THỰC TẠI, CÁI THỰC
VÀ VẤN ĐỀ CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC
TRONG VĂN HỌC VIỆT
NAM TRUNG CẬN ĐẠI
Trần Đình Hượu
ĐẶT VẤN ĐỀ
Những vấn đề liên quan đến chủ nghĩa hiện thực - trong những
năm 30 gọi là chủ nghĩa tả chân – mới đặt ra trong giới phê bình và nghiên cứu
văn học Việt Nam. Lúc đầu vấn đề đó chỉ liên quan đến văn học hiện đại. Từ việc
giảng dạy văn học Việt Nam trong nhà trường từ phổ thông đến đại học đòi hỏi có
giáo trình lịch sử văn học Việt Nam từ thuở ban đầu cho đến ngày nay, khi
nghiên cứu văn học đòi hỏi thành một ngành khoa học, từ những năm 50, vấn đề chủ
nghĩa hiện thực, tính hiện thực mới thành sự quan tâm hàng đầu của các ngành
nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam trung cận đại. Mọi người tốn công đi tìm sự
hiện diện của chủ nghĩa hiện thực, nhưng chỉ tìm được khắp nơi những khuynh hướng,
những yếu tố hiện thực chủ nghĩa mà chưa gặp ở đâu chính chủ nghĩa hiện thực cả.
Lý do hoạt động tìm kiếm công phu đó là một nhận thức về con đường phát triển của
văn học: hiện thực chủ nghĩa là một quy luật; văn học bất cứ dân tộc nào, sớm
hay muộn cũng đi đến đó. Một nền văn học đã trưởng thành đến trình độ nhất định
phải có, không có hình thức thì cũng là những hình thức chưa trọn vẹn: những
khuynh hướng, những yếu tố hiện thực. Sự tiến bộ của văn học về sau chỉ có thể
bắt nguồn từ những khuynh hướng, yếu tố đó. Và nền văn học chủ nghĩa là nền văn
học mẫu mực, cao hơn cả.
Sự tìm kiếm nhiều năm qua đưa đến nhiều kết quả là trong văn
học Việt Nam trước đây từ văn học dân gian đến văn học thành văn, từ Nguyễn
Trãi, Nguyễn Bình Khiêm đếm Nguyễn Khuyến, Tú Xương, từ văn học chữ Hán đến văn
học chữ Nôm ở đâu cũng ngổn ngang những yếu tố, những khuynh hướng hiện thực cả.
Ta hãy dừng lại trên con đường tìm kiếm chủ nghĩa hiện thực, cho đến nay ít hứa
hẹn triển vọng, mà đặt vấn đề:
1.Tại sao từ những yếu tố và khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa
như những phát hiện, những bộc lộ thực tế xã hội mà ta coi là có ý nghĩa phản
ánh cuộc đấu tranh giai cấp mà ta cho là nhà văn viết ra với dụng ý tố cáo, phê
phán xã hội xuất hiện khá sớm lại dừng lại chỉ như vậy mà không phát triển
thành một khuynh hướng, một trào lưu văn học thành chủ nghĩa hiện thực?
2. Cách ta hiểu văn học và lịch sử phát triển văn học có thật
chuẩn xác? Chỉ nói riêng trung văn học Việt Nam, có phải nó đã từ những yếu tố,
những khuynh hướng hiện thực mà phát triển cho đến ngày nay?
Vấn đề này không chỉ rất quan trọng vì không chỉ liên quan đến
cách nhìn quá khứ mà còn liên quan đến cách nhìn hiện tại và tương lai. Văn học
chung bản chất, có nội dung phản ánh hiện thực. Nhưng có phải vì vậy mà thành tựu
của bộ môn nghệ thuật ngôn ngữ đó được tính chỉ bằng nội dung phản ánh hiện thực,
bằng nghệ thuật phản ánh hiện thực? Văn học, đâu chỉ là về đại thể chỉ một con
đường phát triển sao.
3. Hãy chấp nhận con đường phát triển của văn học là sự phát
triển ngày càng hoàn thiện của chủ nghĩa hiện thực, từ sự xuất hiện những yếu tố,
hình thành những khuynh hướng đến ra đời một chủ nghĩa, ví dụ như chủ nghĩa hiện
thực phê phán, rồi mới phát triển lên một hình thức cao hơn, ví dụ như chủ
nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Trên con đường được hình dung như thế những yếu
tố chủ nghĩa hiện thực cũng phải lựa chọn thế nào đó, có những hoàn cảnh, những
điều kiện nào đó mới hình thành khuynh hướng, hình thành trào lưu chủ nghĩa văn
học. Điều đó liên quan rất nhiều đến thái độ sống, thế giới quan, quan niệm nghệ
thuật của nhà văn cũng liên quan rất nhiều đến quan niệm văn học, ý thức hệ của
từng dân tộc, từng thời đại. Phải chăng ở Việt Nam trước thời hiện đại, văn học
không có những điều kiện để các yếu tố như quan tâm đến thực tế, sự bấp bênh với
cái xấu trong đời sống xã hội phát triển thành khuynh hướng, thành trào lưu hiện
thực chủ nghĩa?
Chủ nghĩa hiện thực thuộc phạm trù mỹ học: cái đẹp được coi
là gắn bó với cái thực, phụ thuộc vào cái thực. Nhà văn gắn bó với thực tế, tìm
cảm hứng nghệ thuật ở thực tại: Coi sáng tạo nghệ thuật là dùng ngòi bút để nói
đúng thực tại. Cho nên nghệ thuật, trong ý thức người cầm bút, là nhận thức,
phát hiện và phản ánh sự thật. Thực tại có thể hình dung khái quát hay chi tiết
nhưng biện pháp là mô tả và tự sự bằng nhiều cách nhằm tái hiện đúng thực tế.
Không ý thức về nghệ thuật như vậy thì dầu có quan tâm đến thực tế, có đề cập đến
những vấn đề thực tế với cả nhiệt tình nóng bỏng, văn chương cũng không đi đến
khuynh hướng hiện thực, chưa nói đến chủ nghĩa hay trào lưu hiện thực chủ
nghĩa. Chủ nghĩa hiện thực là một hiện tượng lịch sử. Không phải nơi nào trên
thế giới – không kể trường hợp bắt chước các đại văn hào hay tham gia vào một
trào lưu thịnh hành đương đại, một hiện tượng chỉ phổ biến trong thời hiện đại
– không phải văn học của dân tộc nào cũng trải qua quá trình từ chủ nghĩa cổ điển
sang chủ nghĩa lãng mạng như ở Pháp, ở Tây Âu hay phương Tây nói chung. Và điều
đó cũng xảy ra trong thời cận hiện đại thế giới. Trước thời cận hiện đại - ở
phương Đông đến chậm, mãi đến thế kỷ XIX mới bắt đầu – văn học các dân tộc phát
triển biệt lập theo các vùng văn hóa, Việt Nam nằm trong vùng Đông Nam Á, chịu ảnh
hưởng văn hóa Hán như các nước Nhật Bản, Triều Tiên. Văn học ở đây phát triển
giống văn học Trung Quốc mà rất khác văn học phương Tây, nói chung không trải
qua quá trình như ta vừa nói.
Các nhà nghiên cứu văn học thế giới – không phải là văn học
các dân tộc mà là văn học toàn nhân loại – các nhà văn học so sánh có lý khí đi
tìm những nét tương đồng, nhưng điểm tương ứng giữa văn học các dân tộc, phát
hiện những trào lưu những trình độ có ý nghĩa chung, vượt ra khỏi các vùng văn
hóa hoặc là đồng đại hoặc là xa cách về thời gian. Nhân loại vẫn có con đường
chung và văn học nhân loại cũng có quy luật chung. Chủ nghĩa hiện thực hay ở dạng
chưa trọn vẹn các yếu tố hay khuynh hướng của nó, cũng như nhiều hiện tượng
khác có thể tìm thấy trong văn học nhiều dân tộc khác nhau. Những cái tương đồng
thường ra đời trong những điều kiện giống nhau, do những nhu cầu thực tế giống
nhau, và điều đó đặc biệt có ý nghĩa là chuẩn mực để so sánh. Cho nên
N.I.Cônrat, nhà Đông phương học lỗi lạc chủ trì công trình nghiên cứu văn học
thế giới của Liên Xô trong bài “Vấn đề chủ nghĩa hiện thực và các nền văn học
phương Đông’’ đã nói đến tình trạng sử dụng bừa bãi thuật ngữ “chủ nghĩa hiện
thực” để nói về văn học mọi dân tộc, mọi thời đại phổ biến trong các luận văn
viết ở Liên Xô những năm 40, 50. Viện sĩ Cônrat phân tích một dụng cụ thể và lịch
sử của thuật ngữ đó, sự gắn bó của nó với thực trạng văn học Pháp hay phương
Tây nói chung giữa thế kỷ XIX chứ không phải là một hiện tượng “có ý nghĩa
chung với mọi thời đại”. Chủ nghĩa hiện thực không phải chỉ là nền văn học “hướng
về thực tại”, điều mà trong văn học nhiều dân tộc , nhiều thời đại đã xuất hiện.
NJ.côn-rát dành nhiều trang để phân tích văn học thế giới đặc biệt là văn học
Nhật và văn học Trung Quốc từ thế kỷ VIII đến thế kỷ XIX và chỉ ra rằng:
“Nếu giữ thật đúng ý nghĩa lịch sử của thuật ngữ “chủ nghĩa hiện thực”, thì sự áp dụng thuật
ngữ đó vào văn học các dân tộc phương Đông chỉ có thể làm khi chúng ta tìm được
trong lịch sử các dân tộc đó những điều kiện kinh tế - xã hội giống như các điều
kiện ở phương Tây trong những nét chính và trong những khuynh hướng chủ yếu, tức
là sự định hình và phát triển của chủ nghĩa tư bản hình thành thể chế thống trị.
Rõ ràng những điều kiện như vậy chỉ có ở một mình nước Nhật Bản”
(Phương Tây và phương Đông. Nxb khoa học 1972, M; tr. 346)
Luận điểm của N.I.Cônrat nhắc chúng ta đến con đường đặc thù
của văn học dân tộc và quy luật chung của văn học thế giới, có tôn trọng nội
dung lịch sử và các thuật ngữ mới nhìn ra sự tương ứng trong sự phát triển của
văn học các dân tộc. Chủ nghĩa hiện thực liên quan chặt chẽ với con đường phát
triển văn học của các dân tộc, các vùng văn hóa, phương Đông khác phương Tây.
Nó cũng quan niệm chặt chẽ với quan niệm văn học, với ý thức hệ của dân tộc đó.
Điều đó làm cho văn học các dân tộc về sắc thái, về con đường thành đa dạng.
Đơn giản hóa cách hiểu chủ nghĩa hiện thực cũng như đơn giản hóa cách hiểu thực
tại, cách hiểu văn học đều dễ dẫn tới sai lệch, làm mất sắc thái dân tộc, sắc
thái lịch sử của tác phẩm văn học.
Kết luận bài “Vấn đề chủ nghĩa hiện thực và các nền văn học
phương Đông” cũng đáng lưu ý. Cônrat viết:
“Cũng cần đề phòng một nguy cơ nữa: đừng nên quên rằng dòng
văn học hướng một cách có ý thức vào thực tại cũng chỉ là một dòng trong văn học
thế giới. Đã tồn tại nhiều dòng khác cũng đã tồn tại của những thời kỳ mà những
thành tựu cao của thiên tài nhân loại biểu hiện ra ở chính các dòng đó, và
chính là các dòng đủ dẫn dắt nhân loại tiến lên. Coi chỉ có “văn học hiện thực
chủ nghĩa” mới đóng vai trò đó trong quá khứ cũng xa rời lịch sử cụ thể như áp
dụng trong văn học một cách không có quy định những tiêu chí còn “chủ nghĩa hiện
thực” (Phương Tây và phương Đông.
Sđd. tr.364)
I.NHÌN
LƯỚT QUA VĂN HỌC TRUNG CẬN ĐẠI VIỆT NAM
Bàn vấn
đề chủ nghĩa hiện thực trong văn học trung cận đại Việt Nam một cách chuẩn xác
là rất khó. Không những chúng ta không có cái may mắn để làm chúng ta vững tâm
là có khối lượng tài liệu phong phú, mà chúng ta phải đứng trước hiện tượng gần
giống chứ không phải là giống, là chính nó. Tác phẩm của từng người là không
nhiều, không mấy người bàn về lý luận văn học, trong lịch sử cũng chưa xảy ra
cuộc tranh luận nào để chúng ta có cơ sở phân biệt chỗ giống và gần giống đó.
Trước thực tế như vậy nếu nhìn tác giả, tác phẩm riêng rã từng mảng rất dễ nói
có lý nhưng võ đoán. Cho nên rất cần một cái nhìn toàn bộ, dầu chỉ là lướt qua
về đại thể.
Một cái nhìn toàn bộ, đại thể như vậy lâu nay chúng
ta đã có. Nhưng vì là đại thể cũng đại khái, không bao hàm nhiều cạnh khía, chứa
đựng kiến giải khác nhau. Với một cái nhìn đại khái được chấp nhận như vậy,
chúng ta rất dễ thống nhất nhưng rất khó bàn cãi khi đi vào chi tiết, khi cần
phải bàn những vấn đề tế nhị như vấn đề chủ nghĩa hiện thực. Chúng tôi muốn nêu
ra một ít khía cạnh chứa đựng kiến giải khác nhau trong cái nhìn đại thể như vậy.
1. Dân tộc ta có một nền văn học phát triển sớm. Từ
những thế kỷ XI ta đã có những tác phẩm thành văn. Từ đó không ngớt có những
tác phẩm ra đời, và đến thế kỷ thứ XV, với Nguyễn Trãi ta có thể coi là hình
thành nền văn học cổ điển, điểm phạm cho văn học dân tộc mấy thế kỷ. Văn học
thành văn ra đời sớm, văn học cổ điển hình thành sớm hiển nhiên là một nét đặc
trưng đáng lưu ý, một thực tế đáng tự hào. Nhưng để hiểu hiện tượng đó có lẽ
cũng cần lưu ý đến những đặc điểm của nó:
- Nó sớm là so sánh với các nước châu Âu và các nước
lục địa khác nhưng không phải sớm so với các nước có nền văn minh cổ đại như Ấn
Độ, Trung Hoa, Hy Lạp... cũng không phải sớm hơn so với các nước trong vùng
Đông Nam Á như Nhật Bản, Triều Tiên, những nước trong vùng chịu ảnh hưởng văn
hóa Hán.
- Trong thành phần của nền văn học đó ta thường nhấn
mạnh sự đối lập giữa văn chương bác học và văn chương bình dân. Sự đối lập hay
là sự phân biệt đó quả là rất quan trọng. Nhưng ngoài điều đó cũng cần có sự
phân biệt, sự đối lập giữa văn chương chữ Hán và văn chương chữ Nôm, giữa văn
chương cử tử và các sáng tác tự do nữa. Văn chương cử tử vốn chỉ là những bài tập
làm văn trong trường, các nhà nho ngày xưa trau dồi nó, viết đúng trường quy để
thi đỗ. Đó không phải là sáng tác văn học. Nhưng các nhà nho trước đây, kể cả
nhà đại nho bàn về văn chương, nhất là các nhà đại nho trước thế kỷ XVIII,
không có sự phân biệt giữa văn chương cử tử và sáng tác văn học, thậm chứ còn
dành cho văn chương cử tử và người viết ra nó vị trí chủ đạo khi bàn về văn
chương. Văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm không chỉ chứa đựng sự khác nhau về
ngôn ngữ văn tự mà người viết sử dụng. Khi lựa chọn chữ Hán hay quốc âm người
viết cũng cân nhắc theo nội dung đề tài và cái đẹp mà họ theo đuổi. Nhiều người
ngoại trừ Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, ít khi viết những vấn đề
nghiêm chỉnh bằng chữ nôm. Văn thơ Nôm thường viết để chơi đùa, nhưng cũng
chính vì vậy đó là những sáng tác văn học đích thực. Như thế khi bàn về văn học
trung cận đại Việt Nam có vấn đề phải xem xét cái gì được đưa vào thành phần
văn học, vị trí của các thành phần của nó. Ở đây là sự khác nhau khá lớn giữa
cách nghĩ thời đó với cách nghĩ của chúng ta ngày nay.
- Đã từ lâu nhiều người đã tự hào Việt Nam là một nước
thơ nhưng khó nói nó là một nước văn. Trong lịch sử có rất nhiều người làm thơ,
và cũng có người viết đến hàng ngàn bài. Nhưng văn xuôi thì rất ít. Văn xuôi
Nôm hầu như không có, còn văn xuôi Hán cũng không có nhiều tác phẩm. Văn xuôi
dùng để ghi chép và nghị luận, về thể loại chịu ảnh hưởng rõ rệt của cách chép
sử của Trung Quốc và cách viết các thể loại phong trào cố văn thời Đường Tống.
Cũng có các thể loại gọi là ký, là truyện nhưng không phải là những hình thức
ký hay truyện ngắn như ngày nay ta hiểu.
Những điều vừa nói tồn tại sớm và ít thay đổitrong
nhiều thế kỷ phản ánh một môi trường văn học trong đó nói lên sự khác biệt giữa
cung đình và nông thôn (chứ không phải là đô thị với nông thôn), phản ánh đời sống
văn học có hai nhân vật chủ yếu – vừa là nhân vật sáng tác vùa là công chúng –
là nhà nho và nông dân (chứ không có người nghệ sĩ tự do ở đô thị). Những điều
đó là cái làm rào văn học Việt Nam khác văn học phương Tây. Không chỉ khác văn
học phương Tây mà còn khác văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ đến nay nữa. Nhưng nếu
so với văn học vùng Đông Á cùng thời thì sự khác nhau là không lớn. Thực tế đó
chỉ vào ta hướng đến cả vùng Đông Á.
2. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa ở Việt Nam là hiện tượng
hiển nhiên, rất nhiều mặt. Từ lâu sự khống chế đó cũng làm nhiều người khó chịu,
muốn tự phân biệt, tự khẳng định. Họ cũng cố gắng đi tìm cái khác Trung Quốc để
thoát khỏi ảnh hưởng. Cố gắng đó đã đưa lại hiệu quả thường rất chậm chạp. Về mặt
văn học, ảnh hưởng Trung Quốc đặc biệt lớn mà cố gắng thoát khỏi ảnh hưởng đó
có lẽ lại yếu hơn ở những mặt khác, như chính trị chẳng hạn. Cho nên việc phân
biệt cái gì là Trung Quốc, cái gì là Việt Nam, xác định tác động của văn hóa
Trung Quốc. Tương quan giữa các mặt ảnh hưởng, để nhìn ra đặc sắc dân tộc và
con đường phát triển của dân tộc Việt Nam tự biệt dị trong vùng văn hóa Đông Á
là rất cần thiết.
Không nên giải thích ảnh hưởng Trung Hoa bằng sự áp
đặt do chỗ nước ta bị Trung Quốc đô hộ hàng ngàn năm. Ảnh hưởng đó không bị xóa
bớt mà ngược lại được tang cường trong thời kì độc lập. Chính các triều đại Lý,
Trần, Lê sau khi đánh thắng quân Tống, quân Nguyên, quân Minh đã tổ chức cách
cai trị đất nước theo mô hình Trung Quốc, tổ chức việc học hành, thi cử theo lối
Trung Quốc, sung bái Nho học và văn chương Trung Quốc. Không phải những triều đại
đầy lòng tự hào dân tộc và khí phách anh hùng không khuất phục đó thiếu tinh thần
tự chủ, độc lập. Các triều địa đó đứng trước một thực tế là cơ chế chính trị-
knh tế- xã hội của đất nước qua hàng chục thế kỷ quận huyện hóa đã hình thành
theo mô hình Trung Quốc. Muốn giữ được độc lập, họ phải lựa chọn cách hoàn chỉnh
tổ chức quận huyện bên dưới và thành lập bộ máy nhà nước thống nhất bên trên,
thay nhà nước Thiên triều trước đây. Nguy cơ xâm lược từ phương Bắc luôn luôn
đe dọa với danh nghĩa “quyền điếu phạt” của Thiên tử. Lựa chọn “đạo thánh hiền”
(Nho giáo) cũng là cách ứng phó với uy hiếp đó, chưa nói Nho giáo cũng rất
thích hợp với nhà nước tập quyền cao, với thể chế kinh tế - xã hội đã Trung Quốc
hóa. Cơ chế chính trị- xã hội cùng với ý thức hệ và cách tổ chức học hành thi cử
đã chi phối mạnh mẽ văn học. Cho nên nói văn học trung cận đại của ta là nói
văn, thơ, phú, lục. Cứ nhìn một tác giả một văn tập thời đó nếu có gì ngoài
văn, thơ, phú, lục thì cũng là rất ít và cũng chưa hẳn thoát khỏi sự ảnh hưởng
của văn học Trung Quốc. Ngô Thì Sĩ đề tựa cho thi tập của mình viết:
“Các ông Đỗ, Lý, Nguyên, Bạch, Lưu, Liễu, Âu, Tô đều là Tây Thi của các
nhà thơ, khí thơ vượt cả mây ráng, sắc thơ hơn cả gấm vóc, thoảng nhẹ không kém
gì lời giảng bút của các thần tiên, cho
nên tôi hâm mộ, muốn bắt chước, mà không tự biết là bắt chước khéo hay vụng”(Từ trong di sản …tr. 62)
Cho đến đầu thế kỷ này, khi ca ngợi văn chương Nguyễn Thượng Hiền, Phan
Bội Châu cũng viết:
Thơ kiểu Thịnh Đường, văn khuôn Tiền Hán
(Văn tế Nguyễn Thượng Hiền)
Cách ghi chép sử của Tư Mã Thiên, Ban Cố, phú đời Hán, thơ đời Đường, cổ
văn của Bát đại gia Đường Tống, và xa hơn nữa thơ văn trong Kinh Thi, văn của Luận Ngữ, Mạnh Tử đều là mẫu mực của cái đẹp văn
chương. Mấy thế kỷ các nhà văn sĩ, thi sĩ, nho sĩ của ta đều lo viết cho giống.
Bắt chước hết để viết văn, thơ, phú lục văn chương cử tử - nhưng khi viết những
bài tự do, không phải văn chương để đi thi, về thể loại chủ yếu cũng là thơ
phú, họ cũng không theo một quá trình sáng tác nào khác. Các nhà nho “làm văn”
khác với công việc mà ta ghi là “sáng tác văn học” ngày nay. Có người bắt chước
với ý thức dựa tài như Ngô Thì Sĩ
tự nói: “Tây Thi cũng không phải người trên trời”. Nhưng số đông lại là Đông
Thi, học nhăn mày, học theo cách chọn cùng đề tài, học từng câu từng chữ như
Nguyễn Văn Siêu đã chê trách:
Hoặc có kẻ chán văn chương của bọn thế tục, thì lại bỏ ngoài cái việc thân,
tâm, ngày ngày đem thơ văn Lý, Đỗ, Liễu, Hàn gượng thay lời lẽ, rồi đem ra
khoác lác cùng người: Đây là Hàn, đây là Đỗ!.
(Thư gửi bạn đọc Ngô Huy Phan. Từ trong di sản, tr. 124)
Trước thực tế đất nước như vậy, tinh thần độc lập tự
chủ biểu hiện ở nỗ lực theo kịp, ở lòng tự hào về nước văn hiến không thua kém
Trung Hoa, chứ không phải khác Trung Hoa. Lê Qúy Đôn nói: “Nước Nam ta hai triều
nhà Lý, nhà Trần ngang vào khoảng triều nhà Tống, nhà Nguyên. Lúc ấy tinh hoa
nhân tài, cốt cách văn chương không khác gì Trung Hoa” (Quần thư khảo biện .Từ trong di sản, tr. 96) .
Ngô Thì Nhậm cũng nói :
Nước Việt
ta lấy văn hiến giữ nước, thi ca thai nghén từ đời Lý, thịnh vượng ở đời Trần, dấy
lên rầm rộ ở đời Hồng Đức, đời Lê. Một bộ Toàn
Việt thi lục về cổ thể thì không nhường thi ca đời Hán, Tấn. Xét về cận thể
thì không nhường thi ca các đời Đường, Tống, Nguyên, Minh, nhả ngọc phun chân,
thật đáng gọi là một nước thơ.
(Gia và đại gia. Từ trong di sản, tr. 96)
Tôi không muốn nói một điều không mới mà cũng ít thú
vị là ảnh hưởng to lớn của văn học Trung Quốc ở ta, mà muốn nhấn mạnh điều đó ảnh
hưởng lớn đến quan niệm văn học và quan niệm về cái đẹp trong văn chương, điều
mà chúng ta cần để bàn đến chủ nghĩa hiện thực ở Việt Nam. Ngoài ra tôi cũng muốn
lưu ý thêm là trong văn học trung cận đại phát triển như vậy các nhà lý luận
cũng như các nhà sáng tác -thực ra lúc đó chưa có sự phân biệt, và hơn thế cũng
là gọi chưa thật đúng- còn coi văn, thơ, phú, lục, văn chương cử tử là chủ thể
của văn chương. Nói theo Trung Quốc, giống Trung Quốc, không thua Trung Quốc là
so sánh từng bài, từng người và nhất là trong thơ phú, trong văn chương cử tử.
Còn nhìn đại thể, nhất là tổng thể và quá trình thì lại không theo, không giống
phú bằng. Sự khác nhau này tạo ra đặc sắc cả về nghệ thuật cả về lịch sử vận động.
a. Viết theo Trung Quốc - theo cả ngôn ngữ văn tự,
theo cả thể loại, cả quan niệm văn học và mĩ học - văn học thành văn Việt Nam
hòa dòng hay đi vào quỹ đạo của một nền văn học phát triển đã lâu đời, có truyền
thống rất rực rỡ và đang phát triển trên cơ sở thực tế của dân tộc. Thời điểm
hòa dòng như thế là vào thời Tống (960-1279) ngang với thời Đinh, Lê, Lý,Trần của
ta. Lúc đó thơ Đường và cổ văn bát đại gia đã thành điển phạm, và về lý luận tư
tưởng Tống Nho đã thống trị. Việc đi theo, hòa dòng như vậy làm cho nước ta
nhanh chóng có đội ngũ người viết tương đối đông để cho ra đời văn học thành
văn. Nhưng đồng thời nó cũng làm chậm quá trình vận động tự thân tức là phát
triển từ nền văn học dân gian mà có văn học thành văn riêng .
b. Văn học Việt Nam từ đó có thể coi là phát triển
song song và bình đẳng với văn học đương đại Trung Quốc. Nhưng nhìn tổng thể
văn học Việt Nam không có thời kỳ chuẩn bị, thời kỳ mở đầu từ Xuân Thu, Chiến
Quốc cho đến Ngụy Tấn, Nam Bắc triều. Và khi đã hòa dòng nó cũng thiếu hai bộ
phận văn học tu viện và văn học đô thị.
Ở Việt Nam cũng có nhiều chùa chiền Phật giáo. Trong
văn học cũng có thơ văn các nhà sư thời Lý-Trần và có bước chuyển từ văn chương
các nhà sư sang văn chương các nhà nho vào quãng thế kỷ XIV-XV. Nhưng cả thời
thịnh đạt đó của Phật giáo không thấy để lại loại truyện kể tôn giáo, loại sân
khấu nhà chùa. Thơ văn các nhà sư Lý, Trần hình như cũng không thấm đượm một lối
mỹ học. Thiền là nền mỹ học ảnh hưởng nhiều mặt tới văn hóa Đường, Tống và tiếp
tục phát triển trong văn hóa Nhật Bản.
Trong văn học trung cận đại Việt Nam ta cũng không
thấy dấu vết của văn học kể chuyện và sân khấu mang tính đô thị cả loại trào
phùng đả kích, cả loại tình sử .
Cái mà ta học theo Trung Quốc tập trung lại ở một phạm
vi khá rõ và khá hẹp. Đưa ra ba điều vừa nói tới không có ý định dùng để so
sánh hai nền văn học mà muốn nói nền văn học hành văn bằng chữ Hán của ta học
theo một mẫu đã định hình là văn học thời Đường, Tống và không mang trong nó những
động lực để tiêp tục phát triển. Theo ý kiến của các nhà nho lớn thế kỷ XVII-
XVIII thì văn học của ta sau thời rực rỡ thời Hồng Đức, cuối thế kỷ XV, đã rơi
vào tình trạng phù hoa, hư hao tức là hình thức chủ nghĩa, đình đốn và bế tắc.
Trong sự phát triển, những giai đoạn trì trệ, bế tắc như vậy thường được giải
thoát bằng cách trở về với những vấn đề giải quyết dở dang trong quá khứ bằng
cách tiếp nhận những vấn đề đương đại của phái khác nó, chống nó. Nền văn học
thành văn của ta phát triển nhanh và cao
nhưng lại thiếu những điều kiện vừa nói , lại mất liên hệ với văn học dân gian
nên đã kéo dài sự bế tắc, không có bước phát triển như ở Trung Quốc thời Nguyên
Minh.
3. Bên cạnh xu hướng đuổi kịp để có mặt bình đẳng về
văn hiến trong văn chương chữ Hán, là một xu hướng phát triển chậm hơn: làm văn
chương quốc âm. Sử đã chép Hàn Thuyên, Nguyễn Sĩ Cố giỏi làm thơ quốc âm. Đào
Duy Anh đã tìm được trong kho sách Hán Nôm những bài phú quốc âm viết đời Trần.
Đầu đời Lê, Nguyễn Trãi đã có hơn 200 bài thơ chữ Nôm trong Quốc âm thi tập. Đó là cuộc thử nghiệm
dùng ngôn ngữ dân tộc viết các thể loại thơ phú Trung Quốc mà nghệ thuật đối với
họ đã quen thuộc khi viết bằng chữ Hán. Việc dùng quốc âm để viết thơ phú- và về
sau viết cả kinh nghĩa, văn sách tứ lục nữa – vẫn tiếp tục. Đến cuối thế kỉ
XVIII, đầu thế kỉ XIX ta mới thấy những bài thực sự có nghệ thuật cao trong loại
này. Đáng lưu ý là trong các bài có điển cố, chữ nghĩa Trung Hoa được Việt Hóa
và nhiều người cố ý sử dụng tục ngữ thay thế các điển tích Trung Quốc.
Cố gắng vượt bậc trong bước đường xây dựng văn học
là việc sáng tạo những thể loại đặc biệt dân tộc, viết bằng quốc âm. Đó là việc
định hình thể thơ song thất lục bát và dùng nó để viết ngâm khúc, chau chuốt thể
thơ lục bát và dùng nó để viết truyện Nôm, lựa lọc các điệu thức ca trù làm các
bài hát nói. Có thể coi đó là con đường tách ra ngoài ảnh hưởng Trung Quốc,
theo đuổi một cái đẹp có tính dân tộc, khác cái đẹp của thơ phú. Tiền đề của sự
đổi thay lớn đó phải là những cảm hứng mới trước các vấn đề của thực tế, thực tế
dân tộc. Nếu không cảm nhận sâu sắc những nỗi thống khổ của chiến tranh cuả cảnh
tài sắc bị chà đạp thì đã không có Chinh
phụ ngâm, Cung oán và Truyện Kiều,
không có hát nói của Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát. Những sáng tạo nghệ thuật
vừa kể có lẽ đã có một quá trình chuẩn bị từ lâu trong ca dao, dân ca và trong
thể thơ thất ngôn xen 6 chữ của Nguyễn Trái, Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhưng càng
không thể nói những sáng tạo đó ra đời để đối lập, để chống lại văn chương
đương đại hay văn chương Trung Quốc. Đặng Trần Côn, các dịch giả Chinh phụ ngâm và Nguyễn Gia Thiều cũng
đã tìm thấy thực tế mình muốn nói trong thơ biên
tái, trong thơ cung oán mà họ sử
dụng ý tứ khá rộng rãi. Không phải ngẫu nhiên mà một loạt các chuyện tài tử- loại
truyện đô thị sau thời Đường Tống như: Hoa
Tiên, Phan Trần, Kim Vân Kiều được dịch ra quốc âm. Một lớp nghệ sĩ ra đời
làm công việc sáng tác văn học, nhưng họ vẫn chưa ra khỏi môi trường văn học
cũ, chưa được cuộc sống đô thị tiếp xúc, cho nên về quan niệm văn học, về tư tưởng
thẩm mĩ họ cũng chưa có ý xa lìa quan niệm cũ của văn chương chữ Hán. Trong
sáng tác của các nhà Nho, từ đó bên cạnh văn thơ phú lục nhiều người còn trổ
tài viết song thất, lục bát, hát nói. Nhưng đối với bản thân những người đó,
văn thơ Nôm cũng chỉ là phần phụ, phần có ý nghĩa mua vui. Những người có tâm
huyết muốn đánh giá gia tài văn học đất nước từ Lê Quý Đôn, Ngô Thì Nhậm, Phạm
Đình Hổ cho đến những người khác ở thế kỉ XIX cũng chưa ghi nhận những sáng tác
ngâm khúc, truyện Nôm, hát nói như những công tích đột xuất, như những thay đổi
trên con đường phát triển của văn học.
Các thể loại mới được cộng vào hệ thống thể loại cũ.
Nhưng quan niệm văn học và tư tưởng thẩm mĩ cũ không vì vậy mà bị thay đổi, phủ
định. Tình hình song hành như thế còn tiếp tục cho đến hết thế kỉ XIX.
4. Trong lịch sử văn học ta thay
đổi lớn lao nhất là sự ra đời của thơ, kịch, tiểu thuyết cùng loại với thơ kịch
tiểu thuyết phương Tây. Việc đó xảy ra vào những năm 20,30 của thế kỉ này. Đó
là hiện tượng có quan hệ với thời Pháp thuộc, đến ảnh hưởng của văn học phương
Tây. Đến đây mới xảy ra sự thay đổi căn bản cả về quan niệm văn học, cả về hệ
thống thể loại và tất nhiên là cả quan niệm về cái đẹp, điều đó có liên quan trực
tiếp tới đề tài ta đang bàn. Thế nhưng đây là chuyện của thời hiện đại, không
thuộc phạm vi của chương này.
Ở đây tôi chỉ muốn lưu ý bước ngoặt
mà ta chứng kiến trong văn học Việt Nam đầu thế kỉ là sự chuyển hướng từ ảnh hưởng
Trung Quốc sang ảnh hưởng Pháp, đúng hơn là của văn học vùng Đông Á vào quỹ đạo
chung của văn học thế giới hiện đại. Đây là một hiện tượng chung của văn học cả
vùng. Ở ta do hoàn cảnh thực tế nên môi giới là văn học Pháp. Việc dạy chữ Pháp
và văn học Pháp trong nhà trường cũng giống như dạy chữ Hán và thực hiện chế độ
khoa cử trước đây, có tác động rất quyết định tới chiều hướng phát triển lúc
đó. Nền giáo dục trong các nhà trường Pháp- Việt đã tạo ra những thanh niên Tây
học thay vai trò xã hội của các nhà nho trước đây, và thực tế đất nước với sự
hình thành các đô thị, các tầng lớp thị dân và đời sống tư sản đã làm xuất hiện
trong họ những văn nghệ sĩ kiểu hiện đại. Mẫu mực của họ không còn là Lý, Đỗ,
Hàn, Liễu, Âu, Tô... mà đã là Đôđê (dauget), Môpátxăng (Maupassant), Huygô
(Hugo), Muytxê (Musset), Vesclen (Verlaine), Bôđơle (Baudelaire)... đều đã làm
cho Hoài Thanh cảm thấy khó chịu “mỗi nhà thơ Việt Nam hình như mang nặng trên
đầu năm bảy nhà thơ Pháp” (Thi nhân Việt Nam trang 38). Áp lực đó cũng trải qua
một quá trình làm giảm nhẹ và giải thoát. Một trong những khuynh hướng biểu hiện
quá trình đó là trở về với truyền thống, tức là văn học trung cận đại.
Nghiên cức chủ nghĩa hiện thực
trong văn học trung cận đại ta có thể tìm hiểu nó trong sáng tác và lý luận của
thời kỳ đó mà cũng cần thấy cả con đường vận động phát triển của nó sang văn học
hiện đại nữa.
II. HƯỚNG VÀO THỰC
TẠI BẰNG TÂM TRÍ KHÔNG DẮT VĂN HỌC ĐẾN CON ĐƯỜNG HIỆN THỰC
1. Từ Lý Tử Tấn , Phan Phu Tiên ở thế kỷ XV đến Lê
Qúy Đôn, Phan Đình Hổ, Bùi Huy Bính thế kỷ XVIII, Nguyễn Văn Siêu, Nhữ Bá Sĩ thế
kỷ XIX, các bậc đại nho quan tâm đến việc
tổng kết đánh giá văn học trung cận đại
của ta hầu như là khá nhất trí. Tôi nói đại nho mà không dùng chữ nhà lý luận,
nhà phê bình, nhà lịch sử văn học vì với những người thừa kế và nói chung là về
thời đó, người ta viết văn bàn về văn chương mà không nghĩ là mình làm công việc sáng tạo hay lý luận phê bình. Người ta nhận
xét, đánh giá mà không tách mình thành người văn sĩ, nhà học thuật, nhà tư tưởng.
Trong Cuộc nói chuyện ở Kim Hoa (Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ viết:
“Thơ của
người xưa lấy hùng hồn làm gốc, bình đẳng làm khéo, câu tuy ngắn nhưng ý thì
dài, lời tuy gần nhưng người lại xa. Thơ người đời nay lại khác: hễ không có giọng
đong đưa , tất có giọng mai mỉa; làm phú Cao Đường thì bôi xấu thân nữ; làm ca
Thất tịnh thì nói mỉa trời cao; bày truyện đặt điều, không còn cách nào mà tệ
hơn nữa.
Thơ ông
Chuyết Am kỳ lạ mà tiêu dao; thơ ông Vu Liêu mạnh mẽ mà kích động; thơ ông Tùng
Xuyên như chàng trai xông trận, có vẻ sấn sổ; thơ ông Cúc Pha như cô gái chơi
xuân có vẻ mềm yếu đến như ông Đỗ ở Kim Hoa ông Trần ở Ngoại Tài ông
Đàm ở ông Mặc, ông Vũ ở Đường An, không phải không ngang dọc tung hoành nhưng cầu
lấy lời chín lẽ đạt, khiến cho làng phong nhã phải phục thì duy chỉ những bài đầy
lời trung ái của Nguyễn Ức Trai, lòng lúc nào cũng nghĩ đến vua, có thể chen
vào môn hộ của Đỗ Thiếu Lăng. Còn đến giọng thơ biến hóa được khói mây, lời thơ
quan hệ đến phong giáo, thì lão phu đây (Sái Thuận) cũng chẳng kém thua mấy.”
Trong Cổ
kim khoa thi thông khảo, Vũ Khâm Lân khoa văn khen văn chương Mạc Đĩnh Chi,
Nguyễn Trung Ngạn, Đỗ Nhuận… Trong bài tựa tập Tinh xà kỷ hành khen văn
chương đời Trần, đời Hồng Đức, văn chương Sái Thuận và Nguyễn Bỉnh Khiêm là
“văn chương giúp đời”, khen văn chương Phan Huy Ích là “gấm thêu lả lướt văn
thêu mà không khô cứng” tức là vừa đẹp vừa hữu dụng. Trong một bài khác, bài Viết
cho ông em thứ hai nói chuyện về văn, Ngô Thời Nhậm nói: “Văn chương của Thạch
Động (Phạm Nguyễn Du) như thuyền không lái, ngựa bất kham. Khí phách sắc sảo, lời
lẽ hùng hồn, nhưng không có cốt cách vững chắc. “Cái bác tạp”, “con đường Thiền
Trang” trong văn chương Thạch Động và học trò Trần Tử (Trần Danh Án?) sẽ “đem
thuật Lão Tử đứng vào chỗ thời nghĩa của Khổng Mạnh và danh lý của Trình Chu.
Thiên hạ mắc vạ không nhỏ” (Từ trong di sản, tr.70).
Tất cả những người trên đều nhất trí coi trọng lịch
sử văn học của ta văn chương thời Lý - Trần đến đời đầu Lê là văn chương có giá
trị cao, còn văn chương từ thời Trung Hưng nhất là đời Lê mạt - tức là trọn vẹn
hai thế kỷ XVII - XVIII - thì thấp kém. Văn thời Trung Hưng “thể văn ngày càng
thấp kém, lời văn thì rất đỗi vụng về”, thế nhưng cũng còn hơn văn chương thời
Lê mạt “đua nhau theo đòi các ngọn của từ chương, tỉa tách chạm trổ, hết mực xa
hoa; cỏ biếc trăng non thực là tinh xảo. Nhưng tìm nó xem có điều gì quan hệ tới
quốc tế dân sinh, thì tuyệt nhiên vắng bóng. Lề thói thì ưa chuộng lả lướt, dần
dần đi tới mất nước, mà kẻ sĩ chuộng nghĩa từ tiết (...) cũng chẳng thấy nhiều”
(Vũ Khâm Lân, Từ trong di sản, tr.
61). Họ đều chống lại thứ văn chương phù hoa, trống rỗng, do cái học khoa cử,
nhất là do lối văn bát cổ, đưa lại và thiết tha mong muốn cổ xúy cho một nền
văn học trong sáng và chân thực. Họ đều quan niệm văn chương có quan hệ lớn với
vận mệnh đất nước. Trong Lữ trung tạp
thuyết, Bùi Huy Bích viết:
“Văn tự buổi Quốc sơ tạm có sức mạnh, đó là lúc thế
nước cũng mạnh. Đến thời Hồng Đức tuy gọi là cực thịnh nhưng lúc đó văn tự ưa
chuộng thanh lệ, sau đó thì hoàn toàn mềm yếu, đó là lúc thế nước đã dần dần
suy vi. Sau thời Trung Hưng thì quê kệch, thời gần đây thì hư hao và dần dần đi
tới khinh bạc. Bởi vì văn chương ăn nhập với thế nước, tục dân là như vậy, cho
nên chính sự có phồn giảm, nhân tài có thịnh suy, cho đến nét chữ viết thế kia
thế nọ, đồ dùng có cái giống cái không, đều cũng có thể từ đó mà suy tưởng được”
(Từ trong di sản, tr. 107). Trong
cách hình dung của họ không có sự phân biệt văn chương cử tử với các sáng tác tự
do, và nói chung là tập trung sự chú ý khá nhiều vào thơ phú, cổ văn. Văn
chương có quan hệ với thế nước tục dân, có tác dụng giúp đời và như Ngô Thời Nhậm
nói: “biết nắm lấy cái thực làm cốt tử, rồi dùng đẹp đẽ trang sức thêm.” (Từ trong di sản, tr.76) thì chắc chắn là
hướng vào thực tại nhưng “thực” là thế nào? Thực tại là gì? Nắm lấy cái thực,
hướng về thực tại đã phải là có khuynh hướng hiện thực (résaliate) chưa?
2. Cũng nên theo lời khuyên của N.I.Cônrat xác định
trước những yếu tố làn tiêu chí cho thuật ngữ “chủ nghĩa hiện thực”, giữ vững
tính lịch sự cụ thể của nội dung thuật ngữ để bớt việc, tôi xin trích dịch một
đoạn cũ của N.I.Cônrat về vấn đề đó:
“Để xác định những yếu tố như vậy tiện nhất là bắt đầu
bằng sự so sánh chủ nghĩa hiện thực giữa thế kỉ XIX ở Pháp với văn học chủ
nghĩa lãng mạn Pháp, đi trước và trong một thời gian cùng tồn tại với chủ nghĩa
hiện thực. Sự hình thành chủ nghĩa hiện thực về mặt là một phương pháp sáng
tác, trong nhiều mặt quan hệ phát sinh trên cơ sở phủ định những nguyên tắc
sáng tác của chủ nghĩa lãng mạn. Trong việc phản ánh thực tại bằng nghệ thuật,
chủ nghĩa hiện thực bác bỏ cung cách tiếp cận thực tại từ những khái niệm từ sự
trừu tượng hóa, là những nét rất đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn; đồng thời chủ
nghĩa hiện thực đòi hỏi nhà văn phải xuất phát trực tiếp từ thực tại. Trong việc
phản ánh thiên nhiên, chủ nghĩa hiện thực bác bỏ nguyên tắc hòa mình vào thiên
nhiên, dấn mình vào những bí mật và vẻ đẹp của nó. Nhà văn hiện thực muốn mình
là người quan sát tự nhiên, chăm chú, muốn phát hiện những bí mật và vẻ đẹp của
nó. Tác giả lãng mạn muốn tự thể hiện trong tác phẩm còn tác giả hiện thực muốn
làm khách quan. Ở giai đoạn cuối của trào lưu hiện thực, Phlôbe biểu hiện tư tưởng
đó dưới hình thức cường điệu. Ông nói người nghệ sĩ phải tự giấu mình cho đến mức
thuyết phục được cả hậu thế rằng anh ta nói chung không hề tồn tại. Khai thác
những đề tài đồng đại, nhà văn lãng mạn tìm những cái lạ kì, những cái tiềm ẩn
trong thực tại đương đại và dựa vào đó bộc lộ những lý tưởng, những thế giới nội
tâm của mình. Ngược lại, nhà văn hiện thực tìm cái điển hình trong sự đa dạng của
thực tại đương đại và cố gắng trên cơ sở đó sáng tạo ra điển hình cho mỗi hiện
tượng. Bà Bôvary đã trở thành một điển hình như thế cho người vợ, người đàn bà
trong gia đình tư sản nhỏ ở Pháp vào giữa thế kỷ XIX”.
Có thể nói ngay trong văn học Việt Nam trung cận đại
đã không có một phong trào văn học hiện thực chủ nghĩa như vậy. Một trào lưu
văn học như vậy chỉ có sau văn học giữa thế kỷ XIX ở Pháp, khi có trong thực tế
hiện tượng chủ nghĩa tư bản định hình thành thể chế thống trị. Ở nước ta từ thế
kỷ X đến thế kỷ XIX chưa có những điều kiện xã hội đó. Hơn thế nữa nền văn học
gồm thơ, phú và các thể loại cổ văn còn thông dụng ở ta cho đến cuối thể kỷ
XIX, thậm chí đầu thế kỷ XX, hầu như không thể đi đôi được với một chủ nghĩa hiện
thực theo kiểu đó. Tất nhiên cũng có thể nghĩa đến một chủ nghĩa hiện thực khác
– một chủ nghĩa hiện thực phương Đông chẳng hạn. Nhưng đã là chủ nghĩa hiện thực
về phương pháp sáng tác, về mỹ học thì cũng chỉ có thể chấp nhận với những điều
kiện:
- Ý thức về một thực tại rộng lớn trong đó xã hội và
con người chiếm ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
- Thực tại (tự nhiên và xã hội) ở ngoài mình và
không tùy thuộc vào mình. Nó phức tạp đa dạng. Nhà văn đối trí với nó, quan
sát, tìm tòi trong nó để nhận thức nó.
- Ý đồ của người viết là phát hiện, nói đúng sự thực.
Điểm quyết định là để hiện thực chủ nghĩa chính là chủ nghĩa khách quan và theo
tôi thì là thơ, phú, cổ văn từ trong phương pháp sáng tác, từ trong đòi hỏi mỹ
học của nó không đáp ứng điều kiện đó.
Bàn riêng thơ, phú và cổ văn (các loại văn, ký, tự,
luận, thư, truyện…) mà không phân biệt chữ Hán chữ Nôm, không phân chia ra các
thời kỳ, chúng tôi dựa vào hai cơ sở:
- Tình hình phát triển văn học Việt Nam trung cận đại
như đã trình bày ở phần 1.
- Các bậc đại nho của ta khi bàn về
văn chương đều coi đó là phần quan trọng nhất làm đối tượng cho họ bàn bạc. Với
thành phần văn học như vậy họ không tách văn chương cử tử khỏi những sáng tác tự
do khi họ bàn về “văn khí”, “văn vận”. Ngoài ra họ cũng tính cả loại chiếu, biểu,
thơ cung đình khi nói đến văn giúp đời… Nhưng trong văn chương họ không tính đến
loại truyện Nôm, ngâm khúc và hát nói mà ta sẽ nói riêng. Trong quan niệm văn học
trước đây, tiểu thuyết và kịch không được coi là văn học.
Đưa thơ, phú và cổ văn ra bàn luận
riêng như vậy để thấy rõ hơn tiến trình phát triển văn học và dễ phối hợp cả
hai mặt nghiên cứu lý luận và nghiên cứu tác phẩm.
Mười thế kỷ thơ phú của ta đáng để
ta tự hào là phong phú. Các nhà sư thời Lý – Trần, các nhà nho từ cuối đời Trần
đến đầu thế kỷ XX, vua quan hay sỹ phu đều làm thơ. Thơ là để nói chí, để gửi gắm
tâm tình. Phú được viết ra chắc không phải là ít, nhưng số viết tự do, có ý
nghĩa sáng tác thì không phải thật nhiều. Phú là để tả cảnh, thường là thích dụng
cho việc mô tả những cảnh rộng lớn, hùng tráng. Cổ văn là những thể loại bút ký
phiếm luận, viết tự do không có luật lệ nào ràng buộc. Ở ta thể loại đó không
được viết bằng văn Nôm mà viết bằng chữ Hán cũng tương đối chậm và ít, mặc dầu
Bát đại gia Đường – Tống, những người sáng tạo thể loại và bậc thầy cổ văn, vẫn
được mọi người nhắc nhở luôn luôn như những mẫu mực về văn chương. Nhiều nhất
trong văn tập, thi tập của ta là thơ.
Làm bài tựa cho Bạch Vân am thi tập của mình, Nguyễn Bỉnh
Khiêm viết:
“Ôi nói tâm là nói về cái chỗ mà chỉ đạt tới vậy;
mà thơ lại là để nói chí. Có kẻ chí để ở đạo đức, có kẻ chí để ở công danh, có
kẻ chí để ở sự nhàn giật. Tôi lúc nhỏ chịu sự dạy dỗ của gia đình, lớn lên bước
vào giới sỹ phu, lúc về già chỉ thích nhàn dật, lấy cảnh núi non sông nước làm
vui, rất là vụng về trong nghề thơ. Tuy nhiên cái bệnh yêu thơ lâu ngày tích lại
chưa chữa được khỏi vậy. Mỗi khi được thư thả lại cứ hứng mà ngâm vịnh, hoặc là
ca tụng vẻ đẹp đê mê của sơn thủy, hoặc là tô vẽ nét thanh tú của hoa trúc, hoặc
là tức cảnh mà ngụ ý, hoặc là tức sự mà tự thuật, thảy thảy đều ghi lại thành
thơ nói về chí.”.
(Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, Đinh Gia Khánh dịch.)
Bàn về chuyện làm thơ, Lê Quý Đôn
nhấn mạnh ba điều chính: “Một là tình, hai là cảnh, ba là sự. Trong lòng có cảm
xúc thực sự, rung cảm nên lời. Thực tế bên ngoài gây thành ý, rồi dùng điển
tích để nói việc ngày nay, chép việc xưa hay thuật chuyện hiện tại, đều tự
nhiên có tinh thần… Tình là tình người, cảnh là tự nhiên, sự là hợp nhất cả trời
và đất. Lấy tình than cảnh, lấy cảnh hội việc (sự), gặp sự thì nói ra lời. Như
vậy cảnh không hẹn đến mà tự đến, nó không mong hay mà tự hay, cứ như thế có thể
trở thành người làm được thơ tao nhã.” (Vân
đoài loại ngữ. Từ trong di sản, tr.93). Ở đây Lê Quý Đôn đã nói đến thực tại
và các quan hệ với thực tại trong sáng tác văn học. Theo cách hiểu từ xưa, thế
giới bên ngoài gồm các vật. Đối với người, một vật hay nhiều vật trở thành cảnh,
tương đương với ngoại giới. Vật tác động với nhau trong thời gian gây thành sự.
Cái quan trọng của “sự” là xảy ra có đầu có cuối. Đối với người, sự cũng là cảnh,
ngoại giới. Người làm thơ hay làm văn tiếp xúc với cảnh mà nảy ra tình. Tình là
cái ở bên trong của người sáng tác. Tình có quan hệ quyết định tới thơ, nhưng
tình do đâu? Cảnh ở bên ngoài và tình ở bên trong tác động lẫn nhau thế nào để
thành thơ? Lê Quý Đôn nhấn mạnh cái ở bên trong: trong lòng có cảm xúc thật sự,
từ đó mới lấy tình than cảnh, tức là nói cái có ở trong lòng mình hay là mình bắt
gặp cái muốn nói ở trong tự nhiên. Ngô Thế Lân diễn tả quan hệ đó thành quan hệ
giữa gió và trúc:
“Gió là cái không có chất mà có
hơi. Trúc là vật có chất mà không có ruột (tâm). Cho nên trúc nhờ gió mà có tiếng,
gió nhờ trúc mà thành vết. Gió đến thì trúc kêu, gió qua thì trúc lặng, gió to
thì kêu to, gió nhỏ thì kêu nhỏ. Thế thì tiếng kêu lại là gió, chứ không tại
trúc. Trúc vốn là hư không vậy… Thực thì tiếng phát ra nhã hay tục, xấu hay tốt
chẳng việc gì đến trúc”.
Ngô Thế Lân không chủ động tìm cái
gặp nhau giữa tình và cảnh như Lê Quý Đôn mà lại nhấn mạnh cái vô tâm, vô ý, hiểu
theo tinh thần Lão – Trang của người viết. Sáng tác đó là một cảm hứng rất ngẫu
nhiên. Ngô Dương Hào, người tự cho là hiểu rõ Ngô Thế Lân nói thêm trong bài tựa
Phong trúc tập: “Trúc không có ý
nghĩa với gió, nhưng gió đến thì trúc động mà sinh ra tiếng; lòng người ta
không chứa cảnh vật, nhưng tiếp xúc với cảnh vật, lòng người cảm xúc mà thành
thơ. Gió đi thì trúc lặng, việc đi thì lòng trống không” (Từ trong di sản, tr. 51). Cả
ba người đều đề cập đến thực tại – nhìn theo góc độ là cảnh đối trí với lòng –
đến quan hệ giữa nghệ sỹ - với thực tại, đến vấn đề chủ quan và khách quan. Ngô
Thế Lân đã không theo cách của Lê Quý Đôn xuất phát từ cảm xúc có trước trong
lòng, tức là hữu tâm, hữu ý, như thế là khách quan, không ép thực tại vào cảm
xúc, ý nghĩ của mình. Nhưng thực tại khách quan cũng chỉ là một làn gió không
có chất, nhờ có trúc mới để lại dấu vết – tức sự hiện diện. Cũng không nên suy
diễn quá nhiều, nói những cái chưa chắc tác giả đã ghi đến. Cũng như Nguyễn
Quýnh đã nói: “Người như sông như biển, chữ như nước, hứng như gió. Gió thổi tới
sông biển cho nên nước lay động làm thành gợn, thành song, thành ba đào. Hứng
chạm vào người ta cho nên chữ nổi dậy, không thể nín được mà sinh ra ở trong
lòng, ngâm vịnh ở ngoài miệng, viết nên ở bút nghiên giấy mực.” (Từ trong di sản, tr.103). Cảm hứng là sự
gặp gỡ giữa chủ thể và khách thể. Có chủ trương khách quan như Ngô Thế Lân thì
với sự gặp gỡ ngẫu nhiên như vậy, thì thực tại vẫn không phải là cái thi nhân
quan tâm, quan sát và tìm hiểu. Cho nên thơ phú ngày xưa đều được viết dưới dạng
thuật hứng, tức sự, cảm hoài trong đó tình và cảnh kết hợp chặt chẽ với nhau.
Người viết, như Nguyễn Bỉnh Khiêm nói: “hoặc là tức cảnh mà ngụ ý, hoặc là tức
sự mà tự thuật” rất quan tâm đến việc nói về mình, nói ý mình. Còn người đọc
cũng quan tâm trước hết cái “tâm” của tác giả, hơn là phần cảnh mà tác giả nói
tới. Ngay cả Ngô Thế Lân nói về thực trạng xã hội Đàng Trong, trong bài Hữu cảm cũng viết:
Phong trần cực mục hắc man
man,
Hồ lập, lang bôn thủy thạch
gian.
Vũ hịch nhật văn chinh tướng
bắc,
Ngư thư bất kiến bại quân
hoàn.
Nhứ cần hữu khách đồ huy lệ,
Thực nhục hà nhân vị giải
nhan?
Để sự lý sương toàn bất hội,
Khả liên nhất phiến cẩm
giang sơn.
Dịch nghĩa:
Gió bụi xa trông một màu đen mịt mùng,
Cáo nhảy, sói ngồi giữa khe núi.
Hàng ngàn hịch lông chim đưa tin các tướng đi đánh
phía Bắc,
Mà không thấy việc thư cá báo việc rút quân về.
Trong đám người ăn rau còn có người gạt lệ,
Bọn ăn thịt có ai là người biết đến điều ấy không?
Cái việc dậm lên sương (mà thấy trước mùa rét đến)
không ai biết cho,
Đáng thương cho mảnh non sơn gấm vóc.
Bài thơ nói khá rõ thực trạng nguy khốn của xã hội nhưng tác
giả vẫn dùng dấu đề Hữu cảm, có cảm
xúc, và nổi lên trong toàn bài là tấm lòng xót xa của người tác giả chứ không
phải thực tại dẫu là chi tiết hay đại thể. Ngô Thế Lân quả thật đã không né
tránh, không run sợ khi nói thực tại như trong bải Tự thuật ông đã nói. Nhưng khi viết về một sự kiện rất nhỏ, rất cụ
thể là chim lợn kêu, ông viết:
Ô hô kỳ tai! Trư điều đề
Ngũ canh minh phê, phong thê
thê
Thái Sơn khuynh đồi, bạch nhật
âm,
Bình địa ba khởi, hắc vân
mê.
Hồng nhạn bi ninh, tân lâm tầu,
Sài lang hoành hành, dương lộ
khê.
Triều dã thôn thanh bất cảm
thuyết,
Ô hô kỳ tai! Trư điểu đề.
Dịch nghĩa :
Than ôi, lạ thay! Chim lợn kêu,
Năm canh kêu sủa, gió thổi hun hút,
Thái Sơn nghiêng đổ, ban ngày tối mò,
Đất bằng nổi sóng, mây đen mịt mùng,
Chim hồng nhạn kêu thương, bay tản mác trong bụi rừng,
Sói beo hoành hành ngay giữa đường khe.
Trong triều ngoài nội ai cũng nín hơi không dám nói.
Than ôi, lạ thay! Chim lợn kêu.
Tác giả đã nói đúng chỗ đen tối, bức xúc của thực trạng xã hội
và gây được cảm xúc kinh hoàng cho người đọc. Nhưng thực trạng đó được tiếp cận
từ những ý niệm, từ sự trừu tượng hóa chứ không chứa đựng những chi tiết do
quan sát. Chim lợn kêu chỉ là một biểu tượng để nói thực tại, để nói cảm xúc của
tác giả. Những hình ảnh “Thái Sơn khuynh đối”, “bình địa ba khởi”, “hồng nhạn bi
minh”, “sài lang hoành hành” làm cho bài thơ xa phương pháp sáng tác hiện thực.
Đối với văn học trung cận đại không chỉ có đối trí giữa tình
và cảnh, làm cho thơ phú thành những bức tranh phong cảnh mà cũng thành những bầu
tâm sự. Giữa tình và cảnh còn có vai trò của “tâm” và “chí”. Văn có quan hệ với
tâm và chí chứ không quan hệ chỉ với tình. Nguyễn Bỉnh Khiêm nói “nói tâm là
nói vào cái chỗ mà chỉ đạt tới, mà thơ lại là để nói chí”. Phùng Khắc Khoan đặt
tên cho thi tập của mình là Ngôn chí. Cả
hai ông và nhiều người khác đời sau cũng chỉ nhắc lại một quan niệm về thơ ca
được nói đến trong Kinh Thư, Kinh Lễ. Ngô
Thì Nhậm nói: “Ở trong lòng là chí, nói ra lời là thơ”. Lại nói: “Khóe cười
tươi, ánh mắt đẹp, nhưng phong thái sáng láng, chung quy vẫn bắt nguồn từ nền
trắng. Lời văn óng ả, câu văn mượt mà, song chỗ thần diệu là cốt ở tấm lòng
(tâm), để hiểu lòng (tâm) mà thôi.” (Từ
trong di sản, tr. 74). Theo cách hiểu ngày xưa tâm không chỉ là quả tim, là
tình cảm. Tâm có khi cũng còn gọi là tính hay tính tình. Còn chí là như cách
nói của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan hay cách nói của Nguyễn Cư Trinh “Để
trong lòng là chí, ngụ ra ý là thơ” (tr. 47) thì phải là nguyện ước, lý tưởng sống,
là tư tưởng nhà thơ. Tâm chi phối tình và thành cái máy lọc đối với cảnh. Tâm ở
trong một con người nhưng lại là dấu nối giữa người và Trời, giữa người và Đạo.
Cao Bá Quát nói: “Bàn về thơ, tuy phải chú trọng về quy cách nhưng làm thơ phải
gốc ở tính tình.” (tr.152). Văn thơ từ trong tâm mà ra, đến như Ngô Thời Nhậm
nói: “Mây gió, cỏ hoa xinh tươi kỳ diệu đến đâu, hết thảy cũng đều từ trong
lòng nảy ra, gửi vào sự vật mà hiện lên ở ngôn ngữ” (tr.74). Mọi vẻ đẹp của văn
chương đã được chuẩn bị sẵn từ tâm của người viết: “Cũng như trong mình sẵn nhạc
Thiều, gặp đám liền tưng bừng tấu khúc; cũng như tay cầm hoa đẹp, đến đâu cũng
reo rắc cảnh xuân.” (Lê Hữu Kiều, Từ
trong di sản, tr. 56). Đến đây ta có thể bàn về cái Chân – một phạm trù mỹ
học theo cách nghĩ của các nhà nho ấy cũng tức là điểm mấu chốt để bàn vấn đề
chủ nghĩa hiện thực trong văn học trung cận đại.
Hầu như tất cả những “nhà lý luận” vừa kể đều nhấn mạnh văn
chương “chân” phải “thực” hay như Ngô Thì Nhậm là “nắm lấy cái thực làm cốt tử”.
Trong tình hình cả nước theo đòi khoa cử “học từ chương cấu công lợi” nhất
nhanh những lời cũ, chắp và thêm bớt, tỉa tót chạm trổ chữ nghĩa cho hoa mỹ, hoặc
muốn người khác thì “phá câu cú cho là hay, trích lời quê cho là lạ, chi hồ giả
dã cho là thanh” (Từ trong di sản, tr.60) tức là chỉ chú trọng ở lời,
thì chủ trương giữ cái thực, cái chân chính là để uốn cái xu hướng “hư phù lả
lướt” đó. Cho nên trong bài bàn thơ với Phan Huy Ích, Ngô Thời Nhậm mới viết:
“Thơ mà quá cầu kỳ thì sa vào giả dối, quá trau chuốt thì sa vào xảo trá, hoang
lương hiu hắt thì phần nhiều sa vào buồn bã. Chỉ có thuần hậu, giản dị, thẳng
thắn không giả dối, không xảo trá, không buồn bã mà rốt cuộc chú trọng đến sự
ngăn chặn điều xấu, bảo tồn điều hay, mới là những đặc sắc chính của thơ.” (Từ trong di sản, tr.74). Giả dối, xảo
trá là trái với chân, với thực. Thực cũng chính là thuần hậu, hồn nhiên, tự
nhiên. Nguyễn Cư Trinh nói: “Người làm thơ không lấy trung hậu làm gốc, ý nghĩa
phải hàm súc, lời thơ phải giản dị. Còn việc tô điểm cho đẹp đẽ, trau dồi cho
khéo léo lạ lùng thì chỉ nên đặt ngoài sáu nghĩa, coi là việc thừa của năm mối,
làm thêm mà thôi” (Từ trong di sản,
tr.47). Khi đối trí lời và ý, văn và tâm, cái thực mà họ nói chính là sự trung
thực với tâm chứ không phải thực với cảnh. Những đòi hỏi bình đạm, giản dị, tự
nhiên chính là để tránh cái tệ “Lời càng khéo thì càng mất điều chân thực (chân
ý). Ý càng kỳ thì càng rơi xuống hư hao (sức) (Nguyễn Văn Siêu, Từ trong di sản, tr.129).
Trong Nam Sơn tùng thoại
của Nguyễn Đức Đạt có một đoạn viết: “Có người hỏi: “Văn quý ở chỗ nào?”. Ông
trả lời: “Quý ở tự nhiên. Hoa mùa xuân chẳng gấm lụa nào sánh kịp, chín vực sâu
không sự đào khoét nào so bì”. Hỏi: “Nó như thế là như thế liệu có thể học được
chăng?”. Ông trả lời: “Lý thấu suốt thì văn kỳ lạ, tu dưỡng sâu thì văn mênh
mông. Cây không vun gốc, suối không khơi nguồn, còn văn làm sao!’’.
Cũng là chân thực tự nhiên như chính nó sinh ra là như thế.
Câu nói của Nguyễn Đức Đạt làm ta nghĩ đến ý của Nguyễn Văn Siêu về áng văn
chương của Tạo hóa. Ông nói: “Bọn người đi tìm cái hay ở thơ văn, khi tới rồi
cũng chỉ như vậy, mà thơ văn chưa hẳn hay. Còn bọn người không đi tìm cái hay ở
thơ văn, đã tới thì không thể lường được mà thơ văn chưa hẳn là không hay. Ta
hãy đem việc này so sánh với việc trồng cây. Một bên thì mở rộng cho hàng trăm
mẫu ruộng, tưới cho cây bằng nước sông Giang, sông Hoài, mong cho thân cây cao
hàng trăm trượng, sương gió tôi luyện cho cành của nó cành to gốc lớn, mặc ý
vươn ra bốn mặt. Cho nên nó xanh tươi màu mỡ biết bao. Rõ là một áng văn chương
cuả Tạo hóa! Một bên thì thả cho cây một nửa sọt đất, tưới cho cây bằng nước
vũng nước khe. Mong cho thân cây cao vừa gang tấc, hôm nay uốn éo, trăm vẻ đổi
thay, tuy tạm đủ giúp cho ngắm nghía, nhưng sinh ý nào khỏi héo khô. Bởi vì tô
sức bên ngoài thì bên trong tàn tạ; vun đắp ở bên ngoài thì bên ngoài tốt tươi.
Thế gọi là cái lớn thì đủ sức bao dung cái nhỏ; mà cái nhỏ không đủ sức nâng đỡ
cái lớn.” (Thư gửi Quảng Đông du tử Liên
Luân Anh, tr.130).
Nguyễn Văn Siêu và Nguyễn Đức Đạt dường như muốn nói đến một
thứ văn chương đích thực, văn chương của những người không muốn làm văn, không
đi tìm cái hay của từ chương, nhưng văn chương của họ không phải vì thế mà
không hay. Như thế trước hết phải loại bỏ những người viết văn cử tử cầu công
danh. Thứ nữa cũng phải loại bỏ những người muốn làm văn sĩ, thi sĩ, làm văn
chương để khoe mẽ. Đó là một mặt của ý nghĩa tự nhiên “nó như thế là như thế”.
Mặt thứ hai của tự nhiên là cái hay không do công phu gò gẫm câu chữ, thanh điệu
như người trồng cây chăm lo tỉa lá, uốn cành mà là cái đẹp tự nhiên như hoa mùa
xuân, như sự tươi tốt của cái cây cành to gốc lớn. Văn chương cứ tuôn chảy như
từ trong khe suối “Lúc thiên cơ nảy sinh thì thành những thú vui mà cất cao tiếng
gọi, mà ngâm nga hào hùng, hoặc vừa đi vừa hát, hoặc kề bên chén rượu, cũng
không thể kìm mình được. Mặc cho lòng mình, mặc cho chân bước, mặc cho miệng lưỡi,
mặc cho ngòi bút đi, đi theo cái chí của chúng mà tự đến vậy.” (Ngô Thì Chí. Từ trong di sản, tr. 78). Như vậy thì “Cảnh
không hẹn đến mà tự đến, Nói không mong hay mà tự hay” (Lê Quý Đôn. Từ trong di sản, tr.93). Và như vậy thì
văn chương sẽ “mênh mông như khơi xa biển cả, chói lọi như mặt trời, ngôi sao.”
(Phan Huy Ích. Từ trong di sản, Tr.
82). Một nội dung nữa, không phải là nói về cái đẹp cái tự nhiên nhưng lại rất
có ý nghĩa: có học được cách đạt đến cái tự nhiên, cách bồi dưỡng cho nguồn thơ
thành tự nhiên như vậy. Nguyễn Đức Đạt và Nguyễn Văn Siêu đều trả lời khẳng định.
Cách đó không phải là châm cái ngọn từ chương mà “vun gốc, khơi nguồn” bằng “Lý
thâu suốt thì văn kỳ lạ, tu dưỡng sâu thì văn mênh mông”. Ở đây ta đụng đến vấn
đề Văn với Đạo mà chúng tôi có ý định sẽ bàn sau. Ta hãy tiếp tục bàn cái đẹp
chân và thực.
Trong Phương Đình văn
loại có một đoạn Nguyễn Văn Siêu bàn về vẽ truyền thần rất đánh chú ý. Ông
so sánh tài vẽ giống như thực giữa hai trường hợp: Cao Tông nhà Thương khát
khao được một hiền thân. Trong mộng nhà vua thấy hình dáng người hiền thần mong
ước đó. Tỉnh dậy Cao Tông theo hình dáng người trong mộng về tranh mà đi tìm
thì gặp được Phó Duyệt. Một trường hợp khác Tô Đông Pha muốn có một bức vẽ mình
thật giống nhưng vẽ mãi vẫn không thành. Một buổi tối ông ngồi bên đèn, thấy
bóng hiện lên trên vách, ông sai người lấy mực đổ theo bóng, Ai nhình thấy cũng
cho là Đông Pha. Cùng là giống nhưng một bên là có cái bóng và có Đông Pha ngồi
đó còn một bên chỉ theo giấc mơ, không có Phó Duyệt mà vẽ theo. Nhưng theo ảnh
lại tìm đúng Phó Duyệt! Nguyễn Văn Siêu viết: “qua việc đó tôi nghĩ: hữu ý
không bằng vô ý. Vô ý mà làm nên thi tự nhiên, hữu ý mà làm nên thì sẽ rơi vào
khắc hoạch. Nên tôi mượn bút ghi lại điều này. Nhưng được cái bóng trên vách
còn có Đông Pha ngồi đó, còn như được ở trong mơ, thì không Phó Duyệt nơi đây.
Nếu không nhiệt thành, thì cái “thần” ở đâu tới được. Cho nên nắm được nó nơi
tâm, thể hiện nó nơi tay, đó là cái gọi
là “tự nhiên” vậy. Nó là điều vốn có chứ không phải không hư. Đối với sự sự, vật
vật hàng ngày mà ta nhìn thấy, đều là con người thực củ Phó Duyệt; còn như sự
ghi chép trong thư tịch thì là bức vẽ của Cao Tông. Nếu như từ trong cái “tự
nhiên” mà nắm được điều “vốn có” không đến nỗi như bọn người khác hoạch, trí lại
làm mờ mất cái mà họ vốn có xưa nay, đó lại là cái ý vi diệu của Sơn Mục công
muốn nói với Vũ Tử vây.” (Bàn về vẽ truyền
thần. Từ trong di sản, tr. 128)
Sự sự, vật vật, tức là thực tại là có thật; người viết văn
cũng như người vẽ tranh phải thể hiện được cái “thực”, vẽ giống nó. Nhưng không
nên rơi vào: khắc hoạch”, theo bóng trên vách mà lấy mực đổ theo, vì như thế
thì “chỉ mô tả hình dáng bên ngoài mà không năm được cái “thần”, thì nó nếu
không hời hợt (niêm bì trước cốt) ắt cũng giống bóng trăng dưới nước, đóa hoa
trong gương, ít khi giữ được sự chân thực (chân)”. Chân thực tức là đạt đến cái
“thần” và muốn đạt đến thì “hữu ý không bằng vô ý” đừng dụng tâm làm văn, phải
“tự nhiên”, tức là “nắm được nó nơi tâm, thể hiện nó nơi tay”. Đối với thực tại
nhà văn không nên có dụng ý gác bỏ chủ quan, đi theo quan sát, tìm cái thực
trong chính nó, như chủ trương của chủ nghiã hiện thực trong chính nó, như chủ
trương của chủ nghĩa hiện thực mà phải vô tâm. Mô tả, ghi chép đều khắc hoạch vẽ
sai cái nó vốn có. Nhà văn phải đạt cái chân, cái thân bằng công phu “vun gốc
khơi nguồn” dùng nước sông Giang, sông Hoài mà tưới cho cây thì thân sẽ ra gặp
“tâm” của người viết, có khi không cần nắm thì nó cũng tuôn ra đầu ngòi bút. Chủ
trương vun gốc, khơi nguồn đó gắn Văn với Đạo, đòi nhà văn phải tu dưỡng đạo đức,
học theo thánh hiền.
Quan hệ giữa Văn và Đạo là một vấn đề không chỉ quan trọng ở
Trong Quốc, các đại nho của ta khi bàn về văn học bao giờ cũng coi trọng mối
quan hệ đó.
Lê Quý Đôn, người được coi là sự kết hợp hiếm có giữa nền văn
học vấn uyên bác với tài năng văn chương lỗi lạc đã viết: “Vô luận cổ văn hay
kim văn, tuy thể loại và câu văn có khác nhau, nhưng đại để đều phải có nội
dung là Đạo. Có nội dung ấy thì văn chương phát đạt, không thì hỗ loạn” (Từ trong di sản, tr.98). Ở một chỗ khác
ông lại nói: “Đừng nhầm lẫn Đức với Văn là hai” (Từ trong di sản, tr. 92). Đây là cơ sở của quan niệm văn học mà
cũng là điểm cốt lõi của thế giới quan của những người viết văn ngày xưa. Nguyễn
Văn siêu trình bày điều đó tuy ngắn nhưng đủ rõ: “Văn và Đạo tuy có tên khác
nhau nhưng nội dung của nó thì bắt nguồn từ Đạo. Thế nhưng thế nào gọi là Đạo?
– Đó là cái mà tâm ta sẵn có. Văn chương ắt lưu giữ tâm này. Điều giáo huấn về
“lời đạt” tiên nho Đông Pha đã từng bàn tới. Nhưng Định tôi lại cho “đạt” là
cái gọi là “có gốc”. Ví dụ như nước vậy. Nước của biển khơi, tuy gò đảo chắn ở
phía trước, nhưng dòng không rối loạn. Ao vịnh rất xa nhưng nguồn mạch thường
thông. Được thế là vì biển chứa chất sâu đấy vậy. Tĩnh thì thể nghiệm ở thân, động
thì chạm cứu nó ở sự. Nó là cái mà ta nắm được để làm trọn vẹn cho “cái vốn có”
của mình. Sau đó tiếp xúc với sự vật thì nó bật ra. Không một lời nào là không
bình dị, không một ý nào là không ngân vang. Há không phải là thông suốt ở nơi
tâm, thì sao thông suốt ở nơi tay và miệng?”(Thư gửi bạn học Ngô Huy Phan. Từ trong di sản, tr.125). Đạo vốn là
khác với người và vật nhưng lại tồn tại trong tâm của người và sự vật của khách
thể. Vì vậy tâm thành quan năng lĩnh hội Đạo mà cũng là quan năng tiếp xúc,
lĩnh hội cái “thần” trong cảnh, vật. Đạo là biển cả lưu thông nguồn mạch của
người và vật. Cho nên Nguyễn Đức Đạt coi tu dưỡng đạo đức là vun gốc, khơi nguồn
mà Nguyễn Văn Siêu coi lời nói “đạt” là hợp Đạo, có gốc. Tâm, trong quan niệm như
vậy có vai trò rất quan trọng, điều mà ta đã thấy nhiều người ở trên. Chính hai
mặt quan hệ:
Vật – Đạo – Người (Tâm)
Cảnh – Tâm – Văn
xác định
nội dung quan niệm: “Thi di ngôn chí” và mối quan hệ của nó với quan niệm “Văn
dĩ tải Đạo”… Nguyên Bỉnh Khiêm nói: “Nói tâm là nói về cái chỗ mà chỉ đạt tới vậy
mà thơ lại là để nói chí. Có kẻ chỉ để ở đạo đức, có kẻ chí để ở công danh, có
kẻ chí để ở sự nhàn dật”. Đường mở ra cho chí có nhiều ngả vì vậy văn thơ cũng
có nhiều màu sắc. Phùng Khắc Khoan nói: “Nếu chí mà ở đạo đức thì tất là nhả ra
khí phách hào hùng, chỉ ở rừng suối gò hang thì thích giọng thơ liêu tịch, chí ở
gió mây trăng tuyết thì thích vẻ thơ thanh cao, chí ở nỗi uất ức thì làm ra lời
thơ ưu tư, chí ở niềm cảm thương thì làm ra điệu thơ ai oán.” (Về tập thơ Ngôn chí. Từ trong di sản,
tr.40-41). Nhưng chỗ nó “đạt tới” thì chỉ là tâm, mà tâm thì về bản chất gắn với
Đạo. văn (bao gồm cả thơ trong đó) không thể không phụ thuộc vào Tâm, do đó
không thể không quan hệ với Đạo theo một cách nào đó. Chính vì văn gắn với Đạo
cho nên Nguyễn Bỉnh Khiêm lấy Trung Tân dặt tên quán, Phùng Khắc Khoan sắp xếp
tập thơ Ngôn chí theo “trình tự của việc học (cũng là tu dưỡng) tiến tới. Cũng
vì vậy nên Ngô Thời Nhậm tâm đắc với ý kiến “phải bắt nguồn từ cái nền trắng”,
tức là lễ nhã, văn chương đều chỉ có thể có trên cơ sở đạo đức (xem Luận Ngữ) và chỉ trích thấy trò Phạm Thạch
Động lấy Lão Tử thay cho Khổng, Mạnh. Trình, Chu. Cũng là quan niệm như vậy mà
Ngô Thì Sĩ khen thơ một người anh ở Phúc Khê “dù là ngâm vịnh mây ráng, thưởng
thức gió trăng, nhưng kỳ thực thì không rời khỏi đạo thường của cha con, vua
tôi, không ngoài việc đạo lý làm người và việc thường dùng hàng ngày, nào là đạo
cha con, tình anh em, lễ thầy trò, nghĩa bạn bè đều là tỏ ra ở lời thơ”. Nhiều
người bàn về việc tu dưỡng đạo đức và cách đọc sách thánh hiền để nâng cao chất
lượng văn chương. Cao Bá Quát viết: “Bàn về thơ, tuy có phải chú trọng về quy
cách, nhưng làm thơ thì phải gốc ở tính tình.” (Từ trong di sản, tr. 152). “Thơ không có phẩm chất nhất định, phẩm
chất cuả người là phẩm chất của thơ.” (Từ
trong di sản, tr.154). Cũng là từ quan niệm như vậy mà Nguyễn Tư Giản coi “
Văn đến Năm kinh – Thi, Thư, Dịch, Lễ,
Xuân Thu của Nho giáo - là tuyệt đỉnh”. Ý kiến của Nguyễn Thiếp, của Phạm
Văn Nghị cũng không có gì khác thế. Những người sáng tác, viết lí luận đánh giá
lịch sử văn học thời đó đều là các nhà Nho, đều là nhà khoa bảng lớn, viết thơ
phú và cổ văn, đều là rèn luyện tài năng văn chương của minhg từ văn chương cử
tử. Làm sao họ có thể thoát ra khỏi lời dạy của thánh hiền “chí ư đạo, cứ ư đức,
y ư nhân, du ư nghệ” (Luận ngữ văn).
Trước sau Công nguyên, nước ta đã tham gia vào vùng văn hóa chịu ảnh hưởng văn
hóa Trung Quốc. Ở đây tam giáo (Nho, Phật, Đạo) chi phối đời sống tinh thần. Phật
giáo có lúc khá mạnh nhưng Nho giáo bao giờ cũng giữ vai trò chính trong chính
trị, họa thuật và giáo dục. Mà văn học thì lại chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các
mặt đó. Nho giáo từ lúc khởi thủy đã là học thuyết coi trọng thực tại, ghét những
chuyện viển vông. Câu trả lời của Khổng Tử với Tử Lộ về vấn đề quỷ thần và sống
chết: “Chưa biết thờ người thì làm sao biết chuyện thờ quỷ thần. Chưa biết sống
thì làm sao biết chết.” (Luận ngữ) là
một hướng dẫn cho con người hướng về thực tại. Các nhà Nho đời sau không ai
nghi ngờ đổi thay phương hướng sống với con người, cõi người đó. Nhưng thực tại
- thế giới của sự và vật - lại gắn với Đạo và trong từng người với Tâm. Đối với
Nho giáo, Văn là đặc biệt quan trọng nhưng không tách rời Tâm và Đạo. Mà nghệ
thuật thơ, phú và cả cổ văn lại không tách khỏi được thế giới quan và quan niệm
của Nho giáo cho nên không tách được “thực tại” ra khỏi Tâm và Đạo để quan sát
và nhận thức thực tế, không nghi ngờ và tìm cách khác để tiếp cận nó ngoài lục
nghĩa phú, tỉ, hứng, phong, nhã, tụng có từ đời Kinh Thi. Không phải nền văn học
như thế không cho ra đời những tác phẩm hay, những tuyệt tác nữa, nhưng theo đuổi
cái thần chứ không phải cái thực, bằng con đường dưỡng tâm chứ không phải ghi
chép, mô tả khách quan, nền văn học đó không phải hiện thực mà cũng không phải
chuẩn bị tiến lên theo hướng hiện thực. Không phải không có những cố gắng, những
tìm tòi. Nhưng như Nguyễn Dưỡng Hào nói về trường hợp của tác giả Phong trúc tập: “Bạn tôi là Tấn giang
Ngô quân Hoàn Phác, thuở nhỏ tập làm thơ văn, rất giỏi về thơ. Sau ông chán tiếng
rườm rà của thói đời, hăng hái đi tìm tiếng nguyên chất của thiên hạ vì vậy ra
Phật, vào Tiên, tìm hiểu cặn kẽ, rút điều huyền bí, đến hơn chừng mười năm cũng
chẳng được gì. Ông lại tìm ở sau kinh bỗng tỉnh ngộ: phàm quẻ Càn do dễ mà biết,
quẻ Không do giản mà hay, mầu nhiệm ở chỗ rộng rãi công minh, sự vật đến thì
theo đó suy ra việc làm, đặt ra lời nói, dẫn cho rộng ra thơ ca ngâm vịnh, động
đến đều có thể sang tác, phong cách vần điệu tự nhiên, không đẽo gọt. Điều đó
chẳng phải là ông đã hấp thụ được tiếng nguyên chất sao?” (Từ trong di sản. tr.51). Chán ghét thời văn tiểu xảo hoa mỹ thì có
thể bỏ nó mà đến được với thứ văn chương đích thực, sáng tạo. Nhưng nghi ngờ Đạo
của thánh hiền, bỏ tìm đến với Lão – Trang hay Phật thì không thoát khỏi sự rậm
rạp để nhìn rõ thực tại, mở con đường quang đến với nó. Cuối cùng thì lại thấy
cái dị của quẻ Càn và cái giản của quẻ Khôn là mầu nhiệm. Mầu nhiệm vì không thấy
cái rườm rà phức tạp, gạt đi được những sự đối nghịch biến hóa để thấy cái
nguyên chất tinh khôi.
III. NHÌN THỰC TẠI THÀNH CUỘC ĐỜI,
THÀNH CUỘC ĐÁNH GHEN CỦA TRỜI, MỆNH VỚI TÀI, TÌNH KHÓ NHÌN THẤY NHỮNG ĐIỀU
TRÔNG THẤY
1. Từ giữa thế kỉ XVIII đến giữa thế kỉ XIX, văn học Việt Nam
chứng kiến một bước phát triển đột xuất. Các tài năng văn chương nhà nho vẫn
ngâm vịnh, xướng họa, ghi chép thành thi tập văn tập. Những tác giả, tác phẩm
đã bớt tính cô lập mà gắn bó với nhau thành những “văn phái” (?) như Hồng Sơn
văn phái, Ngô gia văn phái và hoạt động trong một đời sống văn học ít nhiều
thành phong trào. Ảnh hưởng của Lê Quý Đôn, Ngô Thì Sĩ, của Chinh phụ ngâm, của các nhà thơ viết
truyện Nôm thuộc nhóm Hồng Sơn nhận được một sự cộng hưởng khá rộng rãi. Thành
quả đặc biệt của một thế kỉ đó là sự ra đời của ba thể loại văn học thuần túy
dân tộc: ngâm khúc, truyện thơ và hát nói, là những đỉnh cao của thơ Nôm trong
các thể loại đã có từ trước. Tôi muốn nói không chỉ có Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, Truyện Kiều ra đời trong giai
đoạn này mà cả thơ Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, phú Trương Lưu Hầu, Hàn nho phong vị, Tài tử đa cùng, Văn Tần cung nữ oán Bái công, Văn tế trận vong tướng sĩ v.v…những kiệt
tác của nghệ thuật ngôn ngữ cũng đều ra đời trong giai đoạn này. Lâu nay ta thường
lấy nhà Tây Sơn, đỉnh cao của phong trào khởi nghĩa nông dân làm tiêu điểm phản
ánh lịch sử nên cắt thế kỷ XVIII khỏi nửa đầu thế kỷ XIX. Nhưng nếu theo đúng
thực tế văn học thì ở đây không có sự gián đoạn và hơn nửa đầu thế kỷ XIX văn học
Việt Nam mới đạt đến những đỉnh cao nhất. Với sự thay đổi từ triều đại từ Lê –
Trịnh sang Tây Sơn, sang Nguyễn, lịch sử vẫn tiếp tục giải quyết những vấn đề
như trước mà chưa giở sang trang khác, tất nhiên đây là nói trên bình diện tổng
quát quan hệ giữa văn học và thực tại, một bình diện mà khởi nghĩa nông dân hay
sự phục hồi chế độ chuyên chế đầu đời Nguyễn cũng chưa có tác động và có ý
nghĩa quyết định. Các nhà lí luận – đúng ra là họ không tự coi như thế, không
có ý thức về bộ môn nghiên cứu văn học nào – không nói việc ra đời của ngâm
khúc, truyện thơ, hát nói là đột biến mà chính người khai sinh ra nó cũng không
hề có ý đưa nó ra đối lập với văn học đương đại, tức là với văn, thơ, phú, lục.
Nó ra đời chỉ là cộng thêm vào những cái đã có. Những người bản địa, những người
trong cuộc, những người đương đại tất nhiên không phải khi nào cũng đúng. Nhưng
cách đánh giá, phân loại và sắp xếp của họ, có khi ta không đồng tình, nhưng
cũng phải coi trọng, tìm lí do, nhất là khi những người đó đều là người rất
tinh thông nghệ thuật văn chương. Cho nên chúng ta tốt hơn là để ngâm khúc,
truyện Nôm nằm trong cái khối văn chương thời đó bao gồm cả thơ phú Nôm và cả
văn thơ chữ Hán để nhìn sự phát triển đột khởi mà ta vừa nói.
2. Khi nghiên cứu Chinh
phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc cũng như khi nghiên cứu Truyện Kiều, các nhà nghiên cứu đều nói đến cảnh chiến tranh loạn lạc,
lối sống sa đọa của chúa Trịnh, đến tình trạng hỗn loạn, đảo điên trong xã hội,
đến sự thay đổi lớn về triều đại cuối thế ký XVIII làm bối cảnh cho sự ra đời của
những tác phẩm lớn, có khuynh hướng hay chứa nhiều yếu tố hiện thực. Rõ ràng là
những thực tế nói trên có ảnh hưởng hiển nhiên đến sự phát triển văn học, tạo
thành một xu hướng ghi chép thực tế, đã để lại đến ngày nay như Thượng kinh kí sự, Vũ trung tùy bút, Tang
thương ngẫu lục, Công dư tiệp kí… Thực tế đó cũng phản ánh vào trong thơ
thành long thương cảm xót xa trước cảnh đói khổ loạn ly, trước sự đổi thay…
Nhưng cái mới có tính thời đại, bộc lộ cảm hứng trong ngâm khúc, truyện Nôm,
hát nói thì lại là sự xót xa, đau khổ trước những cảnh éo le, những sự bất
công. Đó là một chủ đề chưa từng có trong thơ phú trước đó. Phải chăng đây mới
là động lực thúc đẩy tìm hình thức thể loại khác? Sự khổ cực của người lính, nỗi
đau biệt ly, nỗi buồn xa chồng của người chinh phụ cũng như cảnh góa bụa ngược
đời của người cung nữ, đều không phải mới và không phải lúc nào cũng được biết
đến. Thay đổi hay là làm cho những cái cũ đó thành mới phải là cách quan niệm
con người khác trước, cách quan niệm thế giới – hay là cuộc đời (?) – khác trước.
Trước Chinh phụ ngâm (bản dịch), con
người vẫn được quan niệm nằm trong luân thường: trong gia đình có cha con, anh
em, vợ chồng và trong xã hội có vua tôi, bè bạn. Con người có tốt xấu, xấu tốt
tùy theo hoàn thành hay không chức năng là cha, là con, là anh, là em, là vợ,
là chồng… theo luân thường như thế. Con người cũng có số mệnh giàu nghèo, sang
hèn, thọ yểu khác nhau; số mệnh cũng có khi bất công nhưng con người cao quý,
có đạo đức là ở chỗ yên phận, yên mệnh “xử sự theo cái mình có” “không oán Trời,
không trách người”. Có khi lại còn nhìn thấy sự hẩm hiu, sự bất công như một sự
ưu đãi đặc biệt của Tạo hóa trăm mài ngàn giũa là để thành hòn ngọc trong bóng
“Gian nan là nợ anh hùng phải vay”. Ngâm khúc, truyện Nôm và hát nói cũng chưa
phải đã quan niệm con người khác thế, nhưng lại làm nổi bật một nét rất khác
trong con người: đòi hạnh phúc. Chưa ai lúc đó thấy sự ràng buộc gia đình, họ,
làng của thể chế chính trị vua tôi làm cho nhân cách không được phát triển. Tự
do chưa thành vấn đề, những hạnh phúc thì là một đòi hỏi cấp thiết. Và từ đó mà
xuất hiện “cá nhân”, trong những trường hợp nhất định mâu thuẫn với con người
“vi tử, vi thần” làm con làm tôi, coi mục đích, giá trị con người ở chỗ hoàn
thành nghĩa vụ trách nhiệm với gia đình, họ hàng, làng nước. Đạo dức và hạnh
phúc của mỗi người tùy thuộc vào đó… Không nhấn mạnh hạnh phúc và rút gọn lại
là hạnh phúc đôi lứa, thì không thể nhìn nõi khổ của người chinh phụ, người
cung nữ thành một tâm trạng xót xa triền miên như trong Chinh phụ ngâm và Cung oán
ngâm khúc. Không nhấn mạnh như thế thì cũng không nhìn sự đau khổ, mà trong
thực tế là rất nhiều, phổ biến và đa dạng và không phải là họ không thấy. không
thông cảm thành sự bất công đối với người tài sắc. Thế giới thường với những
đau khổ, những bất công có cơ rút lại thành là thế giới của người tài sắc và
mâu thuẫn nổi lên trong đó là mâu thuẫn giữa tài, tình và mệnh. Điều đó được
khái quát hóa thành một tiết lý mà Nguyễn Du đặt ở Truyện Kiều:
Trăm
năm trong cõi người ta,
Chữ
tài, chữ mệnh khéo mà ghét nhau.
Trải
qua một cuộc bể dâu,
Những
điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Lạ
gì “bỉ sắc tư phong”,
Trời
xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Tôi muốn lưu ý ở đây là Nguyễn Du không phải vay mượn triết
lí đó ở nguyên tác của Thanh Tâm Tài Nhân và ông đã “thay đổi chủ đề của tác phẩm
(Kim Vân Kiều truyện), chuyển phong
cách của Nguyễn Du trong Truyện Kiều
(Trang 321). Không phải Nguyễn Du chỉ nói qua một cách ngẫu hứng mà tư tưởng đó
được nhắc lại nhiều lần, chi phói ngòi bút khá liên tục, nhất là ở đoạn kết.
Tài và mệnh đều là những vấn đề cũ. Tài là khả năng, là chỗ có ích cho người
khác, như con mèo có tài bắt chuột, cây gỗ có tài để thành nguyên liệu chế tạo
các đồ dùng. Trong từ đó có nói đến chuyện mèo vì có tài mà bị người ta bắt
nuôi, con báo vì da đẹp nên bị săn đuổi. Và nhà triết học Đạo gia đó đưa ra một
thái độ xử thế: “đứng giữa tài và bất tài” vì cây gỗ tốt thì bị chặt nhưng con
gà không gáy thì cũng bị chọn để giết thịt! Mệnh cũng là một vấn đề được Nho
giáo, Đạo giáo và Phật giáo chú ý: con người không thể thoát khỏi một sự quy định,
một cuộc ép buộc đầu tư bên ngoài, sắp xếp sẵn từ trước. Nhưng gắn tài với
tình, nhìn quan hệ giữa tài với sắc tức là “làm nổi bật hạnh phúc lứa đôi và đối
lập với tài, tình với mệnh tài là chuyện mới chỉ xuất hiện từ khi con người”,
tuy chưa ý thức được sự tự do và các nhân những đã thoát ra khỏi sự phụ thuộc của
quan hệ gia đình, họ hàng và làng xóm, tức là có cuộc sống đô thị. Trong đô thị
phong kiến phương Đông, còn khác xa với bourg tự trị ở phương Tây, sự ràng buộc
với cá nhân cũng dã lỏng lẻo nhưng so với nông thôn với tổ chức gia đình, họ
hang và làng họ. Không phải là ngẫu nhiên mà nhân vật của các câu chuyện tình
mà lại là những người học trò hỏng thi, những kĩ nữ, những ông quan bị biếm
trích lưu lạc ở Tràng An. Tình là tình yêu, chỗ gặp gỡ giữa trai tài gái sắc mà
ài cũng không còn là khả năng, cái có ích, cái cần lợi dụng cho cuộc sống rộng
lớn mà là cái biểu đạt được tình: tài nghệ thuật, tài cầm kỳ, tài học. Nhưng sự
đổi thay như vậy không phải là do thực tế chiến tranh, đổi thay triều đại mà là
do một đời sống mang tính đô thị. Mà đô thị ở phương Đông lại không phát triển
như phương Tây. Nó ra đời sớm hơn, có những thời gian phát triển đến có quy mô
rộng lớn, buôn bán sầm uất, lưu thông rộng rãi, nhưng dưới chính quyền đã tập
trung cao độ từ rất sớm, có tổ chức chặt chẽ nắm giữ nông thôn thì các quan hệ
tư bản chủ nghĩa không hình thành trọn vẹn, không thành quan hệ thống trị vì
không lôi kéo được nông thôn vào trong quỹ đạo đô thị. Trong cả đất nước nó
cũng chỉ là cái bướu, cũng tàn lụi với cơ thể mà nó bám vào. Trong những thời
gian tồn tại của loại đô thị phong kiến phương Đông như vậy cũng hình thành một
cuộc sống, những nhân vật, những cách suy nghĩ, cũng hình thành nền văn học
tương ứng với nó. Chúng tôi đã có dịp nói quan niệm tài, tình độc lập với đức,
tính đến loại nhà nho tài tử tài tài và đa tình, đến loại truyện tài tử giai
nhân, tạo hóa ghen tài ghét sắc… chính là sản phẩm của tình hình phát triển
không thành thục như vậy của đô thị. Ở các nước Đông Á sự phát triển của đô thị
cũng không giống nhau như giữa Trung Quốc, Việt Nam và Nhật Bản.
3. Ngâm khúc, truyện Nôm và hát nói là những thể loại Việt
Nam được sáng tạo nhất định do những nhu cầu của thực tế và để nói những điều,
vì những lẽ nào đó người ta không nói phong trào phú và cổ văn. Mở đầu Chinh phụ
ngâm – Đặng Trần Côn viết:
Thiên
địa phong trần,
Hồng
nhan đa truân,
Du
du bỉ thương hề, thùy tạo nhân?
Có lẽ đến nửa thế kỷ sau mới có bản dịch truyền đạt đúng nội
dung và và tinh thần lời than thở:
Thuở
trời đất nổi cơn gió bụi,
Khách
má hồng nhiều nỗi truân chuyên.
Xanh kia thăm thẳm
tầng trên.
Vì
ai gây dựng cho nên nỗi này?
Cung oán ngâm
khúc của Nguyễn Gia Thiều cũng mở đầu bằng một lời trách móc:
Trải
vánh quế gió vàng hiu hắt,
Mảnh
vũ y lạnh ngắt như đồng.
Oán
chi những khách tiêu phòng,
Mà
xui phận bạc nằm trong má đào?
Người chinh phụ tuy từ đầu có trách móc ông xanh độc ác với
má hồng nhưng về sau quá bận tâm với nỗi khổ của mình, của chồng và cả với ảnh ảo
vinh hoa phú quý do chiến công mang lại nên càng quên mất sự độc ác của số mệnh.
Người cung nữ của Nguyễn Gia Thiều – hay chính là tác giả Cung oán ngâm khúc – không vô tâm như vậy. Ông để cho cung nữ trần
thuyết đến 88 câu thơ về sự độc ác quá quắt của tạo hóa đến biến con người
thành tàu động, thành đồ chơi thảm hại của số mệnh:
Quyền họa phúc Trời
tranh mất cả,
Chút tiện nghi chẳng
giả phần ai,
Cái
quay búng sẵn trên trời,
Mờ mờ nhân ảnh
như người đi đêm.
Có đến 4, 5 lần người cung nữ nói nỗi khổ đau của mình là do
Tạo hóa, do số phận. Nhưng dầu có bất hạnh đến mức “đạp cả tiêu phòng mà ra”
thì cuối cùng người cung nữa cũng trở lại sống bằng một sự chờ đợi ít hy vọng,
kèm với sự lo lắng hiển nhiên “Phòng khi động đến cửu trùng; Giữ sao cho được
má hồng như xưa.” Người chinh phụ nói đến nỗi truân chuyên của khách má hồng
nhưng nói đến tài, đến sắc, đến tình – nói tình nghĩa vợ chồng chứ không phải
tình yêu và cũng không coi sự đau khổ của mình là kết quả của trò đánh ghen cuả
số mệnh. Người cung nữ nói nhiều đến tài, đến sắc, nói đến trò đùa độc ác của
con tạo, nhưng cũng chưa hẳn là sự ganh ghét tài sắc. Cũng đã có các số phận
làm nàng thỏa mãn, hài lòng về “cái thân Tây tử lên chừng điện Tô”, mà thành hợm
hĩnh một cách đáng ghét. Đến Truyện Kiều
thì khác hẳn. Trong Truyện Kiều, Nguyễn
Du nêu vấn đề tài mệnh ghét nhau thành thứ triết lí cuộc đời, lại giải thích điều
đó thành thói quen của con tạo ghen ghét tài sắc, thành sự quân bình bỉ sắc tư
phong. Số mệnh không chỉ được nói qua mà hiện hành cụ thể trong lời thầy tướng,
trong buổi báo mộng của Đạm Tiên, thành sự theo dõi chặt chẽ, đánh giá sát sao
của Tam Hợp đạo cô. Tên Thúy Kiều đã nằm trong số đoạn trường và cuộc đời của
Kiều từng bước cứ theo “ma đưa lối, quỷ dẫn đường” cho đến khi gieo mình xuống
sông Tiên Đường để thoát nợ. Nhưng Thúy Kiều không phải là một con rối trong
truyện Kiều cũng không có nhân vật nào là con rối cả. Nàng đã vật lộn với số phận
để được yên thân, để được sống lương thiện. Nàng rất có ý thức về tài sắc, về
nhân cách tức là về giá trị của mình nhưng trong mọi tình huống cay đắng, nàng
đều tỏ ra khôn ngoan, biết thân phận, hoàn toàn không có chút bắc bậc làm cao
nào. Thế nhưng cứ mỗi lần chuồi ra được thì lại rơi vào một hoàn cảnh còn thảm
hại hơn. Ở Truyện Kiều là những cảnh
đời sống động, mỗi nhân vật trong từng hoàn cảnh, từng tình huống đều có tâm trạng,
đều suy nghĩ hành động đúng như trong cuộc đời phải thế: Một số như Tú Bà, Sở
Khanh, Hoạn Thư đã trở thành điểm nhìn cho tính cách từng loại người. Từ một cuốn
tiểu thuyết tầm thường của Thanh Tâm Tài Nhân, cụ Tiên Điền đã xây dựng nên một
truyện thơ tuyệt tác. Từ tài năng phi thường mới có vấn đề chủ nghĩa hiện thực
trong văn học Việt Nam trung cận đại. Muốn giải quyết vấn đề có hay không có chủ
nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam trước thế kỷ XX, tất phải bàn về truyện
Kiều, về phương pháp sáng tác của Nguyễn Du. Ở đây trong hàng chục năm qua đã
có tiếng nói của hầu hết các nhà nghiên cứu văn học uy tín. Những chuyên luận Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn
Du của Lê Đình Kỵ, Tìm hiểu phong
cách của Nguyễn Du trong Truyện Kiều của Phan Ngọc hay phần viết về Truyện Kiều của Nguyễn Lộc trong giáo
trình văn học Việt Nam của trường đại học Tổng hợp Hà Nội cũng đã thành những
thứ thơ Thôi Hiệu. Tôi sẽ không đưa mảnh chính của mình so tiếng với chuông
khánh của họ. Tôi chỉ cố gắng nhìn thành tựu đột xuất của nó trong cả trào lưu
văn học thời đó.
Nói đến sự phát triển văn thơ chữ Nôm của ta, Cao Bá Quát
trong bài tựa đầu truyện Hoa Tiên viết:
“Nước ta từ sau Hàn Thuyên, các nhà làm cách mạng mọc lên như rừng.” Thơ cổ cận
của Ôn Như, mẫu mực sánh ngang Thiếu Lăng, điệu cung từ của Bằng Quận, tài sinh
theo kịp Hán Ngụy. Đến như cái công làm truyện, ta lại còn được thấy Hoa Tiên, Kim Vân Kiều nữa”. Ở giữa thế
kỷ XIX (bài tựa viết năm 1843) Cao Bá Quát cũng nhìn thành tựu thơ Nôm nổi bật ở
giữa hai thế kỷ XVIII – XIX với truyện Nôm, từ khúc (cung từ) và ngâm khúc (?)
và đánh giá theo sự so sánh với văn học Trung Quốc mà không thua. Ngày nay ta
không còn những tác phẩm trước đó mà theo Cao Bá Quát thì là rất phong phú,
không được đọc cung từ của Nguyễn Hữu Chỉnh mà cũng không biết khi nói “thơ cổ
cận của Ôn Như” thì có phải tác giả muốn nói đến Cung oán ngâm khúc không? Có điều đáng chú ý là việc đưa cung từ (từ
khúc) lên thành một thành tựu văn học. Trong văn chương trước thế kỷ XVIII thì
hình như chỉ có thơ phú, cổ văn, truyện ký. Nhưng Chinh phụ ngâm khúc của
Đăng Trần Côn thì là một thể liên bản ca khúc. Khi ra đời nó được hoan nghênh
nhiệt liệt:
Cận
lai khoái chá tương truyền tụng,
Đa
hữu thôi xao vi diễn âm.
Dịch nghĩa:
Lâu nay người ta lấy làm
thích thú chuyền nhau đọc,
Nhiều người đã dày công chọn
lựa (lời) để diễn ra quốc âm.
(Phan Huy Ích)
Đoàn Thị Điểm cũng dịch Chinh
phụ ngâm và trong Truyền kỳ tân phả,
khi viết truyện cùng thường đưa những bài tự vào bên cạnh các bài thơ, phú. Đến
cuối thế kỉ XVIII, cung từ bằng quốc âm của Bằng quận nổi tiếng là nằm trong một
trào lưu thích ca khúc. Trong Vũ trung
tùy bút, phạm Đình Hổ viết về Nguyễn Khản:
“Ông lại thích hát xướng, sánh âm luật, thường đặt những bài
hát Nhạc phủ ra làm bài hát mới, viết
xong khi nào thì những nghệ sĩ ngoài giáo phường tranh nhau truyền tụng. Ta có
câu thơ rằng: “Án phách tân truyền Lại bộ ca” (Gõ phách truyền tụng bài hát mới
của quan Lại bộ) chính là chỉ việc ấy)[1].
Cũng đồng thời vào việc tranh nhau truyền tụng ca khúc mới là
việc ra đời các truyện Nôm, tôi muốn nói đến các truyện Nôm tài tử giai nhân
như Hoa Tiên, Phan Trần, Sư kính tân trang…
Cũng đáng chú ý là các truyện đó đều được dịch từ tiểu thuyết của Trung Quốc.
Như mọi người đều biết văn học Việt Nam từ buổi ban đầu gắn bó chặt chẽ với văn
học Trung Quốc. Đến thế kỷ XIII – XIV trong thời độc lập nó đã trưởng thành và
do hoàn cảnh chính trị giữa hai nước lúc ấy, văn học Việt Nam hầu như phát triển
riêng rẽ và dừng lại ở khuôn khổ Đường Tống (thơ, phú và cổ văn) không có liên
hệ, không chịu ảnh hưởng của những bước phát triển thời Nguyễn, Minh ở Trung Quốc
từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIV, nhất là dưới thời nhà Nguyên (1277- 1368) đã phát
triển một nền văn học dần đã có tính đô thị, độc lập với văn chương bác học của
sĩ phu kiểu Đường Tống. Đó là các ca khúc tả thực và trào phúng chống những kẻ
thống trị ngoại tộc, là những truyện ngắn, tiểu thuyết và đặc biệt là loại “tạp
kịch”. Nên sân khấu đô thị đó đã có những tác giả nổi tiếng như Mã Trí Viễn (giữa
thế kỷ XII) tác giả của Hán cung thư
và Hoàng tương mộng, như Quan Hán
Khanh (nửa sau thế kỷ XIII). Đây cũng là thời kỳ ra đời của Tây sương kí và Vương Thực Phủ, của Tý
bà ký của Cao Minh, là những tác phẩm có xu hướng tình cảm, lãng mạn. Nên văn học
đô thị còn tiếp tục phát triển cao hơn vào thời nhà Minh (1368- 1643). Bên cạnh
những tác phẩm dài như tiểu thuyết Kim
Bình Mai, ra đời quãng năm 1619, kịch Mẫu
Đơn đình là một loạt những truyện ngắn đủ loại nào nho tình nghĩa, nào tình
yêu, nào truyện kiện tụng, truyện anh hùng… Cuối đời Minh đã in cả những tuyển
tập những truyện ngắn như Kim cổ kỳ quan,
Phách án kinh kỳ. Đáng lưu ý là qua đô thị, qua một thời gian dài phát triển
như ở một vùng Khai Phong, vùng Hàng Châu đã làm hình thành một đời sống văn học
ngoài phạm vi của văn chương bác học và với một công chúng chúng văn học ít học
vấn, thích chơi trò giải trí và thoát li khỏi các ràng buộc của đạo lý, một
công chúng đã đòi hỏi những cái đẹp khác với Tam quốc diễn nghĩa và Thủy hử
nổi tiếng ở thế kỷ XIV. Các tác phẩm như vậy vào thời Minh đã có những nà xuất
bản in bán, nhất là sau thời Vạn Lịch (1573-1619) khi nghề in có bước tiến hơn,
giá sách in bán rẻ hơn, thì sách ra càng nhiều. Viết lách để phục vụ cho lớp
công chúng đô thị cũng là các nhà nho, không hẳn đều là dân đô thị, nhưng không
làm lên công danh, phần lớn phải sống dựa dẫm vào hạng quyền quý hay dạy học, bốc
thuốc sống bất đắc chí và nghèo khổ. Trong những tác giả của nền văn học đó
cũng lọt vào những bậc tài năng, những “bậc tài tình trùm đời”, những “bậc tài
tử gấm vóc”, tức là những người thực sự có tâm huyết, những nghệ sĩ chân chính.
Họ viết cũng không chỉ để thỏa mãn thị hiếu nghệ thuật nói chung là tầm thường,
thấp kém của đám thị dân lúc đó. Có lẽ từ giữa thế kỷ XVIII loại văn học có
tính đô thị đó của Trung Quốc trở thành hấp dẫn đối với nhà nho của ta, gây nên
hứng thú làm từ khúc (bằng chữ Hán) và dịch tiểu thuyết thành truyện Nôm.
Đặng Trần côn, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Huy tự, cả người dịch Phan trần, Nhị độ mai, và cả Nguyễn Du nữa
cũng đều chịu sự hấp dẫn như vậy. Ta không thể biết những gì đã đến tay họ,
nhưng họ đã lựa chọn trong đó những cái hợp với thị hiếu của họ. Khi dịch, họ
đã theo vốn liếng, xu hướng văn học của bản thân mà chỉnh lí ít nhiều nguyên
tác. Đáng lưu ý là những người vừa nói và cả những người làm từ, viết truyện
Nôm, ngâm khúc khác đều không phải thị dân, hơn thế đều xuất than từ những gia
đình khoa bảng quan lieu, quý tộc lớn.
4. Nguyễn Du viết Truyện
Kiều theo kim Vân Kiều truyện mà
ông tôn trọng cốt truyện và cả các tình tiết. Ta không thể căn cứ vào diễn biến
câu chuyện, hành động của các nhân vật mà xét Nguyễn Du vào hiện thực hay không
hiện thực. Nhưng Nguyễn Du đã chọn Kim
Vân Kiều để diễn Nôm tức là có tìm được ở trong đó cái mà ông muốn tìm.
Nguyễn Du lại thay đổi tên tác phẩm một cách thật đặc biệt ý nghĩa: Đoạn trường tân thanh. Đoạn trường chính
là nội dung hấp dẫn nhà thơ và tân thanh thì rõ rang không phải lấy nguyên ý của
Kim Vân Kiều truyện nữa. Làm xong tác
phẩm, Nguyễn Du có đưa cho Phạm Quý Thích bình duyệt. Phạm Quý Thích có làm bài
thơ sau này thường được in ở đầu như đề từ của Truyện Kiều. Bài thơ đo đáng coi là lời nói của người tri kỷ. Đáng
tiếc là bản dịch của bài thơ, không biết có phải là của chính tác giả hay
không, lại không nói rõ được ý của bài thơ chữ Hán, nhất là hai câu cuối. Phạm
Quý Thích nói đến mười lăm năm lưu lạc của Kiều mà nói nhiều ở đoạn kết: Kiều cần
phải nhảy xuống sông Tiền Đường, nhưng không nên để chết ở đó. Có lẽ ông cũng
không dễ tin ở chuyện rửa sạch lâng lâng được nợ trước hay việc đền bồi duyên
sau. Nhưng dầu sao dòng nước Tiền Đường cũng làm Kiều thấy nhẹ nhàng, trong sạch
khi gặp lại người xưa. Đó là một đoạn Nguyễn Du viết theo ý mình và để vào đó
nhiều tâm huyết. Mộng đoạn trường dấu đã hết câu chuyện, cung đàn bạc mệnh và cả
việc gẩy đàn nữa dẫu đã được Kiều cuộn dây từ bỏ, thì tiếng ngân oán hận của nó
vẫn không dứt. Cái lụy gắn chặt với cái tài, tình là chuyện xưa nay vẫn thế. Viết
“tân thanh nói cho đến cùng thì là vì ai mà thương cảm? Cụ thể là người tài sắc
Thúy Kiền, là bản thân hay là người tài tình mọi đời ?” :
Nhất
phiến tài tình thiên cổ lụy,
Tân
thanh đáo đễ vị thùy thương?
Làm Nguyễn Du xác động là cuộc đời của Thúy Kiều. Mà cũng làm
Nguyễn Du xúc động là cuộc đời của Tiểu Thanh. Lý do làm ông xúc động là số kiếp
của những người sắc tài và mệnh bạc. Những nghệ sĩ ít khi gặp may mắn trong cuộc
đời; trong đó có cả chính ông:
Cổ
kim hận sự thiên nan vấn,
Phong
vận kỳ oan ngã tự cư.
Cho nên cái ám ảnh ông không phải là những cuộc đời cụ thể mà
là số kiếp chung. Việc ông đưa vấn đề tài mệnh ghen ghét lên đầu và giải quyết
nó ở cuốn sách, ngoài cả ý nguyện của Thanh Tâm Tài Nhân, là một điểm dụng công
của Tố Như. Không chỉ cái kết luật “Tu là cõi phúc, tình là dây oan” mà cả cái
phương hướng quan tâm đến chuyện của ngàn đời, không tìm từ trong thực tế nội
dung thực của số mệnh cũng làm Nguyễn Du xa chủ nghĩa hiện thực.
Mệnh là màn sương che cái thực, làm con người không những tìm
ra cái thực mà còn làm cho nó không chịu mất công tìm hiểu sự thực. Ngoài ra nó
cũng thành một tiêu đề cho con người lựa chọn cách sống. Trong các học thuyết
triết học ra đời ở Trung Quốc chỉ có Mặc gia chủ trương phi mệnh. Mặc Tử là người
đã nhìn ra sự đối lập giữa vương công đại nhân với nông phu, chức phụ, đã thấy
vương công đại nhân áp bức và bóc lột (chữ tử của Mặc Tử) nông phu, chức phụ,
đã thấy người chủ trương thuyết có mệnh lừa dối dân lao động để dễ áp bức. Ông
lớn tiếng bài bác thuyết có mệnh: “Làm gì có mệnh chỉ có lực (sức của người)
thôi”. Nhưng trong thực tế kinh tế - xã hội kém phát triển, khoa học kĩ thuật
thấp, lý thuyết của Mặc gia cũng khó thuyết phục mọi người. Trong Truyện Kiều, Kim Trọng cũng đã có lúc
nói “Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều”. Đó chỉ là một lời an ủi người
yêu và người nói cũng đã không tự tin lắm. Cả mười lăm năm xa cách, Kim Trọng
cũng không tỏ ra theo đúng triết lý nhân định thắng thiên đó. Nho, Phật, Lão –
Trang đều chủ trương có mệnh và có ảnh hưởng nhất là tư tưởng Nho giáo. Nho
giáo chủ trương biết mệnh, an mệnh, trừ mệnh “Không biết mệnh thì không thể nào
là quân tử được”. Nhưng nếu chỉ biết cúi đầu nghe mệnh thì cũng chỉ là con người
không biết cố gắng, không chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Cho nên Nho
giáo chừa ra hai cánh cửa cho tự do: học hành làm cho con người khác nhau vê
trí và ngu, tu dưỡng làm cho con người có thể “cầu mệnh”, thay đổi số phận cuả
mình. Con người phải chịu trách nhiệm chứ không thể đổ cho số mệnh. Mạnh Tử
nói: “Người biết mệnh không đứng dưới bức tường đổ”. Thể chế chuyên chế về làng
- họ đòi hỏi con người sống theo nghĩa, theo lễ của cộng đồng, không chấp nhận
cá nhân sống theo tài và tình là những cái mang đặc tính cá nhân. Với tài họ đối
lập bằng đức và với tình bằng tính (cái trời sinh ra cũng tức là hiện tâm). Tuy
thế người quân tử của Nho giáo vẫn tìm chỗ khẳng định nhân cách ở đức và tìm tự
do ở học vấn và tu dưỡng. Họ an mệnh, không chống đối làm loạn nhưng lại ra sức
tu nhân, giữ nhân cách và có trách nhiệm. Trong xã hội còn có ảnh hưởng Phật
giáo. Phật giáo chủ trương vô ngã, không giải thích mệnh một cahs dơn giản là mệnh
trời, người chủ thế gian mà bằng thuyết duyên nghieepjtrong thời gian vô cùng.
Con người ấy ra nhân thì chịu quả, duyên nghiệp cứ theo đó mà kéo dài mãi. Đó
cũng là một thứ mệnh, một cái đã là tiền định. Phật giáo không thừa nhận bản
ngã, cái tôi cá nhân vì nó chỉ là sự kết hợp ngũ uẩn. Nhưng nghiệp lại trực tiếp
bắt đầu từ ái tức là sự thèm muốn, sự đam mê lạc thú. Cái đó lại có ở từng người
và công việc chấm dứt nghiệp cũng là công việc tu hành của từng người. Tuy là
nhìn thế giới khác nhau, chủ trương khác nhau nhưng Nho và Phật đều nói đến thiện,
đến tâm, đến tài, đến tình… và về sau không chỉ là quần chúng ít học mà cả những
người tri thức cao cũng lẫn lộn để cho tư tưởng hai bên cũng khác nhau đó dung
hợp với nhau. Ở Nguyễn Du cũng thế. Khi nói tu là cõi phúc, tình là dây oan thì
tu là tu hành theo Phật. Nhưng khi nói “Trời kia đã bắt làm người có thân” thì
lại không phải Phật. Chữ tình, chữ mệnh, chữ tâm hình như còn lẫn lộn thiện
tâm, nếu căn cứ vào việc trình bày đời Thúy Kiều mà không chỉ Nguyễn Du mà cả
sư Tam Hợp cùng hiểu thiện theo tư tưởng Nho gia. Triết lý mà Nguyễn Du đưa vào
Truyện Kiều không có gì mới và sâu sắc.
Nó không đưa lại chút vinh quang nào cho người viết nếu không phải là ngược lại.
Xin nhắc lại đoạn cuối là đoạn Nguyễn Du viết dụng công nhất. Đó là đoạn ông
không viết theo Thanh Tâm Tài Nhân. Một mặt nó đáp ứng nhu cầu thay đổi chủ đề
làm nổi vấn đề tài và mệnh, và mặt khác nó khắc họa một Thúy Kiều khác, không
chỉ là người cam khổ đáng thương mà là một người có nhân cách trọn vẹn, người
mà ông yêu mến chứ không chỉ thương xót, thấy là mình chứ không phải là người
khác. Chỗ khó giải quyết là “Mắc điều tình ái khỏi điều tà dâm” cho nên cảnh gặp
lại hoa xưa ong cũ mà lại “Đem tình cầm sắt đổi ra cầm kỳ”, một cách giải quyết
mà chính Kim Trọng cũng không ngờ tới. Phải đứt tình và bỏ tài. Mà tài của Thúy
Kiều đọc đáo nhất là gảy hồ cầm. Trong Truyện Kiều năm lần Kiều gảy đàn. Cả bốn
lần trước đều là tiếng dàn bạc mệnh. Lần cuối khi với Kim Trọng đã thành “Chẳng
trong chăn gối cũng ngoài cầm thơ”, khi Kiều đã tự thấy thoát khỏi duyên nghiệp,
giành lại được phẩm giá, tiếng đàn trở nên khác hẳn:
Khúc
đâu đầm ấm dương hoà,
Ấy
là hồ điệp hay là Trang Sinh?
Khúc
đầu êm ái xuân tình,
Ấy
hồn Thục Đế hay mình đỗ quyên?
Trong
sao châu nhỏ duềnh quyên,
Ấm
sao hạt ngọc Lam Điền mới đông!
Đó là tiếng đàn hóa sinh, tiếng đàn giải thoát, không chỉ đầm
ấm vui vầy mà còn mới mẻ, tinh khôi. Đó cũng là bản dàn kết thúc, bản đàn lần
cuối cho người tri kỷ, từ đó về sau cũng cuốn dây không gảy nữa.
Cả cuộc đời Kiều đều xảy ra đúng như số mệnh định sẵn. Nhưng
những người trong cuộc nhất là Thúy Kiều lại tính toán suy nghĩ, hành động rất
chủ động đúng với tính cách từng người, sự việc diễn ra đúng với sự tất yếu của
tình thế. Chính điều đó đã làm cho Truyện Kiều phản ánh điều đó một cách chân
thực, làm cho nó thành “quyển sách của hàng ngàn tâm trạng” (Phan Ngọc) đến mức
làm cho người nào đó bói Kiều cũng có
thể gặp một cái gì đó gần gũi với mình. Cao Bá Quát khen “Kim Vân Kiều là một tiếng hiểu đời” cũng chính là nói điều đó. Nhưng Nguyễn Du thở thành hiểu đời, thấy ra
những điều đau đớn lòng không phải theo cách của những người nghệ sĩ hiện thực
xuất phát từ thực tế, đi tìm các mỗi lien hệ xã hội để phát hiện ra cái chân thực,
cái bản chất, cái điển hình có thật đang hiện ra trước mắt. Ông quan tâm đến thực
tại, một thực tại rộng hơn trước nhưng là một thực tại trừu tượng mà ông gọi
là: “cõi người ta” không phải là thực tế thời Lê mạt – Nguyễn sơ mà cũng phải
là thời Gia Tĩnh triều Minh và nhìn nó bằng con mắt “thấu suốt đến ngoài lục hợp,
đến trên ngàn đời” như Mộng Liên Đường chủ nhân nói.
Nguyễn Du không có ý định lựa chọn phương hướng hiện thực chủ
nghĩa, không có ý định xây dựng điển hình từ thực tế. Mà cả cái thực tại “cõi
người ta” không đặt con người trong những quan hệ xã hội cũng không thể nào làm
cho Nguyễn Du thành hiện thực được.
5. Sau truyện Nôm, hát nói là một thành tựu mới của văn học
dân tộc. Hát nói tiếp nối các vấn đề của ngâm khúc và truyện Nôm một cách khác,
cũng phản ánh tính không trọn vẹn của sự phát triển đô thị của nước ta.
Ta hãy trở lại một chút với truyện Nôm, Kiều và Hoa Tiên. Khi viết
Truyện Kiều, Nguyễn Du không chỉ thay đổi chủ đề cuả Kim Vân Kiều truyện, đưa một tác phẩm là tiểu thuyết, văn xuôi theo
tiếng nói thông tục thành một ruyện thơ. Ông còn lược bỏ vài tình tiết và nhiều
chi tiết lien quan đến tư tưởng thẩm mỹ. Kim
Vân Kiều truyện cũng như các truyện ra đời ở đô thị đáp ứng thị hiếu của thị
dân khác, thường đi sâu mô tả những cảnh hành lạc, những quan hệ sắc dục cụ thể
và chi tiết. Trong khi mô tả, những chi tiết của đời sống, của phong tục đang
được trình bày chi tiết. Nếu theo cách suy nghĩ của nhà Nho thì những chi tiết
đó vừa tà dâm về nội dung vừa rườm rà kém trang nhã về mặt nghệ thuật. Truyện
Kiều đã bỏ hết những chi tiết như vậy của Kim
Vân Kiều truyện. Không những các chi tiết trong cảnh lầu xanh, cảnh báo ân
báo oán bị tước bỏ mà cả những con người như Mã Giám Sinh, Sở Khanh cũng trang
nhã lên khá nhiều. Ở một mặt thì điều đó nâng cao nghệ thuật nhưng ở một mặt nó
lại xa cái thực, xa tính đô thị của văn học.
Ngay từ khi ra đời, Truyện Kiều đã được hoan nghênh, hoan
nghênh trong môi trường quan lại, quý tộc sĩ phu chứ chưa đến với đô thị và
nhân dân. Cả đến các Vua Minh Mạng và Tự Đức cũng mê Truyện Kiều. Có hai cách
tán thưởng: một phía cảm thương người tài sắc và một phía thương Kiều đủ điều
hiếu nghĩa, trinh tiết mà lại bị đầy đọa. Không ai đặt ra vấn đề gì trong thực
tế xã hội đẩy con người đến cảnh lầm than như vậy. Không chỉ các nhà Nho, mà cả
vua- về mặt ý thức và văn học nghệ thuật thì Minh Mạng, Tự Đức cũng là nhà nho-
cũng cảm thông sâu sắc với Kiều, cảm thông đến mức thừa nhận Kiều là trinh tiết,
là trung nghĩa. Có lẽ chính điều đó đã làm cho Nguyễn Công Trứ lên án Kiều một
cách gay gắt không bình thường. Tôi nói không bình thường vì một người đa tình,
thích hành lạc, nói sự thích thú đó một cách không giấu giếm, giả dối mà lại
lên án Kiều, mà lại lên án ở điểm trinh thục. Nguyễn Công Trứ kết án Kiều phụ bạc
với Kim Trọng, không thể vin vào chữ hiếu mà che đậy tội lỗi đó:
Chiếc
quạt thoa đành phụ nghĩa với Kim lang,
Nặng
vì hiếu, nhẹ vì tình, ừ cũng phải.
Từ
Mã Giám Sinh cho đến chàng Từ Hải,
Cánh
hoa tàn đem bán lại chốn thanh lâu.
Bây
giờ Kiều còn hiếu vào đâu?
Mà
bướm chán ong chường cho đến thế?
Có lẽ Nguyễn Công Trứ cũng nhằm nói về Kiều mà nói về những
điều che đậy những hành vi không xứng đáng của mình dưới danh nghĩa đạo đức:
Bán
mình trong bấy nhiêu năm,
Đố
đem chữ hiếu mà lầm được ai.
Nghĩ
đời mà ngán cho đời!
Nguyễn Công Trứ đòi hỏi Kiều phải có trách nhiệm. Nhưng nếu
con người còn bị mệnh chi phối thì làm sao có thể tụ do để chịu trách nhiệm?
Xu hướng nhìn văn chương theo quan điểm đạo đức, kéo văn
chương về chức năng giáo huấn hình như đã thắng thế. Người ta lên án Kiều là
dâm thư “Đàn ông chớ kể Phan Trần, Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều”. Vũ Đãi Vấn
chữa Hoa Tiên, Nguyễn Đình Chiểu viết
Lục Vân Tiên theo xu hướng chung.
Không thể dễ hình dung sau Kiều, Lục Vân Tiên có thể mở đầu:
Trai
thời trung hiếu làm đầu,
Gái
thời tiết hạnh là câu trau mình.
Trong Lục Vân Tiên không chỉ Tôn sư, ông quán đều biết trước
cái gì sẽ đến với Vân Tiên mà thần núi, du thần còn can thiệp vào cuộc đời một
cách khá trực tiếp. Quan điểm đạo đức trong Lục Vân Tiên có khi lại còn khe khắt
hơn cả trong Truyện Kiều, truyện Nôm
đến đó đã dừng lại.
Hát nói mà thành công quyết định có thể phải tính từ Nguyễn
Công Trứ và Cao Bá Quát, cũng hình dung con người và cuộc đời theo sự chi phối
của mệnh. Nhưng thái độ thì khác. Cao Bá Quát nổi tiếng về văn là văn chữ Hán
“Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán”. Còn Nguyễn Công Trứ thì tuy là đỗ Giải Nguyên
trường Nghệ vẫn chỉ viết thơ phú Nôm và nhất là hát nói. Hát nói của Nguyễn
Công Trứ hơn bất cứ của ai khác, cũng tiêu biểu cho một khuynh hướng văn học của
thời đại.
Cho đến ngâm khúc và truyện Nôm con người tuy đã có những
tình cảm phong phú, đã có dời sống tâm lí riêng nhưng vẫn chỉ xuất hiện khiêm tốn,
dẽ dặt trước xã hội lễ nghĩa. Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát đã là những “cá
nhân” sống theo mình, bất chấp mọi ràng buộc. Ta hãy đọc Nguyễn Công Trứ:
Vòng
trời đất dọc ngang ngang dọc,
Nợ
tang bồng vay trả trả vay.
Chí
làm trai nam bắc đông tây,
Cho
phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể.
(Chí khí anh hùng. Thơ
văn Nguyễn Công Trứ, tr. 94)
Con người ngang tàng như vậy chưa hề xuất hiện trong văn học
trước đó. Trong bài phú Tài tử đa cùng
của Cao Bá Quát cũng có một đoạn rất đáng chú ý:
Nghiên
gợn sóng vẽ vài điển tịch, nét nhạn điểm lăn tăn,
Bút
vén mây dìu dặt văn chương, vòng thuyền khuyên lổ chổ.
Nghiêng
cánh nhạn, tếch mái rừng Nhan Khổng, chí xông pha nào quản chông gai;
Cựa
đuôi kình, toan vượt bể Trình Chu, tài bay nhảy ngại gì lao khổ.
Lắc
bầu rượu, dốc nghiêng non nước xuống, chén tiếu đàm mời mọc Trích Tiên;
Hóng
túi thơ, nong hết gió giăng vào, cơn xướng họa thì thầm Lão Đỗ.
(Hợp tuyển thơ văn Việt
Nam thế kỷ XVIII- XIX, tr. 512)
Đa tình và thị tài là hai nét khác biệt của nhà nho tài tử, một
hình thức đặc biệt của chủ nghĩa cá nhân khi cá nhân chưa có nền tảng xã hội là
quan hệ tư bản chủ nghĩa ở đô thị phát triển. Cá nhân tồn tại không bình thường
như vậy cũng lựa chọn một triết lí sống, một cách nhìn đời khác khuôn khổ. Nguyễn
Công Trứ là người thị tài nhất, đa tình nhất và cũng là người viết nhiều hát
nói nhất. Thể loại ca khúc ở môi trường hành lạc đó cho phép Nguyễn Công Trứ
nói đầy đủ nhất triết lí cá nhân chủ nghĩa của nhà nho tài tử. Nguyễn Công Trứ
cũng thừa nhận mệnh, thừa nhận sự chi phối của con tạo, những nhìn nó khác Nho
và Phật. Hấp dẫn người tài tử là triết lí Lão- Trang, Lão – Trang chuộng tự
nhiên, phản đối tất cả cái gì là nhân vi: chính trị, đạo đức nằm trong số những
cá nhân vi đó. Nhưng thế giới là một sự biến hóa vô cùng vô tận, cái này và cái
kia chuyển hóa lẫn nhau, và bất cứ cái gì cũng ở trong những giới hạn, con người
không thể can thiệp vào được. Đó cũng là mệnh. Người minh triết biết chỗ mình bị
hạn chế và không làm việc vô ích là hòng thay trời (tự nhiên). An mệnh theo Lão
– Trang không giống an mệnh, chờ mệnh theo kiểu Nho gia nhưng cũng là thấy chỗ
mình bất lực, không dại dột ganh đua với tự nhiên. Bài học mà nhà nho tài tử
rút từ triết lý đó không phải là minh triết, trường sinh cửu thị mà là lợi dụng
những khe hở của mệnh để hành lạc. Nguyễn Công Trứ viết: “Ngẫm cho kỹ chí bất
nhân là tạo vật; đã sinh người lại hẹn lấy năm”. Con người không được sống mãi
mãi mà chỉ sống trong hạn một trăm năm. Nhưng cái định trước như vậy cũng không
chỉ có mặt hại:
Song
bất nhân mà lại chí nhân,
Hạn
lấy tuổi để mà chơi lấy.
Cuộc
hành lạc được bao nhiêu lãi đấy,
Nếu
không chơi thiệt ấy ai bù?
Nghề
chơi cũng lắm công phu.
(Việt Nam ca trù biên
thảo, tr. 251)
Hành lạc là tự khẳng định, không phải khẳng định bằng đức mà
là bằng tài tình, bằng cái khoái cảm “thích chí” được “ta vẫn là ta”:
Cầm kỳ thi tửu
khách.
Đường ăn chơi mỗi
cách mỗi hay.
Đàn năm cung réo
rất tính tình dây,
Cờ đôi nước rập
rình xe ngựa đó.
Thư một túi phẩm
đề câu nguyệt lộ.
Rược ba chung
tiêu sái cuộc yên hà.
(Nguyễn Công Trứ, Chơi cho phỉ chí. Việt Nam ca trù biên khảo,
tr.312)
Trong cuộc hành lạc phải vẫy vùng cho phỉ chí, phải cho đáng
mặt tài tình:
Người cõi thế
trăm năm là mấy nhỉ?
Sách có chữ “nhân sinh thích chỉ”
Đem ngàn vàng đổi lấy trận cười,
Chơi cho lịch mới là chơi.
Chơi cho đài các, cho người biết
tay,
Tài tình để mấy xưa nay.
(Nguyễn Công Trứ. Bài trên)
Cá nhân không tự khẳng định bằng tu thân mà bằng thích chí
hành lạc là một nét mới. Nhưng hành lạc thì cũng chỉ là bằng cầm kỳ thi tửu, tất
nhiên là gảy đàn, uống rượu cạnh giai nhân, không chỉ có cảnh mà còn phải gán với
tình nữa. Nguyễn Công Trứ là người nổi tiếng đa tình. Ông là nhà nho công khai
nói đến cái khổ tương tư và cũng không né tránh nói cả chuyện “Lênh đênh một
chiếc thuyền nan; một cô thiếu nữ một quan đại thần.”, cả chuyện “Gót tiên theo
đủng đỉnh một đôi dì” lên cửa Thiền nữa. Người tài tử ham sống và cũng tham lam
hưởng thụ. Ở đời họ muốn có cả công danh sự nghiệp, có cả những thú vui đủ loại.
Trước sự cám dỗ của đủ thứ nợ phong lưu, họ không khắc kỷ, chờ đợi mà tính
toán:
Giả
giả, vay vay lâu cũng hết,
Ky ky, cóp cóp chắc
hơn ai.
Chỉ chịu thua tay chú
thợ trời,
Khéo tỉ mỉ nặn ra người
làm múa rối.
Nào nhục, nào vinh,
nào hiển hối,
Mặt ra hề thay đổi mấy
mươi phen.
Chẳng gì hơn rượu
thanh thơ tiên,
Trời đất ghét ghen chi
với hắn.
(Nguyễn Công Trứ, Nợ phong lưu. Việt Nam ca trù biên khảo, tr. 325)
Cũng lại là mệnh! Mệnh đã bắt
thì cũng không tránh thoát nhưng họ cũng cứ tìm sự chử động trong thế bị động
không chịu làm con rối cho Tạo hóa. Cách tìm tự do là làm “ông ngất ngưởng” sống
với đời nhưng không chịu lụy:
Được mất dương dương người Thái thượng,
Khen
chê phơi phới ngọn Đông phong.
Khi
cầm, khi kỳ, khi tửu, khi cắc, khi tùng,
Không
Phật, không Tiên, không vướng tục.
(Nguyễn Công Trứ. Ông ngất ngưởng. Việt Nam ca trù biên khảo, tr. 331)
Ông ngất ngưởng cũng thua số mệnh
và cũng không tránh được là thần tử. Nợ quân thân thì phải gánh vác mà nghĩa
vua tôi thì cũng phải “vẹn đạo sơ chung”. Người tài tử đã có ý thức về cá nhân,
đã khao khát tự do và cũng đã ngang tang chống đối. Nhưng họ vẫn quý tiếng thơm
mà ghét lợi, vẫn khinh bỉ dân đô thị:
Đói
rau rừng, thấy thóc Chu mà giả; đá Thú Dương chơm chởm, xanh mắt Di nằm tót
ngáy o o;
Khát
nước sông, trông dòng đục không vơ; phao Vi Thủy lênh đênh, bạc đầu Lá ngồi dai
ho lụ khụ.
Trông
ra nhấp nhô sóng nhân tình,
Ngoảnh
lại vật vờ mây thế cố.
Ngán nhẽ
kẻ tham bề khoá lợi, mũ cánh chuồn đội trên mái tóc, nghiêng mình đứng chực
cửa hầu môn;
Quản bao người mang
cái dàm danh, áo giới lân trùm dưới cơ phu, mỏi gối quỳ mòn sân tướng phủ.
Khéo ứng thù những đám quan
trên;
Xin bái ngảnh cùng anh phường
phố.
Khét mùi thế vị chẳng thà
không!
Thơm nức phương danh nên mới
khổ.
(Cao Bá Quát, Phú Tài tử
đa cùng. Hợp tuyển thơ văn Việt Nam)
Khinh bỉ việc bái ngành cùng anh phường phố, tức là nhập cuộc
vào đời sống đô thị thì đâu có thị tài, đa tình đến đâu vẫn không thành cá
nhân. Và với số mệnh – hiểu theo Nho, theo Phật hay theo Lão – Trang – sự vùng
vẫy của con người cũng chỉ là bất lực, thất bại đó. Nguyễn Công Trứ khá tỉnh
táo:
Danh giả tạo vật sở kỵ,
Ghét chứng chi ghét mãi ghét
hoài?
Lúc tuổi xanh chi khỏi cậy
tài,
Sức bay nhảy tưởng ra ngoài
đào chú.
Đâu chàng hám chấn dao mấy độ,
Cũng trơ trơ trích trích
không nao.
Càng phong trần, danh ấy lại
càng cao,
Với con người bất trị ấy, Tạo hóa có ghen ghét thì cũng đúng
và số mệnh càng giày vò thì danh càng lớn. Họ cũng chẳng thua thiệt. Nhưng đến
khi đã già cả “mùi hoan huống, nét phong lưu đều rũ sạch” tức là đã bỏ tài, bỏ
tình, bỏ tham vọng không còn coi thường oai quyền con Tạo nữa mà vẫn cứ bị số mệnh
ghét ghen đày đọa. Thực là một con Tạo độc ác “Trẻ chẳng thương, già cũng chẳng
tha”. Nguyễn Công Trứ cũng là người hiểu đời. Trong cảnh hàn nho ở nông thôn,
ông cũng thấy không ít những điều đáng xót xa trong nhân tình thế thái. Trong cảnh
quan trường, ông cũng thấy không ít cảnh ghét ghen chèn ép. Nhưng dầu bực bội mấy,
ông cũng không nhìn ra nguồn gốc của sự bất công, không gạt được mệnh và Tạo
hóa sang một bên để nhìn con người trong những quan hệ xã hội, tức là nhìn đúng
thực tại.
Ngâm khúc, truyện Nôm và hát nối kế tục nhau trong thời gian
mà cũng kế thừa nhau trong nội dung và hình thức. Trong một trăm năm sự phát
triển không khỏi gây cảm giác trì trệ, quanh quẩn. Điều đó là rất khác với tình
hình ở phương Tây mà cũng khác cả Trung Quốc, Nhật Bản ở phương Đông. Đô thị
không phát triển thì quan hệ tư sản không thành chủ yếu, cá nhân không thành thực
thể, không từ đó mà nhìn ra nguồn gốc của những bất công xã hội, giải thoát khỏi
những đám mây mù tôn giáo. Không có kinh tế đô thị thì cũng không có khoa học
giúp cho con người thấy đúng xã hội và con người, là điều kiện rất quyết định để
thành hiện thực chủ nghĩa. Với khuynh hướng về thực tại, với chủ nghĩa nhân đạo
phát triển từ rất sớm, đến đây thực tại có thể thấy rộng hơn, cảm nhận khá sâu
sắc nhưng cũng không thành một khuynh hướng thẩm mỹ coi trọng cái thực. Không
có văn xuôi, chưa có tiểu thuyết, kịch mà chỉ có thơ với lời thơ trang nhã cũng
lại là một hạn chế nữa để khó thành hiện thực.
Lê Đinh Kỵ và Phan Ngọc dung hai phương pháp khác nhau phát
hiện rất thấu đáo nghệ thuật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều và cả hai đều thấy
không phải dễ dàng coi Nguyễn Du là nhà văn hiện thực chủ nghĩa, nếu như không
hiểu chủ nghĩa hiện thực “một cách linh hoạt”. Phải chăng nên nhìn văn học
phương Đông – và cả văn học Việt Nam cũng không hoàn toàn giống các nước phương
Đông khác – có con đường phát triển khác, có những thành tựu có tính chất khác?
Văn học các dân tộc đều có những con đường riêng, đều đạt đến những thành tựu
riêng khác nhau. Nhưng cũng có những thành tựu đánh dấu các trình độ phát triển
chung, có ý nghĩa toàn thế giới. Và những con đường dẫn văn học từng dân tộc
tham gia vào trình độ phát triển chung hoặc từng vùng, hoặc toàn thế giới. Nếu
không đảm bảo tính chặt chẽ của nội dung các thuật ngữ như “hiện thực chủ
nghĩa” mà tìm sự tương ứng một cách linh hoạt thì vừa không thấy giá trị độc
đáo trong sự đa dạng, vừa không thấy những cái tất yếu mà loài người phải trải
qua để tiến lên bước cao hơn. Truyện Kiều vẫn cứ là một tuyệt tác mà vẫn không
phải hiện thực chủ nghĩa. Nó phát huy tuyệt vời những di sản nghệ thuật cũ chứ
không phải mở ra con đường mới. Tình trạng phát triển đô thị và các quan hệ
kinh tế - xã hội của phương Đông lúc đó chưa cho phép ra đời những tiên đề của
chủ nghĩa hiện thực, Trực tiếp nhất đối với văn học là quan niệm thực tại là tư
tưởng mỹ học của những người sang tác ngâm khúc, truyện Nôm và hát nói đều
không thuận lời cho điều đó. Con đường đến chủ nghĩa hiện thực ở đây theo nẻo
đường khác.
IV. TỪ KỂ SỰ THẬT ĐẾN HIỆN THỰC, VỊ TRÍ CỦA VÈ VÀ THƠ TRÀO PHÚNG
1. Đầu thế kỷ XX, ta chứng kiến một sợ đổi thay có ý nghĩa rất
căn bản trong sự phát triển của văn học Việt Nam. Văn, thơ, phú lục của nhà nho
đã mấy thế kỷ được độc quyền coi là văn chương, đến đây mất giá; kịch nói, tiểu
thuyết, thơ tự do (dùng với ý nghĩa tương đối so với thơ luật) là những thể loại
trước đây không có, đến đây xuất hiện. Thơ, kịch, tiểu thuyết – bộ ba của văn học
hiện đại – được hoan nghênh và nhanh chóng thay thế vị trí của văn, thơ, phú, lục.
