MỘT BẢN DICH
NÔM ĐẦU ĐỜI LÝ :
BẢN “PHẬT THUYẾT ĐẠI BÁO PHỤ MẪU
ÂN TRỌNG KINH “ / 1 /
---Nguyễn Tài Cẩn ---
1/ Về bản kinh Hán
dich Nôm này giới nghiên cứu đã bỏ nhìều công sức tìm hiểu / 2/ .Một số lớn chi
tiết đã được mô tả khá tỉ mỉ , nhất là về tính chất cổ kính của nó Cổ kính hơn
bất kì văn bản Nôm nào hiện biết . Nhưng về mặt
niên đại cụ thể của nó thì , tiếc thay , chưa ai xác định được rõ !
Chúng tôi cũng đã có 2 bài đưa ra về vấn đề này, nhưng do viết còn nhiều
sơ hở , sai lầm nên nay tự thấy cần phải đính chính lại .
2/ Bản kinh dài
khoảng 90 trang ,gồm hai phần chính:
phần chữ Hán tương đối thống nhất trong toàn
vùng và phần dich Nôm do người Việt Nam thực hiện . Phần chữ Hán thường giúp cho người đọc luận ra ngữ nghĩa cổ và.kết cấu cổ của từ
ngữ Việt ; phần Nôm là một kho tàng về
các tự dạng cần tìm hiểu : những lối viết chữ xa lạ với số lượng khá nhiều , với cấu trúc 2 mã ;
những tổ hợp ghép ; những mã đơn các lọai ;và các kiểu viết tắt thế này thế nọ v.v.
Nhưng ngoài ra ,cũng cần phải kể thêm một
phần nữa , mà theo ý riêng , chúng ta phải đặc biệt coi trong và nghiên cứu
tiếp : đó là phần sửa chữa của người
hiệu đính. Sửa chữa có khi sai ,có khi đúng , nhưng cái quí nhất là người hiệu
đính rất tôn trọng văn bản cổ ,ít khi
tiến hành xóa bỏ hẳn một chữ nào .
Cọng cả ba phần trên đây , nhìn chung ,
chúng ta cũng đã có tí chút vốn liếng , hi vọng có thể soi sáng ít nhiều cho
vấn đề niên đại.
3/ Trong phần chữ Hán khắc nét to rõ ràng có 3 chữ thỉnh thoảng khắc theo lối
đặc biệt :
---Chữ LỢI
*** 3 lần khắc bình thường ở trang 25/b , ở trang 44/a và ở trang 45/a ;
*** 2 lần khắc hơi lạ , ở
trang 25/a và ở trang 41/b ;
*** và 1 lần khắc chắc chắn theo lối kiêng húy ở trang 6/a (
đảo vị trí +
gia dạng )
---Chữ TRẦN
*** 1 lần khắc bình thường ở
trang 22/b ;
*** 2 lần khắc thành dạng ĐÔNG+VĂN để kị húy ở trang 42/b và 43/a.
---Và chữ có thể đọc
CAN hay
CÀN :
*** 3 lần khắc bình thường ở 2 dòng trang 14/a và
ở 1 dòng trang 41/b ;
*** và 3 lần thay bộ phận
KHẤT bên phải bằng một sổ đứng đá móc
lên
ở trang 11/b,trang 18/a
và trang 34/a .
4/ Theo ý chúng tôi :
--- Dạng kị húy của chữ LỢI rõ ràng là vết tích của một bản khắc cổ đời
Lê ;
--- Đầu đời Lê cũng
có lệnh kiêng húy chữ TRẦN nhưng kiêng
bằng cách đổi chữ
TRẦN thành chữ TRÌNH , để dân chúng quên dần họ TRẦN đi. Ở
đây có chủ
trương
khác : dùng lối kị húy đặc biệt “
ĐỒNG +VĂN “ để tôn trọng cái tên của
dòng họ cầm quyền . Vậy ĐỒNG +VĂN là vết tích kị húy của một bản khắc đời
Trần ;
--- Đời Trần cũng có
chữ húy có thể đọc CAN , hay CÀN . Nhưng đời Trần
CÀN là một chữ húy thứ yếu thuộc bên họ
ngoại , Toàn Thư cho phép khi làm
văn có thể chỉ viết bỏ bớt nét ;
Trái lại , đời Lí có 2 lần dùng chữ CÀN làm tên húy
cổ hơn , sử sách đều đã
có ghi rõ :
a)Trong Toàn thư ,CÀN là chữ thứ 2 trong
tên tước PHỤNG CÀN VƯƠNG
của Trần Liễu, tước hiệu này ông được
ban từ khi còn làm quan dưới trìều Lý ;
b)Trong Thiền uyển tập anh , lại có 2 chỗ
nói đến một người đời Lí trùng tên tước
với Trần Liễu : đó là PHỤNG CÀN
VƯƠNG Lý Nhật Trung con vua Lý Thái
Tông ( 1028--1054 )../3/
So sánh 3 trường hợp , tên húy một người con của vua Lý , lại là hoàng tử duy nhất được phong
tước vương ,thì rõ ràng đó là tên húy quan trọng hơn cả . Hơn nữa, vị hoàng tử
này --Lý Nhật Trung -- lại là một nhân vật chính trị , sử sách đã mấy lần phải nói đến .Theo Toàn thư tên tước PHỤNG
CÀN VƯƠNG của ông được đặt ra năm 1035.
Vậy CÀN chắc chắn là tên húy nổi bật nhất
của khoảng đầu đời Lý .
5/Đinh niên đại của
chữ CÀN như vậy ,theo ý chúng tôi , cũng là gợi lên hướng
xác định niên đại của toàn bộ bộ kinh
.Có chữ CÀN kị húy tức là có việc dịch
kinh,việc in kinh . Chữ CÀN đã gắn với khoảng đầu thế kỉ 11 thì toàn bộ bản
kinh cũng vậy .Đây phải là một bản kinh
cổ , cơ bản dich đầu đời Lý, mang phong cách từ ngữ và văn tự của đầu đời
Lý .
Đến đời Trần , đời Lê ,khi cần chép lại , người ta vẫn hầu
như chép nguyên như cũ.
Lệ ngọai cũng có nhưng đó chỉ là sự thay đổi cách viết ở đôi
ba chữ để kiêng húy .
Cũng có thể đã để xảy ra
một số thay đổi lẻ tẻ nào đó nữa
, nhưng điều đó không có tác động gì đáng kể về mặt niên đại .
6/ Nếu phần chữ Hán trên đây đã giúp chúng ta xác
định niên đại bằng chữ húy thì phân Nôm
và phần đính chính lại giúp chúng ta
đoán ra niên đại bằng đặc điểm
các từ ngữ của chúng .
Theo thống kê của một nhà chuyên môn Nhật Bản, thì trong bản Kinh này :
---có 19 tổ hợp phụ âm ( 20 trừ 1 lệ ngọai )
với cách ghi Nôm cụ thể ,độc nhất vô nhị
,không còn đâu gặp nữa , ví dụ:
*** Bl
: như ở BA LỮ (=blở > trở )
*** Khl
: như ở KHẢ LIỆT ( =Khlắt /Rục / >sắt )
*** Phl
: như ở PHA LẬT (= blat /A.D.Rhodes />trật )
*** Ml
: như ở MA LÂN (= plăn / RỤC / >lăn )
*** Kl
: như ở CỰ LĂNG
( sưng )
---Và khoảng gần 50 từ song âm ( cũng gọi là“ từ
hai mã” ) mà tuyệt đai đa số ( chỉ
trừ 2 lệ ngọai ! )
đều chưa từng gặp một cách trùng lặp trong bất kỳ tác phẩm
một trìều đại nào ,kể từ đời
Nguyễn, đến các đời Lê,Trần ,ví dụ như:
***(CON ) RẮN ghi Nôm là PHÁ TÁN ( so sánh vơi TẮN của Nghệ
Tĩnh , THẮN
hoặc XẮN của Mường ; hoặc
PUXI-NH của Rục )
***MĂNG
trong MẮNG TIN với nghĩa là
“nghe”: ghi Nôm là XA MÃNG ( ở Rục là
CHA-MĂNG)
***THẦY
ghi Nôm là XẤ LẠI ( so sánh với
XƠ RƠI âm cổ chữ SƯ trong tiếng
Hán )
***VUI
ghi Nôm là TƯ BÔI ( so sánh với
BUI của HUÊ, hoặc BUI, PUI,PHUI
Mường ). Ở Rục là TA PUI
Vậy gần 70
cách ghi Nôm hiểm hóc , hiếm có trong 2 danh sách này là từ đâu mà
ra ? Tất nhiên là từ
các cây bút sáng tạo của các nhà sư giỏi
Hán-Nôm .Nhưng như đã nói, đó phải là các nhà sư đời Lý với những phong cách viết Nôm khác hẳn
3 giai đọan Nguyễn ,Lê, Trần.
Khác , vì đây có lẽ là 70
trường hợp chính sư nhà Lý đã tự nghĩ ra đầu tiên , rồi các đời sau đổi
cách viết đi , chỉ bắt chước theo kiểu
Lý ở đôi ba chữ lẻ tẻ mà thôi .
Nói sư đời Lý cũng dễ hiểu
. Họ Lý xuất thân từ cửa Phật .Họ
đã cử người đi xin kinh Tam Tạng (1020)
,đã xây chùa (1024), tổ chức việc chép kinh (1027 ) ,đúc quả chuông vạn cân
(1033) , đã dựng kho Trùng Hưng để chứa
kinh.(1934).thì chắc chắn họ cũng rất
quan tâm đến cả.việc dịch kinh ..
Rất có thể, năm 1035 ,khi hoàng tử Lý Nhật
Trung được phong tước PHUNG CÀN VƯƠNG , ông đã
được giao cho tổ chức việc dích
kinh , in kinh ,nên các nhà sư kính nể ,
đã đưa chữ CÀN của ông vào kị húy trong bản dich.
7/Cuối cùng cũng cần
nhắc nhở nhau một điều là :chữ Nôm thời Lý mới hình thành, chưa có nhiều kiểu
lọai văn bản pha tạp : chữ TRẢ // GIẢ bao giờ cũng viềt thành BẢ
( < Blả); chữ
TRONG bao giờ cũng viết thành CÔNG ( < Klong ). Nếu so sánh 93 chữTRONG của
bản PHẬT THUYẾT với cách viết TRONG ở các đời sau ( thơ QUỐC ÂM của Nguyễn Trãi
,CHỈ NAM NGỌC ÂM v.v. ) thì ai cũng dễ nhận thấy bản PHÂT THUYẾT có một phong cách
viết CÔNG > TRONG hết sức thống nhất ,
hết sức nhất quán ,
có thể tạm gọi đó là phong cách NÔM ĐỜI LÝ /5/ . Hễ thấy một tài liệuTRONG khi
viết CÔNG , khi viết cả NỘI + LONG hoặc
LONG + TRUNG v.v. thì biết chắc đó không
còn là một văn bản thế kỷ 11, 12 nữa .
8/Đến đây xin tạm có
một vài kết luận :
Bản PHẬT THUYẾT ĐẠI
BÁO PHỤ MẪU ÂN TRỌNG KINH mà ta hiện có
là một bản quí ở cả phần Hán ở cả phần
Nôm . Quí nhiều mặt , nhưng ở đây chúng tôi chỉ tạm xin nhấn mạnh 2 điểm :
---Phần chữ Hán quí ở
chỗ nó còn giữ lại cho chúng ta ba hiện tượng kị húy do ba lần in và sao chép
đã đưa lại : kị húy chữ CÀN lần dịch đầu đời Lý ,; kị húy chữ TRẦN lần chép đời
Trần và kị húy chữ LỢI lần chép lại đầu Lê .
---Phần chữ Nôm lại
quí ở chỗ nó còn giữ được về cơ bản một bóng dáng về ngôn ngữ và về văn tự Vịêt Nam của khoảng thế kỉ 11 hay nói rộng ra hơn của khoảng
từ đầu độc lập đến
đầu đời Lý,
Từ nay chúng ta có
thể không cần nói đến truyền thuyết về Hàn Thuyên , Nguyễn Sĩ Cố hay Chu Văn
An về sự xuất hiện của chữ Nôm nữa .Vì
hiện nay chúng ta đã có trong tay bản PHẬT THUYẾT....một văn bản Nôm , một hệ
thống chữ Nôm sớm hơn vài thế kỷ.
==============================
CHÚ THÍCH :
1/Bản này ,vào những
năm 1922--1924 G.S. Demieville đã mua được và mang về Pháp .
Hiện nó được giữ tại Hội Á châu học , với kí
hiệu PD. 2350.
Anh Tạ Trọng Hiệp đã có công lớn bồi dán lại rồi
sao chụp , mang nó về nước năm 1979.
2/ Xin xem chẳng hạn
hai công trình :
---Hoàng Thi Ngọ
--Chữ Nôm và tiếng Vịêt qua bản giải âm PHẬT THUYẾT ĐẠI BÁO PHỤ MẪU ĂN TRỌNG
KINH --Hà Nội ,1999
---Masaaki SHIMIZU
--On the CHU NOM characters contained in
Sino-Vietnamese
text of PHAT THUYET
DAI BAO PHU MAU AN TRONG KINH bản tiếng Nhật , năm 1996
3/Xin xem :Ngô Đức
Thọ--CHỮ HÚY VIỆT NAM QUA CÁC TRIỀU ĐẠI--Hà Nội ,1997.
Ngô Đức Thọ cho rằng 3 dạng kị húy của chữ CÀN khá bất
thường ,nhưng ta có thể lập luận như sau :3 trường hợp ấy căn cứ ý nghĩa trong câu đều phải kết luận
vốn là 3 chữ CAN ( phải dịch Nôm là “ khô ráo “ ). Mà về mặt tự dạng
thì rõ ràng CAN không khác CÀN !
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét