học có quan niệm rằng Việt Nam không nhiên cứu kinh điển, vì chúng ta không thích nghiên cứu Nho giáo Trung Quốc, mà nghiên cứu Nho giáo Việt Nam. Tôi đã khẳng định ngay rằng làm sao có thể nghiên cứu Nho giáo ở ta tách khỏi Nho giáo Trung Quốc, tức là tách khỏi Nho giáo kinh điển được.

Ở đây nổi lên vấn đề: Một là tư tưởng thực dụng, muốn đi thẳng vào thực tế mà coi nhẹ vấn đề lý thuyết. Hai là quan niệm về một Việt Nam không liên quan đến các nước trong khu vực. Thực ra Việt Nam nằm trong vùng văn minh ăn đũa và nó đã học hỏi ở Trung Quốc nhiều tinh úy Nho giáo. Ba là quan điểm phương pháp luận khi tiếp cận Nho giáo. Năm 1991 bên Nhật đã gửi cho tôi một bài báo trong đó khẳng định ới việc xuát bản một số công trình gần đây thì Mỹ đã đạt thành tựu rất lớn khi tiếp cận Nho giáo trong sự vận động thực tế. Và họ xác định cho đến nay Nhật vẫn tự hào nghiên cứu Nho giáo giỏi nhất thé giới nhờ tiếp cận  dưới góc độ kinh điển thì hiện nay phải khắc phục nhược điểm này để không bị tụt hậu so với Mỹ.

Tại hội nghị quố tế về nghiên cứu Nho giáo ở Nhật vào năm 1991 mà tôi đã nhắc ở trên, việc tiếp cận Nho giáo có phần sinh động, cụ thể họ tiếp cận dưới 4 góc độ sau:

-         Nghiên cứu văn tự kinh điển Nho giáo

-         Nghiên cứu tư tưởng

-         Nghiên cứu Nho giáo trong dân gian

-         Nghiên cứu Nho giáo trong hiện đại hóa.

Rõ ràng họ đã nghiên cứu Nho giáo trong sự phát triển lịch sử và trong sự vận động thực tế. Nhưng tôi cần nhắc  lại rằng không thể thoát ly khỏi kinh đển trong việc nghiên cứu Nho giáo, và đồng thời phải nghiên cứu xem nó được vận dụng trong thực tế như thế nào. Chỉ nghiên cứu kinh điển thì không đủ và không đúng. Nho giáo đi vào xã hội theo một cơ chế đặc thù. Và nói đến ảnh hưởng Nho giáo là phải nói đến sự vận động của nó.

Mặt khác phải lưu ý rằng kinh điển Nho giáo cũng đã hình thành trong lịch sử chứ không pải kinh điển từ trước đến nay đều “nhất thành bất biến”. Và có phải mọi kinh điển Nho giáo đều hìnhthành trước thời Khổng Tử hay không? Thực tế có những kinh điển mà Khổng Tử cũng không được đọc. Thời Khổng Tử quan trọng nhất là Thư, Lễ và Thi. Kinh Dịch thì ông chưa đọc. Nói đúng ra thì Khổng Tử chỉ được đọc một phần, còn một phần quan trọgn nhất là Dịch truyện thực tế mãi đến thế kỷ IV sau CN mới xuất hiện, cho nên chắc chắn ông không thể đọc được. SAu nữa là Kinh Xuân Thu là do Khổng Tử iết thì đến đời Hán  mới coi là kinh điển chứ thời Khổng Tử người ta có coi là kinh điển đâu. Cả kinh Dịch thì đến tận đời Tống Nho mới đưa lên hàng kinh. Như thế vai trò của kinh cũng không phải là “nhất thành bất biến”. Cuối cùng là truyện kinh nhừam giải thích kinh để làm cho kinh dễ hiểu. Đời Xuân Thu không có truyện; thầy trực tiếp dạy cho học trò. Đến đời Hán mới có kiểu học theo lối nhà trường, do đó phải có sách để giảng dạy. Chẳng hạn sách của Mạnh Tử phải đến đời Đường (từ thế kỷ VII về sau) mới coi là truyện. Như thế, quan niệm truyện cũng thay đổi. Truện cũng như kinh đều đã vận động trong thực tế dưới những quan niệm khác nhau chứ không khong như chúgn ta hiểu hiện nay.

