Thứ Ba, 1 tháng 10, 2024

VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN GIAO THỜI, 1900-1930- TRẦN ĐÌNH HƯỢU

 

LỜI MỞ ĐẦU

 

 Trong lịch sử văn học Việt Nam, Giai đoạn 1900-1930 là một giai đoạn có tính chất giao thời. Nếu từ thế kỷ XI đến cuối thế kỷ XIX văn học Việt Nam phát triển theo một hướng, xét về quan niệm văn học, tư tưởng mỹ học, hệ thống thể loại là cùng loại với văn học một số nước thuộc vùng Đông Á, chịu ảnh hưởng truyền thống văn học Trung Quốc, thì từ năm 1930 về sau văn học Việt Nam lại đã phát triển theo một hướng khác, cùng loại với văn học thế giới cận hiện đại, về nguồn gốc thuộc truyền thống văn học châu Âu. Trong quãng từ 1900 đến 1930 văn học Việt Nam chuyển từ loại hình này sang loại hình khác.

Với sự tiếp tục Âu - Á, với công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, nhiều thành phố tư bản chủ nghĩa xuất hiện, làm đổi thay cơ sở kinh tế và kết cấu xã hội của chế độ phong kiến phương Đông, tạo nên một cuộc sống khác trước, làm hình thành một công chúng văn học có thị hiếu khác trước. Phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp, giải phóng dân tộc cũng chuyển sang có nội dung  mới, có hình thức tổ chức khác trước. Trước tình hình đó, văn học đã thay đổi khá cơ bản, không những phản ánh phong trào đấu tranh cứu nước của dân tộc mà cả xu hướng duy tân hiện đại hóa đất nước của thời đại. Văn học đầu thế kỷ XX đã ra đời cách khác, truyền bá theo cách khác; tác giả, tác phẩm, công chúng văn học đều đã thuộc loại hình khác.

Theo xu hướng của thời đại, văn học đi vào quỹ đạo chung của thế giới hiện đại nhưng lúc đầu nhân vật chủ yếu, có văn hoá nhất, có ý thức nhất, tiêu biểu nhất cho dân tộc vẫn là nhà nho. Trong văn học, nhà nho vừa là người sáng tác, là công chúng vừa là hình tượng văn học chủ yếu. Đầu thế kỷ các nhà nho đã đi đầu cách tân văn học cổ truyền để thích ứng với thời đại mới sau đó mới đến các nhà trí thức tân học, học tập viết văn theo lối châu Âu. Việc đổi mới văn học hoặc là do nhà nho làm hoặc là lấy văn học nhà nho làm xuất phát điểm cách này hay cách khác vẫn không thể thoát ly hẳn ảnh hưởng của nền văn học cổ truyền, vốn gắn với thế giới quan, quan niệm văn học, tư tưởng mỹ học Nho giáo.

Nhằm làm nổi bật nhất và diễn tiến cụ thể của giai đoạn văn học giao thời như thế, chúng tôi quan tâm hàng đầu đến sự vận động, sự biến chuyển: vận động, biến chuyển trong ngôn ngữ, trong hình tượng, trong thể loại, trong từng tác phẩm ngôn ngữ, tác giả, từng dòng văn học, vận động biến chuyển theo từ văn học cổ truyền sang văn học hiện đại. Quá trình đổi mới ở đây không thông qua việc ra đời một tác phẩm loại chủ nghĩa văn học mới mà thông qua sự cải tiến dần dần, ở người này một ít ở người khác một ít, nhưng nhìn chung, về thời gian là khá nhanh. Và vì nhịp điệu là khá gấp rút. Sự đổi thay biểu hiện tập trung ở hai thời điểm: về phía trước xung quanh năm 1905 và về phía sau xung quanh năm 1925, cùng nhịp với phong trào ‘phương Đông thức tỉnh’ trước thế giới hiện đại.

Nhằm trình bày quá trình vận động phát triển như thế chúng tôi phân bố giáo trình thành năm chương:

Trong chương I chúng tôi trình bày bối cảnh lịch sử nhằm nêu bật những nét mới trong cuộc sống, những sự đổi thay trong đời sống văn học và các vấn đề trong phương hướng phát triển của nó.

Chương II và chương V trình bày những sự kiện văn học đánh dấu sự chuyển biến đầu và cuối giai đoạn.

Chương III và chương IV trình bày diện mạo nền văn học của cả giai đoạn thành hai tuyến:

Văn học truyền thống cách tân để thích ứng với thời đại mới, cuối cùng bất lực trong nhiệm vụ phản ánh cuộc sống mới, lạc lõng trước công chúng nên đi đến tiêu vong.

Văn học mới theo con đường bắt chước văn học châu Âu ra đời ở thành thị, lúc đầu khá xa lạ, nhưng không ngừng thâm nhập vào cuộc sống, dần dần thành dành được công chúng và trưởng thành.

Những sự kiện văn học, các tác giả, tác phẩm, các chi tiết về nội dung hay nghệ thuật đều lựa chọn và phân tích về mặt có ý nghĩa tiêu biểu cho từng chặng đường trên quá trình phát triển đó. Cho nên đọan cuối cùng trong sáng tác của một số tác giả thuộc giai đoạn trước như Nguyễn Khuyến, Nguyễn Thượng Hiền và bước đầu của một số tác giả thuộc giai đoạn sau như Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Ái Quốc cũng được nói đến, và nói ở những khía cạnh có ý nghĩa đối với quá trình biến chuyển đó. Phan Bội Châu và Tản Đà là hai nhà văn tiêu biểu cho giai đoạn 1900 - 1930. Cả hai người có sáng tác đến 1939 - 1940. Đoạn cuối trong sáng tác của họ đã là vào giai đoạn sau nhưng lại có ý nghĩa tiêu biểu cho bước kết thúc của giai đoạn 1900 - 1930. Vì ý nghĩa đó chúng tôi dành cho phần này một đoạn phân tích tỉ mỉ. Đặt vào quá trình phát triển chung chúng tôi nói đến các dòng văn học, các tác phẩm, tác giả và với phần đóng góp của nó vào sự nghiệp phát triển của nền văn học dân tộc ở giai đoạn mới, vừa là phát huy truyền thống, xây dựng văn học yêu nước ở bậc cao hơn, vừa là chuẩn bị cho sự ra đời của kịch nói, tiểu thuyết và thơ mới, cho một nền văn học mới có khả năng cao hơn để nói về một cuộc sống xã hội phong phú đa dạng. Về một con người phức tạp trong đời sống bình thường, phá bỏ thế giới của những quan niệm luân thường với cách nhìn theo lăng kính Đạo, Tâm, Chí là thế giới quan chật hẹp làm khuôn khổ cho cuộc sống và con người trong văn học cũ.

Vấn đề phân kỳ, phân loại và nhiều vấn đề cụ thể khác đề cập đến trong giáo trình đang ở giai đoạn chưa thành ý kiến ngã ngũ dứt khoát. Ý kiến của chúng tôi lại cũng chưa có thời gian cần thiết để khảo nghiệm. Tuy vậy, năm này sang năm khác sinh viên chính khóa và tại chức, học viên nhiều lớp ở các cơ quan ngoài trường cứ phải nghe giảng mà không có giáo trình để học, buộc chúng tôi phải cho in sớm. Chúng tôi rất mong được các nhà nghiên cứu, các bạn đồng nghiệp, các bạn sinh viên góp ý kiến giúp chúng tôi sửa chữa những chỗ sai sót, làm cho giáo trình phục vụ việc học tập của sinh viên được tốt hơn.

Trong khi trong khi biên soạn, chúng tôi được đồng chí Chương Thâu cho sử dụng toàn bộ tài liệu về Phan Bội Châu mà anh đã để công sưu tầm trong nhiều năm, đồng chí Tiên Sơn ( đã quá cố) giúp tài liệu về Tản Đà. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó. Chúng tôi cũng xin chân thành cảm ơn các bạn sinh viên các khóa, các bạn đồng nghiệp trong tổ văn học cổ đại, cận đại và dân gian Việt Nam trường Đại học Tổng hợp và các đồng chí ở nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp cổ vũ, thúc giục chúng tôi giúp rất nhiều cho việc hoàn thành bản thảo và xuất bản quyển sách.

 Hà Nội ngày 1 tháng 1 năm 1977   Trần Đình Hượu

Thứ Tư, 18 tháng 9, 2024

ĐÊN HIỆN ĐẠI TỪ TRUYỀN THỐNG, LỜI TỰA



 

LỜI TỰA

 

            Ban chủ nhiệm chương trình KX 07 có nhã ý cho in những bài viết của tôi liên quan đến nội dung chương trình. Tôi lựa chọn một số bài để đưa vào tập sách. Sau nhiều lần do dự và đắn đo tôi đặt tên cho tập sách là “Đến hiện đại từ truyền thống”.

            Đây là những bài tôi viết rải rác từ năm 1974 đến năm 1993, cách này hay cách khác đụng chạm đến vấn đề “con người” mà chương trình KX 07 nghiên cứu.

Tuy vấn đề đổi mới tư duy được chính thức đặt ra giữa những năm 80, nhưng trước đó hàng chục năm, từ thực tế xã hội và từ những thông tin trong sách báo nước ngoài, nhiều người đã thấy có những chỗ không ổn, có những điều phải suy nghĩ lại. Đối với tôi, vấn đề hiện đại hóa và sự chi phối của truyền thống đã lôi cuốn tôi từ nhiều năm. Cho đến năm 1973, trước thực tế “một số trẻ em không ngoan, trong nhà thì bướng bỉnh với cha mẹ, ra đường thì hỗn láo với mọi người, đến trường thì xấc xược với thầy giáo”, Giáo sư Nguyễn Lân viết bài “Có nên vận dụng phương châm Tiên học lễ, hậu học văn trong việc giáo dục thế hệ trẻ của ta ngày nay không? “ . Bài đăng trên tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 31, tháng 7 năm 1973. Sau khi bài báo công bố trên báo Tiền Phong số 2351, ra ngày 16 - 8 -1973 Thanh Bình viết bài dài “Quét sạch những tàn dư tệ hại của Khổng giáo”. Tôi xin trích đoạn kết luận:

            “Là thế hệ thanh niên của thời đại Hồ Chí Minh, chúng ta đang sống, chiến đấu, lao động và học tập vì độc lập tự do của Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội, chúng ta có trách nhiệm bảo vệ và phát huy những truyền thống quý báu của dân tộc ta, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin đầy sáng tạo. Chính vì thế mà chúng ta không thể dung hòa được với Khổng giáo cùng với hệ tư tưởng phản động và bảo thủ của nó. Vì sự nghiệp cách mạng chúng ta phải kiên trì đấu tranh để quét sạch nó ra khỏi mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như quét sạch những đống rác bẩn vậy.”

            Một chiến dịch truy quét đã được nhen nhóm nhưng bị đình chỉ, không kịp thực hiện. Mấy tháng sau tôi viết bài “Mấy ý kiến bàn về nghiên cứu Nho giáo”. Ý định viết bài đó nảy ra từ hai bài báo trên. Hai bài báo đó đặt ra vấn đề truyền thống và vai trò của Nho giáo trong truyền thống. Nhưng cảm hứng chính lại đến từ phong trào “Bình Pháp phê Nho”, “Phê Lâm phê Khổng” ở Trung Quốc rất rầm rộ vào những năm 1973 - 1974, tiếp sau cao trào đại cách mạng văn hóa tư tưởng phát động từ năm 1966.  Tuy đã bắt đầu từ trước, bài viết hoàn thành vào ngày 4 tháng 5, ngày kỷ niệm Ngũ Tứ vận động, một cuộc cách mạng văn hóa chống Nho giáo và Khổng Tử, không chỉ là kịch liệt hay triệt để. Những suy nghĩ đường xa như vậy cũng ảnh hưởng đến người viết. Bài viết vì quá dài nên khi công bố (trên tạp chí Nghiên cứu Văn Hóa và Nghệ thuật số 1, 2 và 3 năm 1984), ban biên tập có sửa chữa và rút ngắn lại.

            Chưa bao giờ chúng ta coi nhẹ truyền thống. Trái lại, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn kêu gọi bảo vệ và phát huy truyền thống. Nhưng truyền thống dân tộc được chú ý về mặt tinh thần yêu nước, anh hùng bất khuất, sản vật của lịch sử chống ngoại xâm phương Bắc nên đối lập với văn hóa Trung Quốc. Cũng không ai nói trong truyền thống đó không có ảnh hưởng Nho giáo. Nhưng Nho giáo, theo cách nghĩ lúc đó, tự nó là phong kiến, bảo thủ, phản động, lại được quân xâm lược mang theo gót giày của chúng sang nước ta, nên cha ông chúng ta không theo, chống lại. Cũng có theo, nhưng cha ông chúng ta theo Khổng Mạnh chứ không theo Tống Nho. Còn Thanh Niên thế hệ Hồ Chí Minh, được chủ nghĩa Mác-Lênin giác ngộ thì không chịu ảnh hưởng Nho giáo. Các đảng viên, cán bộ, giác ngộ cao hơn tất nhiên không còn ảnh hưởng Nho giáo.

            Bài viết không đặt ra mục đích nghiên cứu Nho giáo (nội dung học thuyết, đánh giá tích cực hay tiêu cực, ảnh hưởng đến mặt này mặt khác…) hay bàn về phương pháp nghiên cứu nó. Nội dung bài viết chỉ là “cắm những tiêu vè”, tức là báo hiệu trên đường nghiên cứu Nho giáo, nói cách khác là tránh một số ngộ nhận, dẫn đến lạc đường. Hiểu Nho giáo không đúng, không rõ thì cũng không thể bàn vấn đề nó còn hay không còn gây ảnh hưởng. Nho giáo ra đời và tồn tại gắn bó với một cơ chế kinh tế - chính trị - xã hội, biểu hiện tập trung là nhà nước chuyên chế phương Đông. Cơ chế đó lựa chọn Nho giáo, một mặt, vạch ra một con đường phát triển, mặt khác, tạo ra một cuộc sống. Bị điều kiện hóa trong đó, con người không chỉ buộc phải thích ứng mà còn tự lựa chọn Nho giáo, sống thành những mẫu người đặc định: vua, quan, lại, hào cường, thân sĩ, nhà Nho, nông dân, tiểu kỷ… Khi cơ chế làm môi trường xã hội đó chưa thay đổi căn bản thì con người vẫn tự động thích ứng theo nó, sống theo những mẫu người cũ, vẫn nghĩ, vẫn sống theo cách Nho giáo hóa. Có nhiều người tự coi là rũ sạch ảnh hưởng Nho giáo, lên án Nho giáo kịch liệt, nhưng vẫn sống, vẫn nghĩ rất “nho”. Trong một thực tế như vậy, Nho giáo không chỉ là còn mà tư tưởng mới từ ngoài vào cũng bị Nho hóa; ở một chỗ nào đó, Nho giáo được coi là đã bị quét sạch thì nó vẫn có khả năng tái sinh. 

             Vào những năm đó, cái ám ảnh tôi là chủ nghĩa Mao, là chủ nghĩa xã hội kiểu Trung Hoa. Tôi hình dung một con đường lịch sử mà bước đi ban đầu chi phối định hướng những bước sau. Con người bị điều kiện hóa trong môi trường xã hội, trong ý thức hệ truyền thống, ra sức vươn lên phía trước, có khi tưởng mình đã hết nợ với quá khứ lại đẩy bánh xe lịch sử trượt vào rãnh mòn của quá khứ! Với truyền thống văn hóa phương Đông mà tôi xác định chịu ảnh hưởng quyết định của Nho giáo, tôi chỉ thấy sức mạnh níu kéo trở ngại cho sự phát triển.

            Giữa những năm 80, có nhiều cuộc hội thảo bàn về chiến lược phát triển, về đặc sắc văn hóa dân tộc. Mối quan tâm lớn là xây dựng kinh tế, dân chủ hóa xã hội và xây dựng con người mới. Truyền thống được chú ý nhiều hơn trước, nhưng trong cách hình dung công việc xây dựng xã hội và con người vẫn là tìm một mô hình lý tưởng và tìm cách áp đặt nó vào thực tế. Truyền thống cũng được hình dung là những mặt hay, mặt dở, để phát huy hay khắc phục. Mà mặt hay thì nhiều hơn mặt dở. Nó mất đi tính sinh động thực tế bám vào những thiết chế xã hội, những con người, tác động vào phong tục tập quán, vào tâm lý xã hội, nói tóm lại là không để tự do lấy bỏ, lựa chọn. Những bài viết về vấn đề dân chủ hóa, về làng họ về gia đình truyền thống đều nhắm phân tích cơ chế xã hội truyền thống, mức độ gắn bó của từng thiết chế với Nho giáo và những mẫu người sản sinh theo cơ chế đó, hoặc là thuộc tầng lớp thống trị, hoặc là thuộc tầng lớp bị trị. Tôi đặc biệt chú ý đến các nhân vật quan, lại, nhà Nho, và nông dân. Trên báo chí nổi lên phong trào chống quan liêu. Nhiều bài thơ trào phúng đả kích được đăng tải. Trong bài “Ông quan liêu, ông quan và việc phát hiện nó theo cách nhìn của thơ trào phúng” tôi chú ý đưa ra sự phân biệt giữa ông quan với người công chức, nhân vật chính của bệnh quan liêu hiện đại. Ông quan, về mặt công việc gắn với “lại” hay sai nha, với lính lệ, và về mặt hệ thống cai trị gắn với vua và hảo cường, là thủ phạm của tệ tham nhũng, hống hách, chứ không phải của tệ giấy tờ, xa thực tế. Nhân vật nhà Nho, người trí thức của xã hội truyền thống, được phân tích trong nhiều bài, nhưng vì được trình bày trong các bài viết nói về văn học, không đưa vào tập này. Còn người nông dân, mà nét nổi bật là “tiểu kỷ”- chứ không phải là cá nhân chủ nghĩa- cũng mới chỉ được trình bày sơ lược trong bài “Tìm mô hình nhân cách và chiến lược phát triển”.

             Trên con đường phát triển, hiện đại hóa không chỉ cần chú ý điểm xuất phát, mà cũng cần chú ý điểm đến, tức là đích. Điểm xuất phát là thực tế kinh tế, xã hội, con người… có tính phương Đông. Còn đích phải đến là những mục tiêu dự kiến cho đầu thế kỉ XXI, những dự kiến có cơ sở, không phải ảo tưởng. Hiện đại hóa là phải giải phóng nền kinh tế, xã hội và con người khỏi cơ chế chuyên chế phương Đông, nhưng lại phải tiến hành với những dữ kiện có sẵn do cơ chế đó để lại. Phải phát huy những cái tốt, mà cũng phải biết cải tạo và lợi dụng những cái sẵn có. Có người góp ý kiến với tôi là không nên dùng chữ “lợi dụng”, nhưng tôi nghĩ có những cái rồi phải vứt bỏ, nhưng hiện tại thì đang có ích, đang dùng được. Với những cái như vậy sử dụng có ý nghĩa lợi dụng.

            Vào những năm 1986, 1988 sự thành công của Nhật Bản, Nam Triều Tiên Đài Loan và cả Trung Hoa lục địa thu hút sự chú ý của nhiều người. Ba bài tôi viết: “Về vấn đề tìm đặc sắc văn hóa dân tộc”, “ Thử suy nghĩ theo hướng khác: Việt Nam đi con đường thích hợp với thực tế phương Đông lên chủ nghĩa xã hội” “Tìm mô hình nhân cách và chiến lược phát triển”, được hoàn thành trong những năm đó. Tôi đặc biệt nhấn mạnh yêu cầu xã hội hóa trong tiến trình hiện đại hóa. Dân chủ hóa, đô thị hóa và xã hội hóa, đều là những bước tất yếu để hiện đại hóa,  nhưng xã hội hóa là thực chất của chủ nghĩa xã hội. Xã hội hóa là phá vỡ cơ chế xã hội, chỉ tập trung vào hai khâu nhà nước và gia đình. Nhà nước chỉ huy và ban phát, gia đình thành hộ dân cư để đóng góp cho làng, cho nước. Con người, do đó là của cộng đồng, không có nhân cách độc lập, cơ sở để xây dựng chế độ dân chủ. Trên cơ sở con người cộng đồng đẻ ra chủ nghĩa tập thể, còn trên cơ sở những con người xã hội có nhân cách độc lập là sự hợp tác tự nguyện để hình thành những tổ chức tự quản. Để hình thành tư tưởng xã hội hóa như vậy, tôi được gợi ý bởi cách nói của người Nhật: “Chúng tôi không có xã hội, chỉ có hội và xã (các tổ chức kinh tế, xã hội và văn hóa tự nguyện, tự quản) thôi” và chủ trương của những nhà lãnh đạo Nam Triều Tiên: “Hoan nghênh sự hợp tác (coopération), phản đối chủ nghĩa tập thể (collectivisme)”. Xã hội hóa hay khuyến khích hợp tác, hay mở rộng mạng lưới các hội, xã tự nguyện, tự quản cũng là tránh hai xu hướng cực đoan là chủ nghĩa cá nhân của chủ nghĩa tư bản phương Tây và chủ nghĩa tập thể của chủ nghĩa xã hội phương Đông. Với những hiểu biết ít ỏi về kinh nghiệm Nhật Bản và Triều Tiên, tôi cũng bắt đầu hiểu truyền thống văn hóa phương Đông không chỉ là sự níu kéo, sự cản trở công cuộc phát triển hiện đại hóa. Vấn đề là ở chỗ biết nhìn đúng, có biện pháp cải tạo và lợi dụng đúng. Tôi nghĩ rằng Nhật Bản và Nam Triều Tiên - và cả Trung Quốc nữa - đã thành công vì làm tốt công việc đó.

             Trở lại vấn đề Nho giáo; một người bạn, theo dõi sát những bài tôi viết và tìm hiểu hơn tôi về những kinh nghiệm của Nhật Bản và Nam Triều Tiên, đã nhắc nhở tôi xem lại những kết luận về vai trò của Nho giáo trong sự hiện đại hóa của nền kinh tế mà tôi đã phát biểu trong bài “Di hại của Nho giáo trong xây dựng kinh tế” đăng trong tạp chí Xã hội học số 3 năm 1986, tạp chí Triết học số 9 năm 1987 và in lại trong cuốn Nho giáo xưa và nay với tiêu đề đươc Ban biên tập đổi là: “Nho giáo và kinh tế”. Tháng 11 năm 1991 có cuộc hội thảo về Văn hóa và tư tưởng trong khu vực văn hóa dùng chữ Hán ở Yokohama (Nhật Bản); theo yêu cầu của ban tổ chức hội thảo, tôi viết bản tham luận “Nho giáo và nho học Việt Nam. Mấy đặc điểm và vai trò của nó trước thực tế phát triển thời cận - hiện đại”. Trong bài đó tôi nêu lại những cản trở của Nho giáo đối với sự nghiệp dân chủ hóa, đô thị hóa và xã hội hóa, đồng thời cũng nói khả năng cải tạo, lợi dụng Nho giáo để hiện đại hóa. Hơn thế, trong tương lai, khi kinh tế đã phát triển, cuộc sống của loài người đã thế giới hóa cao, thì Nho giáo có thể góp phần tích cực trong việc xây dựng quan hệ tốt đẹp giữa người với người, xây dựng một thế giới hòa mục, trật tự, ổn định.

