TỔ CHỨC BỘ MÁY
CÁC CƠ QUAN TRONG CHÍNH QUYỀN THUỘC ĐỊA
Ở VIỆT NAM (1862-1945)
Ở VIỆT NAM (1862-1945)
- Tổ chức chính
quyền thuộc địa từ 1862-1886
1.Tổ chức chính quyền ở Nam Kì 1862-1886
Ngày 29
tháng 11 năm 1861, Phó Thuỷ sư - Đô đốc Charner giao quyền lại cho Chuẩn đô đốc
Bonnard làm đại diện toàn quyền cho Hoàng đế Pháp và Tổng Tư lệnh chỉ huy tại
Nam Kì[1]. Ngày 5 tháng 6 năm 1862 sau khi chiếm được 3 tỉnh Nam
Kì, một Hiệp ước được kí kết giữa một bên là triều đình nhà Nguyễn và một bên
là chính phủ Pháp và Tây Ban Nha. Theo tinh thần Hiệp ước, ba tỉnh miền Đông
Nam Kì trở thành “xứ thuộc địa” (colonie)
trực thuộc Bộ Hải quân và Thuộc địa. Đứng đầu “xứ thuộc địa” là viên Đô đốc -
Toàn quyền chịu trách nhiệm cả về dân sự và quân sự. Chế độ “võ quan” này kéo
dài đến năm 1879 và chuyển sang chế độ “văn quan”, đứng đầu xứ thuộc địa là
viên Thống đốc.[2] Dưới Thống đốc Nam Kì là 3 chức danh cao cấp: Tổng Biện
lí (Procureur général) chịu trách
nhiệm về mặt pháp chế; Chánh chủ trì (Ordonnateur)
chịu trách nhiệm về vấn đề tài chính và Giám đốc Nha Nội chính.
Chức
Giám đốc Nha Nội chính được lập năm 1862 và được giao cho Trung tá hải quân
Gareau. Nha Nội chính được thành lập theo Quyết định ngày 09 tháng 11 năm 1864
của Thống đốc Nam Kì gồm Ban Tổng Thư kí, Ban Hành chính và Hoà giải, Ban Canh
nông -Thương mại. Dưới quyền Giám đốc Nha Nội chính là các Tham biện (Inspecteur des affaires indigènes) chịu
trách nhiệm chỉ đạo đội lính cơ trong khu vực quản lí.
Thời kì này, Nam Kì được chia thành bốn khu vực hành chính (circonscription administrative) là Sài
Gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long và Bát Xác. Mỗi khu vực hành chính được chia thành các
tiểu khu hành chính (arrondissement
administratif) gồm các tổng. Tiểu khu được đổi gọi là tỉnh năm 1900. Đứng
đầu tiểu khu hành chính là viên quan người Pháp ngạch quan cai trị (administrateur). Mỗi tiểu khu được chia
thành một số đơn vị là Trung tâm hành chính (centre
administratif), đứng đầu là quan chức người Việt với chức danh là Đốc phủ
sứ, Tri phủ hoặc Tri huyện. Đây là đơn vị hành chính ở Nam Kì tương đương cấp
phủ, huyện ở Bắc và Trung Kì.
Thành
phố Sài Gòn (thành phố cấp I) được
thành lập theo Sắc lệnh ngày 08 tháng 01 năm 1877. Thành phố Chợ Lớn (thành phố cấp II) được thành lập theo
Nghị định ngày 20 tháng 10 năm 1879 của Thống đốc Nam Kì. Đứng đầu thành phố là
Đốc lí có quyền hạn như quan cai trị chủ tỉnh. Phụ tá cho Đốc lí là Hội đồng
thành phố (Conseil municipal) có chức
năng thảo luận lấy biểu quyết, rồi ra quyết định đối với những vấn đề của thành
phố, góp ý về những vấn đề mà cấp trên yêu cầu và đề đạt mọi nguyện vọng liên
quan đến lợi ích của thành phố lên cấp trên.
Bên cạnh
các cơ quan kể trên, thực dân Pháp còn lập ra các hội đồng phụ tá có quan hệ
chặt chẽ với bộ máy cai trị như: Hội đồng tư mật (Conseil privé) được thành lập theo Sắc lệnh ngày 21 tháng 8 năm
1869 của Hoàng đế Pháp; Hội đồng thuộc địa Nam Kì (Conseil colonial de la Cochinchine) thành lập theo Sắc lệnh ngày
08 tháng 02 năm 1880 của Tổng thống Pháp; Hội đồng tiểu khu (Conseil d’arrondissement) thành lập
theo Nghị định ngày 15 tháng 5 năm 1882 của Thống đốc Nam Kì, sau là Hội đồng
hàng tỉnh (Conseil provincial). Mỗi
tiểu khu hành chính được chia thành các tổng gồm nhiều xã. Chánh, Phó chánh
tổng do các viên thanh tra chỉ định được xếp ngạch nhân viên hành chính. Xã
trưởng và phó lí là quan chức cấp xã làm trung gian giữa cấp xã và chính quyền
cấp trên.
2.Tổ chức chính quyền ở Trung - Bắc Kì (1867-1886)
Năm
1867, sau khi đánh chiếm được toàn bộ Nam Kì, thực dân Pháp thiết lập hệ thống
tổ chức chính quyền cai trị tại Trung Kì và Bắc Kì. Theo Hiệp ước ngày 15 tháng
3 năm 1874, chức Đại biện (Chargé
d’affaire), phái viên ngoại giao do Chính phủ Pháp đặt ra được xếp bậc
ngang với Thượng thư triều đình và được đóng tại Huế (điều 20).
Ngày 25
tháng 8 năm 1883, Chính phủ Pháp đặt chức Tổng uỷ viên Cộng hoà Pháp (Commissaire général de la République
Française) là người đại điện Chính quyền Pháp tại Trung Kì và Bắc Kì đóng
tại Bắc Kì.
Sau đó một năm, Chính phủ Pháp đặt ra
chức “Tổng trú sứ Trung - Bắc Kì”, người thay mặt Chính phủ Pháp để cai trị và
điều khiển nền “bảo hộ” tại Trung - Bắc Kì, thay cho Tổng uỷ viên Cộng hoà Pháp
(điều 5, Hiệp ước năm 1884). Ngày 27 tháng
1 năm 1886, Tổng thống Pháp ra Sắc lệnh về việc tổ chức chính quyền ở Trung và
Bắc Kì. Theo đó, người đứng đầu Chính quyền Bảo hộ là viên Tổng Trú sứ, người
đại diện nước Pháp bên cạnh triều đình Huế trực thuộc Bộ Ngoại giao và được bổ
nhiệm theo Sắc lệnh của Tổng thống Cộng hoà Pháp. Tổng trú sứ là người đại diện
quyền lực của nước Pháp tại Trung và Bắc Kì đóng tại Huế. Chế độ Tổng trú sứ
tồn tại đến năm 1889[3]. Hai chức vụ Thống sứ Bắc Kì và Khâm sứ Trung Kì dưới
quyền Tổng Trú sứ được đặt ra. Thẩm quyền của hai viên chức này do Tổng Trú sứ
quy định bằng Sắc lệnh được sự phê chuẩn của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Pháp.