Cho nên nếu như trình bày Nho giáo mà căn cứ vào ngũ kinh tứ th thì phi lịch sử. Đây là một vấn đề nan giải mfa ngay cả Trần Trọng Kim, Phan Bội Châu đều không nhân ra. Quan niệm mới này  ngày nay mới được chấp nhận. Quan niệm này được chấp nhận ở cả Trung Quốc lẫn Đài Loan, tức là nó đã trở nên phổ biến.

Xem xét Nho giáo trong sự vận động còn một lý do quan trọng nữa là bản thân kinh truyện có nhiều vấn đề tồn tại. Như đã rõ đời Tần có chuyện phần thư khanh Nho, tức là đốt sách và chôn Nho. Tất nhiên kinh điển Nho giáo vì thế bị mất hết. Sau đó người ta thu thập để khôi phục lại.

Do sự tập hợp nên nhiều thứ bị lẫn lộn. Ví dụ trong kinh Lễ có nhiều thiên không phải của kinh Lễ, trong kinh Thư cũng vậy… Bởi vì vào thế kỷ IV sau CN ở Trung Quốc các học giả có nhiều ý kiến khác nhau cho nên người ta tập hợp vào đó những thành phần không thuần nhất.

Hơn nữa ở thời Tây Hán, Lưu Bang trước tiên nghĩ rằng, có thể cai trị theo lối Pháp gia, tức là đố lập với  Nho gia. Nhưng xã hội trở nên hỗn loạn nên phải trở lại với Nho gia, thực ra thì trong Pháp ngoài Nho. Vì vậy kêu gọi học Nho giáo, kêu gọi ai có sách thì nộp cho nhà nước, ai giảng được kinh điển, được hưởng lương 200 thạch, tức là loại cán bọ cao cấp. Từ đó có nhạn đưa sách gia đình cho nhà nước. Người làm sách giả nổi tiếng là cháu Khổng Tử - Khổng an Quốc. Ông này nói rằng vì vách nhà Khổng Tử đổ nên tìm được một lô kinh điển Nho giáo. Vấn đề cổ văn và kim văn trở thành đề tài tranh luận suốt từ thế kỷ thứ II đến nay ở Trung Quốc. Sách của Khổng An Quốc đáng tin cậy hay sách tập hợp trong thiên hạ đáng tin cậy? Một cái là của giả của một nhà, một cái là của giả của thiên hạ. Điều này cho thêya nếu chỉ dựa vào kinh điển mf hiểu ngũ kinh tứ thư thì nảy sinh nhiều vấn đề nghi vấn.

Tôi đã đọc tài liệu của ông Quách Mạt Nhược, một người có thể đọc được tất cả các thứ chữ Trung Quốc từ thế kỷ XX tr. CN cho đến nay thì thấy rằng việc xác định kinh điển Nho giáo là rất khó khăn. Cho nên phải xem xét Nho giáo theo quan điểm lịch sử và quan điểm vận động thực tiễn .

Thực tế thì trong lịch sử có các cách nghiên cứu Nho giáo rất khác nhau. Đầu tiên là các thế hệ nghiên cứu theo lối kinh viện: thánh hiền cữh nghĩa trong sách như thế nào thì chú giải như thế. Từ giữa thế kỷ XIX trở về trước nói chung phương pháp tiếp cận Nho giáo ở Trung Quốc là như vậy. Đến khi phương Tây xâm nhập vào Trung Quốc, họ phải hiểu tư tưởng phương Đông mọt cách khoa học cho nên các học giả Đức, Anh, Pháp lại nghiên cứu Trung Quốc trước cả người Trung Quốc. Đến khi  ở Trung Quốc xuất hiẹn tầng lớp du học ở phương Tây trở về thì mới xuất hiện các học giả nghiên cứu Trung Quốc một cách khoa học . Thọat đầu những học giả này phủ nhận truyền thống, bởi lẽ họ chỉ nhìn thấy Trung Quốc lạc hậu, trì trệ. Họ đòi hỏi phải Âu hóa. Đó là một định hướng có thể là đúng trong hoàn cảnh lúc đó. Nhưng điểm phiến diện của họ là ở chỗ hj vân dụng mấy mốc tri thức phương Tây để mô tả về nghiên cứu tư tưởng phương Đông. Song thực chất tư tưởng hương Đông vận động và phát triển theo một phương thức khác. Ở nước ta Trần Trọng Kim miêu tả triết học phương Đông gần giống như hệ triết học phương Tây. Các nhà triết học Xô viết nói rất hay rằng ở phương Đông họ cũng giải quyết tất cả mọi vấn đề mà triết học phương Tây giải quyết, duy chỉ có điều là việc chấp lại theo kiểu phương Tây thì nó sẽ không ra cái gì cả. Cho nên việc trình bày triết học phương Đông như thế nào vẫn là vấn đề còn bỏ ngỏ ở phương Tây.