            Các bài kể trên tuy có bàn đến mặt này, mặt khác của vấn đề con người, nhưng chưa bài nào lấy chính con người làm đối tượng nghiên cứu. Đụng chạm đến vấn đề đó trực tiếp hơn là hai bài: “Tìm mô hình nhân cách…” và “Đổi mới cách quan niệm giải phóng phụ nữ…”.  Tuy vậy, hai bài đó chủ yếu cũng nhằm đặt hai vấn đề trên trong quan hệ với truyền thống. Nhưng vấn đề, do hoàn cảnh mới lúc đó, được bàn ở cạnh khía khác. Sau cuộc vận động đổi mới, những chủ trương thực hiện khoán 10, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,  làm VAC …làm cho vai trò gia đình, vai trò cá nhân, được nhìn khác trước. Tình hình “bùng nổ” cần phải nhìn rõ điểm đi đến trong tương lai và tìm trong kho tàng của truyền thống những cái có sẵn để thích ứng với sự đổi thay.

             Vấn đề đổi mới, đổi mới xã hội và đổi mới con người, cũng đã được đặt ra từ đầu thế kỉ. Các nhà Nho duy tân không thiếu lòng yêu nước và nhiệt tình đổi mới, nhưng với cách nghĩ, cách sống nhà Nho của họ, thì ngoài thiện chí vì nước, vì dân và khả năng hi sinh vì cách mạng, họ không có được cái nhìn rõ ràng và những biện pháp thiết thực. Truyền thống không chỉ có yêu nước, anh hung, bất khuất, cần cù lao động, và không phải chỉ có toàn những cái tốt đẹp. Trong truyền thống có những cái dở và cũng không ít cái dở. Cũng không chỉ có như vậy. Truyền thống tồn tại bám vào cơ chế  bám vào thói quen, vào cách sống, cách nghĩ, không dễ bỏ, có nhiều cái không nên bỏ, và quan trọng hơn là phải tìm ra cách lợi dụng nó để phát triển. Cách tiến hành giáo dục trong gia đình và tác dụng của những “ông thầy” là những cái nên cải tạo, sử dụng để hiện đại hóa.

 Trong truyền thống thì chỉ nói đến Nho giáo. Nhưng trong thực tế thì không chỉ có Nho giáo. Còn có Phật giáo, tư tưởng Lão - Trang, Đạo giáo và những cái khác, ảnh hưởng cũng không nhỏ. Tôi muốn nhấn mạnh vai trò chi phối của Nho giáo, hơn thế, tôi còn muốn lưu ý đến con đường của Việt Nam là Đông Á hay Đông Nam Á. Hai bài: “Nghiên cứu các hệ tư tưởng Nho, Phật, Đạo từ góc độ lịch sử tư tưởng và đạo đức học” và “Con người Việt Nam với truyền thống văn hóa Nho giáo hóa”, một mặt nào đó có ý nghĩa điều chỉnh cách nhìn để tránh phiến diện, thường xảy ra do muốn đạt sự nhất quán trong nghiên cứu. Vấn đề con người đã đặt ra trực tiếp nhưng cũng chưa phải được nghiên cứu cụ thể, đi sâu đáp ứng đòi hỏi của hoạt động thực tiễn.

             Con người và giáo dục đào tạo con người là vấn đề đặt ra từ xa xưa, luôn luôn đặt lại theo cách mới, nhưng bao giờ cũng là mênh mông, khó thấy hết. Nhìn con người từ góc độ tính trời, mệnh trời, hay từ góc độ giáo dục, góc độ chính trị, góc độ ý thức hệ, góc độ kinh tế, xã hội, thì hiểu biết về nó cũng từng bước có được nâng lên, nhưng vẫn không tránh được phiến diện. Hoàn thiện con người bằng giáo dục hay bằng những cải cách kinh tế - xã hội cũng vậy. Ngày nay lại có xu hướng nhìn các vấn đề nhân văn và xã hội trong quan hệ giữa con người và thiên nhiên, theo góc độ văn hóa, đó là một cố gắng nhìn vấn đề phát triển con người và xã hội một cách tổng quát hơn. Với sự chú ý đến quan hệ tương tác nhiều chiều và có quy luật, cách nhìn tổng quát theo bình diện văn hóa, vị trí của ý thức hệ sẽ được xác định đúng hơn. Nho giáo, Tam giáo - có lẽ đúng hơn là một cách kết hợp kiểu Việt Nam giữa các thứ ấy - sẽ là một đầu mối để nhìn con đường phát triển, để nhìn con người Việt Nam, con người nhận thức, lựa chọn để thích ứng sáng tạo, tức là làm động lực cho phát triển. Đồng thời con người đó cũng tùy theo truyền thống văn hóa của mình mà chọn những mục tiêu hợp với mình, chi phối hướng đi và cung cách phát triển kinh tế, chính trị, xã hội.

              Những bài được lựa chọn đưa vào tập sách, như đã nói ở trên chỉ có ý nghĩa là tiêu vè, có ý nghĩa đặt vấn đề. Nếu tác giả còn tiếp tục nghiên cứu vấn đề con người, vấn đề con đường từ truyền thống đến hiện đại, thì những bài trên có thêm ý nghĩa chuẩn bị cho hướng nghiên cứu tổng quát theo bình diện văn hóa vừa nói.

            Cuốn sách Đến hiện đại từ truyền thống bao gồm những bài viết trong nhiều năm, không liên tục và cũng không theo một kế hoạch dự định từ trước. Hầu hết là những bài tham luận trình bày trong các cuộc hội thảo khác nhau. Cho nên mỗi bài chịu tác động của một không khí, của hoàn cảnh lúc viết và của mục tiêu cuộc hội thảo. Do thực tế đó  nhìn trong toàn bộ nó có hai nhược điểm là phân tán và có chỗ trùng lặp. Tư tưởng chung là nhất quán. Từng bài một nói rõ một vấn đề  nhưng các vấn đề chung như truyền thống, Nho giáo, con đường phương Đông từ truyền thống đến hiện đại, vấn đề con người… thì chỉ đề cập từng điểm và không giải quyết dứt điểm. Hai mươi năm là một thời gian dài, đã có nhiều đổi thay. Bây giờ nếu viết lại chắc cũng có chỗ viết khác. Song tôi chủ trương in lại quyền nguyên văn như khi viết ban đầu, không sửa chữa để giữ tính lịch sử của hoàn cảnh đặt vấn đề và tư tưởng người viết. Hầu hết các bài đã công bố trên các tạp chí. Khi công bố, nhiều trường hợp do khuôn khổ tờ báo, một số bài có rút ngắn, một số bài thay cả đề mục. Những trường hợp đó, tôi khôi phục lại nguyên văn theo bản lưu của tác giả cho hợp với ý định vừa nói. Tuy vậy, các bài viết không sắp xếp theo thứ tự thời gian được viết, mà theo vấn đề, để người đọc dễ theo dõi.

            Đến hiện đại từ truyền thống, ngày nay đang là hướng quan tâm của nhiều người. Tôi rất mong vì lẽ đó cuốn sách được độc giả chú ý  trao đổi ý kiến và góp ý cho tác giả những chỗ thiếu sót. 

            Cuốn sách được ra mắt bạn đọc lần này là do sự khuyến khích, giúp đỡ của Ban Chủ nhiệm Chương trình KX 07 và nhiều bạn bè. Nhân dịp này chúng tôi xin tỏ lòng cảm tạ đối với sự khuyến khích giúp đỡ đó.

          Hà Nội ngày 18 tháng 9 năm 1993 

                                                                                                      Tác giả.

 

Chủ Nhật, 31 tháng 3, 2024

NHO GIÁO VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUNG CẬN ĐẠI

TRẦN ĐÌNH HƯỢU
NHO GIÁO VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUNG CẬN ĐẠI
LỜI NÓI ĐẦU
Năm 1972 tôi được Tổ Văn học Cổ Cận Dân (thuộc khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội) giao cho giảng dạy phần văn học Việt Nam từ 1900 đến 1930, thay cho một đồng nghiệp được điều động đi công tác khác. Tôi trở lại với văn học sau hàng chục năm gián đoạn, theo đuổi một chuyên môn khác. Lúc đó văn học Việt Nam từ 1900 đến 1930 đang được gọi là văn học cận đại và nghiên cứu từng tác giả theo sự phân biệt viết bằng Hán - Nôm hay quốc ngữ, lưu hành công khai hay bí mật, có nội dung yêu nước hay nô dịch, nói cách khác là nhìn theo tiêu chuẩn chính trị hơn là văn học.
Cái làm tôi lưu ý trước hết trong văn học giai đoạn vừa nói là một tình hình gián đoạn, một sự chuyển hướng trong văn học thời đó. Biểu hiện bề mặt là văn học quốc ngữ thay cho văn học Hán - Nôm. Nhưng ở phía sau sâu xa hơn, là cách hiểu, cách thưởng thức văn học. Văn học đã là thơ, kịch, tiểu thuyết và đặc biệt là tiểu thuyết chứ không còn là văn, thơ, phú, lục như trước nữa. Người đọc mất đi một cách nhanh chóng khoái cảm nghệ thuật khi đọc Phan Bội Châu, Tản Đà, những nhà văn cách đó chỉ hơn mười năm đã được chào đón một cách cực nồng nhiệt. Chỉ quãng mười lăm năm sau khi ra đời, nền "văn học mới" - tức tiểu thuyết, kịch và thơ mới - đã hoàn toàn chiếm lĩnh văn đàn, có thể nói không quá lời là đã "thanh toán" văn thơ phú lục. Tôi dùng chữ "giao thời" đề định tính giai đoạn văn học 1900-1930 là nhằm phản ánh thực trạng vừa nói trên.
Gián đoạn, chuyển tiếp, giao thời là những chuyện có thể gặp trong bất cứ nền văn học nào. Vấn đề là chuyển hướng về đâu? Giao thời giữa cái gì và cái gì? Sự chuyển tiếp trong văn học Việt Nam đầu thế kỳ XX từ văn thơ phú lục sang thơ kịch tiểu thuyết không chỉ là sự thay đổi một trào lưu văn học, một chủ nghĩa văn học, sự thịnh suy của một thể loại văn học nào đó như tình hình ở các nước mà quan niệm văn học về cơ bản đã định hướng. Sự đổi thay ở đây mang ý nghĩa thời đại, ý nghĩa thế giới: một vùng văn hóa - vùng Đông Á - gia nhập vào thế giới, mà nét trội bật, cả về văn học, là đi theo văn minh Âu Mỹ. Văn học được quan niệm cách khác, đổi thay cả quan niệm thẩm mỹ và cả hệ thống thể loại, thành phần văn học. Tôi hình dung giai đoạn giao thời đó thành một quá trình từ A sang B. Mà A là nền văn học cổ truyền mang đặc sắc Đông Á, chủ yếu do các nhà nho viết và viết theo quan niệm văn học Nho giáo. Còn B là văn học châu Âu mà mẫu hình cụ thể là văn học Pháp từ thế kỷ XVII cho đến thế kỷ XIX, lúc bấy giờ trên thế giới và nhất là ở Việt Nam, có ý nghĩa là phổ biến của thế giới và tiền tiến của thời đại. Tôi chọn một phương hướng tìm hiểu văn học Việt Nam khác, độc lập với phương hướng của các nhà nghiên cứu đi trước xem nó là khẳng định hay phủ định chế độ phong kiến, yêu nước hay nhân đạo, hiện thực hay không hiện thực... Hình dung quá trình từ A sang B như vậy không chỉ phải xác định A - điểm xuất phát - là gì mà cũng phải hình dung con đường từ A sang B với những nẻo đường khác nhau. Có một điểm kết thúc của A, một điểm bắt đầu của B. Chọn điểm B thì tương đối dễ. Đó là lúc tiểu thuyết, kịch nói và thơ mới chiến thắng tức là vào quãng 1925 đến 1932. Nhưng điểm kết thúc của A - tùy thuộc vào cách hình dung A là thế nào - thì phải làm sáng tỏ không ít điểm quan trọng. Nói từ A sang B thì có cái A và cái B khác nhau, không thể lẫn lộn với nhau.
Nhưng trong quá trình chuyển hóa, thay thế nhau có lúc có cái là vừa A, vừa B, có cái là không A, không B. Và đến khi B đã tự khẳng định, thì những yếu tố của cái A đã bị phủ định, có cái mất đi, nhưng cũng có cái vẫn tồn tại, thậm chí chính những yếu tố đó lại là tiền đề, là cơ sở cho cái mới (tức cái B)có thể ra đời và tồn tại, phát triển.
Nếu hiểu A là văn học do nhà nho viết và viết theo quan niệm văn học Nho giáo, là văn thơ, phú lục, là văn học Đông Á... thì cũng cần làm sáng tỏ quan hệ giữa văn hóa và văn học giữa Việt Nam và Trung Quốc, quan hệ giữa Nho giáo với Phật giáo, tư tưởng Lão - Trang, nhà nho Việt Nam với tư cách là tác giả văn học, sự khác nhau không phải là ít trong thực tế và lịch sử giữa các nước Đông Á...
Hãy chưa nói đến các nhà sư đời Lý - Trần mà tính các nhà nho từ Chu Văn An, Trương Hán Siêu, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm cho đến Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, cho đến Nguyễn Thượng Hiền, Phan Bội Châu, Tản Đà và cả Ngô Tất Tố nữa... Họ đều là nhà nho, nhưng họ thật khác nhau biết bao! Nói văn thơ, phú lục, nhưng ngoài ra còn có ngâm khúc, truyện nôm và hát nói, chưa kể là cũng khó có thể coi thơ Hồ Xuân Hương, Tú Xương hay Tản Đà là cùng loại dầu đó đều là tứ tuyệt, là thất ngôn.
Nói gián đoạn cũng không thể hiểu là tuyệt đối không liên tục. Nói gia nhập vào quỹ đạo chung của thế giới cũng không phải không kèm theo một xu thế tự biệt dị.
Cho nên để biểu đạt "tính giao thời" của văn học Việt Nam từ 1900 đến 1930, chúng tôi tập trung sự chú ý vào các điểm chuyển tiếp, các khâu trung gian, vào cung cách ra đời của cái mới, nhất là kịch và tiểu thuyết. Đó là phương hướng biên soạn cơ bản của giáo trình VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN GIAO THỜI 1900-1930 (1) Và để thuyết minh rõ hơn sự lựa chọn phương hướng trên là một số bài báo và giáo trình chuyên đề NHO GIÁO, NHÀ NHO VÀ VĂN HỌC (2) do chúng tôi giảng dạy từ 1964 ở trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, trường Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, trường viết văn Nguyễn Du và nhiều lớp nghiên cứu văn học khác.
Đi theo hướng nghiên cứu như vậy, chúng tôi phải khảo sát văn học trước giai đoạn giao thời, văn học do nhà nho viết, viết theo quan niệm văn học Nho giáo, nghiên cứu những tác giả, những thời điểm, những vùng đặc biệt "có vấn đề" nhằm xác định cái A khi bước vào thời đại mới, bước vào giai đoạn giao thời là gì.
Những bài viết tập hợp trong cuốn NHO GIÁO VÀ VĂN HỌC TRUNG CẬN ĐẠI VIỆT NAM này chính là một phần kết quả của công việc tìm tòi đó.
Các bài không phải được viết theo kế hoạch, đề cương dự định trước. Một phần rất lớn là viết theo nhu cầu của các cuộc hội thảo khoa học của rất nhiều cơ quan khác nhau trong quãng thời gian có đến hai mươi năm. Cho nên thứ tự trước sau, độ dài ngắn, vấn đề được đề cập nông sâu tùy thuộc vào thực tế của hoàn cảnh khi viết. Chỉ có phương hướng bao giờ cũng là nhất quán, cũng là kiên định.
Chúng tôi bắt đầu nghiên cứu đối tượng từ Nguyễn Trãi. Trước Nguyễn Trãi vào cuối thế kỷ XIV đã có các nhà nho làm văn thơ phú lục như Chu Văn An, Trương Hán Siêu, Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh... Nhưng đến Nguyễn Trãi - và qua nhiều mặt hoạt động của Nguyễn Trãi - Nho giáo mới được thể chế hóa trong chính trị xã hội và văn hóa Việt Nam, mở đường cho việc đưa Nho giáo lên địa vị chính thống. Hơn nữa Nguyễn Trãi là người viết nhiều, còn để lại nhiều tác phẩm đủ thể loại. Nguyễn Trãi, về mặt lịch sử là một nhà nho quá đặc sắc, sự nghiệp quá rộng lớn, ít người có thể so sánh, nhưng về mặt văn học thì lại là một nhà nho - nghệ sĩ hết sức tiêu biểu. Muốn hiểu Nho giáo, nhà nho, văn học nhà nho - với đặc sắc Việt Nam của nó - thì có lẽ ít có gương mặt nào tiêu biểu hơn Nguyễn Trãi.
Sự phát triển của văn học Việt Nam sau Nguyễn Trãi, nhất là từ thế kỳ XVII đến XIX cũng là văn học do các nhà nho viết, viết theo quan niệm Nho giáo, nhưng chứa đựng nhiều cái khác trước. Có những nhân tố rất quyết định chi phối sự thay đổi mà quan trọng nhất là sự thích ứng với thực tế chính trị - kinh tế - xã hội, là tác động của văn học dân gian đã phát triển cao hơn. Nhưng để tập trung sự khảo sát theo phương hướng đã định, chúng tôi cũng gác sang một bên cả những mặt quan trọng đó, chỉ dùng chúng để kiểm tra, để tham khảo.
Để hiểu rõ hơn nhà nho Việt Nam - với tư cách là người viết văn chương - chúng tôi thấy cần phải đánh giá sự tiếp xúc của họ với Nho giáo và văn học Trung Quốc. Không chỉ là với những cái có trong Kinh, Truyện, Sử Tử mà cả những cái có sau thời Đường Tống, thời phát triển của từ khúc, ca bản, kịch, tiểu thuyết, sự giao lưu văn hóa giữa hai dân tộc xảy ra bằng sự tiếp xúc với cái đương đại. Đồng thời cũng phải lưu ý đến tình hình phát triển không đồng đều của các vùng đất nước, sự hình thành chậm, sớm của các vùng văn vật, sự đóng góp khác nhau của các vùng văn vật mới, cũ, Bắc, Nam vào tiến trình phát triển văn học dân tộc. Có lẽ nên xem xét tuồng của vùng Thuận Quảng, truyện nôm của Nguyễn Đình Chiểu một cách khác chứ không nên nhìn là nhất thể với tuồng miền Bắc, với truyện nôm thế kỷ XVIII-XIX ở miền Bắc (tôi không nói với ý nghĩa so sánh giá trị nghệ thuật mà với ý nghĩa tìm trong đó nội dung lịch sử, và truyền thống văn hóa).
Suốt trong thời gian tồn tại - ít ra là từ khi khoa cử thành một thể chế - các nhà nho ai cũng coi viết văn - văn thơ phú lục - là công việc của mình. Nhưng cũng không nên nghĩ những nhà nho viết văn đó cũng là những "thi sĩ", "văn sĩ" tức là những nghệ sĩ như ta hiểu ngày nay. Tất nhiên cũng không phải không có ai thuộc loại nghệ sĩ như vậy. Có những lúc, với những điều kiện nào đó của cuộc sống, có một số người đã vượt ra ngoài ranh giới chính thống của quan niệm văn học Nho giáo, ngoài cả Nho giáo nữa, viết những cái mà lúc đó không ai chấp nhận là văn chương. Họ tìm đến những cái đẹp khác không chỉ là đạo lý và từ táo. Nho giáo vốn gắn bó với thể chế chính trị - xã hội chuyên chế phương Đông, với cuộc sống nông thôn và cung đình. Khi đô thị phát triển, các tầng lớp thị dân thành đông đảo - một điều kiện không dễ có trong cơ chế chuyên chế - tạo ra được một công chúng văn học, một đội ngũ tác giả, một đời sống văn học bên lề của cuộc sống nông thôn - cung đình, thì loại văn học phi chính thống như vậy mới có đất sống. Viết thứ văn học phi chính thống đó cho đám thị dân cũng là các nhà nho, nhưng là những nhà nho ít nhiều "ly Kinh, bội Đạo". Cho nên không nên hiểu nhà nho chỉ là những người học chữ Hán, đọc sách thánh hiền, giữ đạo tam cương ngũ thường... mà còn phải nhìn nó như một tầng lớp xã hội, một đội ngũ có nhiều loại hình. Chúng tôi chia nhà nho - chỉ kể trong phạm vi sáng tác văn học - ra làm ba loại: nhà nho hành đạo, nhà nho ẩn dật và nhà nho tài tử. Nhà nho hành đạo không phải là tất cả những người thi đỗ, làm quan; nhà nho ẩn dật không phải tất cả các ẩn sĩ, nhất là không phải những người chủ trương thoát tục; Còn nhà nho tài tứ thì còn cần đến một thuyết minh phức tạp hơn; không nên lầm lẫn với khái niệm "tài tử" thường dùng mà cũng không đồng nghĩa với khái niệm "tài tử" mà Kim Thánh Thán dùng để đánh giá một số tác phẩm văn học Trung Quốc(3). Việc phân loại ba mẫu hình nhà nho là một điểm xuất phát quan trọng để chúng tôi định hướng trong việc tìm khâu trung gian, hình thức chuyển hóa và các thời điểm trong giai đoạn giao thời (4).
Nhiều bài được lựa chọn in vào tập sách này trước đây cũng đã công bố trên các tạp chí và in vào các kỷ yếu, các sách. Nhưng thường là vì lý do in ấn nên bị cắt xén, sửa lại đầu đề. Không ít trường hợp do đó bài thành "què cụt", nội dung thiếu rõ ràng, nhất là phương hướng nghiên cứu trình bày trong phần mở đầu, trong cách lập luận thường bị người biên tập coi là "dài dòng" có thể bớt nên ít khi được đăng tải trọn vẹn. Chưa kể vì các bài đăng tải nhiều nơi, nhiều lúc nên ít ai chú ý đến cả hệ thống.
Lần này được nhiều bạn bè cổ vũ, nhất là nhiều sinh viên cũ thúc giục, chúng tôi mới tập hợp lại để xuất bản.Viện nghiên cứu Đông Nam Á, trường viết văn Nguyễn Du, viện Văn học, Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học thành phố Hồ Chí Minh lại hết sức giúp đỡ cho cuốn sách ra đời nhằm cung cấp tài liệu cho sinh viên và các bạn nghiên cứu trẻ. Với một đối tượng như vậy, quan tâm hàng đầu, theo tôi nghĩ, không phải là ý kiến của tác giả đánh giá về một vấn đề cụ thể nào đó mà là cách nhìn, là phương hướng giải quyết các vấn đề văn học Việt Nam, chúng tôi lựa chọn cách sắp xếp các bài theo cách sau đây:
1/ In lại như nguyên tác, không sửa chữa. Những bài các tạp chí đã đăng trước đây, nếu có cắt xén thì nay in lại đúng bản gốc. Vấn đề không phải ở chỗ hay, dở, đúng, sai. Có đôi chỗ nếu ngày nay viết lại thì cũng có thể sẽ khác đôi chút. nhưng in lại nguyên văn thì mới phản ánh trung thực các suy nghĩ của tác giả theo phương hướng của mình vào thời điểm đó.
2/ Trình tự được sắp xếp lại, không theo thứ tự trước sau của việc viết hay công bố mà tập hợp thành những nhóm bài, nhằm làm cho người đọc tiếp cận dễ hơn với phương hướng suy nghĩ của tác giả.
Chúng tôi lựa chọn đưa vào tập sách 21 bài, có thể chia thành ba nhóm chính:
- Ba bài 1, 2, 3 có thể coi như là phần mở đầu, giới thiệu cách nhìn, giới thiệu phương hướng.
- Chín bài 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12 là phần khảo sát một số hiện tượng văn học, hoặc là tác giả, tác phẩm hoặc là vấn đề trong văn học Việt Nam từ thế kỷ XV đến XIX.
- Năm bài 12, 13, 14, 15, 16 thảo luận một số vấn đề về quan điểm lịch sử văn học vào thời gian cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỳ XX.
- Ba bài đánh số 13, 14, 15 viết về Phan Bội Châu và Tản Đà vốn là những phần viết trong giáo trình năm 1974, nhìn hai tác giả trong sự liên tục và chuyển hóa. Khi in thành giáo trình VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN GIAO THỜI 1900-1930, vì phần trước năm 1900 và sau năm 1930 có đến hàng trăm trang, đưa vào sẽ là quá dài và có chỗ không hợp lý, nên chúng tôi cắt bỏ. Nhưng với nội dung Nho giáo hay nhà nho với văn học thì lại cần có. Do đó chúng tôi cũng đưa một phần vào coi như tiếp tục của nhóm bài thứ hai hay bổ sung cho nhóm bài thứ ba.
- Hai bài 16, 17 đề cập hai vấn đề quan trọng liên quan đến lý luận: dòng văn học yêu nước và chủ nghĩa hiện thực trong văn học trung cận đại Việt Nam.
- Hai bài đánh số 18, 19 có thể coi là kết luận mà cũng có thể coi là những đề nghị về nghiên cứu văn học Việt Nam trung cận đại.
Coi Nho giáo và nhà nho có ảnh hưởng lớn đến văn học Việt Nam thì nhiều người đã nói, đã viết. Vấn đề là ở cách hiểu Nho giáo, nhà nho và quan hệ giữa Nho giáo và nhà nho đến văn học không phải đều giống nhau. Tôi quan niệm Nho giáo gắn với chế độ chuyên chế phương Đông, gắn với cơ chế chính trị - xã hội tóm tắt là CHUYÊN CHẾ + LÀNG-HỌ + GIA ĐÌNH; vấn đề nhân bản, dân bản, con đường tìm tự do ở đây khác với phương Tây. Nho giáo gắn với cuộc sống nông thôn và cung đình, xung khắc với đô thị với thị dân như nước với lửa(5). Cho nên khi những đô thị, những tầng lớp thị dân - hình thành, ảnh hưởng đến văn học dẫn đến sự hình thành công chúng văn học, đời sống văn học và thị hiếu văn học đô thị, những yếu tố xa lạ mới gây ra những sự thay đổi cơ bản. Dưới chế độ chuyên chế phương Đông và sự độc tôn của Nho giáo, những yếu tố đô thị gặp những chướng ngại rất lớn, tuy đã ra đời nhưng tồn tại, phát triển rất khác ở phương Tây. Chúng tôi đề cập vấn đề nông thôn - đô thị đó trong nhiều bài khi bàn về sự ra đời của ngâm khúc, truyện thơ và hát nói, bàn về tuồng đường nước và tuồng đường bộ ở Quảng Nam, về thơ trào phúng, về văn chương Tản Đà. Chúng tôi đã nói đến màu sắc đô thị phương Đông trong mẫu "nhà nho tài tử". Những hình thức đô thị được gọi là kẻ chợ, là kinh kỳ hay thị tứ thì vẫn không có ý nghĩa của bourg như ở phương Tây. Nhà nho tài tử không phải là nghệ sĩ bourgeois. Bài "Tự lực văn đoàn nhìn từ góc độ tính liên tục của lịch sử, qua bước ngoặt hiện đại hóa trong lịch sử văn học phương Đông" đánh số 21 đưa vào tập sách bàn về văn học trung cận đại này có thể coi là một thứ "vĩ thanh" - dùng theo ngôn ngữ Tào Ngu trong cách kết cấu vở Lôi Vũ.
Trong cuốn sách, chúng tôi có đề cập đến nhiều tên tuổi, nhiều tác phẩm, nhiều hiện tượng văn học trung cận đại Việt Nam. Nhưng đây không phải là một bộ lịch sử văn học. Không phải vì lẽ còn có nhiều điều chưa được nói tới mà chính là vì tác giả không coi việc làm của mình là viết lịch sử văn học. Đây chỉ là những bài bàn về một số hiện tượng trong lịch sử văn học nhìn theo quan điểm cụ thể - lịch sử nhưng là từ một góc độ nhất định: ảnh hưởng Nho giáo và nhà nho đối với văn học và ảnh hưởng đó được nhìn tập trung vào quan niệm văn học. Thay đổi ít hay nhiều, chi tiết hay cơ bản ở chỗ đó mới là tiêu chí để tôi theo dõi, nhìn nhận sự diễn tiến của lịch sử văn học, để tìm con đường của văn học Việt Nam gia nhập vào văn học vùng Đông Á và sau đó, cùng với cả vùng gia nhập vào quỹ đạo văn học thế giới hiện đại. Nếu nó có ích cho sinh viên và những cán bộ nghiên cứu trẻ, như tôi vẫn mong muốn, thì không phải là ở những nhận định, những lời đánh giá hiện tượng này, hiện tượng khác mà ở cách nhìn, cách phát hiện từ một góc độ khác. Tôi nghĩ rằng phương hướng đó còn hứa hẹn nhiều phát hiện quan trọng hơn những điều tôi đã thu được.
Để cuốn sách ra đời được tôi chịu ơn rất nhiều những bè bạn đã cổ vũ tôi, những sinh viên cũ đã thúc giục tôi. Đặc biệt làm tôi xúc động là có những người tự coi là học trò mà chưa bao giờ đến nghe những giờ giảng của tôi cả. Chúng tôi cũng xin cám ơn Viện nghiên cứu Đông Nam Á, khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Viện văn học, trường viết văn Nguyễn Du, Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học thành phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin đã giúp đỡ tôi rất nhiều để cuốn sách ra đời được.
Hà Nội, ngày 15 tháng 12 năm 1991
TRẦN ĐÌNH HƯỢU




 

Thứ Ba, 19 tháng 3, 2024

NHO GIÁO – NHÀ NHO VÀ VĂN HỌC (Trần Đình Hượu)


    Văn bản này từ vở ghi bài giảng của sinh viên Phùng Đình Nghĩa- ảnh trên được chụp từ bản thào chép tay của thầyTrần Đình Hượu

NHO GIÁO – NHÀ NHO VÀ VĂN HỌC[1]

Trần Đình Hượu

      Nho giáo du nhập vào Việt Nam từ đầu đời Hán đến thế kỷ 15 nó mới thành Quốc giáo. Cùng trong thời gian đó, Nho giáo đã đi vào Triều Tiên, Nhật và để lại nhiều ảnh hưởng vô cùng lớn. Cùng thời gian, Phật giáo, Đạo giáo cùng vào các nước trên. Bao giờ Nho giáo cũng giữ vai trò thống trị, nhất là về chính trị. Nho giáo quyết định vai trò tư tưởng làm cho Phật, Đạo phải Nho hóa dần. Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật, Việt thành 1 vùng văn hóa có tính chất đặc thù. Đầu thế kỷ, khi đi sang Trung Quốc, Nhật, Triều Tiên thấy 1 sự kiện: đồng văn hóa ,vì tồn tại đến nay đã 20 thế kỷ nên ảnh hưởng của Nho giáo rất sâu rộng: Văn học, tập quán v..vv.. Nghiên cứu Nho giáo là một vấn đề cần thiết về nhiều mặt cho luật, Triết, Sử,. ...

Nếu không hiểu Nho giáo ta không hiểu nổi Maouýt ,về văn học, từ thế kỷ 14 đến đầu thế kỷ 20 tất cả các tác giả là nhà nho. Tiểu sử của họ: Đi học, thi đỗ, làm quan, ở ẩn, viết văn. Họ cùng một cách viết văn như nhau. Tuy có đề tài khác nhau nhưng nó rất gần gũi nhau. Nền văn học thăng trầm đều tương ứng với sự thịnh suy của Nho giáo ( sự tiến bộ và phản động của Nho giáo) Trong hiện tại ta xây dựng Chủ nghĩa hiện thực Xã hội chủ nghĩa – trong truyền thống để lại không ít cái là Nho, kế thừa nó thế nào? Đều liên quan đến Nho giáo: Mĩ học, Văn học Nho. Cần phải hiểu quy luật phát triển của văn học từ văn học nhà nho đến văn học hiện đại. Vấn đề phê bình học? Nói chung ta đều sử dụng lý luận văn học hiện đại để phê phán văn học cổ, tức là dùng lý luận văn học có tính chất phương tây (kich thơ, tiểu thuyết để phê phán thơ, phú lục ...) cần phải sử dụng nền văn học Nho phương đông để phê bình và nhận xét nó.

Các ý kiến về Nho giáo rất phân tán, mỗi người 1 ý kiến.

Đây là chuyên đề phạm vi trong lĩnh vực văn học. Từ góc độ văn học cận đại để có 1 phương pháp nhgiên cứu.

Các vấn đề chính: - Nho giáo là gì? Nhà Nho là gì?

- Cơ sở kinh tế xã hội tồn tại Nho giáo

- Trong văn học.

A. Nho giáo là gì? Nhà Nho là ai?

Các ý kiến về Nho giáo cực kỳ phân tán nhất là ở Trung Quốc. Ở Việt Nam, người nghiên cứu nho giáo rất ít.

Nho giáo là gì? Hạt nhân của Nho giáo là gì? (Định tính của Nho giáo) có người cho là: Cương thường (Tam cương: cha con, vua tôi, vợ chồng; Ngũ thường: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín – (Trần văn Giầu ).............................). Có ngừơi cho là: Trung hiếu. tiết nghĩa; có người cho là: chỉ có Trung, hiếu; có người cho là Nhân, nghĩa; Có người nói chỉ là Nhân thôi; Có người nói là Đức;có người nói là lễ, có người cho là Trung Dung; có người nói là Thiên mệnh; có người nói là Thiên nhân cảm ứng; có người nói tùy thời biến dịch.

Nhà Nho là ai? ở Việt Nam cho là: Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Phan Bội Châu... dễ nhận nhất là Nho. Nguyễn Du có Nho không? Tản Đà có Nho không? (những nghệ sỹ) ta thường cho nhà Nho là người Trung Nghĩa, thờ Vua thì Trung, thờ Cha thì Hiếu, các nhà Cần Vương chống Pháp là Nho, Trung nghĩa như Lý Trần quán là Nho – có người không giúp vua,giúp nước như Lý Tử Cấu, Nguyễn Bỉnh Khiêm có Nho không? có người chống lại triều đình: Cao Bá Quát có Nho không?. Đó là một cách nhìn...

Có người nói: những người tiến vô quan đạt vi sư là Nho, thế còn những người quân sự (Trần Quốc Tuấn), kinh tế (Nguyễn Công Trứ) có Nho không? các thầy đồ (không đậu) có Nho không?

Như vậy, Nho là một cái gì hết sức rộng.

Nho có 2 mặt: 1 mặt là đẳng cấp, 1 mặt là tín đồ. Nói đẳng cấp là nói nhà Nho thuộc về 1 tầng lớp, 1 đẳng cấp có vận mệnh, xu hướng giống nhau, đồng thời cũng phải nói nhà nho là 1 tín đồ: học và tin tưởng vào một học thuyết Nho giáo. Đó là một loại hình trí thức ở Phương Đông. Phương Tây – con người trí thức hoàn toàn khác. Trí thức Phương Tây thời Trung Cổ gắn với nhà thờ, học trong nhà thờ mới có trình độ văn hóa để thành trí thức – trí thức đồng thời là tu sĩ. Khi đô thị phát triển đẻ ra 1 tầng lớp trí thức mới ngoài nhà thờ: Trí thức của đô thị. Nguồn gốc của nó: những người tự do chống lại tôn giáo hoặc những người chuyên về khoa học kỹ thuật, nghệ thuật tạo dần ra 1 lớp trí thức gắn với đô thị, gắn với kinh tế phát triển. Văn học nghệ thuật dần dần thành trí thức tư sản. Phương Đông cũng có trí thức nhà chùa: sư sãi. Nhưng từ lâu đã có Nho giáo, nhà Nho không gắn với nhà thờ, găn với nhân dân, không gắn với đô thị mà gắn với nông thôn. Cách đào tạo lối học, lối thi, văn học mà họ làm ra không những chịu ảnh hưởng Nho giáo mà còn phản ánh xu hướng đẳng cấp của họ. Trong nhiều bài nghiên cứu, có chia ra: Hiển Nho, Hàn Nho (đỗ và không đỗ) có người cho rằng nguồn gốc xuất thân khác nhau nên thái độ các nhà nho khác nhau. Có cách phân biệt nữa: các nhà nho mù quáng, máy móc theo nho giáo, có nhà nho thông đạt không hoàn toàn theo nho . Cũng có người nói: có những nhà nho kinh viện, có nhà nho chịu ảnh hưởng của nhân dân nên khác nhau. Có người nói: Có nhà nho yêu nước có tinh thần dân tộc, có nhà nho sùng ngoại nên khác nhau. Có người nói: có nhà nho vì vua Trung quân, có nhà nho vì dân không nhất thiết trung quân nên khác nhau.

Cách phân chia thế là dựa trên lập trường giai cấp, quan điểm chính trị. Nói khác chỉ cần nhìn người trí thức không cần nhìn nhà nho. Họ không nhìn thấy 1 cái chung cho tất cả tính chất Nho của họ.

Trong xã hội phong kiến phương đông có 1 loại hình trí thức đặc biệt: Nhà Nho – vừa có tính đẳng cấp vừa có tính tín đồ. Mọi sự viết lách, suy nghĩ chịu sự chi phối của 2 mặt: vị trí đẳng cấp và tư tưởng Nho. Đặc điểm phát triển của Nho giáo cho phép người ta có nhiều quan điểm sai lầm thế.

I. Sự ra đời của Nho giáo:

Khổng Tử là ông tổ của Nho (541 – 479 TCN) là người san định lục kinh – chỉnh lý tập hợp làm ra 6 bộ Kinh điển. Trung Quốc là 1 trong 5 trung tâm văn hóa thế giới. Khổng Tử là người tập hợp tất cả các di sản văn hóa thành 5 bộ kinh: Thi (305 bài), Thư (những lời tuyên cáo nói chuyện của các vua chúa từ thời xa xưa đến thời Khổng Tử có 120 thiên, nay còn 29 thiên. Đây là bộ sử của lịch sử Trung Hoa. Kinh lễ có 3 bộ: Chu Lễ, Lễ Ký, Nghi Lễ: ghi chép các lễ nghi , cách đối xử, những điều quy định nói năng, đi lại của mỗi 1 người cho thích hợp với vị thế của họ, quy định lễ tang, Tế, hôn nhân... Chu lễ nói về tổ chức nhà nước, kinh nhạc, kinh xuân thu, Khổng Tử chỉnh lý lại bộ sử nước lỗ: viết lại theo một cách đặc biệt (khi viết sử có tỏ ý khen chê, đánh giá). Câu của Khổng Tử viết quá ngắn nên có 3 bộ chú thích: Tả Truyện, Công Dương truyện, Cốc dương truyện, kinh này... nên người ta gọi là Xuân Thu tam truyện.

Cuối cùng là Kinh dịch: Sưu tầm các quẻ bói ngày xưa (mai rùa, cỏ thi) từ thời Ân đã có tục bói mai rùa.

Theo những nhà nghiên cứu ngày nay ngũ kinh hơi phức tạp: Kinh dịch có sau Khổng Tử 200 năm. Khổng Tử nói thuật nhi bất tác (chỉ thuật lại mà không có sáng tác, không phải là nhà tư tưởng tự mình làm một hệ thống)

Cần phân biệt Kinh và Truyện. Truyện là những quyển sách để giải thích Kinh. Tứ truyện gồm có: Luận ngữ, Mạnh tử, Trung dung, Đại học. Luận ngữ ghi chép những lời Khổng Tử và học trò của ông. Mạnh tử: học trò 5 đời của Khổng tử ,sinh năm 372 mất 289TCN. Học trò của Mạnh tử chép lời của Mạnh tử làm nên sách Mạnh Tử.

“Trung Dung” và “Đại học” trình bày có hệ thống những vấn đề cơ bản của Nho giáo theo một tinh thần khác Trung Dung của Tử Tư. Đại học là tác phẩm của học trò Mạnh Tử. Ý kiến phân tán là ở đây: người nào coi quyển sách nào là chính thì coi đó là hạt nhân của Nho giáo (thí dụ luận ngữ, nhân nghĩa ....)

Các câu nói trong kinh truyện đều viết linh tán, không có hệ thống đó cũng là một nguyên nhân gây ra các ý kiến phân tán.

II. Sự phát triển của Nho giáo trong lịch sử

Sự phát triển qua các thời đại: sau khi Khổng Tử mở trường dạy học, ông là người trí thức tự mày mò mà học, mở trường cho tất cả mọi người, học trò có đến 3000: có 72 người giỏi trong đó có 10 người giỏi nhất.

Học trò của Khổng đều mở trường dạy học theo cách của thầy. Khổng Tử là người tùy sức mà dạy, vậy nên sau Khổng chết, Nho chia làm 8 phái, không ai chịu ai, đều có học trò cả. Cuối cùng có 2 phái lớn: Mạnh Tử, Tuân Tử (289-238) hai phái này đối lập nhau. Phái có ảnh hưởng lớn nhất ở Trung Quốc, Nhật, Việt Nam là Mạnh Tử (phái này là phái lạc hậu trong Nho giáo) công việc truyền Kinh điển là phái Tuân Tử chứ không phải là Mạnh Tử.

Đến đời Tần (Thế kỷ 3) Tần Thủy Hoàng ghét Nho “Phần Thư Khanh Nho.” Hán Võ Đế (141-86) là ông vua rút kinh nghiệm trị nước mấy thế kỷ trước cho rằng: Phải dựa vào Nho để thống trị. Ông đưa Nho lên thành quốc giáo. Hán Võ Đế ra lệnh ai có sách còn lại thì nộp lĩnh thường. Kinh thư được chép lại ở một người đọc thuộc lòng. Người thời đó dùng văn tự thời đó để ghi chép. Trước đời Tần đã có 1 hệ thống văn tự. Lý Tư đời Tần đặt ra “ thống nhất văn tự.” Văn Tự đời Tần còn dùng đến đời Hán. Đời Tần đặt ra các bác sỹ dạy ngũ kinh. Hán Võ Đế đặt ra 15 bác sỹ dạy Ngũ kinh, sau đó chuyện phát quật ra nhiều bộ sách mới. Ở vách nhà Khổng Tử có bộ Luận ngữ. Sách trước đời Tần là Cổ văn nó khác với Kim văn thời đó. Vậy là Văn Cổ và Kim văn tranh cãi nhau 2000 năm. Khác nhau vì nhớ sai và đọc sai và còn vì muốn thu được nhiều Kinh. Có người đã viết ra Kinh để nộp.

Nho giáo là quốc giáo mà lại có nhiều ý kiến khác nhau thì không ổn. Vua tập hợp những người giỏi lại bàn bạc, khắc kinh lên đá, coi là sách kinh chính thức của nhà nước. Cuối cùng xuất hiện các nhà bác học đọc được cả cổ văn và Kim văn. cuối đời Hán có nhà học giả Trịnh Huyền (TK 2 Sau công nguyên) đọc được cả Kim văn và Cổ văn và chú thích hết các kinh điển đó. Nhà vua công bố các bộ sách Trịnh Huyền chú, coi là bộ sách chính thức của nhà nước. Trịnh có uy tín rất lớn đối với vua và người dân. Thời Nam Bắc, triều nước nhà chia rẽ, có sự chia rẽ một số người theo Kim văn, một số người theo Cổ văn. Đến thời Đường (Đường Thái Tôn) thống nhất lại, sai các văn thần chú thích lại Kinh điển. Khổng Dĩnh Đạt hiệu đính lại thành bộ Ngũ Kinh Chính Nghĩa. Đến năm 561 nhà vua công bố bộ kinh của Đạt khắc đá.Sau Đường ,có loạn ngũ hồ, việc học phân tán, đến đời Tống học thuật đi đến 1 hướng khác ,phân tán. Chu Hy (1130 -1200) chú thích sách vở, ông còn là 1 nhà triết học, ông chỉnh đốn lại cả Nho giáo (TânNho giáo)

Đến Nhà Minh độc tôn Chu Hy chỉnh đốn lại Kinh điển theo tinh thần Chu Hy. Hồ Quảng làm việc đó. Có “Ngũ Kinh đại đoàn” tứ thư đại toàn, vua Minh công bố bộ đại toàn đó (1414) sau các lần chú đó có nhiều sự khác biệt, các lời chú giải thay đổi theo thời đại, thành phần của Kinh điển cũng thay đổi theo thời đại. Có thời coi mỗi kinh này, kinh khác là chính. Thời Khổng Tử chỉ có Thi, Thư, Lễ. Bất học thi vô dĩ ngôn (Không học thi thì lấy gì để lập ngôn).

Đến đời Hán, Hán Võ Đế muốn đưa Nho lên làm quốc giáo vì chỉ có Nho giáo mới đủ sức làm cho người dân tôn trọng trật tự, một điều hết sức quan trọng để duy trì trật tự đó: Danh Nghĩa Lễ làm cho mọi người yên phận, yên vị, yên mệnh ,không chấp đối. Theo đề nghị của Đổng Trọng Thư (179-104), Hán Võ Đế tôn kinh Xuân Thu làm kinh chính thức, các nhà Nho đời Hán ai cũng phải nắm vững kinh này (nổi lên Danh, Nghĩa, Lễ). Nho giáo trở thành 1 tôn giáo đời Hán, trở thành 1 học thuyết kinh viện, nó đàn áp tự do tư tưởng, nó làm tinh thần sáng tạo bị khô cằn, những nhà tri thức chân chính chống lại.

Đến đời Đường có Hàn Dũ (768-824) chống lại Phật giáo, Đạo giáo và thứ Nho giáo kinh viện trở thành tôn giáo này. Hàn Dũ đưa ra tư tưởng phục cổ: quay trở lại nội dung chân chính của Nho giáo: Nhân, Nghĩa. Theo ý kiến của viện sỹ N.I Côn Rát: Hàn Dũ là người mở đầu phong trào phục hưng ở Phương Đông.

(Hàn Dũ nói: Xương Phật là xương thôi mà nhà vua mất bao công sức rước về... Vua nên đốt sách Phật, vứt xương, bắt sư hoàn tục.... Vua đày Dũ ra Triều Châu xa xôi).

Hàn Dũ mở đầu phong trào văn học mới: phong trào Cổ Văn dùng thể loại văn học thông tục để viết. Liễu Tôn Nguyên là bạn Dũ. Đời Tống có 3 cha con Tô, có Vương An Thạch... viết theo phong trào Cổ Văn.

Từ đời Đường theo Côn Rát ,có 1 xu hướng tư tưởng khác và phát triển đến đời Tống. Ở đây có 2 ý kiến khác nhau khi đánh giá Tống Nho: Côn Rát cho rằng: Tống Nho là tập trung cao nhất của tư tưởng nhân văn .Ý kiến các nhà tư tưởng trung quốc cho rằng : Tôm\ngs nho là phản động nhất . Đời Đường , Mạnh Tử được đưa lên ở vị trí cao (do Hàn Dữ đưa ra).

Đến đời Tống Kinh Điển vẫn thế, vị trí hàng đầu là Dịch, Dịch là triết học, tư tưởng đời Tống là tư tưởng triết (đời Đường là tư tưởng chính trị). Chu Hy đưa thêm Trung Dung và Đại học vào hàng thứ 4 quan trọng, thế là đến Hán, Luận ngữ là quan trọng nhưng lại có thêm Mạnh Tử , Trung dung , Đại học. Sự thay đổi thành phần kinh truyện phản ánh 1 xu thế tư tưởng khác. Nhà Nho thời Hán Đường, nhà nho Đường Tống và nhà Nho từ Tống về sau ,theo Côn Rát- Mỗi 1 thời đại có 1 nội dung tư tưởng khác, mỗi kinh điển được sắp xếp theo 1 cách khác, được giải thích theo 1 xu hướng khác. Trong một thời kỳ đó, kinh truyện không thay đổi: Kinh viện ,không ai được thay đổi gì. Sự sùng bái chữ nghĩa, người có học, thánh hiền là 1 đặc điểm...

Trong sự phát triển của mình Nho đã phát triển tùy theo xã hội ,lịch sử, nhưng cũng đồng thời phát triển tùy thuộc vào các kinh điểm được đưa lên hàng chính và cách giải thích kinh điển theo cách này hay cách khác.

Nho giáo truyền bá vào các nước lân cận ở vào nhiều thời điểm khác nhau. Triều tiên là sớm nhất, Nhật sau đó, ở ta Phật giáo có trước Nho nên Nho giáo vào mà không bám rễ được, mãi đến khi chế độ chuyên chế được lập, từ đời Lý mới lập văn miếu thờ Khổng Tử ,nho giáo mới phát triển dần đến đời Lê (TK 15) mới cực thịnh. Ở ta đời Lý là sau Khổng Dĩnh Đạt, Việt Nam Nho giáo ĐƯờng Tống là chính (Nho giáo của Đại Toàn). Khi vào, Nho giáo phải thích nghi với điều kiện địa phương: phong tục, tập quán vv.... nên nó có thay đổi diện mạo đi chút ít nên có khả năng Nho giáo Nhật khác Nho giáo Triều Tiên ,khác Nho giáo Việt Nam (không khác lắm T- H-Đ). Khi khác như vậy, Nho giáo có chức năng xã hội khác nhau. Thời Khổng nó là tu thân, trị nước; đến đời Hán nó trở thành 1 học thuyết chính trị, 1 tôn giáo; đến Tống nó thành 1 triết thuyết. Tùy chức năng đó mà nó ảnh hưởng rộng hay hẹp, đến phạm vi này hay phạm vi khác (học thuyết chính trị thì ảnh hưởng đến nhà nước, chính sách; là triết thuyết thì ảnh hưởng đến văn hóa, tư tưởng, học thuyết vv....) và đến tầng lớp này hay tầng lớp kia (tu dưỡng thì chỉ ảnh hưởng đến trí thức vv...)

* Nho giáo là học thuyết kinh viện (kinh truyện không đổi), kinh truyện lúc ra đời nó là học thuyết tu dưỡng về chính trị, cùng ra đời với nó có học thuyết khác :Đạo gia (Lão – Trang) Mặc Gia, Pháp Gia, Âm dương gia . Mỗi học thuyết đều có hệ thống của nó ,vấn đề của nó.

Khi thành Quốc giáo, Nho giáo phải bác bỏ những vấn đề của các học thuyết kia nên Nho giáo bắt buộc phải chạy theo các vấn đề của các học phái kia. Nó phình ra, nó mất tính chất hệ thống, nhất quán (vì phải vay mượn, chắp vá). Vậy Nho giáo không phải là 1 cái thuần nhất (có yếu tố âm dương, Đạo gia... liên kết vào một cách không tự giác)

*Trong sự phát triển của Nho giáo nó gắn chặt với thi cử. Từ đời chiến quốc việc chọn người làm quan chức chưa có quy chế gì. Nhưng từ đời Tần, một đế chế rộng lớn, Tần đã đặt ra quy chế dùng người, đời Hán đặt ra quy chế cử hiền tiến hiền: Vua giao cho quan lại ở địa phương cử những người giỏi, Vua đặt ra tiêu chuẩn: Hiếu hạnh, Hiếu liêm. Hiền lương, phương chính.

Cách tiến cử vậy có 2 điều xảy ra: Cha truyền con nối, không chắc được người giỏi. Đường Thái Tôn đã đặt ra chế độ khoa cử: Thi. Nội dung thi là Kinh điển, ai đậu được làm quan. Như vậy là có kết quả: những người giỏi được sử dụng, tránh được nạn đề bạt người thân thuộc của quan lại, nó còn mở rộng đường cho mọi tầng lớp tham gia vào bộ máy quan liêu.

Có 2 cách thi: thi Minh Kinh và Tiến Sỹ. Thi Minh Kinh là viết chồng Kinh điển (học thuộc lòng rồi viết vào đoạn bỏ trống). Thi tiến sỹ là viết bằng văn chương của mình (nghệ thuật viết văn, học tư tưởng của người khác, văn người khác, và kinh điển – tất nhiên) nên người được đào tạo kiểu này tư tưởng rất pha tạp (đây là yếu tố không thuần nhất của nhà nho ta)

Kết luận: Nhà Nho vốn là pha tạp (T.Đ.H) nhưng nhà Nho vốn là nhà Nho. Như vậy có một cái lõi là Nho, thiếu cái đó là không Nho, nhận diện ra cái đó là 1 vấn đề cốt yếu.

B. Chí hướng vào cõi người, sống hợp Đạo, Nghĩa.

Nhiều người đã sai lầm vì đồng nhất 1 triết thuyết phương Tây với 1 triết thuyết phương Đông. Hai cái đó khác nhau cơ bản. Phương Tây có 1 điểm cơ bản: Vũ trụ quan ,dẫn đến nhận thức luận để nhận thức nó. Khi nào họ cũng hình dung1 chủ thể tư duy đứng trước 1 thế giới cần nhận thức, từ vũ trụ quan đó đẻ ra quan điểm Chính trị, đạo đức, thẩm mỹ....

Phương Đông, Nho giáo không có đối lập chủ thể khách thể đó. Tâm của con người và đạo là 1. Nổi lên hàng đầu là học thuyết đạo đức chứ không phải là vũ trụ quan.

Nho giáo được truyền bá như trên nên nó có cái nói và cái không nói, những cái được viết ra là trên cơ sở đã có sự đồng ý trước rồi.

Cái không nói đó là gì? (Trần Văn Giầu gọi là Triết học vô ngôn

1. Linh hoạt và cố chấp: Ai cũng nói nhà Nho là cố chấp, nhưng ông tổ của Nho là Khổng Tử lại chủ trương linh hoạt. Người ta nói: Khổng Tử không vô ý, không lấy mình làm chuẩn ... “Vô khả vô bất khả” Ta không bao giờ là được, không bao giờ là không được. Tử nói: Người ta cùng học như nhau nhưng không bao giờ đi đến đạo như nhau, cùng 1 đạo như nhau nhưng không phải ai cũng có lễ như nhau, cùng 1 lễ nhưng không phải ai cũng quyền biến như nhau (quyền biến là xử trí linh hoạt)

“Trung dung” là tột đỉnh, trung dung là vô quá mà cũng không bất cập.

Khổng tử nói: Nghĩa tùy thời, lớn thay (Tùy thời chi nghĩa, đại tai). Vậy là Khổng Tử chủ trương linh hoạt, họ chủ trương thái độ linh hoạt cân nhắc cho thích hợp đạo lý. Làm sao cho đạo lý được áp dụng đúng với hoàn cảnh. Chú ý rằng: Những điều Khổng tử nói là vấn đề tu dưỡng xuất xử. Trong cuộc đời một nhà nho và trong lịch sử Nho giáo, nhà Nho bao giờ cũng giữ thái độ ung dung vững tin ở mình. Nhà Nho ghét tranh cãi, họ ghét nịnh, biện, xảo ngôn, tiểu tuệ (nịnh là nói khéo, biện là logic, tiểu tuệ là láu cá vặt). Khổng Tử và tất cả nhà Nho chủ trương sống chất phát, người chất phát là người có đạo đức. “Xảo ngôn lệnh sắc tiễn hỷ nhân” họ tự xử 1 cách nghiêm chỉnh, đôn hậu. Khi bất đồng ý kiến họ không tranh cãi gay gắt, không tranh chấp đến cùng mà nói năng nghiêm chỉnh từ tốn, khi thất thế họ rút lui 1 cách ung dung cao đạo, nhìn kẻ hơn mình 1 cách độ lượng – thế là nhà Nho linh hoạt mà cố chấp. Họ chủ trương thích ứng khi môi trường thay đổi, thế nhưng họ cho rằng có một cái gì đó bất biến. Học thuyết của họ vay mượn, pha tạp, dung hòa nhưng có cái lõi: cứng rắn không bao giờ nhượng bộ. Thái độ của họ trong cuộc sống :muốn làm tùng bách ( Tuế hàn nhiên hậu trì tùng bách chi điêu dã)

2. Cõi người và cuộc sống:

Nho gia ít, tránh bàn về các vấn đề siêu hình, thiên đạo, lý luận. Tử Cống nói: Thầy nói về văn chương thì có được nghe nhưng chưa bao giờ nghe thầy nói về tính và thiên đạo. (Thiên đạo = đạo trời, huyền bí, siêu hình) (Tính là cái trời sinh ra con người tức là quan hệ giữa Trời và Người). Người ta nói Khổng Tử ít nói: Quái, lực, loạn, thần nghĩa là ít nói chuyện quái lạ, bạo lực, loạn lạc, thần linh. Hay là ít nói lực lượng quái lạ, thần linh không chính đáng?

Dù sao thì qua đó ta hiểu Khổng Tử ít nói về vấn đề không bình thường. Có một người học trò hỏi Khổng Tử: xin cho biết về thờ quỷ thân ? Tử nói: chưa biết về thờ người thì biết thờ quỷ thần làm gì? Trong cõi sống chỉ cần biết con người, không cần biết đến thế giới bên kia là gì.

Khổng Tử nói: ‘Kính nhi viễn chi” (quỷ thần) vậy là ông phản đối mê tín, việc chú ý đến thế giới bên kia mà quên mất cuộc sống hiện tại. Có người cho rằng đây là Khổng Tử vô thần, không đúng. Khổng nói: không phải linh hồn mình mà cúng tế là xiểm nịnh. Khổng chủ trương có quỷ thần, mỗi người nên thờ linh hồn của cha ông, của mình. Về sau các nhà Nho không vì các giáo lý khác nhau mà đánh nhau. Không có chiến tranh tôn giáo- mà ở phương tây rất phổ biến. Nho giáo có phản đối Phật, Đạo là vì lý do: nó vô phụ vô quân, tức là phản đối về đạo đức, trách nhiệm chứ không phải giáo lý. Họ phản đối sư vì vi phạm đến phong hóa chứ không phải cơ sở triết học. Nếu như các tín đồ của các tôn giáo kia có đạo lý nhân cách thì họ vẫn coi là bạn bè, coi con người có giá trị hay không là ở đạo đức (đây là Nho hay không Nho)

Nho giáo có thái độ cứu thế, nhập thế rất rõ rệt. Khổng Tử không bài bác ẩn sĩ mà kính trọng (chuyện khổng tử sai Tử Lộ hỏi đường 2 người ẩn sĩ. Ẩn sĩ không trả lời mà nói: Khổng Tử thì biết đường việc chi mà hỏi...)

Hàn Dũ chơi thân với nhà sư Đại Điên vì kính trọng nhân cách, đạo lý của Đại chứ với Phật thì ông chống đến cùng. Việc Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh cũng thế: Tin ở nhân cách của nhau. Vậy là nhân cách được Nho quan tâm đặc biệt.

THÁI ĐỘ CỦA NHO GIÁO VỚI LÝ LUẬN

Thái độ với lý luận của Nho giáo là ít nói (quả ngôn). Họ hiếu cổ, với những vấn đề xa xôi họ không tò mò, băn khoăn, không tìm kiếm cái mới. Đặc tính của nền văn minh Nho giáo là sùng bái sự cụ thể, sùng bái thực tế (dẫn đến khoa học không thể nào phát triển). Vì không quan tâm đến vấn đề cái mới nên không cần tranh cãi để phê phán cái cũ nên không đề cập đến vấn đề nhận thức, Logic .Những phán đoán trong tình trạng sùng bái cái cổ như vậy, khi nói ra tức là đã có cái trước được chấp nhận. Cơ sở triết học của Nho giáo vì không ai quan tâm, nghiên cứu và trình bày nó -Trong lúc Nho giáo đang thịnh hành thì nghiễm nhiên ai cũng biết cả. Nền tảng của Triết học Nho giáo là gì?

3. Con người trong thiên hạ. Đạo và Nghĩa

A. Con người trong thiên hạ

Nho giáo muốn con người sống trong cuộc đời phải để tất cả tâm, trí của mình vào Đạo (Trí ư đạo, ý ư nhân, du ư nghệ. Nghệ là học thuật tài năng – lục nghệ) Ở đây có quan hệ giữa Đức và Tài (Cư ư Đức). Thế là đạo đức được coi là cái quan trọng nhất trong cuộc đời con người. Nhưng thế giới, cõi đời, con người được hình dung ra sao? Bản chất con người là gì? Vị trí của con người trong thế giới, cõi đời là gì? Mục đích của cuộc sống? Đó là điều cần biết để hiểu về Nho giáo. Nhưng điều này lại không được trình bày.

Nhà Nho coi nhiệm vụ của con người là tu thân để tề gia, tề gia để trị quốc, trị quốc để bình thiên hạ. Chú ý Bình không phải là hòa bình, Bình ở đây là trạng thái hòa và trật tự không loạn lạc nhưng lại thân ái nữa.

Hòa bình là gốc của nhạc ,phải bằng hòa bình để đạt đến con đường trên, con người phải đi theo con đường: cách vật, trí chi thành ý, chính tâm (đi sâu vào vật để biết tận gốc nó, để ý được thành. “Thành “ là trùng hợp giữa ý mình và đạo, cái mình viết trùng hợp với bản thân nó, Đạo, khi đã thành ý thì tâm phải chính.

Trong hai mệnh để trên có 2 khâu quan trọng: Tâm và Thiên hạ

* Thiên hạ: tức là dưới trời, là phạm vi rộng lớn cuối cùng ,là sự ý nghĩa của hành động của con người, là phạm vi rộng lớn có tác động đến con người. Thiên hạ chỉ không gian lãnh thổ nhưng bao gồm mọi sự, mọi vật có thể nói đó là cõi đời, cõi người ,đồng thời thiên hạ cũng là phạm vi trách nhiệm của Thánh nhân. Mặt khác Thánh nhân là vua, thiên hạ cũng là nước của Thiên tử. Họ cũng nói đến Thiên địa. Thiên địa là nói đến giới tự nhiên và thần linh nữa. Thiên địa gồm cả thiên hạ, tự nhiên ,quỷ thần, tất cả đều hình dung dưới mô hình của gia đình.

Nho giáo lấy mô hình gia đình để hình dung thế giới. Gia đình gồm có: Vợ chồng, cha con, anh em. Làng có: Tôn trưởng, con em. Nước có: Vua, các quan....

Tất cả mọi tổ chức đều được xây dựng theo mô hình gia đình. Thế giới đối với Nho giáo là những gia đình lớn nhỏ. Khi làm như vậy, Nho lấy tình cảm gia đình, quan hệ gia đình để hình dung quan hệ xã hội. Nên trong gia đình thuận hòa là trên dưới hòa mục, cha từ, con hiếu. Nội dung :tình” là hết sức quan trọng. Khi đi ra xã hội cũng lấy tình trong gia đình để xử sự, việc đồng nhất theo kiểu này là một sai lầm của Nho giáo. Thiên địa là rộng hơn Thiên hạ. Với thái độ xa lánh quỷ thần và không đặt ra những vấn đề viển vông, nên thế giới thần linh với nho giáo không hấp dẫn ,nên còn lại chỉ là Thiên hạ.

Con người chỉ để tâm vào thiên hạ chứ không đặt tâm vào thiên địa. Sau này có nhiều nhà Nho nói đến vũ trụ (thời gian và không gian)

Phạm vi của vũ trụ rộng lớn vô cùng. Nó cùng hết không gian, thời gian. Khái niệm Vũ trụ là do Đạo gia đưa ra. Tăng tử nói: Thời gian là vô cùng, không gian là vô cùng. Có nhà Nho nói: Vũ Trụ vô phận sự (nhà Nho không quan tâm đến vũ trụ). Trong Thiên hạ, quốc, gia là đồng dạng. Khổng Tử nói: Tứ hải giai huynh đệ.

Khi tiếp xúc với triết học phương Tây, 1 thứ triết học đặt trên cơ sở: có một thế giới quan đối lập với chủ thể (ego) ta không hiểu gì cả. Các nhà nghiên cứu triết học phương Đông đem áp dụng triết học phương Tây vào nghiên cứu là một sai lầm về phương pháp luận. Vì không quen với triết học phương tây, những người ở Phương Đông rất khó tiếp nhận triết học phương tây nên không thấm được các vấn đề triết học, họ quen nếp suy nghĩ của triết học phương Đông

* Con người trong Thiên hạ - Thân và Tâm có 3 điểm

a. Con người với Trời, với Mệnh:

Con người sống trong thiên hạ, Trời là 1 thực thể ảnh hưởng đến suy nghĩ của con người. Trời là vị thần cao nhất có ý chí, là toàn trí, toàn năng, là người cầm quyền thưởng phạt. Trời cũng giống như Chúa của các Tôn giáo khác. Trời có mệnh cho mọi người.Trời phân phát phúc và tội cho mọi người, giành cho mỗi người mỗi số phận (mệnh). Mệnh của vua là quốc mệnh. Mỗi người có mệnh giàu hay nghèo, sang hay hèn, thọ hay yểu. Chỗ khác cơ bản của :Trời -Nho giáo với Chúa của Thiên chúa là: Trời là chí đức: con người tuyệt đối đức hạnh, thương yêu mọi người, thưởng thiện phạt ác. Quan hệ giữa Trời và Người là quan hệ cha con chứ không phải là quan hệ giữa nô lệ và chủ nô, quan hệ giữa tội nhân và pháp quan (phương Tây lấy quan hệ chủ nô, nô lệ để hình dung chúa) Bởi vì: thế giới linh thiêng là hình ảnh của thế giới thực tế (luận đề của Phơ bách về nguồn gốc Đạo Thiên Chúa) nên con người của Nho giáo không phải là con người tội lỗi, phụ thuộc, yếu đuối, hèn hạ trước chúa, con người ở đây không phải là con người bé nhỏ. Vì họ phải theo mệnh trời nhưng họ có cách giành lấy mệnh. Bởi vì Trời có Đạo mà người có Tâm, tức là Trời không phải là một chúa tể muốn làm gì thì làm. Trời phát huy uy lực của mình theo một đạo lý nhất định. Con người có Tâm – là cái Trời sinh ra cho con người. (tính)Tâm không phải là Tim, nó vừa là tình cảm và lý trí (trí tuệ và quả tim). Tâm là cái quan năng để lĩnh hội Đạo. Trời là người chí thiện nên có chứng triệu (báo trước) và con người có khả năng biết cái đó.

Trong con người có thánh nhân, Thánh nhân là người hiểu đạo từ lúc sinh ra. Thánh nhân dùng “văn” để truyền bá đạo đó. Thánh nhân là dấu nối giữa Trời và con người. Văn của Thánh nhân rất quan trọng, ai cũng tu dưỡng để thành thánh nhân được (Nhân giai khả vi nghiêu thuấn) . Con người có thể bắt trước trời, có thể trở thành đồng dạng với Trời, như thế là tham phối với Trời đất.

Trời có mệnh và con người có lực – sức mạnh của mình, lực của con người không thể thay được trời nhưng có thể thay đổi được mệnh. Đó là xuất phát của quan niệm tam tài: Thiên, Địa, Nhân (sắp hàng Trời, Đất, Người ngang nhau).

Người ta ít khẳng định cái Tôi (trong xã hội Nho giáo) nên ở ta ít dùng ngôi thứ nhất (tôi). Khi để xưng mình, người ta thường xừng “Thần”, “Bộc”, “Kẻ bất tài”, vua cũng xưng là “Quả nhân”. Phương Đông không dám nói, không đề cao cái tôi, đó là vì khiêm tốn, nhưng con người tin ở sức mình, nó không kêu cầu một cách hèn hạ, Nho giáo chủ trương con người chủ động, tác động đến ngoại giới.

b. Con người trong xã hội. Quan niệm xã hội và quan hệ xã hội.

Trong xã hội Nho giáo, con người không phải là cá nhân mà là phần tử của một cộng đồng. Người ta thường nói: Người của làng này, con của nhà ấy ... Con người là một phần tử của nhà, họ, làng, nước. Tức là ở trong quan hệ tình nghĩa và có một trật tự trên, dưới , họ mang phạm vi Thiên hạ, Thiên địa và trong gia đình (ở gia đình có cha, ở nước có vua...)

Trời, Vua, Cha là 3 vị gia trưởng giống như một thứ “cha”.Quan được gọi là :dân vi phụ mẫu”(cha của dân).già làng thì được gọi là bộc của cha chú,bậc tôn trưởng .Thế là con người có một thứ cha tự nhiên (cha mẹ sinh ra ) và có một ông cha siêu hình là Trời, và các cha khác.Con người không có cái tôi (ego) nên không có cá nhân (indivitd).Trong xã hội phương đông không phải cá nhân là đơn vị cuối cùng, mà là “ hộ”.Trong xã hội mô hình gia đình như thế,Nho giáo muốn lập ra một trật tự vĩnh viễn, muốn tạo ra an ninh trật tự hài hòa.(tự,hòa, bình) ,tức là lấy sự êm ấm gia đình làm mẫu cho lí tưởng xã hội.Họ nói : “tứ hải giai huynh đệ”, nhưng giữa những người anh em có một trật tự trên dưới. Con người bao giờ cũng có một trận tự ,hoặc là cha, hoặc là con ,hoặc là vợ... Khổng Tử nói : quân quân , thần thần.(ở vị trí nào thì hành động đúng trong vị trí đó) .Cái quan trọng không phải là tình cảm của cá nhân đó , mà là tình cảm đúng theo vị trí của cá nhân đó .Cái có giá trị là vị trí của người đó. Xã hội như vậy là một xã hội luân thường (kết luận của T Đ H) .quan hệ xã hội rút lại còn có 5 ( cha con anh em ,vua tôi , vợ chồng ,bè bạn ).Trong xã hội đó ,con người là con người Chức Năng. Mỗi một người đều căm thấy êm ấm trong trật tự đó.( thú vị và thích ứng ), nên cá nhân bị mài mòn đi .

c/ Với bản thân: Con người có hai khâu quan trọng: Thân và Tâm. Vể Thân có 2 mặt: Con người tự nhiên và con người xã hội.

Nho giáo là học thuyết bắt con người là con người xã hội mà không được làm con người tự nhiên. Nho giáo không tôn trọng dục vọng, tình cảm của con người (con người tự nhiên). Nho giáo chống con người tự nhiên ở hai mặt : Tình và dục. Trong Tâm có lý trí và tình cảm. Nho giáo có khuynh hướng bắt tình cảm phục tùng lý trí, phản đối tình cảm phát lộ một cách quá mức, nhất là tình yêu trong xã hội, tất cả là gia đình, nên Nho giáo không hình dung con người bình đẳng với nhau mà con người được đặt trong quan hệ trên dưới. Những tư tưởng tự do, bình đẳng là một điều xa lạ ,nên ở phương Đông không có nhân cách, không có con người bị hoàn toàn chà đạp khinh miệt như kiểu chế độ nô lệ, nông nô hay các đẳng cấp ở Ấn Độ, mà cũng không có con người tự nó được tôn trọng (nhân cách), không có nhân cách dẫn đến không mất nhân cách, dẫn đến không có sự giành lại nhân cách. Quyền uy không dựa vào sở hữu. Phương Đông thống trị bằng danh, bằng vị trí. Trong xã hội không có chuyện con người hợm của một cách lộ liễu, không có tên hiệp sĩ ngạo mạn về sức khỏe, không có tên tu sĩ đưa chúa ra dọa nạt. Mọi người đều khép vào một trật tự trên dưới tưởng như rất hợp lý (cha con, vua tôi, anh em ...) vì thế trên mình bao giờ cũng có bề trên, vì thế không bao giờ cảm thấy có bình đẳng. Thứ quyền uy gia trưởng không áp đặt bằng roi vọt mà bằng nghĩa lý, làm cho người ta nghe theo bằng tình, bằng nghĩa chứ không cần bạo lực, luật pháp ( xã hội phương Đông trói người ta không cần dây là ở chỗ này). Người dưới phục tùng bề trên với tấm lòng biết ơn nên xảy ra hiện tượng người dưới say mê uy nghiêm của cấp trên. Trong êm ấm kiểu gia đình như vậy, con người không có cá tính nhân cách, người nào có bản lĩnh, cá tính thì trở thành lạc lõng trong xã hội hoặc vấp váp rồi bị tiêu vong, hoặc là tự mình mài mòn đi để thích ứng. Xã hội chỉ khuyến khích con người ngoan thuần, hiếu, hạnh, mà không khuyến khích con người có bản lĩnh cá tính. Mọi người dần dần quen đi và cảm thấy thú vị với nó (luôn bị áp bức mà không bao giờ cảm thấy mình bị áp bức) con người luôn có rất nhiều tham vọng (làm thánh nhân, làm thầy..) nên mọi người tự đấu tranh để hoàn thiện đạo đức tức là tu thân (Ngô nhật tam tỉnh ngô thân). Tác phong này có từ 2000 năm nay. Maox là một sản phẩm của Nho giáo.

Trong xã hội không có nhân cách đó người ta không có chuyện giành nhân cách, tu thân là giành cái tốt với mình trong khi đấu tranh với mình. Con người không đấu tranh trong xã hội để giành công bằng, bình đẳng, tự do. Trong xã hội đó “Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài” Nho giáo hiểu rất rõ tác động của chính trị nhưng nó chỉ thừa nhận một chính trị: Đức trị, là làm gương, giữ hòa mục chứ không phải là tổ chức nhà nước. Nho giáo coi thường sản xuất mà chỉ muốn từ vị trí mình khuyên người ta hòa mục, lấy đức khích lệ người ta hòa mục.

Việc nho giáo đồng nhất gia đình với nhà nước, che dấu áp bức giai cấp, áp bức chính trị, nó tồn tại 2500 năm được là nhờ nó dựa vào một quan hệ tự nhiên: Gia đình

B. *Đạo, Nghĩa, Lễ: Khổng Tử nói: Quân tử chỉ ư đạo (đặt cả chí hướng của mình vào đạo)

- Đạo là chung cho cả thế giới, đạo không phải là một thực thể, nó không có một chỗ nào để tồn tại riêng cả, nó không phải là cái cao nhất, duy nhất vì bên cạnh đạo còn có Trời, Đạo là ý Trời, là chí trời (Thiên Giới, Thiên Đức) nó không phải là sản vật của Trời, nó là cái chi phối cả Trời. Đạo có nghĩa như quy luật, như chân lý, Trời là chí Đức, mọi hành động của trời là theo đạo, trong thế giới Đạo chi phối một cách khách quan.

Đạo có ý là chân lý, là sự hợp lý chung, là lẽ phải đương nhiên. Thuộc tính của Đạo là Đức, Thiện ,và sự hiện diện của nó biểu hiện ở trật tự, hài hòa, êm ấm (hai khái niệm đạo và đức là 2 khái niệm lớn trong triết học trung quốc), có hai học phái lớn hiểu theo hai cách khác nhau. Nho gia hiểu theo tinh thần trên. Đạo gia hiểu hoàn toàn khác để chống lại Nho gia( nên Lão tử viết Đạo đức kinh)

Đạo là phổ biến nhưng lại có đạo trời, đạo đất, đạo người- cũng chỉ là thể hiện của Đạo ở trong phạm vi khác nhau mà thôi. Nên con người có thể đi từ nhân đạo mà suy ra đến Thiên Đạo hoặc ngược lại. Thế là thế giới được nhất thể hóa trên cơ sở lý luận lý tưởng hóa sự hòa mục êm ấm trong gia đình. Đạo là sản phẩm của lý tưởng hóa đó.

- Nghĩa: ở Nho giáo theo Đạo và theo Nghĩa cũng như nhau. Nội dung của 2 cái này giống nhau. Đạo là đường đi còn Nghĩa là lẽ phải. Chỉ khác nhau: Đạo tổng quát và trìu tượng nó chung cho 3 phạm vi: Trời, Đất, Người. Còn Nghĩa thì cụ thể ở trong phạm vi Thiên hạ mà thôi (quan hệ người). Nghĩa là Đạo cụ thể trong phạm vi con người với người, Trí Đạo đòi hỏi nhận thức trìu tượng. Trí Nghĩa đòi hỏi cụ thể.

- Lễ là cụ thể hóa ra từng trường hợp, từng hoàn cảnh, chi tiết hóa Nghĩa và Đạo để thực hiện cho dễ.

Lễ là sự thể hiện của Đạo, Nghĩa ra bằng những quy ước, quy định vừa đảm bảo trật tự êm ấm hòa mục mà vừa đạt cái đẹp về mặt thẩm mỹ.

(Trước Khổng Tử 5 thế kỷ, Chu Công quy định 3000 điều về lễ). Đó là một công cụ để áp bức con người. Trong quan hệ con người với trời đất, Nho giáo hiểu lịch sử (sự vận động phát triển) như thế nào?

Theo Nho giáo, lịch sử có phát triển, lịch sử của cái gì? Theo họ, sự thịnh suy của thời đại này hay thời đại khác là sự thịnh suy của đạo đức. Trong xã hội có đạo đức là Trị, không có đạo đức là loạn. Nho giáo nhìn xã hội, đánh giá xã hội bằng nhân tình (biểu hiện của đạo đức). Nếu như các quan hệ (cha con...) tốt thì có đạo đức. Các nhà Nho hay nói về thế thái nhân tình (tình trạng đạo đức trong xã hội), thế thái nhân tình không chỉ là có đạo đức mà còn nói tình trạng chính trị. Nhân tình éo le, kiêu bạc là điều nhà nho không những ghét mà còn sợ. Lịch sử có vận động, tức là có biến dịch: nhân tình thế thái có thay đổi. Nhưng họ nghĩ rằng: Đạo luôn tồn tại theo một đường thẳng. Trong thực tế nó không phải thế, nó quá và bất cập (cùng thì trở lại ,bĩ cực thì thái lai) có một xu hướng chung là ổn định ở đạo. Bắt đầu khởi thủy là ở đạo. Nghiêu thuấn rồi lại trở lại nghiêu thuấn. thịnh suy đắp đổi nhưng theo vòng tuần hoàn ,sự vận động thế có mệnh, có quy luật, tức là quy luật của âm dương ngũ hành thay đổi nhưng con người không bị động, có một phạm vi con người tự do được ở trong đó. Tức tu dưỡng, con người tu dưỡng tốt thì có tác động đến sự phát triển, giáo hóa tốt thì tác động đến sự phát triển. Tư tưởng lạc quan mà không yếm thế, tích cực hữu vi.... họ cường điệu vấn đề học tập tu dưỡng và giáo hóa.

4. Học tập là tu dưỡng.

Con người có tâm đồng nhất với Đạo, nói cách khác tính con người là thiện (Nhân chi sơ tính bản thiện) hoạt động của con người không phải là tìm tòi nhận thức, tìm kiếm khách thể của chủ thể, nó không coi con người bị khách thể hạn chế mà phải vùng dậy giành lại tự do phát triển. Nó không hướng ra ngoài để tìm mà hướng về trong tâm để tự hoàn thiện nên Nho giáo là học thuyết coi thường trí năng. Nho giáo nói Trí là quan trọng, nhưng trí có đối tượng là đạo, nghĩa, lễ, mệnh chứ không phải khách quan nên nội dung trí thức của Nho giáo là một nội dung nghèo nàn, thiếu tri thức khoa học tự nhiên, xã hội, Nho giáo đề cao con người trí, nhưng trí cũng là người biết Nhân, Nghĩa, Quyền, Biến, biết phân biệt phải trái chứ không phải là người tri thức. Nên học có nghĩa là tu dưỡng đạo đức. Sách Đại học nói: Từ Thiên tử đến thứ dân, ai cũng phải lấy tu thân làm gốc. Sách luận ngữ mở đầu là học “Học nhi thời tập chi bất diệc duyệt hồ” Đó là học thuyết đề cao học. Học bị hạn chế lại trong phạm vi tu dưỡng đạo đức. Nho giáo tuy có đến 2500 năm nhưng tri thức rất nghèo nàn vì việc học này. Học tập – theo Nho giáo là một quá trình tập cho thành kinh nghiệm cho thành quan, thành tự nhiên. Đi từ lễ tiết đến nghĩa lý ,đến đạo.

Khổng tử nói “Tôi 15 tuổi đặt cả tâm trí vào học, 30 tuổi thì lập, 40 tuổi bất hoặc, 50 tuổi tri mệnh, 60 tuổi thuận, 70 tuổi theo lòng mình mà làm cũng không vượt khuôn khổ”. “Lập” ở đây là lập vu lễ, “bất hoặc” là trí (không lầm lẫn, hiểu được lẽ của nó: Nghĩa – tại sao lại vậy. Tri mệnh: biết Đạo, Trời, 60 tuổi nhi dĩ thuận (không còn đối kháng giữa tôi và cái xã hội áp đặt). Tìm ra được thú vị trong sự êm ấm, hòa nhập nói cách khác là khắc kỷ phục lễ, khắc phục tình cảm, dục vọng, 70 tuổi dục vọng và tỉnh cảm đồng nhất với lễ, nghĩa, đạo.

Học tập là một quá trình tiếp nhận lễ nghĩa đạo , là quá trình khắc phục tình cảm dục vọng để hợp với Lễ, Nghĩa, Đạo. .(dĩ tâm quân đạo –Mạnh Tử)Trong hoạt động đó, nhà Nho là người hiếu học, khiêm cẩn tự tin, họ tìm ra lạc thú và ung dung trong đó. Họ tìm được lõi cứng rắn không bao giờ nhượng bộ. Người hiếu học, người thông minh, người tuấn kiệt là người làm điều đó không khiên cưỡng. Họ thấy được trách nhiệm của mình đối với mình, nhưng cũng thấy được việc học của họ có tác dụng cải tạo thế giới.

C. Nhân Nghĩa. Học thuyết tu thân và trị dân.

Nho giáo coi tu thân là việc làm của tất cả mọi người, mục đích của tu thân là Đạo nghĩa ,mà Nhân, hay Nhân nghĩa là hạt nhân của Đạo nghĩa. Quan niệm về 1 tiêu chuẩn đạo đức trong cộng đồng đã có từ trước, Đạo nghĩa được quy định thành lễ đã có từ trước. Xác định Nhân là nội dung của đạo nghĩa, là việc làm của Khổng tử. Đó là bước đầu tìm ra cơ sở lý luận cho lẽ sống, Khổng Tử đã tìm ra những cơ sở lý triết học cho những tư tưởng, tập tục đã có từ trước. Đạo nghĩa được quy định đã có từ trước. Qua đấu tranh với các học phái và quá trình phục vụ chế độ chuyên chế, đến thế kỷ thứ 3 TCN “Nghĩa” mới tách ra ở Nhân và kết hợp với Nhân thành một cặp. Về sau nghĩa được nhấn mạnh hơn nhân, xung quanh nghĩa có nhiều tranh cãi hơn xung quanh nhân. ở Trung quốc, Nho giáo hình thành từ Khổng tử phát triển qua các thời kỳ nó có thay đổi, Người ta phân biệt Khổng mạnh, Đường Tống, Minh Thanh là có cơ sở. Ở đời Đường Tống nó truyền bá sang Việt Nam , từng nước có Nho giáo riêng của mình, có những đặc thù so với trung quốc, khác với sự phát triển tư tưởng của các nước khác. Thường thường phát triển theo hình thái phủ định của phủ định, Nho giáo tồn tại lâu dài, có thêm bớt chứ không bị phủ định, Nó tồn tại như một trầm tích, hợp chất, suốt trong lịch sử, không có cách màn tư tưởng.(?) Nó tồn tại như 1 thứ kinh học (học kinh điển) khác nhau về ý kiến chỉ là khác nhau về cách chú giải. Trong từng nước, sự thay đổi không có ý nghĩa về chất -trước con mắt ngoại quốc.

Phần căn bản tức là nhân nghĩa, là cái lõi của Nho giáo làm cho bên ngoài khó nhận ra sự khác nhau. Khi các sứ thần Việt Nam sang Trung quốc gặp các sứ triều tiên, Nhật họ coi nhau như người nhà (tinh thần đồng văn). Các thời đại, các dân tộc chỉ làm 1 việc: nhấn mạnh điểm này hay điểm khác sắp xếp theo trật tự này khác. Cái lõi đó không thay đổi, sự tồn tại của 1 cái ( Nhân ,Nghĩa) ít thay đổi như vậy phản ánh một trì trệ . Đó là một điều chung cho tất cả các nước chấp nhận nó, chấp nhận vì nó là” thích hợp” chứ không phải là một” áp lực “nào đó. Có hiểu được hình thức tồn tại của nó thì mới thấy quy luật của nó.

I. Nhân

Khổng tử là người đề xướng chữ Nhân tuy khái niệm này có trước 2 thế kỷ, Khổng Tử coi nhân là nội dung của đạo nghĩa, coi Nhân là đỉnh cao của Đạo đức, là Đức tu dưỡng của kẻ sỹ,là tinh thần cao nhất của thánh nhân.

Nhân, nói cách tinh giản nhất là yêu người. Đời Hán định nghĩa: Nhân là 2 người song song (hứa thận), theo luận ngữ thì hiểu là: yêu người, Nhân cũng là Trung, thứ theo định nghĩa của Tăng sâm trung là cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân”.

Thứ là: lấy lòng ta mà lường lòng kẻ khác.

Sách Trung dung:Quân tử có 4 điều (.......)

Ngoài đạo bạn bè ra, cả 3 quan hệ cha con, anh em, vua tôi (có thân sơ, đẳng cấp, gia đình). Mặc tử (học trò của học trò Khổng Tử) đề xướng thuyết kiêm ái: Phê bình nhân của Khổng tử là biệt ái (yêu có phân biệt) Kiêm hay biệt là cũng có điều chung : yêu người, nhưng ở đây nghĩa thì khác nhau, Khi Mặc Tử đưa kiêm ái ra, Mặc tử định nghĩa lại Nghĩa là có của đem cho ai khác, có sức đem giúp người khác. Mặc tử coi mọi người như nhau (hãy yêu cha mẹ người khác rồi người khác yêu cha mẹ mình), tinh thần của Mặc Tử là bác ái, Nghĩa của Mặc Tử là nghĩa hiệp. Mạnh Tử chống Mặc Tử ở chỗ Nghĩa này. Mạnh nói: yêu cũng phải biết phân biệt, không biết phân biệt là vô phụ. Mạnh Tử phân biệt Nhân làm 3: Thân thân, nhân nhân, đối xử nhân đạo với dân chúng, Ái vật, cấp độ.

Mạnh và Mặc trở thành đối lập, chế độ chuyên chế về sau sử dụng khái niệm nhân nghĩa (yêu có phân biệt) của Mạnh mà biến nó thành Trung hiếu, tiết Nghĩa, còn người nông dân phát triển tư tưởng Mặc Tử (biểu hiện rõ ở phong trào nông dân khởi nghĩa sau đó). Nhân là đích tu dưỡng của mọi người nhưng đạt được hay không thì không phải cho mọi người vì nó phải có điều kiện thực hành và đưa lại một số công tích nhất định, do đó phải có cương vị thì mới thực hiện được.(có đối tượng để yêu thì mới thành có nhân nghĩa )

Nho gia đặt Tâm của con người trước Thiên và Đạo nên họ chú ý đến động cơ hơn là hiệu quả, Chú ý đến danh nghĩa hơn là thực. Nhưng muốn trở thành Nhân Giả thì phải có công tích rõ ràng. Nhân là đức mục cao nhất, cả về đạo đức và tài năng cao đi nữa cũng không dễ gì đạt đến Nhân.

-Nhân là đức mục có tính chất quân tử (kẻ quân tử không làm điều nhân sao là quân tử được?) quân tử không phải là người có đạo đức, đó là một đẳng cấp xã hội, Người ở trong thành ( quốc) là quân tử, người ở ngoài thành là dã nhân (tiểu nhân). Quân tử là người trong thành quốc thuộc đẳng cấp thống trị, đối lập với người cày ruộng ở thôn dã .(Kẻ quân tử bất nhân cũng có ,nhưng chưa có kẻ tiểu nhân nào nhân cả ). Trong cách nhìn của Khổng Tử và Nho gia về sau: sự phân chia đẳng cấp là tất nhiên. Mạnh Tử nói: quân tử đi học để trị dã nhân, dã nhân làm ruộng để nuôi quân tử. Vậy Nhân là một đức mục của quân tử, của kẻ thống trị, có tính chất đẳng cấp. Người Quân tử đó trên cương vị của mình phải thương yêu dân. Khổng Tử nói nếu làm được 5 điều này trong Thiên hạ thì được gọi là nhân: Cung, Khoan, TÍn, Mẫn, Huệ.

Cung là cung kính nghiêm trang; Khoan là rộng lượng; Tín là nói thế nào làm thế đấy; Mẫn là siêng năng, chăm chỉ; Huệ là rộng rãi. Người cung kính nghiêm trang thì dân không khinh nhờn, người tín thì được tin cậy. 5 điều đó đều nói trên cương vị kẻ trên yêu thương kẻ dưới.

Muốn là Nhân thì phải có: Công trạng, cương vị, Đức. Nếu có cương vị mà làm được điều đó là Nhân. Nhân là đức mục của người quân tử nhưng quân tử phải có Đức.

* Nhân và Thánh: Không phải người cầm quyền nào cũng đều là nhân, nhân đối với họ chưa phải là cao nhất, còn một đức mục cao hơn: Thánh.

Thánh là đức mục chỉ có một người có: Thiên Tử. Chỉ có Thiên tử mới “bác thi ư dân”, Ở đây không chỉ có vị đức công trạng mà có cả Thiên mệnh nữa. Khổng Tử rất tôn trọng Thiên mệnh (không biết mệnh không thể gọi là quân tử -bất tri mệnh vô dĩ quân tử dã )

*Tuy là yêu người nhưng mà tôn trọng thiên mệnh để chống phạm thượng, làm loạn .Đến thời Mạnh Tử trong sự đấu tranh của thời chiến quốc, Mạnh Tử nói : Không được tước quyền của Thiên Tử, phải đợi Mệnh.+

Đến đời Hán, Thánh là đức mục của Thiên tử mà Nhân cũng là Đức mục của Thiên Tử, người thường không ai là nhân cả, họ chỉ đến Nghĩa là cùng.

Tóm lại, Nhân là (Nhân ái) yêu người nhưng không phải là yêu con người (yêu cái con người trong con người), cũng không phải yêu mọi người. Cái Nhân đạo chủ nghĩa của Nho giáo khác chủ nghĩa nhân đạo bác ái của Phật, khác bác ái của gia tô giáo: ở chỗ nó yêu con người trong quan hệ gia đình, đẳng cấp, nhà nước theo trật tự trên dưới, vì thế chủ nghĩa Nhân đạo Nho giáo không bao giờ dẫn đến đấu tranh xã hội cho tự do, dân chủ bình đẳng.

b. Nhân bị hạn chế ở các mặt sau

-Hiếu đễ là gốc của Nhân, Khổng tử nói: quân tử chuộng cái gốc, gốc có vững đạo mới sinh ra. Hiếu đề là gốc của Nhân, ở đây có một nghịch lý: Hiếu là tình cảm của con với cha mẹ, đễ là tình cảm của em với anh: đó là đức mục của người trong gia đình, sao lại có thể là đức mục của con người với con người trong xã hội?. Nho giáo nhìn từ gia đình ra cái thiên tính để làm một lẽ phải hiển nhiên, gia đình có từ lâu, phổ biến. Chỗ khác nhau là Nho giáo phổ biến hóa, coi đó là cái Thiên tính của con người nói chung, mở rộng ra cho nhà nước và xã hội, Khổng tử nói Hiếu là gốc của Nhân nhưng Hiếu của ông hết sức nghiêm ngặt. Đối với Khổng Tử, hiếu không chỉ là yêu cha mẹ mà còn phải kính (bất kính hà như hiếu hồ ) còn phải làm cho cha mẹ yên lòng và yên tâm.

Giữa cha con không đòi hỏi nhau theo thiện ác (cha con không trên tiêu chuẩn phải trái để bàn mà trên tiêu chuẩn tình, con phải vui lòng chiều theo ý cha mẹ) (Phụ tại quan chi trí, phụ nhất quan vi hành...)Nếu đối lập hiếu như vậy để làm gốc của nhân thì quan hệ xã hội không thể nào được tôn trọng.

Chuẩn tắc của Nho giáo là lấy mẫu gia đình quy định mẫu nhà nước, ở phạm vi nhà nước xã hội có vấn đề: lẽ công và tình riêng. Pháp gia, đạo gia đã nhấn mạnh :công , họ nhấn mạnh tề.

Nho giáo đưa Tình ra rất đối lập với công này, Trong thực tế phương Đông, hiếu có mục đích chính trị. Một nước nhà rộng được giao cho một dòng họ, chia con cháu ra thống trị các nơi khi giao thông chưa phát triển, họ lấy tình cảm gia đình duy trì quan hệ nhà nước. thống trị của 1 họ và bằng quan hệ của 1 họ là chế độ nô lệ chủng tộc. Hiếu với cha ông là động lực giải quyết tranh chấp. Hiếu là gốc của nhân, tạo ra một êm ấm kiểu gia đình, chứ không phải tạo ra một nhân từ bác ái theo kiểu Phật. Vì quan niệm loạn là không có đạo đức nên kẻ hiếu đễ không bao giờ phạm thượng, không có loạn.

Giữa 2 bên tranh chấp không tìm công bằng mà tìm hiếu đễ. Giai cấp phong kiến dùng cái này để chống lại sự chống áp bức của dân. Việc coi Thiên hạ, nước, nhà đồng dạng với gia đình là một đặc điểm của Nho giáo. Họ hàng có vai trò rất lớn trong xã hội, vai trò nhà nước bị thu nhỏ lại. Nhà nước phong kiến vì thế chọn người hiếu đề để làm quan. Vì thế có lễ cư tang, có sử khen kẻ có hiếu, thế là thi hành nhiều chính sách bảo vệ gia đình họ hàng. Người phạm tội mà vì hiếu thì được tha và có khi khen.

Kết luận: Lấy hiếu làm gốc cho dân vì lẽ lấy gia đình làm gốc cho xã hội nên không thể có đấu tranh cho nhân phẩm, chống áp bức bất công trong xã hội.

C. Khắc kỷ - phục lễ, theo mệnh. An bần lạc đạo.

Nhân là nói về mối quan hệ giữa những người được đặt giữa Kỷ và Nhân, nhưng người là người xã hội. Trong xã hội có gia đình, xã hội, nhà nước, 3 quan hệ khác nhau.

Trong xã hội có giai cấp, có đẳng cấp, có bất công, nhưng trong xã hội phương đông khác xã hội phương tây. Xã hội phương Tây là xã hội dựa vào quyền sở hữu để thống trị, người chiếm hữu nô lệ ruộng đất sẽ có quyền về chính trị, có văn hóa - thành thống trị. Ở Phương Đông quyền sở hưũ thuộc về nhà vua, tất cả người khác không có quyền này, chỉ có quyền lĩnh hữu (được vua giao cho). Vua ban lộc điển cho quan lại..... vua phân phối cho quý tộc, quan liêu và dân căn cứ vào phận vị của họ. Vấn đề danh ,vị rất quan trọng, danh và vị đẻ ra lộc, vị trí chính trị là hết sức quan trọng, cái đó được giải thích bằng ơn vua, phúc ấm tổ tiên. Trong xã hội có bất bình đẳng nên quy định ra những chuẩn tắc sống giữa trên dưới, sang hèn. Ai phải giữ đúng theo phận vị ấy. Lễ là cái phân biệt giữa sang hèn và giàu nghèo, nó khác với pháp (pháp luật, pháp quyền), pháp gia đưa ra Pháp chống lễ: coi mọi người như nhau Nho giáo chủ trương coi con người phải theo lễ: Bác học ư văn, ước chi dĩ lễ. Hình thức của lễ là rành mạch, uy nghiêm, đẹp đẽ, tinh thần của nó là hòa, là kính nhường, tôn trọng trật tự, phục tùng trên dưới. Trong tình hình đó con người không dễ dàng gì mà theo lễ (vì theo lễ là chấp nhận bất công). Trong con người có nhân ,dục là yếu tối xui khiến con người trái lễ. Người nghèo hèn bất mãn để giành lại cái đã mất, người giàu bỏ lễ để giàu hơn. Cạnh tranh, so le là những nét chung mà nho giáo cho là nguy hiểm. Khổng tử lấy nghĩa để đối lập với lợi, lấy đạo lấy lễ để khắc phục nhân dục,lấy nghĩa đối lập với dục. Khuyến khích thái độ: Phú vô kiêu, bần vô oán. Thế là có mâu thuẫn Tư và Công, tình riêng và phép chung. Trong con người có đối lập giữa Tâm và quan, giữa xu hướng chạy theo dục lợi của con người tự nhiên với đạo lý để bảo vệ trật tự. Khổng tử nói: Nhân là phải tự giác theo Lễ, nghĩa, không ham danh lợi, không làm những việc trái lễ, nghĩa mà trở thành giàu sang. Nhan Uyên hỏi về điều Nhân, Khổng Tử viết “Khắc kỷ phục lễ vi ư nhân” một ngày tự mình làm được việc đó thì thiên hạ gọi mình là Nhân .Làm điều nhân là do mình chứ không phải do ai khác cả. Khổng Tử nói: Cái gì trái lễ đừng nghe, cái gì trái lễ đừng làm, cái gì trái lễ đừng nhìn.

Đây là một quá trình tự giác.

*An bần lạc đạo: Thấy bất công mà vui với nó, không đấu tranh với bất công, bằng lòng với cái tối thiểu mà vua, trời cho, đó là động cơ tâm lý kìm hãm con người phương đông đấu tranh từ hàng nghìn năm. Chủ nghĩa nhân đạo chân chính là chủ nghĩa khuyến khích con người đấu tranh giành nhân cách. Chủ nghĩa ở đây không đặt ra vấn đề hạnh phúc, con người an bần lạc đạo là con người tìm 1 vui thú lừa dối mà không tìm ở 1 hạnh phúc thực: cơm no, áo ấm. Trong lịch sử loài người chủ nghĩa nhân đạo chân chính bao giờ cũng gắn liền với Hạnh phúc.

* Trí, Nhân, Dũng – 3 đặc trưng.

Khổng Tử nói con người có ba bản chất: Trí Nhân Dũng: Trí giả bất hoặc, Nhân giải bất ưu, Dũng giả bất cụ.

- Trí là biết cho nên không lầm lẫn

Trí thức luận của Nho giáo rất hạn chế, không bao gồm trí thức tự nhiên. Tự nhiên theo nho giáo là biểu hiện của đạo, tự nó không có ý nghĩa gì cả. không có tri thức sản xuất đánh giặc “Tiểu nhân tai, phàm tu” Việc gì phải học làm vườn, cày ruộng, kẻ quân tử chỉ cần học và tu dưỡng rồi người ta sẽ cõng con đến nuôi cho mà ăn...

Không có trí thức sản xuất thì không có khoa học dẫn đến không có triết học, Khổng tử là người viết nói khéo, hùng biện ,nhiều mưu kế nên chung quy lại con người chỉ còn là biết nghĩa, lễ cư xử cho đúng lễ.

- Dũng: Tăng Tử nói: xét mình không lầm lỗi thì cứ tiến lên. Dũng không phải là sức mạnh thể chất, gan dạ mà là sức mạnh tinh thần, dựa vào đạo lý. Người hiếu dũng không phải là đa dục, họ phải thận trọng, giữ lễ.

- Nhân :là cái cao nhất.

Đạo đức tóm lại cũng chỉ là đạo nghĩa mà thôi. Mạnh Tử nói: Người đại trượng phu :phú quý bất năng dâm .bần tiện bất năng di , uy vũ bất năng khuất .

Cả 3 cái đó chỉ là sức mạnh tinh thần mà thôi, cho nên Nho giáo nhân đạo mà không tôn trọng trí tuệ con người ,không tin ở sức mạnh trí tuệ của con người, không có chủ nghĩa nhân đạo cả.

Nho giáo là 1 chủ nghĩa nhân đạo đi vào ngõ cụt, nó không đấu tranh cho công bằng hạnh phúc trí tuệ nó đi từ nhân đạo, kết thúc ở phản nhân đạo.

II. Nhân và vi chính, đức trị và nhân chính

(Phần chính trị trong học thuyết nho gia)

Mục đích của tu dưỡng là làm quan trị nước (vi chính) “Học nhi ưu tắc sĩ” Học trò của Khổng tử ai cũng hỏi về cách trị nước cả. Đối với Nho gia, tu dưỡng là có mục đích chính trị, tu dưỡng để có đức. Có 2 tác dụng: Tu dưỡng đạo đức để treo gương cũng là vi chính, - có chính quyền để dùng chính quyền đó ra ơn cho dân: đức biến thành chính trị để có ích cho nhiều người hơn.- Kiêm thiện . “Trí quân trạch dân” ,Đạo đức của Nho gia, thái độ xử thế là thái độ nhập thế tích cực.

Phần kiêm chính có 2 biện pháp: Đức trị :thi hành đường lối chính sách nhân đạo, muốn hiểu đường lối của Nho gia phải hiểu 2 điều: vị trí của Nho gia trong đường lối chính trị, quan niệm về nhà nước.

*Quan niệm nhà nước: Nho ra cho rằng đất đai và nhân dân đều là của trời, trời giao cho 1 người quản lý đất đai và chăm dắt dân, người đó là thánh nhân, khi được trời giao cho, người đó là vua, Người đó vì có phúc ấm cha ông, có đức nên trời giao cho làm vua cũng nghĩa là giao cho cả dòng họ. Kẻ làm vua là để lại đức trạch cho cả dòng họ. Suy ra: nước và dân đều là của vua, của dòng họ nhà vua. Đó là cơ sở để vua phân phong đất đai cho thân cựu (bà con và người có công). Phân phối tô thuế cho mọi người, có 2 cách phân: phân phong đất đai và phân phối tài hoa. Phân phối theo chức vị, cho quý tộc và quan liêu hoặc quân cấp ruộng công cho dân làng xã cùng đều là do vua phân phối cho cả. Tóm lại là phân phối theo phận và vị. Nên ở trong nước mới có tư tưởng: Tấc đất, ngọn rau, ơn chúa.(chuyện Bá Di ,Thúc tề ) Mọi người là thần dân, tôi tớ của nhà vua. đi lính nộp thuế, đi phu là nghĩa vụ theo mệnh trời theo ơn nuôi dưỡng: làm nhiệm vụ chứ không phải bóc lột, yêu nước thì phải trung vua, Tư tưởng trung quân, như vậy xuất phát từ tư tưởng con dân (thần tử), vừa là làm theo mệnh trời, vừa là để đền ơn, thực hiện lý tưởng, chết vÌ danh nghĩa không phải là ham danh vị, tước lộc, trung vua không phải là hèn hạ mà là 1 phẩm chất cao cả cho phép người ta tự hào.

Vì tư tưởng trung nghĩa như vậy, nhà Nho kiên trì chính thống. Họ chống lại những người cướp ngôi vua. Về sau, những người chống quân chủ như Phan Bội Châu vẫn mời Đông Cảnh (dòng họ đích tôn gia long) làm minh chủ. Khi vua tồi tệ, không được phép giết vua chỉ có thể bỏ quan mà về.

* Thái độ của nhà Nho bộc lộ vị trí trung gian của họ, một dòng họ cầm quyền trị dân, nước làm xuất hiện sự thống trị, bị trị, công và tư, phép công tình riêng... Trong xã hội phương đông, công xã không tan rã, làng xã bị nhập lại, bị quận huyện hóa chứ không bị tư hữu hóa như ở Phương Tây, lấy danh nghĩa trời cai trị, che dấu bạo lực bằng mệnh trời, đạo đức thánh nhân, không nhấn mạnh quyền sở hữu mà nhấn mạnh trách nhiệm trời giao, chức trách chính quyền để cai trị.

Làng xã ruộng đất công tồn tại nó quyết định đời sống ở bên dưới (làng, xã). Nhà nước có 2 bộ phận: chính quyền trung ương chuyên chế ở trên và làng xã ở dưới. Nhà nho là dân ở làng xã nhưng là đội hậu bị của bộ máy quan liêu trung ương. Họ có một thái độ trung gian giữa vua và dân, vừa trung nghĩa vừa thân dân. Tính chất 2 mặt này biểu hiện trong đường lối trị nước của họ: Đức trị và nhân chính.

Đức trị là gì? là cai trị bằng đức, tức là trên cơ sở quan hệ có đi có lại, vua có trách nhiệm với dân, dân có trách nhiệm với vua. Vua phải thương yêu dân như con, dân phải trung hiếu với vua. Đó là tinh thần chung của đức trị. Biểu hiện của đức trị có 2 mặt: là treo gương, là cai trị bằng lễ nhạc chứ không phải bằng pháp luật, bằng giáo hóa chứ không phải bằng trừng trị. Tức là vua phải tự mình tu thân trước cho mọi người bắt trước để trở thành thiện “chính giả chính dã”. Với chính sự, Khổng Tử nói: Đạo chi dĩ chính, tề chi dĩ hình. Với Khổng Tử, cai trị bằng đức, lễ quan trọng hơn sâu sắc hơn cai trị bằng hình pháp. Khổng Tử chủ trương dùng giáo hóa lễ nhạc trị dân chứ không phải bằng hình phạt, chức trách của kẻ cầm quyền là dạy dân chứ không phải trị dân.

Về cụ thể, đức trị biểu hiện: chống thu thuế quá nặng (Mạnh Tử nói: Thu thuế 1/10 là kiệt trụ). Thái độ của nhà nhó về điều này khá gay gắt(chống bóc lột kiên quyết) ai cũng hỏi Khổng Tử: nghèo thì làm thế nào? Khổng Tử nói: nếu dân giàu thì không ai để cho nước nghèo. Chống dùng sức dân quá sức: Sử dân dĩ thời, những người già yếu quan quả có độc phải chăm sóc họ. Các nhà nho luôn can ngăn vua về tội xa xỉ, Nhà Nho chủ trương cần kiệm đó là tinh thần “Dân vi lang bản”. khổng Tử nói: Kẻ ở trên mà không khoan huệ thì không ra làm sao cả,

*Nhân Chính: Đến Mạnh Tử quan niệm đức trị của Khổng Tử thành ra nhân chính. Thời Mạnh Tử không thể nói đường lối chung chung như Khổng Tử nữa mà phải chuyển thành đường lối cụ thể. Mạnh Tử bàn về nhân chính :những chính sách ứng với điều nhân, làm cho nhân dân có hằng sản (của cải sẵn). Theo Mạnh Tử: ai cũng có hằng sản thì họ đều làm theo chính sách một cách dễ dàng. Mạnh Tử chủ trương làm tỉnh điền: ruộng đất chia làm 9 khoảng: 8 của riêng và 1 của nhà nước. Lập trường học, đánh thuế không thay đổi (thường chinh). Những điều này đều làm cho dân an cư lập nghiệp, cần nói thêm chính sách nhân chính này không nhằm cải tiến, phát triển sản xuất, không nhằm cải tiến quản lý kỹ thuật nó chỉ cốt làm cho dân an cư lạp nghiệp. Cần chú ý: Nho giáo trọng trật tự hơn là hạnh phúc, giữ phận vị hơn là no đủ. Xã hội lý tưởng mà họ mơ ước: Vua có đức, tôi hiền năng, dân an cư lạc nghiệp, xã hội đó được cố kết bằng ân đức khoan huệ. Người cầm quyền cần” thanh cần” để dân yên không can thiệp vào. Như thế là giữ nghiệp nhà. Khổng Tử nói: Vua cai trị dân là cung kính ngoảnh mặt về phương Nam mà thôi.

*Ảo tưởng trị bình của Nho gia.

Nho gia có 1 ảo tưởng về xã hội mong muốn lập 1 xã hội không có tranh giành, không có chiến tranh....” cái mà ta muốn làm là không có kiện tụng.” Họ muốn có một xã hội thống thất, trật tự và hài hòa. Họ mong rằng dùng cách chia ra phân phối theo phận và vị, làm cho mọi người giác ngộ giữ phận vị thì không có tranh giành không có chiến tranh. (phận vị ở đây không công bằng: dưới bằng1phần10.trên) Nó tạo ra 1 tâm lý: bằng lòng với cái tối thiểu mà cấp trên ban cho. Với cách cai trị đó Khổng Tử mơ ước 1 xã hội đại đồng, lúc đại đạo thông hành thi thiên hạ là của chung ,chọn người hiền năng truyền bá điều tín và sửa sang sự êm ấm. Vì thế người ta không chỉ coi cha mẹ mình là cha mẹ, không chỉ coi con mình là con, làm cho người già sống hết tuổi giời, trẻ con được nuôi đến trưởng thành, người lớn có chỗ dùng, kẻ chết cha chết mẹ đều được nuôi dưỡng, con trai có vợ, con gái có chồng, của cải người ta thu nhặt lại vì không muốn để rơi vãi chứ không phải cho mình. Sức đem ra dùng là muốn giúp ích cho người khác, không muốn cho sức,không phải do mình đưa lại, chứ không phải làm để cho mình. Vì thế không ai mưu toan thủ đoạn gì, không còn trộm cắp, giặc giã nữa, cửa ngoài không cần đóng, xã hội như vậy là đại đồng. Đây chính là xã hội chủ nghĩa không tưởng, không có cái riêng, tất cả là của chung. Đại đồng là lý tưởng của người nông dân công xã. Tư tưởng bành trướng là tư tưởng thiên hạ: Thiên hạ là vua giao cho Thiên tử. Trách nhiệm của thiên Tử không hạn chế.

CƠ SỞ KINH TẾ XÃ HỘI CỦA NHO GIÁO

Nho giáo là một sản vật phương Đông, nó phát triển không thật tương ứng với chế độ nô lệ.

“Phương Đông” chỉ 1 vùng Đông Á: Trung quốc, Việt, Triều thể chế kinh tế xã hội có 2 phần lớn.

A. Chế độ chuyên chế tập quyền cao độ và ra đời sớm.

Từ thời Ân chu, đã có Thiên Tử làm chủ hoàn toàn Thiên hạ, đặc điểm của nó là :vị trí của Thiên Tử đó có thể trùm lên các vua chư hầu. Sự tập quyền đó ra đời rất sớm, nó được củng cố dần, và hình thành chế độ chuyên chế đặc biệt, tức là đế chế. Đế chế nhà Tần, nhà Hán, Minh, Thanh... Chế độ đế chế ở phương tây chỉ có 1 giai đoạn nhỏ: cuối chế độ nô lệ, ở Trung quốc nó kéo dài, ở Việt Nam, sau 1 thời gian bắc thuộc, nó thành 1 quận huyện của Trung quốc, Thời đại độc lập về sau, bắt chước mô hình Trung quốc, ở nước ta cũng có tình trạng thống nhất rất sớm, cũng tổ chức theo chế độ chuyên chế đó. Đặc trưng của chế độ chuyên chế: Hai nét chính :

1. Chính quyền trung ương: Vua nắm hết quyền hành, kinh tế, chính trị, quân sự, tôn giáo biểu hiện là tất cả ruộng đất, núi rừng, sông biển đều của vua, đó là quyền vương hữu, quyền sở hữu là của vua, quyền lĩnh hữu là việc vua giao cho người khác sử dụng.

Vua thừa mệnh trời, trông coi nước và chăm dắt dân, độc quyền tế trời đất. Vua nắm quyền tôn giáo, ở đây không có giáo hoàng giáo hội. Trong bộ máy nhà nước có bộ lễ trông coi tôn giáo. Vua quyết định mọi việc chính trị, các hình sự lớn, vua là thống soái quân đội, tất cả các quyền hành tập trung vào một người. Vua không chia quyền cho các đẳng cấp. Quý tộc thì bên trong là bà con bên ngoài là thần tử của vua.

Việc cử ngôi hết sức quan trọng, khi lên ngôi thái tử mới được quyền như thế.

Cơ sở của chế độ chuyên chế là chế độ vương hữu, tức là quyền sở hữu về danh nghĩa tất cả là của vua. Trong thực tế là việc duy trì công điền. Sự tồn tại của công điền phổ biến không cho phép tư hữu phát triển.

- Thân phận thần dân: ai cũng là tôi tớ về danh nghĩa là của vua cả chứ không phải là vật sở hữu của chủ nô, không phải là nông nô của lãnh chúa mà là con em của vua. Họ phải đi phu, lính nộp thuế cho nhà nước. Tô được đổi danh là thuế,(cho nhà nước ) ai cũng có tư cách là pháp nhân của nhà vua. Ở đây không có sự chiếm hữu nô lệ , sự phụ thuộc vào quyền sở hữu mà là chế độ thần dân phổ biến của nhà nước. Việc mua bán nô tì được cho phép nhưng hạn chế, người mua không được giết.

- Mệnh trời (Thiên mệnh): Một dòng họ thống trị, bắt mọi người thừa nhận quyền thống trị của nó, nó lấy danh nghĩa trời để thống trị, ai chống lại vua tức là chống lại trời. Bạo lực được che dấu bằng đức, bằng thiên mệnh. Muốn thống trị, nó thống trị bằng 2 công cụ: Bộ máy quan liêu và đội quân thường trực.

Bộ máy quan liêu là cơ quan hành chính trung ương và cấp huyện do vua bổ nhiệm, chế độ quận huyện đã có từ đời Tần.

Đội quân thường trực do nhà vua tổ chức cấp phát và điều khiển. Quan trọng hơn là biện pháp thỏa hiệp trong thế đối kháng tự nhiên của các lực lượng.

Dưới chính quyền trung ương là làng xã và họ. Nhà nước thống nhất ra đời rất sớm, nhưng có một bộ phận rộng lớn không được tổ chức chặt chẽ: làng xã. Nó tiến hành quy tụ các làng xã để bắt lính, phu chứ không khai thác lãnh địa.

Dưới chế độ chuyên chế, làng xã được tự trị rộng rãi, chỉ cần làm nhiệm vụ: đi lính, phu, nộp thuế cho triều đình là được. Làng là một đơn vị tự trị nhưng là 1 đơn vị hành chính của trung ương. Làng có tài sản riêng, có tổ chức riêng: thân hào, bô lão, có đền thờ riêng (thành hoàng ) có luật lệ riêng. Làng xử tội theo cách của làng, có khi có cả tổ chức võ trang riêng. Các tổ chức phường hội (có tính chất xã hội) cũng thường lấy đơn vị làng.

Trong làng có họ: Làng có nhiều họ, họ có địa vị khác nhau tùy thế lực riêng của từng họ. Con em trong họ theo huyết thống mà có tổ chức riêng,” Họ “có ruộng đất riêng. Thế lực giữa các họ trong làng khác nhau nên họ tổ chức chặt chẽ để bảo vệ nhau thành giáp, Giáp là hành chính hóa của họ, bằng cách sắp xếp đó, hình thành bộ máy nhà nước xã hội. Trong đó sự cách biệt giữa làng xã, họ với trung ương là rất lớn. Họ có vị trí cực lớn (làng xã họ phân tán, trung ương rất chặt chẽ).

2. Chế độ Phong kiến.

Chế độ trên là chế độ phong kiến, nó ra đời sớm nhưng không bao giờ trọn vẹn. Sự tồn tại của công điền trên quy mô lớn nên không cho phép phát triển thành sở hữu tư nhân lớn, không cho phép khai thác triệt để. Sở hữu tư nhân là phổ biến nhưng manh mún, bóc lột không phải hoàn toàn là sở hữu .Áp bức không hoàn toàn là quyền tôn giáo hay tùy tiện cá nhân, trói buộc không hoàn toàn bằng quyền lực. Chữ lễ, cha mẹ dân , tạo ra hình ảnh gia trưởng nhiều hơn. Sự nô dịch đó làm cho người ta coi như là tự nhiên. Đây là 1 tổ chức nhà nước quy mô to lớn nhưng lại rất yếu vì nó không nắm được cơ sở, không phát triển được.

*Chính sách thỏa hiệp trong thế đối kháng tự nhiên giữa các thế lực.

Nổi bật trong xã hội đó là mâu thuẫn giữa tập trung và phân tán. Tập trung là trung ương là vua, phân tán là có nhiều thế lực:quý tộc, hào trưởng, làng xã. Cả những thế lực này không thế lực nào thanh toán được đối phương nên phải sắp xếp để thỏa hiệp mâu thuẫn là thường xuyên nhưng không bùng nổ, nhân nhượng lớn nhất là :duy trì tàn dư công xã, quý tộc, không thi hành được triệt để quyền sở hữu: để cho công điền, công thổ, bộ máy làng xã tồn tại. Nhà vua chỉ công bố bộ máy chức dịch đó là tôi con của vua nhưng vẫn để nó làm gì cũng được. Vì thế phải duy trì nền kinh tế tự nhiên tự cấp tự túc chứ không khai thác được triệt để. Làng xã nghèo, làm nhiệm vụ với nhà vua không được nhiều. Nhà vua thu được 1 số tô thuế cố định, vua tiến hành phân phối trên cơ sở đó: phân cấp bổng lộc cho quan lại, quý tộc, và để lại 1 phần chi phí cho quân đội, tiêu phí .... Số đó được phân phối theo danh , vị, đảm bảo để không tranh nhau. Thế là Thái Bình Thịnh Trị, không ai quan tâm đến phát triển sản xuất mà không thể tái sản xuất được. Do đó nó duy trì nền kinh tế lạc hậu, muốn duy trì chế độ đó phải bảo vệ được sự tập trung làng xã, họ hàng, 1 khâu rối loạn là tất cả rối loạn. Nhà vua phải bảo vệ cho được công điển không để hóa thành tư điền. Vua chống chấp chiếm ruộng đất, chống nuôi nô tì nhiều, đối tượng chống là quý tộc và hào trưởng, về sau còn có thêm chùa chiền nữa.

- Phải dùng chính sách thỏa hiệp: bằng cách phong tước cho hào trưởng, khoan huệ với làng xã – Ân, uy để an cư lạc nghiệp cho dân, tạo ra cho dân tâm lý biết ơn kẻ trên, tin vào thiên mệnh.

Vua cấm quan trong triều và ngoài quận không được liên kết với nhau, không cho phép quý tộc có quyền tư pháp và quân đội: đó là biện pháp cai trị của vua chuyên chế.

Chú ý: Giữa Vua và dân có quyền lợi thống nhất: chống lại quý tộc hào trưởng, nó tạo ra 1 ảo tưởng là lòng tin ở vua. Trong cuộc sống an ninh và nghèo khổ ấy nền kinh tế tự cấp tự túc không đẻ ra nền kinh tế hàng hóa phát triển, chỉ có trao đổi ngoài chợ chứ không có thương mại phát triển. Vì công nghiệp phân tán ở các làng xã (thợ rèn, gạch...) thương nghiệp ở làng xã chứ không có ngoại thương, không có buôn bán giữa các vùng vì giao thông không phát triển. Thủ công xưởng không có, không có sự phát triển khoa học kỹ thuật, nền kinh tế bị phân tán,(ở Việt nam không có tiền tư bản ) cái đó tạo ra sự trì trệ 2000 năm của Trung quốc và Việt Nam. Nó không đẻ ra lực lượng chống phong kiến. Sự tồn tại của những lực lượng yếu không thanh toán nổi nhau dẫn đến sự trì trệ kinh khủng này.

Người ta thoát khỏi đói kém mất mùa giặc giã bằng cách:

a. nền kinh tế tự nhiên, vào rừng kiếm lâm thổ sản

b.mưu tán đi từ làng này sang làng khác kiếm công ăn việc làm.

c. Khởi nghĩa nông dân, nổi loạn của nông dân trước hết đánh vào hào cường, cướp của nhà giàu chia cho nhà nghèo rồi đánh quan lại liên kết với hào cường chứ không hề có ý muốn thay đổi chế độ, không có khẩu hiệu tôn giáo.

Cách giải quyết khởi nghĩa của triều đình là: đàn áp và an dân (chém kẻ cầm đầu, đưa dân đi khai hoang) (Phan Bá Vành và Nguyễn Công Trứ là lãnh tụ khởi nghĩa nông dân và quan triều đình đàn áp khởi nghĩa nông dân nhưng lại đưa dân đi khai hoang)

Vua cũng muốn như dân: có vua nghiêu thuấn và dân nghiêu thuấn

Một chính sự vô sự, vô vị như thế là ước mong của mọi gười

B. Bộ máy quan liêu và đẳng cấp sĩ phu

Trong chế độ chuyên chế, nó có trong tay 3 công cụ: Chỗ dựa vào dòng họ công thần, chỗ dựa vào quan liêu, quân đội. Nó chọn bộ máy quan liêu làm chỗ dựa chính.

1. Dựa vào bộ máy quan liêu

Lực lượng quý tộc và hào trưởng địa phương về danh nghĩa là thân cận của vua nhưng cũng chính là lực lượng có khả năng trành giành quyền lợi của vua, đó là tiêu biểu cho xu hướng phân tán, phá hoại sự chuyên chế. Hàn Phi Tử nói: Người muốn vua chết đi là hoàng hậu và thái tử , Quý tộc quyền thần cũng muốn giết vua, một thời gian chùa chiền cũng có ý nghĩ như vậy. Quý tộc có lực lượng trong tay để làm việc đó. Trước khi đánh, quý tộc phải bóc lột thật nhiều để giành thế lực. Việc làm của họ uy hiếp ngôi vua, trước hết nó đe dọa an ninh của dân đã. Đẻ ra 1 nghịch lý: Vua và dân có quyền lợi thống nhất khi chống lại các quyền lực phân tán. Mâu thuẫn giữa vua và quý tộc đưa đến nhà vua liên minh với làng xã.

Xu hướng này đẻ ra là không phân lãnh địa cho quý tộc, lộc điền chia ở nhiều nơi chứ không tập trung, phong cho từng người, khi chết phải trả lại hoặc rút bớt, chỉ được phong đến 4 đời, xử tội những kẻ tiếm việt, ức hiếp dân.

Thực chất của việc hạn điền. hạn nô của Hồ Quý Ly là thế, triều đại nào cũng giết công thần là vì vậy.

Bộ máy quan liêu đảm bảo việc tôn trọng vương quyền ,tuyên dương giáo hóa của triều đình, là công cụ dùng thường trực, đắc lực, trung thành và vô hại (quan văn được tin hơn quan võ) Công việc chủ yếu của bộ máy quan liêu: xử kiện, thu thuế, giáo hóa.

Bộ lại, bộ lễ, bộ hộ là quan trọng, các cơ quan khác chỉ là trang sức mà thôi. Với các võ tướng có chính sách ưu đãi “Phi quân công bất hầu” Bình thường quan võ chỉ là theo hầu, khi họ có quyền trong tay là phải cảnh giác.

2. Tầng lớp sĩ phu (đẳng cấp sĩ phu)

Con đường khoa cử lấy người cho bộ máy quan liêu là điều kiện hình thành đẳng cấp này. Nhà Tần đề bạt theo công trạng, Đời Hán thì theo chính sách tiến cử, nhà vua cầu hiền. Con đường như vậy tạo ra một tình trạng: nhân tài không đủ để đáp ứng nhu cầu nhà nước. Có chính sách tập ấm: con được tập làm theo nghề cha. Chính sách này có hạn chế: con chưa chắc đã bằng cha, cố định dòng dõi quan liêu. ĐỜi đường dùng thi để chọn nhân tài. Thi có 2 câp: Tỉnh (thi Hương) lấy cử nhân và tú tài (dưới cử nhân); Trung ương lấy tam giáp tiến sỹ : cao nhất là Trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa,; nhị giáp là Hoàng giáp, tam giáp là tiến sỹ. Những nguời được vớt là phó bảng.

Trước khi thi có hạch ở cấp huyện để chọn những người có đủ tiêu chuẩn (thí sinh), người đỗ đầu gọi là đầu huyện, người đỗ đầu thi tỉnh là giải nguyên, thủ khoa. Đầu xứ là người đỗ đầu kỳ hạch ở tỉnh, chỉ có cử nhân mới được thi ở trung ương. Trước khi thi trung ương có hạch (thi hội) người đỗ đầu là Hội nguyên, người trúng thi hội mới được vào thi đình, người đỗ đầu thi hương, hội đình ,là tam nguyên.

Mở khoa thi để lấy nhân tài là mở con đường tiến thân cho thanh niên, tạo ra trong nước một tầng lớp đông đảo đi học để thi đỗ làm quan. Tầng lớp học trò này là sĩ phu, do khoa cử đẻ ra.

Tầng lớp sĩ phu này đã có lâu hơn : Từ đời Chu đã có tầng lớp sĩ quân tử: những người chuyên làm công tác văn hóa, dòng dõi quý tộc. Đến đời Hán, nó biến chuyển dần có tính chất là người có học trong nhân dân, người ta gọi là những kẻ sĩ hiếu hành. Đến đời Đường, nó mới hình thành 1 tầng lớp sĩ phu, những nho sĩ đó học là để làm quan tức là làm cha mẹ dân ở địa phương, nó khác với hành chính (do nha lại làm) công việc chính của họ là văn chương ,cho nên họ phải học ngoài kinh truyện, sử tử còn phải học văn thơ phú lục, lúc thi phải thi kinh điển và nghề viết văn.

Một nhà nho được đào tạo theo cách đó phải trở thành pha tạp, tuy tư tưởng pha tạp nhưng trong xã hội họ sống thành 1 đẳng cấp, đẳng cấp của người có học. Đó là một tầng lớp dân, nhưng từ khi đi học họ tự coi là người “tiên tri, tiên giác. Họ tự phụ vì chỗ: họ là người cầm chính đạo, là kẻ truyền bá đạo thánh hiền, họ tự hào đại diện cho dân làm môi giới giữa trời , Thánh hiền và thứ dân. Sĩ đứng đầu thứ dân, làm môi giới cho bọn “dân ngu khu đen” với triều đình. Triều đình nuôi kẻ sĩ, quý họ -là một trong những chính sách cơ bản của những ông vua sáng. Họ nuôi bằng cách: cho kẻ sĩ một số đặc quyền mà thực ra chỉ là danh: Đặt ra chế độ học điền, miễn giao dịch cho những người đã là thí sinh. Mở khoa thi ,làm lễ vinh quy rất trang trọng. Đó là chính sách dưỡng sĩ, tạo ra 1 tấm lòng biết ơn trong đẳng cấp đó. Trong làng xã, kẻ sỹ sống có tổ chức: tổ chức đồng môn theo các thầy học, văn hội và sỹ hội trong làng xã, đây là 1 thứ phường hội theo nghề nghiệp có ruộng tế, đền thờ riêng.

*Vận mệnh của kẻ sĩ.

Đời kẻ sĩ là học – đi thi, đậu hay không là quyết định vận mệnh của mình.

Đỗ thì ra làm quan, nhà vua có chính sách bổ nhiệm theo mức độ đỗ đạt cao thấp, vể sau có đậu đại khoa mới được làm quan ở triều đình, người làm quan được hưởng lộc nước tức là ruộng đất, tiền thóc trong số thuế nhà vua thu được, nếu không làm quan thì về làng làm thân sĩ trong làng xã, họ được hưởng 1 số ruộng biếu, ngày tế lễ được ăn thủ hay lòng. Họ thành người tư vấn có quyền lực trong việc giải quyết công việc làng xã, được hưởng những biếu xén.

Không đỗ thì: với vốn học thức họ trở thành các thứ thày: Thày đồ dạy học, thày thuốc, thầy địa lý, thầy số. Muốn học nghề đó họ phải học thêm thuật âm dương, gia lễ, thuốc... Với các nghề này, nhà nho trở thành một thứ giáo sĩ ở nông thôn (T.Đ.H). Ở Phương Đông không phân lập giáo quyền và hoàng quyền (vua và tôn giáo), ở nông thôn ,nông dân mê tín có tư tưởng và tình cảm tôn giáo là phổ biến. Con người sinh ra phải lấy số, bình thường phải xem ngày... Ở Phương Tây những việc này do giáo sĩ làm, phương Đông đều do nhà Nho đảm nhận ,trong các công việc đó có vai trò của nhà sư (Phật giáo) và Đạo sĩ (Đạo giáo) nhưng đạo sĩ và thiền sư không thay thế được nhà Nho, nhà vua có khi mời thiền sư làm cố vấn nhưng nhà nước không coi phật, Đạo cao hơn nho giáo được ,(trong phạm vi chính trị.)

Nông dân và nhà Nho có mối quan hệ mật thiết. Nhà Nho là thày của nông dân, việc làm của nhà Nho có tính mê tín và tôn giáo nhưng họ vẫn không bị phụ thuộc vào một tổ chức nhà thờ nào cả.

*Tính trung gian của các đẳng cấp sĩ.

Nhà Nho là tầng lớp trí thức, ở nước nào nó cũng là đẳng cấp trung gian. Tính trung gian ở đây có tính lực sử và cụ thể. Đây là đẳng cấp con đẻ của chế độ chuyên chế phương Đông, quyền lợi của họ gắn chặt với chế độ chuyên chế.

Chế độ chuyên chế có 4 điểm khác nhau:

1/ Là một ông vua độc tài

2/ Tính chất quý tộc dòng họ

3/ Quan liêu

4/ Quân sự.

Đây là đặc điểm của chế độ chuyên chế, nhà nho gắn với chế độ này nhưng lại mâu thuẫn với một số bản chất của chế độ ấy: chống lại quý tộc, quân sự ,và không hài lòng với chế độ độc tài. Nho sĩ là đẳng cấp gắn với tính chất quan liêu của chế độ chuyên chế. Vì Nho sĩ là 1 tầng lớp thứ dân, nó dựa vào tài năng nên phản đối chế độ giàu sang theo dòng máu (quý tộc) nó có văn hóa nên chống lại võ quan (quân sự) nó đòi hỏi nhà vua nghe theo ý kiến của nó (chống độc tài). Nhưng nó cần có sự tập trung vào một người: nhà vua. Nên nó dựa vào tính chất quan liêu. Sĩ là tầng lớp thứ dân dựa vào tài năng chứ không dựa vào tài sản, dòng máu.

*Giữa vua và dân

Kẻ sĩ là dân chứ không phải dân (?) Họ ghét giàu sang, họ cậy tài và đức, sống bằng ơn vua lộc nước tức là danh vị lộc, chứ không phải của dòng dõi. Nhà Nho đòi hỏi vua coi dân là gốc của nước “Dân vi bang bản” và nông nghiệp là gốc của nước – đó là 2 tư tưởng căn bản trong đường lối chính trị của Nho gia.

Theo họ, dân là do “sĩ” làm đại biểu toàn quyền. Khi họ nói “Nhân tâm, phong hóa ,thế đạo” họ đều lấy kẻ sĩ làm chuẩn. Đối với dân lao động họ tự xử là thày. Đòi hỏi vua phải thương yêu dân. Đòi vua trọng đạo lễ. Họ quan hệ với vua theo lễ chứ không mù quáng hèn hạ. Nét đặc trưng của Nho gia là: Đề cao thánh nhân ngang với trời – đưa đẳng cấp sĩ lên vị trí cao, đòi vua phải tôn trọng nó – đòi quyền tôn trọng đẳng cấp mình.

Tri thức của nhà Nho rất ít, họ là trung gian giữa vua và dân. Sống bằng danh vị, bóc lột siêu kinh tế chứ không phải bằng sở hữu. Đó là một đẳng cấp không đóng kín.

Thế là ở Phương Đông khác với Phương Tây: Quý tộc, võ sỹ, tu sĩ . Còn ở Phương Đông thì chỉ có nhà Nho. Phương Tây có trí thức cha cố và trí thức đô thị, ở Phương Đông chỉ có 1 người trí thức: nhà nho ở Nông thôn, nhà nho không có con đường nào khác là bám vào nhà nước chuyên chế và nông thôn. Con đường của nó là : Nông Thôn đến cung đình và ngược lại chứ không có đô thị vì thế nó không có kỹ thuật khoa học.

Kết luận: sự tồn tại của ruộng công ở làng xã và chế độ quân cấp, sự tồn tại của làng xã với vai trò đặc biệt quan trọng của họ hàng, sự sản xuất tự nhiên tự cấp, tự túc, thủ công nghiệp, phường bạn, buôn bán, chợ búa, bộ máy cai trị của vương quyền chuyên chế, cách tổ chức xã hội vua quan – thân hào – thứ dân. Đó là cơ sở tồn tại của đẳng cấp sĩ và nho giáo.

NHÀ NHO TRONG THỰC TẾ

Nói tới nhà Nho là nói tới 2 mặt: Tín đồ và đẳng cấp. Trong thực tế nhà nho không thuần nhất trong tư tưởng, Người Pháp gọi nhà Nho là “Lettré” (người có chữ, có văn hóa) vậy họ nhìn nhà Nho ở 1 vị trí nhất định: có chức nghiệp rõ ràng. Đó là nói về một đẳng cấp xã hội. Với những người đó nhân dân bao giờ cũng gọi là thày, cậu. Ta ngày nay vẫn có cái kính nể nhà Nho, có một cái gì đó tích cực. Điều đó nảy ra sự phân vân trong cách nhận thức, đánh giá nhà nho.

I. Mâu thuẫn nội tại của nhà nho – con đường xuất xứ.

Trong cuộc đời nhà nho chủ trương nhập thế, tức là chống lại xuất thế. CUộc đời mà họ lăn vào là chế độ chuyên chế ,tức là vừa có phần phù hợp với lý tưởng của họ (thống nhất và tập quyền) có phần trái với lý tưởng của họ (thân dân). Trong xã hội đó họ chỉ có 1 con đường: công danh để lập sự nghiệp. Thực tế đó đặt họ trước mâu thuẫn:

1/ Giữ đạo đức nhân nghĩa, mà phải giành giật nhau công danh.

2/ Họ có lý tưởng cao là yêu dân cứu đời mà phải làm tôi tớ cho một dòng họ

3/ Học nghĩa lý viết văn,mà phải làm quan, làm chính trị.

Con đường công danh lợi lộc trong chế độ phong kiến vốn không sạch sẽ, phải uốn lưng với vô số quan cấp trên, về nhiều nghĩa là làm tôi cho một người. Vì có chỗ để hành đạo mà họ phải nhận bổng lộc, phải chịu đựng sự tùy tiện của ông vua chuyên chế. Phải luôn thực hiện chỉ thị trái với ý mình nên công việc làm quan là phiền toái và trái ý. Một người sống có lý tưởng (đạo nghĩa) sống vì cái đẹp, nghệ thuật (viết văn) càng cảm giác sâu sắc cái bẩn thiu của con đường công danh này. Trong xã hội phong kiến thường nảy sinh ra tâm lý thường gặp trong nhà nho: thích làm học quan (dạy học) hơn đường quan (chính trị), thích làm quan địa phương hơn quan trung ương, thích làm ở quán các hơn ở đài sảnh. Trong xã hội đẻ ra cái tâm lý “ trọng khoa hơn hoạn”.

Nếu như nói trung thành với lý tưởng của Nho giáo (dùng được đạo mình thì đem ra hành, nếu không biết dùng thì cất đi) thì nhà nho nào cũng cảm thấy xấu hổ. Một mặt trong thực tế không phải ai cũng đỗ đạt làm quan, mặt khác làm quan luôn phiền hà nên nhà nho (trong sạch) nào cũng băn khoăn vì lẽ xuất xử. Xuất là ra làm quan, xử là về ở ẩn.

Theo lý thuyết, nhà nho xuất ở các trường hợp: Vua biết đến tài mình, thì ra làm quan để đền ơn, vua dùng đạo của mình phải ra góp phần hành đạo.

Nước còn có cơ làm được, ra có thể giúp ích được cho vua, nước,- không xuất là có tội. Xử: chỉ nên không có 3 điều kiện trên. Đối với nhà Nho xuất hay xử là đều giữ đạo đức “Dụng chi tất hành”.

Xuất ,xử đều giữ đạo đức treo gương cho mọi người và kiêm thiện thiên hạ. Nhà Nho có một nguyên tắc: nước đang nguy không nhập, nước đang loạn không ở ,nhưng đó là anh không có trách nhiệm. Nếu là tôi của ông vua đó thì không có quyền bỏ, phải tận trung với vua, Khổng Tử, Mạnh Tử để lại nhiều bài học về việc xuất xử này, nhưng đó là vào thời liệt quốc, kẻ sĩ “sớm tần tối sở”. Về sau chế độ chuyên chế ra đời, thực tế chỉ còn chọn xuất, xử .” hành,”- chỉ ở một nơi mà thôi. Lúc trẻ ai cũng hăm hở lập công danh, khi đã chán nản: chỗ khôn của họ là biết dừng lại, rút lui đúng lúc. Trong xã hội chuyên chế đó, nhà nho chân chính dễ bất mãn, nhưng không có đô thị để tạo ra người trí thức và dung thân cho người trí thức tự do. Chỉ có 1 con đường để tiến, thoái (vào cung đình hay về nông thôn)

II. Ba mẫu nhà Nho.

Nhà Nho nào cũng thấy “xưa nay xuất xử thường 2 mối” họ chuẩn bị cho cả 2, phân vân suốt cả cuộc đời. Nhà nho chuẩn bị 2 khả năng “tiến vi quan, thoái vi sư”. Ở mỗi nhà nho vừa có người hành đạo vừa có người ẩn dật.

1. Người hành đạo

Không phải ai làm quan cũng là người hành đạo, không phải ông quan nào cũng hành đạo. Hành đạo là một mẫu người lý tưởng trong đám nhà Nho nhập thế ra làm quan. Tức là những người thật sự vì nghĩa mà làm quan, coi việc làm quan là cơ hội để giúp vua, giúp nước. Họ giống như những người làm quan khác: hăm hở công danh nhưng với 1 động cơ là đặt hi vọng ở đó tìm 1 sự nghiệp giúp vua, dân thật sự. Người hành đạo say mê và chăm lo công việc, luôn nghĩ đến việc nước, dân, dám nói và chịu khó làm, hay can ngăn vua. Hình ảnh văn học của loại người này là ông quan thanh liêm chăm lo công việc, là ngự sử cương trực (Ngụy trưng – tể tướng nhà đường) là những người trung nghĩa, hy sinh thân mình để bảo vệ vua. Ở con người nhân nghĩa thường có nét của người trượng phu, hào kiệt,dũng cảm, cái chết của họ có phần nào đó hơi lạ với nhà nho – nhưng đó cũng là nét nhà nho ca tụng.

Ra hành đạo nhà nho phải trở thành người hành động, trái với bản chất của nhà nho là đọc sách vở, họ phải học thêm hành chánh, pháp luật, giấy tờ bằng con đường đó họ trượt đến tư tưởng pháp gia – vốn đối lập với nho gia (ông tổ của pháp gia là Hàn Phi)

Ông quan trị nước theo nho giáo vẫn là đức trị, quan là người khuyên bảo giáo hòa chứ không phải là người trực tiếp làm công việc tổ chức khai thác... Người đại thần của Nho gia là người đáng tin cậy, ông quan nhà nho là người thương dân vô sự, thanh liêm có tài giáo hóa, vì cách làm quan đó nảy ra tâm lý trong đám học trò: tự cao tự đại, chủ quan, không bao giờ thấy mình dốt.

2. Người ẩn dật

Người ẩn dật sống cuộc đời riêng ở làng xóm, nơi vắng vẻ núi non. Ẩn dật là mẫu người lý tưởng giữ mình thanh cao, không để cho công danh làm lụy, không để cho cuộc đời ràng buộc mình. Người ẩn sĩ tránh đời, thây kệ cuộc đời. Họ tìm thú vui trong cảnh thiên nhiên, thường là núi non, sông hồ ,cây đá chim muông, những cảnh vắng lặng, họ tìm đầm ấm trong cảnh thôn dã, có khi ở trong việc sản xuất, lao động, họ tìm các thú vui của cá nhân : rượu cờ đàn thơ văn. Thú vui là một nét cần chú ý, họ ca tụng sự thích chí: làm được cái mình muốn là thích. Ca tụng sự nhàn dật, không trói buộc, tự do, phóng khoáng. Nhiều khi họ sống khá trái tính trái nết.

Người ẩn sĩ có khi cấy trồng ở cửa ngõ: không tiếp ai. Người ẩn dật thường nói mình vụng, bất tài, lười, ngại .... thực ra không phải. Họ chán đời, chán quan, họ tự xử 1 cách cao khiết: tách ra sống riêng, họ rất tự hào về việc đó, nếu không có lòng tự hào vậy họ sẽ không sống được. Về ẩn dật là tự chuốc lấy việc đời khó khăn : sống bằng phương tiện riêng không có bổng lộc, vả lại trong xã hội có trật tự, sống trái tính trái nết không phải là dễ chịu, lòng tự hào về mình là chỗ dựa cho ẩn sĩ chống khó khăn thực tế. Nhà nho khi trở thành ẩn sĩ bước sang tư tưởng Trang tử: nhàn, tự do. Nếu đi xa hơn nữa( vào Trang tử ,Phật) mà trở thành đạo sĩ, vân du, thiền sư ,đi tu ,thì nó đã vượt quá người ẩn sĩ.

Mẫu người ẩn dật này cũng vẫn là Nho. Loại người này đã có từ trước và trong Khổng tử cũng đã có. Về sau nhiều nhà Nho cũng như vậy. Chỗ khác nhau giữa nhà Nho ẩn dật và người ẩn sĩ Lão trang: vì đời hay phi xã hội, Lão trang phi xã hội, chống lại con người tổ chức thành xã hội, chống con người bày ra đạo đức ràng buộc tự do của con người. Nhiều người về nhà dạy học tuy không làm quan nhưng theo quan điểm của nhà giáo là người hành đạo

3. Người tài tử

Ngoài 2 mẫu trên còn có người tài tử (của T.Đ.H). Người tài tử đối lập với nhà nho ở chỗ khá căn bản. Nếu Nho giáo coi đức và danh là cái làm nên con người, nhà nho tài tử coi tình và tài làm nên con người, không tài tình thì chỉ là gỗ đá vô tri .Tài , theo họ có nhiều loại: tài chính trị, tài quân sự, tài học thuật, tài văn chương, nhưng tài là phải loại nổi bật, không thể thiếu được một tài: tài nghệ thuật ,-thì không thể gọi là tài tử. Tình là tình cảm là sự cảm thông sâu sắc với người, sự vật trước hết là tình yêu. Người tài tử là người coi mình cùng nghiệp với người tài sắc ở phái nữ. Tài nghệ thuật gắn bó với tình nên tài sắc là tình sắc. Nhà nho quan niệm con người là con người chức năng trong luân thường thì người tài tử rất nhấn mạnh con người cá nhân.Có thể nói ,đó là hình thức của ý thức cá nhân trong xã hội phong kiến. Trong cuộc đời, họ theo đuổi 2 cái: sự nghiệp và duyên kỳ ngộ, giữa trai tài gái sắc. Họ muốn lập một sự nghiệp lẫy lừng để trổ tài chứ không phải để báo ơn. Họ đi vào những cuộc tình duyên với giai nhân để thỏa tình (“Tài tử giai nhân tế ngộ nan” – Nguyễn Công Trứ). Người tài tử thị tài và đa tình. Đó là người hào hoa phong nhã chứ không phải là người tu thân giữ lễ. Trong cuộc sống họ thường phóng lãng không chịu theo tập tục, tức là họ chạy theo hưởng thụ, họ vẫn là nhà nho, tuy rất xa lạ nhưng không phải họ chống chế độ, chống Nho giáo. Họ chỉ đòi tự do trong phạm vi hẹp: tự do cho tình cảm. Đây là một mức độ rất thấp của cuộc đấu tranh cho tự do của con người trong chế độ phong kiến.

Họ vẫn đi thi, làm quan, thường thì họ chỉ oán trách số mệnh,lời lẽ tài tử đa cùng, tài mệnh ghét nhau là lòng đau xót của họ. Người tài tử ra đời chậm, khi chế độ phong kiến thịnh trị tương đối lâu để ra đời đô thị phong kiến, tức là đô thị đó có cửa hiệu, con buôn, có nơi ăn chơi, hành lạc. Thế là những người giàu có ăn chơi, có phú thương, có kỹ sư, cao lâu và có những người có điều kiện thoát ra khỏi kiếp khống chế của gia đình làng xóm... Đây là điều kiện có người tài tử. Trong tình sử, nhân vật chính là người: khánh thương, học trò hỏng thi, kỹ nữ. Văn học tài tử giai nhân bắt đầu từ đời Đường có đô thị.

Chế độ phong kiến phương Đông không ổn định lâu dài, giặc giã cướp bóc.... đô thị không tồn tại vững chắc. Người tài tử là một đột xuất đương thời chứ không có vận mệnh lâu dài trong xã hội phương đông.

* Hành đạo và ẩn dật là 2 mẫu người thống nhất của nhà Nho chính thống. Ẩn dật và tài tử có chỗ giống nhau mà không thống nhất, giữa các mẫu người đó khích bác lẫn nhau: người hành đạo bị chê là tục, danh lợi; người tài tử bị chê là phóng đãng không có đạo đức, quy củ; người tài tử chê 2 loại kia là bất tài vô tình; người hành đạo chê :vô trách nhiệm...

Hai mẫu hành đạo và ẩn dật vốn từ nông thôn có xu hướng đi đến cung đình. Đó là cơ sở cổ điển của chế độ chuyên chế phương đông, còn tài tử là nhân vật của đô thị phong kiến, đây là một mầm mống chống phong kiến. Trong xã hội phong kiến phương đông ,nó chỉ là một thứ quả lép.

Cả ba loại người không hình dung nổi một cuộc sống nào khác ngoài cái mà chế độ chuyên chế giành cho nó. Cả 3 không phá hoại chế độ nên chế độ chuyên chế chấp nhận cả 3 mẫu đó.

* Nhà Nho phân hóa, pha tạp mà không bị phủ định, nó không chuyển sang cái khác do vận mệnh của họ trong xã hội mà bản thân nhà nho trở thành pha tạp. Nói chung, tư tưởng nhà Nho vận động từ nho sang Trang. Nhà Nho việt nam có dạng nhà nghệ sĩ hơn là nhà triết học. Đến lúc có mâu thuẫn gay gắt thì đẻ ra nhà nho tài tử phá phách chứ không đủ tiền đề chống lại Nho giáo ,xã hội. Những tư tưởng kiệt xuất nhất cũng không vượt ra phạm vi Nho -Vì chế độ chuyên chế và nho giáo đã chặn được quá trình phủ định nó. Lý do: nhà nước chuyên chế không trực tiếp khai thác nhưng can thiệp và điều chỉnh có kết quả nền kinh tế làm cho kinh tế hàng hóa, đô thị, tầng lớp thị dân không phát triển được. Không có cái đó (tức là tư sản) không thể phá nổi phong kiến được. Nó thi hành chế độ quân điền ( dựa trên công điền chia cho dân) bảo vệ ruộng công và nửa công nửa tư. Nhà nước tập trung thợ giỏi lại làm cho nhà vua -độc quyền ngoại thương vì thế hàng hóa không phát triển. Bộ máy quan liêu không làm việc sản xuất nhưng gây trở ngại cho người làm giàu, chính sách trọng nông ức thương kết quả là nền kinh tế tự nhiên tự cấp, tự túc được duy trì. Kinh tế hàng hóa không phát triển, chế độ đó không cho trí thức có điều kiện để trở thành trí thức tự do,- tức là tầng lớp trí thức dựa vào sản xuất, vào khoa học kỹ thuật, mà đi theo hướng chống phong kiến. Nho giáo với tư tưởng Mệnh, Lễ, Nghĩa tạo ra một con người phong kiến ảo tưởng về nhân cách mà không có nhân cách thực sự. Con người đó cụ thể, thiết thực trọng nghĩa theo lễ, thành ra một con người trong cuộc đời, sống không triệt để, dễ chấp nhận, thỏa hiệp, dẫu có ấm ức nhưng không dám chống đối ra mặt . Mang tư tưởng chính thống, nho giáo làm cho con người không có khuynh hướng chống đối và làm cách mạng.

III. Những sự hiểu lầm

Nhà Nho là nhân vật nổi bật, rất lâu đời và mới mất. Từ đầu thế kỷ, với việc phê phán người hủ nho, người ta đã đưa ra phân tích và phê phán.

Với việc nước ta đi vào thế giới hiện đại, nhà Nho biến dần. với cuộc cách mạng văn hóa tư tưởng, người ta phải phê phán nó. Với nhà nho, cách nhìn có 2 ngả: Một số người đề cao và cố gắng tìm ra cái tích cực; Một số người phủ định sạch trơn. Hai xu hướng là cực đoan, xu hướng chiết trung đứng giữa cũng sai.

Phía phủ nhận: cho rằng nhà nho là người bênh vực chế độ phong kiến, trách họ là ngu trung, ăn bám, không lao động, nhưng khi thấy nhà nho họ lại kính nể.

Nhà Nho thực ra là nghèo và ghét giàu, thái độ của họ là chống lợi, họ không trực tiếp bóc lột theo lối địa chủ. Về thực tế cũng như lý thuyết họ đứng về phía chống lại việc bóc lột tô tức đó. Họ là sĩ, là thân là quan chức chứ không phải kẻ giàu, khủng khỉnh làm bộ kể cả là nhà nho, Đối với quan và thân họ cũng ghét tính chất hào cường, họ ghét thế ( thân thế)vị (địa vị ?) họ thuộc về đức tài. Trừ kẻ giàu mà có học, kẻ sang mà có đức, nhà nho thuộc đẳng cấp không sản xuất, coi thường lao động chân tay “vạn ban giai hạ phẩm, duy hữu độc thư cao” Nhưng họ không khinh lao động theo kiểu giai cấp bóc lột, họ coi xã hội có sự phân công: người lao động trí óc và người lao động chân tay. Người lao động trí óc là tiên tri, tiên giác, có nhiệm vụ dạy dỗ cho kẻ lao động chân tay.Người lao động, lao động nuôi họ, họ là người giáo hóa. Đó là sự phân công, họ có trách nhiệm đúng với chức năng của mình. Với dân, nhà nho giữ thái độ thân dân “dân vi bang bản”. Nói tới sự cầy cấy mùa màng, thái độ người cầm quyền phải làm cho dân an cư lạc nghiệp. Thân dân, yêu thương dân lao động là điều vốn có của nhà nho. Một mặt họ coi khinh nhân dân lao động, mặt khác họ tự coi mình là bảo vệ nhân dân lao động. Họ phản đối sống lười biếng, xa xỉ, ăn chơi vô độ. Nghèo, an bần, cần kiệm là đặc trưng cách sống của nhà Nho . Nhà Nho thức khuya dậy sớm, siêng năng, chỉ có điều họ chỉ siêng năng ở việc học chứ không ở lao động sản xuất. Họ cũng thích bón hoa chăm cây, đó là công việc tao nhã chứ không phải để kiếm lợi, chứ không phải là việc chân lấm, tay bùn.

Đối với chế độ phong kiến, họ chủ trương trung quân chống phản nghịch làm loạn, đồng thời chủ trương làm quan thanh liêm thờ vua trung nghĩa . Thân dân, thanh liêm không ăn hối lộ là nhận cau, gạo nếp gà chứ không đòi nhiều tiền vàng bạc và phải có lễ. (vấn đề thể diện và danh nghĩa) Nói họ làm lợi cho dân, có ích cho dân thực tế là họ cho những lời khuyên bảo, những người trung nghĩa (mà nay ta cho là ngu trung) là những người tự tin, tự hào ở nghĩa cương thường chứ không phải là người nô lệ. Ta nói họ là thống trị, ăn bám, bóc lột: đúng nhưng không nên đồng nhất họ với địa chủ, vua quan quý tộc, những tầng lớp bóc lột thật sự.

* Phía những người kính nể đề cao nhà Nho.

Cái làm cho kính nể, thấp hơn nhà Nho, ngay cả ở những người chiến thắng (tư sản, thực dân) cảm thấy nặng lời với họ là không phải. Những người đó nhìn vào khía cạnh giữ đạo đức của nhà Nho: chất phác, tin cẩn, tình nghĩa với bạn bè. Nhà Nho tự tôn và tự trọng, vẻ mặt ung dung lễ mạo, có thái độ kể cả không tiểu nhân đắc ý. Nhà nho ít nói, họ nói rất thận trọng. Họ ngoan cường và có khí tiết thanh cao. Đúng! Nhà Nho có những ưu điểm liên quan tới việc tu dưỡng cá nhân, cách sống thanh cao. Trong cuộc sống nhỏ hẹp (gia đình, lãng xã) trong 1 quan hệ chỉ có bà con, bè bạn, trong những hoạt động chỉ cần đến tình nghĩa và sự tin cẩn thì nhà nho có rất nhiều ưu điểm. Vấn đề là ta không muốn cuộc sống như vậy, ta muốn một cuộc sống rộng lớn, trong đó con người được phát triển toàn diện. Nói tới 1 con người mới, cải tạo thế giới, có tinh thần cách mạng... thì nhà nho trở thành cái cản trở. Nói cách khác nhà nho thích hợp với một xã hội cũ mà không thích hợp với một xã hội đang phát triển như ngày nay. Nếu như nay, chúng ta muốn như nhà nho thì chúng ta chỉ có những con người thương dân một cách bất lực, ảo tưởng một cách ngây thơ đầy thiện chí, nhân tuần và cầu an. Thái độ ngoan cường của họ trở thành ngoan cố.

Nhà nho là 1 sản phẩm của xã hội phương đông, là con đẻ của nó. Chế độ phong kiến phương đông không tạo ra mầm mống phủ định nó.

Quy luật phát triển của nhà nho: lịch sử lặp đi lặp lại, thịnh suy đắp đổi. Có 2 lẽ nhà nho không tham gia bên nào: Họ cho xã hội là loạn nên không tích cực trung nghĩa; họ không tích cực đứng về phía nông dân khởi nghĩa. Thái độ của họ làm cho họ thoát được rối ren. Nông dân không thể có lý tưởng riêng của mình. Khi đã lật đổ vương triều, nó xây dựng lại chế độ theo mô hình cũ . Nếu họ gặp nhà nho thân dân, có lý tưởng đại đồng thì nhà nho lại vẽ cho nông dân xây dựng chế độ phong kiến. Một dòng họ bị đổ, bộ máy phong kiến đổ, chứ nhà nho không đổ. Lúc rối loạn họ rút lui về làng, về Tâm , con đường đó vẫn làm cho họ thanh cao. Ở chỗ đó họ lại tập hợp nông dân, thất thế là lại tạo thanh danh cho họ.

Nếu chỉ nhìn cá nhân mà không thấy quan niệm thế giới, quan niệm con người của nó, hoặc chỉ hình dung cuộc sống nhỏ hẹp,làng xã thì không thấy mặt tích cực cũng như vướng mắc của nhà Nho.

Người chống Nho giáo rất tích cực như Phan Bội Châu ,cuối đời đã viết một câu đối là: Tiếc rằng tôi chết đi là đã chôn mất cái Khổng Mạnh trong ngưới tôi (cái thanh cao).

VĂN HỌC NHÀ NHO

I. Nho giáo và văn học

Nho giáo là một học thuyết đề cao người đi học, đề cao sự giáo hóa. Đó là học học thuyết đề cao sự văn hiến, lễ nhạc. Khổng Tử là một người rất ham học, ham hỏi, là người say mê đi tìm văn hiến cũ, là người đi khảo cứu di tích Ân, Chu ,đúng sai. Khổng Tử say mê nhạc, quý trọng nghệ thuật. Nhà Nho về sau đều theo tinh thần thế. Khổng Tử là người san định Thi ,Thư ,lễ nhạc, là người tự hào rằng: Mình dạy người không biết mệt mỏi, Khổng Tử coi văn hóa, nghệ thuật rất cao “Không thể không học thi, văn:( "bất học thi dĩ ngôn, bất học lễ vô dĩ lập”) thi là nguồn văn liệu cho ứng đối. Trong lịch sử ,Khổng tử có công lao lớn trong việc truyền bá và phát triển văn hóa. Về lịch sử loài người mà nói đó là nhân vật vĩ đại ,chỉ có điều nhân vật đó là của 25 thế kỷ trước. Quan điểm của khổng tử về văn: Khổng Tử nói: Văn vương đã mất, Văn không ở ta thì ở đâu? Văn là một cái gì trời trao cho loài người, ký thác ởThánh nhân. Văn rất quan trọng, văn là cái ghi lại đạo, là hình thức tồn tại cụ thể của đạo, đạo đức được gửi vào văn mà truyền bá, thánh nhân là người dùng văn để truyền bá đạo, văn mà thánh nhân nói ra là văn chương. Vậy văn chương có nguồn gốc linh thiêng, nó có chức năng truyền đạt đạo lý, có chức năng giáo hóa. Người giỏi văn cũng là người được trời phú cho khả năng riêng. Người năng văn cũng là người có tính chất hiền nhân hợp tính chất nghệ sĩ.

*Văn và chất.(nội dung và hình thức)

Nếu như quá văn là sử, (lòe loẹt).Nếu như quá chất là dã (thô kệch) (Khổng Tử) .Chất và văn là vấn đề nội dung và hình thức. Nhà Nho hiểu nó: hình thức giống như hình thức bề ngoài, cái vằn trên con báo để khu biệt nó khác con khác là văn của con báo (khác với hình thức tồn tại như ta hiểu ngày nay) có chất liệu tốt phải có hình thức bề ngoài đẹp để biểu hiện nó ra. Văn và chất có 2 quan hệ: quan hệ giữa đức và cách biểu đạt, quan hệ thứ 2: nội dung văn chương và lời văn. Khổng Tử : “Từ đạt nhi dĩ hỉ hà dĩ văn vi” (lời nói biểu đạt được nội dung là thôi, văn vẻ làm gì) Nho giáo đề cao văn chương – thứ văn chương có nội dung đạo lý, ghét từ chương hoa mỹ. Điều này ảnh hưởng đến quan niệm văn học và tư tưởng thẩm mỹ của nho gia.

 



[1] Bản này anh Phùng Đình Nghĩa(Văn k22, ĐHTH Hà Nội) chép tay trực tiếp từ bài giảng của thầy Trần Đình Hượu, năm 1980