Đứng đầu
các tỉnh là viên Công sứ Pháp. Ở Bắc Kì, chức Công sứ được thiết lập theo Hiệp
ước ngày 25 tháng 8 năm 1883. Điều 12, 14, 16 và 18 của Hiệp ước quy định: chức Công sứ được lập ở Hà Nội, Hải Phòng,
một trong các thành phố biển sẽ thành lập sau đó và ở tỉnh lị của các tỉnh lớn.
Ở tỉnh lị của các tỉnh nhỏ có viên chức người Pháp dưới quyền Công sứ của các
tỉnh lớn theo hệ thống các đơn vị hành chính của Bắc Kì. Công sứ người Pháp chỉ kiểm soát công việc
cai trị của quan lại hàng tỉnh người bản xứ mà không trực tiếp cai trị, khi
thấy viên quan người Việt nào có thái độ chống đối thì Công sứ có quyền chuyển
viên quan đó đi nơi khác.
Về mặt tư pháp, Công sứ chịu trách
nhiệm xét xử các vụ án dân sự, thương mại và án tiểu hình xảy ra giữa người Âu
với người Âu, người Âu với người Việt hoặc người châu Á, hoặc giữa người Việt
với người Châu Á.
Về mặt tài
chính, Công sứ phụ trách và kiểm soát việc thu thuế và sử dụng tiền thu thuế
với sự hỗ trợ của Bố chánh người Việt.” [4]
Đối với
các tỉnh Trung Kì, chức Công sứ được lập theo Quy ước ngày 30 tháng 7 năm 1885.
Chức năng của Công sứ các tỉnh Trung Kì chưa được quy định cụ thể như đối với
Bắc Kì nhưng qua Hiệp ước ngày 25 tháng 8 năm 1883 ta thấy Công sứ Pháp là
người nắm giữ các vấn đề về thương chính và công chính còn quan chức hàng tỉnh
người Việt vẫn tiếp tục cai trị như trước mà không phải chịu một sự kiểm soát
nào của nước Pháp (điều 6, Hiệp ước năm
1883) [5].
Bên cạnh
đó, ở các tỉnh Bắc và Trung Kì còn tồn tại chính quyền bản xứ cấp tỉnh do người
Việt quản lí. Đứng đầu cấp tỉnh là Tổng đốc hoặc Tuần phủ Phụ tá cho Tổng đốc
và Tuần phủ là Bố chánh và Án sát. Mỗi tỉnh được chia thành các phủ, huyện hoặc
châu, đứng đầu là Tri phủ, Tri huyện hoặc Tri châu.
- Tổ chức bộ máy
chính quyền từ sau khi thành lập Liên bang Đông Dương đến 1945
1.Tổ chức bộ máy các cơ quan trung ương
Trong
báo cáo của hai Bộ trưởng Bộ Hải quân và Thuộc địa và Bộ Ngoại giao gửi Tổng
thống Cộng hoà Pháp kèm theo bản dự thảo Sắc lệnh về việc thành lập Liên bang
Đông Dương đã nêu rõ mục đích và sự cần thiết phải thành lập một tổ chức quản
lí chung cho cả Đông Dương. Với những lí do đặc biệt thuyết phục như việc thống
nhất trong quản lí hành chính và chính trị, chỉ huy các lực lượng lục quân và
hải quân, thống nhất trong việc quản lí về thuế, phí bưu điện cũng như trong hệ
thống toà án tại Đông Dương. Việc thành lập Liên bang sẽ đem lại những lợi ích
đáng kể như: tiết kiệm nhân lực; tăng các nguồn thu nhờ việc mở rộng việc thu
thuế trên toàn Đông Dương; giảm chi ngân sách từ chính quốc cho quân đội; tập
trung được lực lượng quân đội tinh nhuệ của các xứ thuộc Liên bang để gìn giữ
hoà bình, tuyệt đối chống lại những thế lực thù địch; phát triển công, nông
nghiệp và thương mại. Kết quả là ngày 17 tháng 10 năm 1887 Tổng thống Cộng hoà
Pháp ra Sắc lệnh thành lập Liên bang Đông Dương, đứng đầu Toàn quyền Đông Dương.
Toàn quyền là viên chức cao cấp Pháp được bổ nhiệm bằng Sắc lệnh của Tổng thống
Pháp, thông qua Hội đồng Bộ trưởng Pháp. Quyền hạn của Toàn quyền Đông Dương
được quy định theo Sắc lệnh ngày 17 tháng 10 năm 1887 và hoàn thiện bổ sung
bằng Sắc lệnh ngày 12 tháng 11 năm 1887,
ngày 9 tháng 5 năm 1889 và ngày 21 tháng 4 năm 1891. Theo Sắc lệnh năm
1891, Toàn quyền Đông Dương “là người được uỷ nhiệm thi thành quyền lực của
nước Cộng hoà Pháp tại Đông Dương”.
Các Sắc
lệnh của Tổng thống Cộng hoà Pháp ngày 20 tháng 11 năm 1911 thể hiện sự cải tổ
lớn trong chính sách tổ chức bộ máy cai trị Đông Dương chuyển từ chính sách “trung ương tập quyền” sang chính
sách ‘‘trung ương tản quyền’’ và “địa
phương hoá phân quyền”. Theo các Sắc lệnh năm 1911, Toàn quyền Đông Dương
vẫn là “người được uỷ nhiệm thi hành
quyền lực của nước Cộng hoà Pháp tại Đông Dương” (điều 2); là “người nắm quyền
chỉ đạo tối cao và quyền kiểm soát tất cả các công sở dân sự ở Đông Dương” (điều 3); là “người tổ chức và chịu trách nhiệm về những hoạt động của các công sở
dân sự”. Toàn quyền Đông Dương là người trực tiếp chỉ đạo các viên chức
đứng đầu cấp kì trong Liên bang Đông Dương.
Sau
Chiến tranh thế giới thứ nhất, để tiến hành một cách có hiệu quả công cuộc khai
thác thuộc địa lần thứ hai về kinh tế, Chính phủ Pháp đã chú trọng tới việc
củng cố bộ máy các cơ quan quản lí thuộc địa trên tất cả các lĩnh vực. Các cơ
quan chỉ đạo thuộc địa ở Chính quốc gồm Bộ Thuộc địa, Tổng Đại diện các thuộc
địa tại chính quốc, Hội đồng Cấp cao thuộc địa. Bộ Thuộc địa được tổ chức lại
theo Sắc lệnh ngày 29 tháng 6 năm 1919. Theo Sắc lệnh này, Bộ thuộc địa được tổ
chức độc lập nên có nhiều quyền hạn hơn trong việc điều hành các công việc của
thuộc địa. Bộ Thuộc địa gồm Văn phòng Bộ (Ban Thư kí), Ban Chỉ đạo các vấn đề
chính trị, Ban Chỉ đạo các vấn đề kinh tế, Ban Chỉ đạo các vấn đề nhân sự và
tài vụ, Ban chỉ đạo quân sự, Ban Kiểm tra. Mỗi bộ phận phụ trách một lĩnh vực
chuyên môn riêng. Tổng Đại diện các thuộc địa tại chính quốc, tiền thân là Cục
Thuộc địa, thành lập theo Sắc lệnh ngày 29 tháng 6 năm 1919, là cơ quan trung
gian thông tin về kinh tế, sản xuất, thương mại giữa thuộc địa và chính quốc.
Hội đồng Cấp cao thuộc địa được thành lập từ năm 1883 và tổ chức lại theo Sắc
lệnh ngày 28 tháng 9 năm 1920. Hội đồng Tối cao được hình thành từ ba hội đồng
thành viên: Hội đồng Cấp cao thuộc địa, Hội đồng Kinh tế thuộc địa và Hội đồng
Pháp chế thuộc địa.
Những
thay đổi trong tổ chức bộ máy điều hành thuộc địa thể hiện ý đồ tăng cường vai
trò của chính quốc với thuộc địa, đồng thời mở rộng việc khai thác thuộc địa
bằng việc giám sát chặt chẽ các hoạt động của thuộc địa. Những thay đổi trên
cũng ảnh hưởng đến tổ chức bộ máy chính quyền thuộc địa ở Việt Nam cũng như ở
Đông Dương nói chung.
Phụ tá
cho Toàn quyền Đông Dương có các tổ chức cơ quan cao cấp. Hệ thống các cơ quan
này rất đa dạng và được thiết lập theo chủ quan của người cầm quyền và những
điều kiện khách quan tại Đông Dương. Nhiệm vụ chính của các tổ chức này là cố
vấn cho Toàn quyền Đông Dương trong việc đề xuất đường lối, chính sách, những
nghị định cụ thể về mọi lĩnh vực thuộc quyền lực và chức năng của Toàn quyền.
Một số tổ chức phụ tá lớn như: Hội đồng Tối cao Đông Dương (1887); Hội đồng
Phòng thủ Đông Dương (1902); Uỷ ban tư vấn về mỏ (1913); Hội đồng tư vấn học
chính Đông Dương (1917); Ban chỉ đạo kinh tế (1911) …
Bên cạnh
tổ chức trên, các sở chuyên môn cũng được thành lập để giúp Toàn quyền Đông
Dương thực hiện các nhiệm vụ cụ thể về nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội
như:
- Nha Nông - Lâm và Thương mại Đông Dương;
- Nha Địa lí Đông Dương;
- Tổng Thanh tra Công chính Đông Dương;
- Nha Tiếp tế và Vận tải biển Đông Dương;
- Nha Tài chính Đông Dương;
- Nha Kiểm tra tài chính Đông Dương;
- Nha Thuế quan và Độc quyền Đông Dương;
- Nha Trước bạ, Tài sản và Tem Đông Dương;
- Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương;
- Tổng Thanh tra vệ sinh và Y tế công cộng Đông Dương;
- Ban Chỉ đạo hạm đội Đông Dương;
- Nha Học chính Đông Dương;
- Ngân khố Đông Dương v.v…
2.Tổ chức bộ máy các cơ quan địa phương
Kể từ
Sắc lệnh ngày 05 tháng 9 năm 1889 của Tổng thống Cộng hoà Pháp về việc bãi bỏ
chức Tổng Trú sứ Trung - Bắc Kì, hệ thống chính quyền ở Việt Nam được phân
thành 3 kì độc lập: Bắc Kì, Trung Kì và Nam Kì. Đứng đầu hệ thống chính quyền
Bắc Kì là Thống sứ Bắc Kì; Trung Kì là Khâm sứ Trung Kì; Nam Kì là Thống đốc
Nam Kì.
a.Bắc Kì
Thống sứ Bắc Kì là người chịu trách
nhiệm đảm bảo thi hành luật và sắc lệnh, Nghị định được ban bố tại Đông Dương,
đề xuất biện pháp cai trị và cảnh sát chung trên lãnh địa quản lí, điều hành,
quản lí nhân sự trong thẩm quyền… Thống sứ là người chịu trách nhiệm trước Toàn
quyền Đông Dương về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, tài chính, văn hoá,
giáo dục … của Bắc Kì. Thống sứ Bắc kì thông qua Công sứ để nắm các hoạt động
của cấp tỉnh trở xuống. Phụ tá cho Thống sứ Bắc Kì là các tổ chức như Phủ Thống
sứ Bắc Kì, Hội đồng Bảo hộ Bắc Kì, Hội đồng Hoàn thiện giáo dục Bắc Kì, Các
Phòng Thương mại, Phòng Canh nông Bắc Kì, Uỷ ban tư vấn kì hào bản xứ, Hội đồng
lợi ích kinh tế và tài chính của người Pháp ở Bắc Kì và các Sở chuyên môn.
Tổ chức bộ máy cai trị cấp tỉnh
Đứng đầu bộ máy cai trị cấp tỉnh ở
Bắc Kì là viên Công sứ hoặc Phó Công sứ người Pháp. Đối với tỉnh quan trọng do
cả hai viên quan trên cai trị. Các chức danh này được đặt ra theo tinh thần
Hiệp ước ngày 25 tháng 8 năm 1883. Từ khi thiết lập chức Thống sứ Bắc Kì, ngày
27 tháng 01 năm 1886, các viên Công sứ đều thuộc quyền lãnh đạo trực tiếp của
Thống sứ Bắc Kì. Công sứ là người nắm bắt và báo cáo tình hình của tỉnh về mọi
mặt với Thống sứ thông qua hệ thống quan lại người Việt. Ở mỗi tỉnh Bắc Kì có
một Toà Công sứ và các tổ chức phụ tá như: Hội đồng hàng tỉnh và một số sở
chuyên môn.
Ở Bắc Kì có hai thành phố (municipalité, thành phố cấp I) là Thành
phố Hà Nội và Thành phố Hải Phòng được thành lập theo Sắc lệnh ngày 19 tháng 7
năm 1888 của Tổng thống Cộng hoà Pháp. Đứng đầu Thành phố là viên Đốc lí do
Toàn quyền Đông Dương bổ nhiệm có quyền hạn tương đương Công sứ chủ tỉnh. Phụ
tá cho Đốc lí là Hội đồng thành phố và một số sở chuyên môn. Ngoài ra, một số
thị xã được chuyển lên thành Thành phố (Commune,
thành phố cấp III) như thành phố Hải Dương (12 tháng 12 năm 1923), thành
phố Nam Định (17 tháng 10 năm 1921). Đứng đầu thành phố cấp III là viên Công sứ
- Đốc lí. Mỗi thành phố cấp II và III có một Uỷ ban thành phố do Công sứ Đốc lí
làm Chủ tịch.
* Tổ chức đạo quan binh ở Bắc Kì: Đây
là hình thức đặc biệt của bộ máy thống trị của thực dân Pháp ở miền Bắc Việt
Nam thời kì này. Để thực hiện chính sách vừa bình định vừa chiếm đóng, ngày từ
năm 1888, thực dân Pháp chia địa bàn miền Bắc thành 14 Quân khu (Régions militaires), mỗi quân khu do một
viên sĩ quan cao cấp trực tiếp chỉ huy. Mỗi quân khu được chia thành các tiểu
quân khu (Cercles militaires) gồm các
đồn binh (postes militaires). Các sĩ
quan chỉ huy chỉ có quyền về dân sự nên nảy sinh sự bất đồng trong chỉ đạo giữa
chính quyền quân sự và chính quyền dân sự trên cùng địa bàn. Do đó, ngày 06
tháng 8 năm 1891, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định bãi bõ các Quân khu cho
thiết lập các đạo quan binh (Territoires
militaires), đứng đầu là viên Tư lệnh có quyền quân sự và dân sự trên địa
bàn quản lí. Về quyền quân sự, Tư lệnh được độc lập chỉ huy và tổ chức mọi cuộc
hành quân đánh chiếm trong phạm vi đạo quan binh và chịu sự chỉ đạo tối cao của
Tổng Tư lệnh lực lượng quân đội viễn chính Pháp tại Đông Dương. Về quyền dân
sự, Tư lệnh chịu sự chỉ đạo tối cao trực tiếp của Toàn quyền Đông Dương ngang
với Thống sứ Bắc Kì. Mỗi đạo quan binh được chia thành các Tiểu quân khu, đứng
đầu là viên sĩ quan có quyền hành như Công sứ chủ tỉnh dân sự, chịu sự chỉ đạo
trực tiếp của Tư lệnh đạo quan binh theo Nghị định ngày 24 tháng 8 năm 1891 của
Toàn quyền Đông Dương.
Tổ chức cai trị tại các đạo quan
binh được cải tổ theo Nghị định ngày 16 tháng 4 năm 1908 của Toàn quyền Đông
Dương. Theo đó, đạo quan binh được tổ chức ngang với đơn vị cấp tỉnh, đứng đầu
là Tư lệnh có quyền hành chính, tư pháp ngang với Công sứ chủ tỉnh và chịu sự
chỉ đạo trực tiếp của Thống sứ Bắc Kì. Ngoài ra, Tư lệnh đạo quan binh phải chịu
sự chỉ đạo trực tiếp về các hoạt động quân sự của Tổng chỉ huy lực lượng đóng
chiếm Bắc Kì. Mỗi đạo quan binh được lập một số Đại lí (Délégation), không phải
là Tiểu quân khu như trước. Mỗi đạo quan binh cũng có Hội đồng hàng tỉnh như
các tỉnh dân sự. Địa bàn các đạo quan binh cũng có nhiều biến động cùng với
những biến động của tình hình chính trị từng thời điểm.
b.Trung Kì:
Toà Khâm sứ Trung Kì thiết lập theo
Sắc lệnh ngày 03 tháng 02 năm 1886 của Tổng thống Cộng hoà Pháp. Đây là cơ quan
chỉ đạo và tổng hợp cấp cao về mọi mặt hoạt động của chính quyền địa phương ở
Trung Kì. Phụ tá cho Khâm sứ Trung Kì có các tổ chức như: Hội đồng Bảo hộ;
Phòng Tư vấn liên hiệp thương mại canh nông Trung Kì, thành lập theo Nghị định
ngày 04 tháng 5 năm 1897 của Toàn quyền Đông Dương; Hội đồng hoàn thiện giáo
dục bản xứ Trung Kì thành lập theo Nghị định ngày 16 tháng 5 năm 1906 của Toàn
quyền Đông Dương (sau đổi thành lập Hội đồng Học chính Trung Kì thành lập theo
Nghị định ngày 18 tháng 9 năm 1923); Hội đồng lợi ích kinh tế và tài chính của
người Pháp ở Trung Kì; Uỷ ban khai thác thuộc địa Trung Kì
Tổ chức bộ máy cai trị cấp tỉnh ở
Trung Kì
Theo Quy ước ngày 30 tháng 7 năm
1885, chính quyền thuộc địa đã chính thức đặt chức Công sứ người Pháp tại mỗi
tỉnh Trung Kì để nắm bắt các vấn đề về thương chính và công chính trong tỉnh.
Đối với tỉnh quan trọng hoặc địa bàn rộng có thêm chức Phó Công sứ và đặt thêm
một trung tâm hành chính hoặc Sở Đại lí. Ở mỗi tỉnh có một Toà Công sứ và Hội
đồng hàng tỉnh phụ tá cho Công sứ thực hiện chức trách của mình.
Ở Trung Kì có một thành phố cấp II
là thành phố Đà Nẵng, đứng đầu là Đốc lí. Phụ tá cho Đốc lí có Uỷ ban thành
phố. Giai đoạn sau, ở Trung Kì có thêm các thành phố cấp III là Thành phố Đà
Lạt (năm 1920), Thành phố Vinh (năm 1927), Thành phố Thanh Hoá (năm 1929),
Thành phố Huế (năm 1929), Thành phố Quy Nhơn (năm 1930), Thành phố Phan Thiết
(năm 1933). Đứng đầu thành phố cấp III là viên Công sứ - Đốc lí. Mỗi thành phố
có một uỷ ban thành phố do Công sứ Đốc lí làm Chủ tịch.
c.Nam Kì:
Giai đoạn này, bộ máy cai trị ở Nam
Kì vẫn được tổ chức như trước. Đứng đầu vẫn là Thống đốc Nam Kì. Tuy nhiên, kể
từ khi thành lập Liên bang Đông Dương, Thống đốc Nam Kì chịu sự chỉ đạo trực
tiếp của Toàn quyền Đông Dương có quyền hành tương đương với Thống sứ Bắc Kì và
Khâm sứ Trung Kì. Bên cạnh Thống đốc Nam Kì có các tổ chức phụ tá chính như:
Toà Thống đốc Nam Kì (từ năm 1887, Soái phủ Nam Kì được đổi gọi là Toà Thống
đốc Nam Kì); Hội đồng Tư mật thành lập từ năm 1869 vẫn tiếp tục tồn tại và có
chức năng tương đương Hội đồng Bảo hộ ở Bắc Kì và Trung Kì; Hội đồng thuộc địa
thành lập ngày 08 tháng 02 năm 1880 tiếp tục tồn tại và có chức năng tương tự
Viện Dân biểu ở Bắc Kì và Trung Kì; Phòng Thương mại Nam Kì thành lập ngày 30
tháng 9 năm 1869; Phòng Canh nông Nam Kì thành lập ngày 30 tháng 4 năm 1897;
Hội đồng Học chính Nam Kì thành lập ngày 18 tháng 9 năm 1923; Uỷ ban khai thác
thuộc địa Nam Kì thành lập ngày 28 tháng 12 năm 1937 và nhiều cơ quan khác.
Tổ chức bộ máy cai trị cấp tỉnh
Từ khi thành lập Liên bang Đông
Dương và bãi bỏ chức Giám đốc Nha Nội chính, các “Khu vực hành chính” bị xoá
bỏ. Từ ngày 01 tháng 01 năm 1900 Nam Kì
được chia thành 20 tỉnh và 2 thành phố lớn (Thành phố Sài Gòn - cấp I và Thành
phố Chợ Lớn - cấp II). Đứng đầu thành phố cấp I và II là viên Đốc lí và Phó Đốc
lí. Đứng đầu tỉnh là viên quan cai trị người Pháp. Mỗi tỉnh có một Sở Tham
biện, Hội đồng hàng tỉnh phụ tá cho viên quan cai trị chủ tỉnh.
Khác với Bắc Kì và Trung Kì, ở Nam
Kì không tồn tại hệ thống chính quyền cấp tỉnh của người Việt. Do đó, các quan
cai trị chủ tỉnh ở Nam Kì quản lí và điều hành trực tiếp công việc với dân bản
xứ. Tại một số tỉnh, thực dân Pháp cho thiết lập các trung tâm hành chính hoặc
Sở Đại lí.
3.Tổ chức hành
chính cấp xã
Thực dân Pháp đã rất ý thức về việc
tổ chức bộ máy hành chính cấp xã tại Việt Nam ngay từ những năm đầu hiện diện
tại đây. Chính quyền thực dân thực hiện chính sách “cải lương hương chính” để can thiệp vào tổ chức quản lí cấp xã tại
Nam Kì, Bắc Kì và Trung Kì.
Từ Nghị định đầu tiên ngày 27 tháng
8 năm 1904 đến Nghị định cuối cùng ngày 05 tháng 01 năm 1944 của Toàn quyền
Đông Dương về việc tổ chức chính quyền bản xứ cấp xã, thực dân Pháp đã thể hiện
rõ âm mưu có tính chiến lược đó là: công khai đưa giai cấp địa chủ phong kiến
được “tân học hoá” lên cương vị thống
trị độc tôn ở nông thôn để thay thế tầng lớp nho sĩ “địa chủ hoá” trước đó. Điều này thể hiện rất rõ trong các điều
khoản về tiêu chí lựa chọn vào tổ chức quản lí cấp xã trong các Nghị định.
Tổ chức hành chính cấp xã chịu sự giám
sát và kiểm soát tối cao của chính quyền cấp tỉnh về nhân sự cũng như mọi hoạt
động của xã. Lí trưởng, xã trưởng là người trung gian giữa xã và chính quyền
cấp tỉnh. Lí trưởng đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu tổ chức quản lí cấp
xã. Tổ chức quản lí cấp xã với các tên gọi khác nhau như Hội đồng kì mục, Hội
đồng Tộc biểu, Hội đồng Đại Kì mục và các uỷ ban thường trực hợp thành công cụ
thống trị cấp cơ sở của chính quyền thuộc địa.
Những thay đổi trong tổ chức bộ máy
điều hành thuộc địa thể hiện ý đồ tăng cường vai trò của chính quốc với thuộc
địa, đồng thời mở rộng việc khai thác thuộc địa bằng việc giám sát chặt chẽ các
hoạt động của thuộc địa. Những thay đổi trên cũng ảnh hưởng đến tổ chức bộ máy
chính quyền thuộc địa ở Việt Nam cũng như ở Đông Dương nói chung.
Đỗ
Hoàng Anh
Nội dung một số văn bản trong cuốn sách
Disposition du 31 mai 1862 du Contre - Amiral Bonard portant attributions
du directeur des Affaires civiles.
Quy định ngày 31 tháng 5 năm 1862 của Chuẩn Đô đốc Bonard quy định về
quyền hạn của Giám đốc Nha Nội chính.
(Nguồn: J 4, BOC 1862, tr. 160-162)
Theo quy định này, Giám đốc Nha Nội chính chịu trách nhiệm theo dõi việc
tổ chức các khối dân cư người Âu tại Sài Gòn, do Tổng Tư lệnh chỉ đạo về mặt
quân sự. Ngoài ra, Giám đốc Nha Nội chính còn phụ trách một số việc như sau:
+
Thi hành nghị định, quyết định và mệnh lệnh của Tổng Tư
lệnh; góp ý và đề xuất các quy định cũng như biện pháp vì lợi ích của dân cư
người Âu;
+
Quản lí hoạt động của các thương cảng, thường xuyên thông
báo cho Tổng Tư lệnh về tình hình tàu thuyền ra vào cảng và lập bảng kê xuất
nhập khẩu theo quý;
+
Nghiên cứu nguồn tài nguyên khu vực Nam Kì Lục Tỉnh
cũng như nhu cầu và thị hiếu của người dân khu vực này phục vụ lợi ích thương
mại của chính quốc; lập bảng kê hàng năm về tình hình tiêu thụ và sản phẩm
cho từng tỉnh theo chủng loại, chất lượng và số lượng;
+
Đảm bảo hoạt động thu, chi ngân sách;
+
Giám sát các bệnh viện dân sự và phòng khám chữa bệnh;
+
Chỉ đạo Sở Điện báo và quản lí hoạt động về bưu điện,
điện báo;
+
Duy trì trật tự và quản lí nhân sự làm việc trong các
nhà tù;
+
Giúp việc cho Giám đốc Nha Nội chính là một cơ quan an
ninh đảm bảo duy trì trật tự công cộng và theo dõi những biến động trong dân
chúng;
+
Giám đốc Nha Nội
chính chịu trách nhiệm xử lí các vụ vi phạm và tranh chấp bằng tài phán trong
thẩm quyền khi chưa có tổ chức tư pháp hoàn thiện;
+
Trình Tổng Tư lệnh kế hoạch tổ chức thành phố phù hợp
với nhu cầu, nguyện vọng của người Âu và dự thảo luật thương mại cho phép
thương nhân có thể tự bảo vệ quyền lợi của mình dưới sự giám sát của chính
quyền…
|
Disposition du 31 mai 1862 du Contre-Amiral Bonnard, Commandant en chef
concernant le Gouvernement des indigènes par l’autorité française.
Quy định ngày 31 tháng 5 năm 1862 của Chuẩn Đô đốc Bonard, Tổng Tư lệnh về việc chính quyền
Pháp tổ chức cai trị người bản xứ.
(Nguồn: J 4, BOC 1862, tr. 162-164)
Theo quy định này, chính quyền Pháp đã sử dụng chính hàng ngũ quan lại
người bản xứ để cai trị người bản xứ. Những viên chức này vẫn giữ các chức vụ
cũ như quan phủ, quan huyện đồng thời chịu trách nhiệm quản lí tư pháp, quản
lí khu vực nằm ngoài đồn binh Pháp và thu thuế dưới sự giám sát của Tư lệnh
tỉnh, với sự hỗ trợ của thanh tra công việc nội chính bản xứ (thường gọi là
tham biện).
Văn bản này còn quy định, trong báo cáo hàng năm của thanh tra viên gửi
Tư lệnh có nhận xét đánh giá về viên chức người bản xứ, đồng thời đề xuất với
Tổng Tư lệnh phương pháp tái lập hệ thống tổ chức của người bản xứ một cách
hiệu quả và kinh tế.
Dưới quyền của Tư lệnh tỉnh, thanh tra công việc nội chính bản xứ đảm
nhiệm các quyền hạn của Quan án trong những vụ kiện mà thẩm phán cấp phủ,
huyện xét xử sai; có quyền hạn của một người thu thuế và phụ trách tuyển dụng
lính cơ cũng như giám sát Quan bố.
Thanh tra công việc nội chính bản xứ tỉnh Gia Định được trực tiếp liên hệ
với Tổng Tư lệnh; giám sát trường Thông ngôn Pháp và hai trường học Adran và
Sainte Enfance tại Sài Gòn.
Một viên thanh tra đặc biệt quản lí Khu Chợ Lớn của người Hoa trực tiếp
liên hệ và thường xuyên báo cáo lên Tổng Tư lệnh về những vấn đề mà Tổng Tư
lệnh quan tâm.
Dưới quyền của Tổng Tư lệnh, Tổng Thanh tra các công việc của người châu
Á sống tại Sài Gòn có nhiệm vụ tìm biện pháp khôi phục chính quyền An - nam,
dựa trên nền tảng cũ và từng bước khắc phục sai lầm của chính quyền này…
|
Décision du 16 juin 1862 du Contre-Amiral Bonard portant institution d’un
Comité consultatif des Affaires indigènes.
Quyết định ngày 16 tháng 6 năm 1862 của Chuẩn Đô đốc Bonard về việc thành
lập Hội đồng Tư vấn các công việc nội chính bản xứ.
(Nguồn: J 4, BOC 1862, tr. 175-176)
Theo Quyết định này, Hội đồng Tư vấn các công việc nội chính bản xứ được
thành lập tại Sài Gòn. Thành phần của Hội đồng gồm có:
+
Tổng Thanh tra
các công việc của người châu Á;
+
Sĩ quan hậu cần
của Tổng Tư lệnh phụ trách công việc nội chính bản xứ tại Bộ Tổng tham mưu;
+
Quan bố - Thanh
tra công việc nội chính bản xứ của tỉnh Gia Định;
+
Thanh tra đặc
biệt tại Chợ Lớn của người Hoa;
+
Thư kí của Tổng
Tham mưu trưởng.
Hội đồng có chức năng thảo luận và quyết định về các vấn đề liên quan đến
việc tổ chức, quản lí người An - nam và người châu Á nói chung.
Hội đồng Tư vấn nhóm họp dưới sự chủ trì của Tổng Tư lệnh, Tổng Tham mưu
trưởng hoặc Tổng Thanh tra các công việc của người châu Á. Thư kí thông báo
thời gian triệu tập và lí do cuộc họp để các thành viên Hội đồng có thể thu
thập những thông tin liên quan đến vấn đề sẽ được bàn thảo. Thư kí chịu trách
nhiệm ghi chép tóm tắt các nghị quyết và quyết định của Hội đồng Tư vấn. Tuy
nhiên, những quyết định này chỉ có hiệu lực khi có chữ kí của Tổng Tư lệnh.
|
Décision du 12 août 1862 du Commandant en chef réglant l’organisation
provisoire de l’administration des Annamites et des Asiatiques dans la
province de Gia Dinh.
Quyết định ngày 12 tháng 8 năm 1862 của Tổng Tư lệnh quy định về việc tạm
thời tổ chức hành chính của người bản xứ và người châu Á tại tỉnh Gia Định.
(Nguồn: J 4, BOC 1862, tr. 210-216)
Tỉnh Gia Định do Tổng Tư lệnh chịu trách nhiệm chỉ huy trực tiếp được
chia thành 3 phủ và mỗi phủ chia thành 3 huyện. Các huyện do quan huyện người
bản xứ quản lí. Quan huyện chịu sự chỉ đạo của Quan phủ.
Tổ chức cai trị của người bản xứ tại tỉnh Gia Định được quy định như sau:
+
Phủ Tân Bình gồm huyện Bình Dương, huyện Tân Lãnh, huyện
Phước Lộc.
Quan phủ Tân Bình sống tại Sài Gòn, chịu trách nhiệm chỉ đạo việc quản lí
huyện Bình Dương và giám sát việc tổ chức của hai huyện Tân Lãnh và Phước
Long.
Quan huyện Tân Lãnh sống tại Chợ Lớn chịu sự giám sát của Thanh tra các
công việc người Hoa tại thành phố Chợ Lớn.
Quan huyện Phước Lộc sống tại Cần Giuộc chịu sự giám sát của Tư lệnh
tỉnh.
Quan huyện Bình Dương quản lí về chính trị và dân sự dưới sự giám sát của
Quan bố.
+
Phủ Tây Ninh gồm huyện Tân Ninh, huyện Quang Hoá, huyện
Bình Long.
Phủ Tây Ninh do một Tư lệnh sống tại Tây Ninh chỉ đạo về dân sự, chính
trị và quân sự và quản lí ba huyện Tân Ninh, Quang Hoá và Bình Long.
Quan huyện của Tân Ninh và Quang Hoá sống tại Tây Ninh, chịu trách nhiệm
quản lí hai huyện này.
Quan huyện Bình Long sống tại Hóc Môn.
+
Phủ Tân An gồm huyện Cửu An, huyện Tân Thạnh, huyện Tân
Hoà.
Quyết định này cũng quy định chi tiết việc quản lí đối với các khu dân cư
người châu Á ở tỉnh Gia Định.
|
[1] BOC 1861, No1, tr. 2
[2] DƯƠNG KINH QUỐC, Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam trước cách mạng
tháng Tám năm 1945, tr. 71-93.
[3] DƯƠNG KINH QUỐC, Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam trước Cách mạng
tháng Tám năm 1945, tr. 89.
[4] Hiệp ước ngày 25 tháng 8 năm 1883 (Traité
de Hué du 25 Août 1883)
[5] DƯƠNG KINH QUỐC, Chính quyền thuộc địa ở
Việt Nam trước cách mạng tháng Tám năm 1945, tr71-93.
Décret du 27 janvier 1886 du
Président de la République francaise portant organisation du Protectorat de
l’Annam et du Tonkin.
Sắc lệnh ngày 27 tháng 01 năm
1886 của Tổng thống Cộng hoà Pháp quy định cơ cấu tổ chức của Chính quyền Bảo
hộ Trung - Bắc Kì.
(Nguồn: J 47, BOC 1886, tr. 191-196)
Sắc lệnh gồm 14 điều với các nội dung chính sau:
Đối với chính quốc, Chính quyền Bảo hộ Trung - Bắc Kì là đơn vị tự trị
đặc biệt, có cơ cấu tổ chức, ngân sách và khả năng tài chính riêng. Mọi chi
phí của lực lượng Bộ binh và Hải quân, đội tàu, chính quyền dân sự và quân sự
tại Trung - Bắc Kì sẽ do ngân sách của Chính quyền Bảo hộ đảm nhận. Viên chức
và nhân viên các loại do chính quốc cử tới làm việc trong Chính quyền Bảo hộ
sẽ được tính là làm việc biệt phái và hưởng các quyền lợi theo luật định.
Người đứng đầu Chính quyền Bảo hộ là Tổng Trú sứ. Tổng Trú sứ đại diện
cho Cộng hoà Pháp bên cạnh triều đình Huế và trực thuộc Bộ Ngoại giao Pháp.
Tổng Trú sứ do Tổng thống Cộng hoà bổ nhiệm bằng sắc lệnh, báo cáo tại Hội
đồng Bộ trưởng.
Tổng Trú sứ là người thực thi các quyền của Cộng hoà Pháp tại Trung - Bắc
Kì. Tổng Trú sứ có các quyền hạn theo công ước và hiệp ước đã kí với triều
đình Huế. Tổng Trú sứ chủ trì quan hệ đối ngoại của Trung Kì cũng như các
quan hệ giữa các cấp chính quyền bản xứ với các cấp chính quyền Pháp. Để có
hiệu lực, các văn bản pháp luật của vua triều đình Huế phải có chữ kí chuẩn y
của Tổng Trú sứ và sẽ do Toà án Pháp thi hành.
Tổng Trú sứ ra chỉ thị cho Tư lệnh các lực lượng Bộ binh và Hải quân, đội
tàu và các cơ quan thuộc Chính quyền Bảo hộ. Tổng Trú sứ ban hành nghị định
tổ chức và quy định quyền hạn của các cơ quan, có sự phê chuẩn của Bộ trưởng
Bộ Ngoại giao. Tổng Trú sứ bổ nhiệm các chức danh dân sự, ngoại trừ chức danh
Khâm sứ, Thống sứ, Công sứ và người đứng đầu các cơ quan chính, các chức danh
này do Bộ trưởng Bộ Ngoại giao bổ nhiệm. Trường hợp khẩn cấp, Tổng Trú sứ có
thể bổ nhiệm hoặc treo chức đối với những người đang giữ các chức vụ trên
bằng các quyết định tạm thời được Bộ trưởng Bộ Ngoại giao phê chuẩn.
Tổng Trú sứ có trụ sở chính đặt tại Huế và có thể lưu trú tại các thành
phố khác của Trung - Bắc Kì theo yêu cầu của công việc. Phụ tá cho Tổng Trú
sứ là Khâm sứ ở Huế và Thống sứ ở Hà Nội. Trường hợp Tổng Trú sứ vắng mặt
hoặc không thể đến, thay mặt cho Tổng Trú sứ bên cạnh triều đình Huế là Khâm
sứ. Quyền hạn của Khâm sứ và Thống sứ sẽ do Tổng Trú sứ quy định tại các nghị
định tiếp theo, được Bộ trưởng Bộ Ngoại giao phê chuẩn.
Hội đồng Chính quyền Bảo hộ được thành lập bên cạnh Tổng Trú sứ, do Tổng
Trú sứ làm Chủ tịch. Theo yêu cầu của công việc, Hội đồng có thể đóng trụ sở
tại Huế hoặc Hà Nội. Trường hợp Tổng Trú sứ vắng mặt hoặc không thể đến, Hội
đồng sẽ do Khâm sứ hoặc Thống sứ chủ trì tuỳ theo địa điểm nhóm họp. Thành
phần và quyền hạn của Hội đồng sẽ được quy định bằng sắc lệnh đặc biệt theo
đề nghị của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao và được Tổng Trú sứ chấp thuận.
Tổng Trú sứ là người duy nhất trong Chính quyền Bảo hộ Trung - Bắc Kì có
quyền trao đổi thông tin với chính phủ Cộng hoà Pháp, các bộ khác trong chính
phủ thông qua Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Những vấn đề về chính trị, tổ chức và
Hành chính tổng hợp thuộc quyền hạn của nhiều bộ khác nhau, những vấn đề có
thể làm thay đổi dự toán ngân sách chỉ được xử lí thông qua Bộ trưởng Bộ
Ngoại giao.
Tổng Trú sứ được phép thông tin trực tiếp với Thống sứ Nam Kì và người
đại diện của Cộng hoà Pháp tại Bắc Kinh, nhưng không được phép tiến hành bất
kì hành động chính trị hay ngoại giao nào, ngoài Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.
Ngoài quy định tại điều 6, Tư lệnh các lực lượng Bộ binh và Hải quân và
đội tàu có thể trao đổi thông tin trực tiếp với các Bộ trưởng Bộ chiến tranh
và Hải quân về những vấn đề kĩ thuật và trong giới hạn được Bộ trưởng Bộ
Ngoại giao cho phép, hoặc trường hợp bất đắc dĩ không thể trao đổi thông qua
Tổng Trú sứ. Tổng Trú sứ phải nắm rõ tất cả các trao đổi thông tin trực tiếp
trên.
Không chiến dịch quân sự nào được tiến hành nếu không có sự đồng ý của
Tổng Trú sứ, trừ trường hợp khẩn cấp cần đẩy lùi một cuộc tấn công. Tổng Trú
sứ được trao quyền chỉ huy các chiến dịch quân sự.
Các đạo quan binh có thể do Tổng Trú sứ quyết định, sau khi được chính
quyền quân sự đồng ý và tuân theo quân pháp. Chế độ dân sự tại các xứ sẽ tái
lập theo quyết định của Tổng Trú sứ. Các quyết định về thành lập hoặc phá bỏ
chế độ quân sự phải báo cáo với Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.
Mỗi năm, tại Hội đồng Chính quyền Bảo hộ và sau khi có ý kiến của các cơ
quan có thẩm quyền, Tổng Trú sứ lập ngân sách thu chi của Chính quyền Bảo hộ
cho năm tiếp theo. Trong phần chi có thể bổ sung khoản trợ cấp theo yêu cầu
của chính quốc để đảm bảo cân đối ngân sách. Dự thảo ngân sách và hồ sơ giải
trình được gửi tới Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Ngân sách do Tổng thống Cộng hoà
Pháp phê chuẩn bằng sắc lệnh, báo cáo tại Hội đồng Bộ trưởng và có hiệu lực
thi hành từ ngày 01 tháng 01.
Sau ngày 31 tháng 3 hàng năm, Tổng Trú sứ quyết toán tài khoá năm kèm
theo chứng từ gửi tới Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Báo cáo quyết toán phải được
phê chuẩn bằng sắc lệnh và báo cáo tại Hội đồng Bộ trưởng.
Ở một số thời điểm, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao cử các đại biện tới Trung Kì
và Bắc Kì để nghe báo cáo về tình hình Chính quyền Bảo hộ. Các đại biện có
rộng quyền nghiên cứu, theo hướng dẫn nhận được từ Bộ trưởng Bộ Ngoại giao và
Tổng Trú sứ phải thông tin trực tiếp với các đại biện. Các đại biện không can
dự vào công việc của chính quyền, chỉ tham gia đóng góp đánh giá với Tổng Trú
sứ.
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Arrêté du 12 février 1887 du
Résident général de la République française en Annam et
au Tonkin réorganisant le Service des Travaux publics en Annam et au Tonkin.
Nghị định ngày 12 tháng 02
năm 1887 của Tổng Trú sứ Trung- Bắc Kì về việc tổ chức lại Sở Công chính
Trung - Bắc Kì.
(Nguồn: J 140, MBAT 1887, tr. 124-126)
Nghị định gồm 12 điều với các nội dung chính sau:
Sở Công chính Trung - Bắc Kì gồm hai bộ phận:
+ Bộ phận trung ương trực thuộc Tổng Trú sứ, phụ trách
các công trình phúc lợi ích chung, đặc biệt liên quan đến đường sắt, hầm mỏ,
chế độ chung về các nguồn nước, cảng và bờ biển.
+ Bộ phận phụ trách vùng trực thuộc các Công sứ, phụ trách
các công trình lợi ích địa phương, đặc biệt liên quan đến đường sắt, đê điều
và các công trình dân sự.
Nhân sự bộ phận trung ương gồm: một kĩ sư trưởng, các kĩ sư phụ tá, các
đốc công công trình.
Kĩ sư trưởng nghiên cứu và chuẩn bị sơ đồ cho các công trình phúc lợi
trình Tổng Trú sứ phê chuẩn và cho thi công các dự án được duyệt. Kĩ sư
trưởng và các kĩ sư phó chỉ đạo nhân viên cấp dưới thi công các công trình
được cấp phép. Ngoài ra, các kĩ sư của bộ phận trung ương được giao kiểm tra
các dự án trình qua Tổng Trú sứ. Trường hợp cần thiết, Tổng Trú sứ có thể cho
phép kĩ sư trưởng trưng tập các nhân viên thuộc bộ phận phụ trách vùng để
giám sát các công trình được giao.
Nhân sự bộ phận phụ trách vùng gồm: kiến trúc sư lục lộ; đốc công công
trình; giám sát viên công trình. Những nhân viên này do Công sứ và Phó Công
sứ quản lí.
Sơ đồ do các kiến trúc sư lục lộ thiết kế được Công sứ hoặc Phó Công sứ
trình Tổng Trú sứ phê chuẩn, trừ trường hợp miễn đặc biệt. Nhân viên các loại
do Tổng Trú sứ bổ nhiệm và cách chức, trừ kĩ sư trưởng do Bộ trưởng Bộ Ngoại
giao bổ nhiệm trực tiếp. Việc cách chức các kĩ sư, lục lộ-kiến trúc sư và đốc
công công trình được quyết định sau khi có ý kiến của Hội đồng Chính quyền Bảo
hộ. Ngoài ra, các đối tượng trên có thể bị Tổng Trú sứ quyết định treo chức
không hưởng lương. Thời hạn treo chức không quá 1 tháng.
Việc nâng hạng chỉ được tiến hành có lựa chọn sau ít nhất 1 năm làm việc
tại hạng thấp hơn. Sau hai năm làm việc tại một hạng, các nhân viên được nâng
lên hạng cao hơn. Đối với những đối tượng bị treo chức, thời hạn tăng gấp
đôi.
Để được bổ dụng làm đốc công hạng 3, nhân viên giám sát công trình phải
thi đỗ một kì sát hạch kĩ thuật trước một uỷ ban đặc biệt và có ít nhất 1 năm
làm việc.
Để được bổ dụng làm kiến trúc sư lục lộ hạng 3, đốc công công trình hạng
1 phải có ít nhất ba năm làm việc ở vị trí đốc công.
Mức lương nhân viên Sở Công chính quy định như sau:
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Arrêté du 20 juin 1887 du
Résident général de la République française en Annam et
au Tonkin réorganisant les Services de la Résidence générale.
Nghị định ngày 20 tháng 6 năm
1887 của Tổng Trú sứ Trung-Bắc Kì về tổ chức lại các phòng, ban thuộc Toà
Tổng Trú sứ.
(Nguồn: J 140, MBAT 1887, tr. 211-214)
Theo Nghị định, các đơn vị thuộc Toà Tổng Trú sứ được tổ chức như sau:
Văn phòng Tổng Trú sứ phụ trách:
+ Tiếp nhận và phát công văn, lưu điện tín, công việc tối
mật và chuyên biệt, nhân sự Toà Tổng Trú sứ, nhân sự bản xứ, bổ dụng, thuyên
chuyển, nghỉ phép, hồi hương, trưng dụng các loại, công việc và nhân sự cảnh
sát, công việc bản xứ, hình thức khen thưởng.
+ Tư pháp, hộ tịch, nhập quốc tịch, chế độ cầm cố, thừa
kế vô chủ, đăng kí, chế độ nhà tù, phát vãng, ân xá, các Uỷ ban Tư vấn thành
phố, báo chí, công bố, các phiên toà.
+ Thương mại, công nghiệp, nông nghiệp, nhập cư, sở hữu
công nghiệp, hàng giả.
+ Đồ
dùng văn phòng, in ấn.
Phòng Quân sự phụ trách:
+ Công văn liên quan đến
nhân sự và thiết bị của sư đoàn chiếm đóng cũng như các chiến dịch quân sự,
gửi các sự vụ của sư đoàn về Bộ Ngoại giao, hồi hương binh sĩ, cách li kiểm
dịch, đề nghị tặng thưởng Nam Long bội tinh.
+ Dân vệ, tổ chức, nhân sự,
trang phục, vũ khí, doanh trại.
+ Công văn liên quan đến
nhân sự và thiết bị của sư đoàn Hải quân, hoạt động của đội tàu, thuyền của
các Toà Công sứ, chỉ đạo pháo binh Hải quân, các hợp đồng thuê tàu chở hàng,
vận tải, hoạt động của những người kéo thuyền.
Ban Chỉ đạo Kiểm tra tài chính phụ trách: các
công việc về kế toán ngân sách và thuế các loại. Ban Chỉ đạo gồm:
Phòng 1 phụ trách lệnh chi trả và kế toán:
Lệnh chi trả, chuẩn bị và
lập ngân phiếu, bảng kê phát đi, bản sao kê các khoản chi theo từng chương và
mục của ngân sách, tổng hợp và phân loại kế toán của các chánh chủ trì thuộc
các Bộ Chiến tranh và Hải quân, giám sát nhân sự, các đại lí.
Phòng 2 phụ trách:
+ Công
chính, công trình dân sự, đường sá, đê điều, hải đăng, công trình thuỷ nông,
đường sắt, cảng, phê chuẩn các báo giá, hầm mỏ, nhượng địa, công sản, rừng,
bệnh viện, vệ sinh công cộng, chợ, lò mổ, trưng dụng.
+ Giáo
dục: thành lập trường học, thiết bị trường học, vật dụng các loại, nhân sự,
bổ dụng, thuyên chuyển, cách chức, trường thông ngôn, thư viện, thanh tra
giáo dục.
|