Ở Trung Quốc, kể từ phong trào Ngũ tứ, Hồ Thích và Trần Độc Tú bắt đàu nhìn lại triết học phương Đông theo quan điểm phương Tây. Trước đó Khang Lương trình bày triết học Trung Quốc theo kiểu Trung Quốc trên tinh thần hoặc bênh vực hoặc chống lại. Sau phong trào Ngũ Tứ, các học giả mác xít, chủ yếu lưu học ở Nhật như Quách Mạt Nhược, Đổng Thục Tường… trình bày triết học phương Đông theo quan điểm Mác xít. Ở nứoc ta những quyển sách của Phan Bội Châu như Khổng học đăng viết theo quan điểm Khang Lương. Trần Trọng Kim viết theo quan điểm của Hồ Thích và Trần Độc Tú. Phan Khôi cũng viết theo quan điểm của phong trào Ngũ Tứ. Đào Duy Anh trong cuốn Khổng giáo ohê bình tiểu luận lại viết theo quan điểm mác xít, dựa trên quan điểm đấu tranh giai cấp như  phương pháp của Quách Mạt Nhược và Đồng Phục Tường. Các công trình của Nguyễn Duy Cần tổng hợp khá nhiều quan điểm của cả Âu, Mỹ, Trung Quốc, Đài Loan. Cái sai của Nguyễn Duy Cần là ở chỗ khác chứ không phải ông chỗ không có tư liệu và không có phương pháp. Gần đây tôi có đọc một số sách vở  xuất bản ở Đài Loan, Trung Quốc thì họ cũng mắc vào những cái sai của Nguyễn Duy Cần. Vấn đề sai hay đúng không phải là vấn đề đơn giản trong khi nghiên cứu Nho giáo.

Như vậy nghiên cứu Nho giáo theo phương pháp kinh điển phải chú ý đến những vấn đề trên. Ở đây phải nhấn mạnh đến vấn đề thư tịch, và phải nhận thức được rằng chúng ta thuộc vùng văn minh Đông Á mà Trung Quốc là cái nôi của nó.

Thứ hai, nghiên cứu Nho giáo trong thực tế.

Nghĩa là tìm hiểu Nho giáo trong đời sống và trong sự vận động lịch sử. Chẳng hạn việc thờ cúng tổ tiên của chúng ta cũng là một đặc điểm của Nho giáo. Chính thờ cúng tổ tiên gây ảnh hưởng rất lớn đến tâm hồn các nứơc phương Đông.

Các dòng Nho giáo có tính lịch sử. Bởi vì Nho giáo Tiền Tần khác Nho giáo Hán, Tống… Đồng thời Nho giáo Trung Quốc khác với Nho giáo Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam. Do đó phải tìm hiểu từng nhà triết học và điều quan trọng nhất là phải thừa nhận có một thứ Nho giáo nói chung mà không có nó thì không còn Nho nữa. Tôi nghĩ rằng ở Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam có một thứ Nho tính chất như vậy. Nhờ nó mà có thể nhận diện được vùng này.

Sau nữa phải thấy rằng từ Khổng Tử cho đến tận thế kỷ XX, Nho giáo có thể thay đổi điểm nọ, điểm kia 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét