Lệ thưởng đào của làng Đông Ngạc và các bài văn thưởng đào
Trần Thị Kim anh(*)
Đông Ngạc - tên nôm
là Kẻ Vẽ là một ngôi làng cổ nằm ven sông Nhị. Nơi đây có bến Ngác và chợ Vẽ nổi
tiếng trong lịch sử . Vào cái thuở đường thủy là huyết mạch giao thông, bến
Ngác khi ấy là một nơi trên bến dưới thuyền và chợ Vẽ là một "trung tâm
thương mại". "Nhất cận thị, nhị cận giang", Đông Ngạc đã hội được
cả hai yếu tố để trở thành một làng giàu mạnh về kinh tế. Với một nền kinh tế mạnh
và lại có vị trí gần sát kinh thành Thăng Long nên người Đông Ngạc rất thuận tiện
khi ra kinh đô ăn học và rước thầy giỏi từ kinh đô về dạy trong làng. Bởi vậy
trong nhiều thế kỷ, Đông Ngạc đã đóng góp cho đất nước 25 vị tiến sĩ và cả ngàn
hương cống, sinh đồ, cử nhân, tú tài... "Đất Kẻ Giàn, quan Kẻ Vẽ".
Người Đông Ngạc làm quan khắp nơi và không thời nào không có các vị triều quan
về làng đóng góp tiền của và trí tuệ để xây dựng quê hương. Nhờ có lực lượng
quan viên trí thức đông đảo như vậy nên Đông Ngạc - qua nhiều thế kỷ - nổi tiếng
là một làng văn hiến, là làng "mỹ tục khả phong".
Quả thật trong quá
trình tìm hiểu tục lệ Đông Ngạc, chúng tôi nhận thấy lệ làng và các nghi lễ nơi
đây đã được quan viên hương lão trong làng quy định hết sức nghiêm ngặt, sang
trọng và khá văn minh. Đặc biệt, nghi lễ tế thần nhân dịp làng vào đám có thể
xem như một điển hình về phong tục tế lễ của các làng Việt cổ truyền ở vùng đồng
bằng Bắc bộ. Song việc trình bày, giới thiệu về tục lệ và chi tiết lễ hội của
Đông Ngạc là một đề tài lớn, chúng tôi xin được trình làng dưới dạng một cuốn
sách, còn ở đây, trong phạm vi hạn hẹp của bài viết, chúng tôi chỉ giới thiệu về
lễ Thị yến thưởng đào.
Thông thường đa số
các làng quê của Bắc Bộ Việt Nam mở hội làng, hay còn gọi là "vào
đám" lúc đầu xuân khoảng kỳ tháng Hai, Đông Ngạc cũng vậy. Hội làng Đông
Ngạc bắt đầu từ mồng 9 tháng Hai và kéo đến 14 thì tế "giã đám".
Trong những ngày này làng tổ chức rước tế thành hoàng làng, vui chơi, chèo hát
suốt đêm ngày và có mời nhà trò hát thờ thần (tức hát cửa đình). Sách Đông
Ngạc xã tục lệ(1) cho biết hết sức chi tiết các nghi lễ
trong những ngày này. Về lễ Thị yến thưởng đào chúng tôi xin được tóm lược
như sau: "Từ ngày 11 đến ngày kết thúc, ba hàng làng(2) và tám giáp(3) cùng thị yến(4). Cỗ yến ở đây do tám giáp đệ đến. Cỗ được
bọc giấy hồng điều, dán trang kim chữ "Thọ" và đậy lồng bàn. Sau khi
viên chấp sự gõ 1 hồi tang trống và đánh 4 tiếng trống, các viên trung nam đến
mở lồng bàn, đốt hương rồi các cô đào đọc thơ chúc rượu. Nhạc công nổi nhạc,
các cô đào đến múa, hát mừng. Lần lượt các quan viên ở ba hàng làng ban phiếu
thưởng cho cô đào. Sau khi ba hàng làng thưởng xong, tám giáp căn cứ theo phiếu
thưởng của ba hàng làng, lần lượt bốn giáp nhất đứng dậy gọi đào, đọc bài tán
văn rồi thưởng cho cô đào. Bốn giáp nhất thưởng xong, viên chấp sự lại nổi 1 hồi
tang trống và đánh 4 tiếng trống, bốn giáp thì lại lần lượt đứng lên tiếp tục gọi
đào, đọc tán văn và trao thưởng. Việc thưởng đào trong lễ này được Dĩ thủy Phạm
Văn Thuyết, tác giả sách Đông Ngạc tập biên và là người làng Đông Ngạc -
một nhân chứng của lễ hội ở Đông Ngạc vào trước năm 1945 cho biết chi tiết hơn,
chúng tôi xin được trích nguyên văn: "Sau khi ba hàng làng thưởng xong thì
đến tám giáp. Mỗi giáp phải làm 1 bài chúc mừng dân, dài độ mười câu, khi gọi
đầu thì đọc. Vị cầm chịch đánh 3 tiếng đại cổ thì giáp Đông nhất gọi "ớ
đầu". Cô đầu "dạ", đến hát mừng, xong giáp ấy đọc bài chúc dân.
Đọc 2 câu 1 lần dằn, nghĩa là cứ đến 2 chữ cuối câu thứ 2 thì phải dằn to lên
và vị cầm chịch điểm theo một tiếng trống rồi lại gọi "ớ đầu". Cứ
theo thế cho đến hết bài. Đến tiếng trống điểm câu cuối cùng phải gọi "ớ đầu
thưởng" rồi thưởng cho cô đầu. Sau đó vị cầm chịch đánh vào tang trống một
tiếng, viên vừa đọc hết bài đó "dạ" rồi đi đến chỗ vị cầm chịch lĩnh
thưởng. Việc thưởng này tùy theo mỗi giáp đọc bài chúc hay hay không hay, và
khi đọc có nhầm lẫn không, để liệu mà ban thưởng cho giáp ấy. Bài chúc phải đưa
nộp trước, khi đọc phải đứng và mặc áo thụng. Người đọc phải học thuộc
lòng"(1).
Trên đây chúng tôi vừa
trình bày trình tự lệ ban thưởng cho cô đào ở Đông Ngạc, theo đó có thể thấy
trong lệ này, khi thưởng cho cô đào, mỗi giáp phải đọc một bài tán văn (hoặc
bài chúc) và việc đọc này được quy định rõ ràng về nội dung bài văn, cách đọc,
nhận thưởng... Vậy bài tán này ra sao? Sách Đông Ngạc tập biên(1)
có giới thiệu 2 bài, chúng tôi xin được dẫn ra đây một bài:
Ngày xuân mở hội thanh bình
Đồng dân cầu phúc linh đình
"vui thay"
Tiệc thần chèo hát đêm ngày
Thập hàng thị yến vui vầy "xiết
bao"
Bình văn điệu giọng thấp
cao
Trống chiêng cầm chịch điểm vào
"thấy vang"
Ngác nhì mừng chúc dân làng
Sĩ thời hiển đạt phẩm hàm
"vinh thăng"
Nông thời hòa cốc phong
đăng
Công thương phát đạt mọi đằng
"giàu sang"
Trẻ già trai gái trong làng
Bình yên vui vẻ thọ khang "đời
đời"
Thưởng đào một đóa hoa tươi
Đào dâng ngũ phúc có lời "mừng
dân"(2)
Trong quá trình
nghiên cứu về tục lệ Đông Ngạc, xung quanh vấn đề tế lễ, chúng tôi thu thập được
khá nhiều tư liệu, trong đó có những bài thơ tương tự bài vừa dẫn ra ở trên. Đó
là 9 bài trong Đông Ngạc sự thần ca xướng thưởng đào nương văn
và 9 bài trong Đại nghĩ bát giáp thưởng đào giải văn của Lê Đức Mao
(nhân nói đến 9 bài của Lê Đức Mao, chúng tôi xin được cảm ơn anh Nguyễn Xuân
Diện đã chỉ cho chúng tôi biết tư liệu này). Như vậy, phải chăng 9 bài ở Đông
Ngạc sự thần ca xướng thưởng đào nương văn và 9 bài ở Đại nghĩ bát giáp
thưởng đào giải văn của Lê Đức Mao đều là các bài tán văn để các giáp đọc
khi thưởng đào theo như lệ định vừa trình bày ở trên?
So sánh 18 bài này với
hai bài được giới thiệu trong Đông Ngạc tập biên chúng tôi nhận thấy:
1. Về nội dung: chúng
tương tự nhau ở chỗ đều ca ngợi và chúc phúc làng Đông Ngạc.
2. Gần như ở bài nào
cuối cùng cũng kết thúc bằng câu có 2 chữ "thưởng đào", như "thưởng
đào một giải mừng làng" hay "thưởng đào hai chữ phụ khang mừng
làng"...
Còn một điều nữa là,
ngay tên gọi Sự thần ca xướng thưởng đào nương văn có thể dịch là "Bài
văn thưởng đào nương hát thờ thần". Và Đại nghĩ bát giáp thưởng đào
giải văn có thể dịch là “Nghĩ hộ tám giáp bài văn thưởng giải ả đào".
Điều này cộng với những điều vừa nói trên có thể cho phép chúng ta khẳng định
đây là các bài tán văn mà các giáp phải làm để đọc khi thưởng đào theo lệ định
của làng Đông Ngạc. Có lẽ chính vì vậy mà Lê Đức Mao mới phải "nghĩ hộ".
Về 9 bài của Lê Đức
Mao, GS Hoàng Xuân Hãn khi trích 3 bài đưa vào sách Thi văn Việt Nam đã
cho rằng đây là các bài hát ả đào. Ông viết: "Bài hát này làm khi ông (tức
Lê Đức Mao - TKA chú) còn ở Đông Ngạc. Nghĩa là trước năm 1504. Mục đích là để cho
ả đào hát (chúng tôi nhấn mạnh) chúc làng vào ngày hội xuân lập ra vào
tháng Hai để tế thần cầu phúc"(1). Và ông gọi đây là "lối
văn hát (chúng tôi nhấn mạnh) bằng thể thất lục bát"(2). Nhận định này của Hoàng Xuân Hãn về sau
được các nhà nghiên cứu văn học dẫn lại và nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu nghiễm
nhiên coi những bài này là các bài hát ả đào. Ngay gần đây nhất, trong một bài
viết về đề tài hát nói, tác giả Nguyễn Đức Mậu đã viết: "Nếu điệu hà nam
thời Hồng Đức giống điệu hà nam sau này thì hát nói đã hoàn chỉnh thể loại của
nó trước hoặc cùng thời với mấy bài hát của Lê Đức Mao" (chúng tôi
nhấn mạnh)(3).
Như vậy trong suốt một
thời gian dài đến nửa thế kỷ, giới nghiên cứu vẫn coi đây gần như là những bài
hát ả đào cổ nhất. Vậy nay, với những thông tin chúng tôi đưa ra, nên chăng cần
xem xét lại?
(Tạp chí Hán nôm, số 2 (39) 1999)
Nguồn: Ca trù nhìn từ nhiều phía- Nguyễn Đức Mậu biên soạn, giới thiệu, Nxb Văn hóa thông tin, H.2003