Quá trình thay đổi đó được đánh dấu bằng sự ra đời của tiểu thuyết, kịch nói và
thơ mới tức là từ năm 1916 (?) đến năm 1932. Nếu so với nền văn học cổ truyền –
không phải cổ đại hay cổ điển – kéo dài từ thế kỷ XI đến XIX thì đây là một bước
ngoặt, xét về tính chất là đột biến, xét về tốc độ là rất nhanh chóng. Văn học
Việt Nam từ đây trở thành cùng loại với nền văn học có ý nghĩa phổ biến toàn thế
giới đương đại, khác với văn học truyền thống có tính chất chung của vùng văn
hóa Đông Á.
Trước thế kỷ, văn học của ta có hai dòng cách biệt: bác học
và bình dân. Mỗi dòng đều có người sáng tác, công chúng, đề tài, đề tài đời sống
văn học, phương thức truyền bá riêng; đều được sáng tác theo những quan niệm
văn học, tư tưởng thẩm mỹ, bằng những thế loại nhất định và không giống nhau.
Văn chương bác học là của nhà nho, văn chương bình dân là của nhân dân lao động
(chủ yếu là những người nông dân). Hai dòng tuy khá cách biệt nhau nhưng đều là
sản vật nông thôn; ở một góc độ nào đó cả hai có khác bộ phận văn học cung đình
nhỏ bé. Văn học cung đình nói chung cũng xếp vào văn chương bác học. Sự cách biệt
đó đã có lúc có cơ được xóa nhòa. Đó là lúc xuất hiện truyện Nôm, tôi muốn nói
truyện Nôm tài tử giai nhân. Khi những nhà nho, phải chăng cũng nên nói thêm là
thuộc tầng lớp thượng lưu nhất, thậm chí là xuất thân từ quý tộc sống ở kinh kỳ,
tức là một loại đô thị phong kiến, viết thơ ca, ngâm khúc, truyện Nôm tỏ sự đồng
tình với những người gặp hoàn cảnh bất công, ngang trái, chịu số phận hẩm hiu với
một thái độ nhân đạo chủ nghĩa, thì tuy họ cũng mới chỉ nói đến những bậc tài
tình, những người tài sắc, nhân dân lao động vẫn cứ thích thú. Nhân dân lao động
vẫn tìm được trong câu chuyện, lời thơ của họ những cảm xúc, những suy nghĩ đồng
điệu mà ca dao, hò, vè của họ không đủ sức khái quát để nói lên được. Khi dùng
các thể loại dân tộc để viết truyện, các nhà nho suốt đời học chữ Hán tự nhiên
phải đi sâu vào tiếng nói và tâm tình của nông dân. Sự tiếp xúc từ hai phía đó
mở một của thông, một vác dấu nối, tạo ra con đường ảnh hưởng qua lại giữa hai
dòng văn học. Nhưng trong đời sống văn học chưa bao giờ sang tác các quốc âm ấy
giành được vị trí chính thống. Ở nước ta kể cả thời kỳ có Nguyễn Du, Nguyễn
Công Trứ, Cao Bá Quát, và đáng chú ý ở đây là cả trong thực tế chống xâm lược
cuối thế kỷ XIX, rất nhiều nhà nho viết văn thơ yêu nước thì quan niệm văn học
Nho giáo văn không bị lung lay mà ngược lại.
Đầu thế kỷ này mới xuất hiện nền văn học nhìn vào cuộc sống
bình thường, có thái độ thế này hay thế khác hay thế khác với một thực tế khách
quan, đồng thời văn học mới tách ra khỏi học thuật thành một bộ môn nghệ thuật,
viết văn mới thành một nghề, văn sĩ mới thành nghệ sĩ. Tiểu thuyết, kịch nói và
thơ tự do không chỉ chỉ sự tiếp nối thông thường của tiểu thuyết chương hồi, của
tuồng, chèo, của thơ phú cổ truyền, mà đây là một sự gián đoạn, một sự phá vỡ
thật sự quan niệm văn học cổ truyền. Đáng chú ý là không phải chỉ có người Tây
học, dốt chữ Hán, có thị hiếu văn học sùng ngoại, mất gốc mới chán ghét văn,
thơ, phú, lục. Cả các nhà nho cũng chán nó. Những nhà yêu nước lớn, đồng thời
cũng là những nhà khoa bảng nổi tiếng, những bậc thầy của văn, thơ, phú, lục hồi
đó như Nguyễn Thượng Hiền, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh đã lên tiếng và thuyết
phục được cả một thế hệ nhà nho coi văn chương cổ là kỹ xảo đẽo gọt, là đồ vô dụng,
làm nước yếu dân hèn. Không phải họ bỏ văn chương nhưng đã đổi cách viết.
Bước ngoặt trong văn học xảy ra tương ứng với sự xác lập thể
chế kinh tế - xã hội thực dân nửa phong kiến. Bên cạnh thực tế mất nước là quá
trình tư sản hóa, là quá trình Việt Nam tham gia vào đời sống chung của thế giới
hiện đại. Công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa đã hình thành cuối thế kỷ XIX
nhưng đến đầu thế kỷ XX mới làm xuất hiện các thành phố. Thành phố đã trở thành
trung tâm kinh tế chính trị, văn hóa thay thế vị trí cung đình chi phối nông
dân. Các tầng lớp thị dân mới đông dân làm ra kết cấu vua quan và tứ dân ngày
trước, đưa vị trí tư sản lên vị trí lãnh đạo trong xã hội. Cả nước hình thành
thị trường chung. Sự thống nhất dân tộc hình thành từ nhiều thế kỷ trước – với
điều kiện kinh tế và giao thông mới – cũng được củng cố hoàn thành. Việt Nam là
nước thuộc địa của Pháp nhưng ở vị trí phụ thuộc như vậy nó có sự giao lưu với
hệ thống tư bản chủ nghĩa thế giới. Việc chính quyền thực dân cưỡng bức dùng chữ
quốc ngữ, học chữ Pháp và văn học Pháp, việc ra đời của báo chí, nhà xuất bản,
việc dịch tiểu thuyết Tây, tiểu thuyết Tàu tạo ra một công chúng văn học mới, một
đời sống văn học mới, mang tính đô thị, đều có tác dụng trực tiếp làm thay đổi
chiều hướng phát triển của văn học.
2. Sự thay thế của nền văn học mới đối với nền văn học truyền
thống đánh dấu bằng sự khẳng định các thể loại mới: kịch nói Chén thuốc độc của Vũ Đình Long năm
1921, tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc
Phách năm 1925, thơ mới Nhớ rừng của
Thế Lữ năm 1932. Và nếu bàn về chủ nghĩa hiện thực thì với các tác phẩm của
Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng ra đời vào nửa cuối những năm 30.
Từ đó, ngược lên những năm cuối cùng của những năm XIX là quá trình chuyển hướng,
quá trình chuẩn bị cho cái mới ra đời. Trong quá trình đó tồn tại những hình thức
trung gian chuyển tiếp. Tôi hướng sự chú ý vào những năm cuối cùng của thế kỷ
XIX nền văn học đang phát triển trong quỹ đạo truyền thống. Ở đây sự chuyển hướng
xảy ra cả trong những lĩnh vực lí luận, cả trong lĩnh vực sáng tác.
Về lí luận, mở đầu là việc các nhà thơ nho Duy tân lên án văn
chương cử tử, chủ chương một nền văn học cứu nước và duy tân. Tiếp theo là việc
Phạm Quỳnh đề xướng quốc văn, quốc họ và Ngô Đức Kế phê phán phong trào sùng
bái Truyện Kiều. Tiếp đó là sự tranh luận Thơ mới, Thơ cũ. Và cuối cùng là cuộc
tranh luận xung quanh vấn đề nghệ thuật vị nghệ thuật hay vị nhân sinh, vấn đề
văn học tả chân, tức hiện thực chủ nghĩa. Những sự kiện vừa kể vừa phản ánh khá
rõ quá trình từ trong nền văn học truyền thống, từng bước phủ định quan niệm
văn học cổ, gia nhập vào trào lưu văn học thế giới và tiếp cận nhanh chóng và
khuynh hướng mới nhất của thế giới đương đại.
Bên cạnh hoạt động lý luận đó, sáng tác cũng đi rất nhanh từ
văn, thơ, trào phú, lục sang thơ, kịch, tiểu thuyết hiện đại. Có hai con đường
đi từ cũ sang mới: các nhà nho cách tân các thể loại cổ truyền và một số thanh niên
Tây học mô phỏng văn học phương Tây, trước hết là văn học Pháp, để sáng tác
thơ, kịch, tiểu thuyết.
Theo con đường thứ nhất – cách tân các thể loại cổ truyền –
ta có thể lấy hai ví dụ tiêu biểu: Phan Bội Châu và Tản Đà.
Phan Bội Châu là một nhà nho yêu nước, dùng văn học để tập hợp
lực lượng dân tộc, đấu tranh cho độc lập và dân chủ. Phan Bội Châu cũng là người
có nhiều cố gắng cách tân nghệ thuật nhất để thực hiện mục đích trên. Nếu so
sánh các truyện chí sĩ trong Việt Nam
nghĩa sử, các truyện ngắn như Tái
sinh sinh, Nhà sư ăn rau với các “liệt truyện” mà các nhà chép sử trước đây
dùng để chép truyện danh nhân; nếu so sánh Trùng
Quang tâm sử với tiểu thuyết chương hồi, tuồng Trưng nữ vương với tuồng cổ, nếu nghiên cứu cách viết đủ loại kêu gọi,
và cả thơ phú của Phan Bội Châu nữa thì ta có thấy rõ ràng Phan Bội Châu đã viết
không giống các nhà nho trước đây, kể cả các nhà nho cuối thế kỷ XIX.
Tản Đà cũng là một nhà nho, một nhà nho tài tử, dùng văn để
nói cái tôi tài tình trong xã hội tư sản. Ông cũng là người thành công lớn
trong cách tân nghệ thuật. Tản Đà nâng các ca khúc như xẩm lý, hát xoan, hát hò
đưa thành những bài thơ. Ông viết tiểu thuyết, tiểu thuyết, truyện ngắn, viết
báo. Nếu so những bài lục bát, song thất, hát nói của Tản Đà với các bài viết
trước ông thì thấy Tản Đã đã viết khác trước.
Cả hai người đều sử dụng các thể loại truyền thống. Nhưng để
có nội dung của thời đại mới họ đã cách tân nghệ thuật thành có phong cách
riêng, mới, khác hẳn trước. Tản Đà từ là một nhà nho ra sống ở thành phố, trở
thành nhà bảo, nhà văn sống bằng ngòi bút. Phan Bội Châu không làm nghề viết
văn, nhưng là nhà hoạt động chính trị, là lãnh tụ chính đảng, ông phải dùng văn
chương để tuyên truyền tập hợp quần chúng. Vận mệnh của hai người khác hẳn với
vận mệnh của các nhà nho trước đây. Sáng tác của hai người, nhất là của Tản Đà,
trong bước đầu thay đổi đó, đi xa quan niệm, của văn học Nho học. Nhưng khi bản
về văn chương, cả hai đều giữ những quan niệm khá cũ. Cả hai không thoát khỏi
quan niệm văn chương đạo lý.
Con đường thứ hai, con đường mô phỏng văn học phương Tây là
con đường của rất nhiều thanh niên Tây học. Từ con đường đó xuất hiện cả thế hệ
nhà văn, nhà thơ ba bốn chục năm sau. Đây là con đường đi từ báo chí đến văn
nghệ, từ phong tác đến sáng tác. Để đi vào con đường đó đã có những điều kiện để
chuẩn bị. Trước hết là lớp thanh niên vào trường học tiếng Pháp, văn chương
Pháp, biết thưởng thức văn học theo cách mới, và thích thú tiểu thuyết, kịch
nói và thơ Pháp. Cả những người am hiểu văn chương cổ cũng thừa nhận ưu thế của
văn học châu Âu, nhất là cách kể, tả đúng như thực của nó. Thứ hai là về ngôn
ngữ đi từ việc dùng tiếng nói thường ngày thông dịch cho người Pháp đến bổ sung
từ vựng cho phong phú, trau dồi tiếng nói cho thanh lịch, chính xác, có hình ảnh
để dịch các tác phẩm văn học. Thứ ba là tập viết từ những mẩu tin, những bài tường
thuật, phóng sự, bình luận trên báo cho đến những mẩu truyện ngắn. Với những điều
kiện chuẩn bị như vậy, nhiều người đã chuyển sang viết truyện, viết kịch với những
đề tài trong thực tế Việt Nam. Trong một thời gian không ngắn, các tác giả Pháp
là mẫu mực cho nên văn học mới ra đời đó.
Cả hai con đường cách tân và mô phỏng đều thích ứng, đáp ứng
một xu thế tất yếu; xã hội đang tư sản hóa, con người chức năng trong luân thường
cá nhân hóa, quốc tế hóa, văn đang văn nghệ hóa. Sáng tác văn học thành là món
hàng nghệ sĩ đem bán cho công chúng, phải chiều theo đòi hỏi của khách hàng,
không thể chỉ thuyết minh Đạo, Lý, bộc bạch Tâm, Chí của tác giả được. Công
chúng thị dân muốn biết, muốn nếm trải cuộc sống. Thực hay giả thì cũng phải là
cuộc sống, được trình bày thành câu chuyện có những chi tiết ly kỳ hấp dẫn, gây
xúc động như trong tiểu thuyết ái tình, tiểu thuyết phiêu lưu, kiếm hiệp, trinh
thám… mà họ đã thường thức trong các bản dịch. Nhà văn phải bỏ Đạo, Lý để nói
thực tế. Nếu có tưởng tượng, bày đặt thì cũng phải giống thực tế. Đó là một đổi
thay ít ồn ào nhưng cái quan trọng để văn học đi từ cổ truyền đến thị dân hóa,
đương đại hóa mà thành văn học hiện đại.
3. Chưa đến hai chục
năm sau khi nền văn học mới ra đời chủ nghĩa hiện thực đã giành được vị trí
quan trọng trong công chúng họa. Nó tìm được mảnh đất để bám rễ vào truyền thống.
Tôi muốn nói đến vè và thơ trào phúng với ý nghĩa là khâu trung tâm nối liền chủ
nghĩa hiện thực hiện đại.
Cuối thế kỷ trước, trong lúc phong trào chống Pháp nổ ra khắp
nước, quân đội xâm lược cùng với lính Nam triều thi nhau đốt phá, cướp bóc, giết
chóc khắp nơi. Rồi chính quyền thực dân xác lập “đo đất, đếm người” đặt thêm
nhiều thứ sưu thuế, cưỡng bức dân phu đi làm đường, khai mỏ, mở đồn điền. Chính
quyền mới vươn dài bàn tay xuống nắm lấy thôn xã, phá thế tự trị, phá sản nông
thôn, làm nhiều người phải bỏ làng, bỏ xóm. Tất cả làm náo động cuộc sống xưa
nay vốn bình yên của làng. Và kể những chuyện đánh Pháp, cảnh làng xóm làng xóm
bị đốt phá, sự tàn ác, hống hách của quân Tây, sự hèn nhát và thối sách nhiễu của
quan lại, hào cường và kể lể nổi nhực của người dân mất nước.
Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, nhiều nhà nho làm thơ trào
phúng vạch mặt bọn bán nước, bọn đầu cơ hãnh tiến, tố cáo cảnh nhố nhăng lúc
giao thời, sự tham nhũng hèn hạ của đám quan lại, sự biến chất của các nhà khoa
bảng, những trò hề của thực dân…
Cả hai loại văn chương đó vẽ lên một bức tranh khá chân thực,
khá sinh động của quang cảnh hình thành chế độ thực dân nửa phong kiến.
Vè là một thể loại kể chuyện. Trước đây trong cuộc sống im
lìm chật hẹp của thôn xóm, dưới chế độ chuyên chế phương Đông, vè thường được
sáng tác trong những dịp thôn xóm có chuyện lạ. Vè thường lưu hành giấu tên, phản
ánh một dư luận, nên ra một công luận có dụng ý đả kích. Trong đa số trường hợp
cuộc sống chật hẹp làm cho đề tài đả kích của vè thành khá vụn vặt: một vụ lừa
đảo, một cô gái chửa hoang, người đàn bà chanh chua, nàng dâu bất hiếu với mẹ
chồng… Tiếng cười nhiều khi sâu cay, nghệ thuật có khi sắc sảo nhưng về mặt xã
hội cũng như về mặt văn học, loại vè đó không có giá trị gì nhiều, thường là
lưu hành ít lâu trong khu vực hẹp rồi bị quên lãng. Đến đây vè nói chuyện đánh
Pháp, nói nỗi khổ do quân thù gây ra, tuy cũng là chuyện từng vùng, nhưng lại
cùng là chuyện chung của cả đất nước. Sự việc kể ra cũng có lúc vụn vặt, nhưng
cũng là chuyện dân, chuyện nước. Tuy trong vè cũng còn nhiều lời than thở, phẩm
bình, nhưng điều quan trọng là nó kể chuyện có thật và trong nhiều bài, có yếu
tố nghệ thuật kể chuyện và mô tả cụ thể, sắc sảo.
Trào phúng là một loại thơ trước đây không phát triển lắm. Có
lẽ không phải chỉ vì thời gian đã xóa mờ mất nhiều bài trong trí nhớ của nhân
dân, gây khó khăn cho việc sưu tầm mà còn vì trào phúng trái với quan niệm làm
văn, làm thơ của nhà nho, trên thực tế tác phẩm cũng không có nhiều. Nhà nho chủ
trương một thái độ xử thế đôn hậu, một thứ văn chương chính đạo, nghiêm chỉnh.
Họ vừa ghét “đôi lai, đôi mách” vừa ghét những lời đả kích, châm chọc “nói cạnh,
nói khóe” xỏ xiên, không trung hậu. Nhà nho khó thích cả vè lẫn thơ trào phúng.
Nhà nho Việt Nam cũng không ít nghịch ngợm, dám đơ cả thơ phú
trang nghiêm để nói những cái tục tỉu, bẩn thỉu, không từ cả việc xuyên tạc chữ
nghĩa thánh hiền. Nhưng thứ sáng tác không đúng đắn đó chỉ là chuyện đùa, chuyện
tếu, phát tiết cái tinh nghịch bị ức chế, giữa vài ba người bạn thân “cấm ngoại
thủy không ai được biết”, và ít đụng đến người khác. Đối với những chuyện trang
nghiêm, nhà nho phải khen chê một các nghiêm trang. Đối với những cảnh chói tai
gai mắt, những câu chuyện xấu xa mà theo quan điểm đạo đức, họ thường nhìn
thành chuyện “ thương luân bại lý”, nhà nho quen phê phán bằng những lời búa
rìu nghiêm khắc hay bằng những lời cảm thán xót xa. Nếu có đả kích thì cũng là
trào phúng, nói bóng gió, chế giễu nhằm mục đích khuyên răn, can ngăn. Văn
chương nhà nho không nhằm trình bày, mô tả sự thật khách quan mà nhà nho nhằm bộc
bạch, gửi gắm tâm sự. Nhà nho làm thơ cho chính mình, cho người đồng điệu, chứ
không phải cho công chúng; tranh thủ sự đồng cảm với tâm sự chứ không giành sự
tán thưởng đối với một cái nhìn sắc sảo. Quan niệm văn học như thế là một cản
trở lớn cho thơ trào phúng là thứ văn chương phanh phui, lật mặt trái, bóc trần
sự thật, có tính chất trí tuệ và cần có công chúng hưởng ứng.
Đến đây có nhiều cảnh chướng tai gai mắt do quân xâm lược, do
phương Tây, do xã hội tư sản xa lạ đưa vào cuộc sống làm cho nhiều nhà nho
không chịu nổi, bật lên thành tiếng cười đả kích. Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Huyện
Móm, Kép Trà… ra đời nối tiếp nhau. Có người hứng thú đặc biệt với thơ trào
phúng, với chuyện làm thơ đả kích. Nhà nho làm trào phúng và thơ trào phúng
thành một dòng liên tục có ý nghĩa là sự phủ định đối với quan niệm văn học Nho
gia, sự phủ định đối với nền văn học cổ truyền mà nhà nho là người sáng tác là
chủ yếu.
Một mặt, đề tài vè của nông dân có ý nghĩa chung, trong phạm
vi rộng, mặt khác làm nhà nho làm thơ trào phúng và tham gia cả vào sáng tác
vè. Cả hai tầng lớp bị thực tế thu hút cả vào một cảm hứng sáng tác văn học. Họ
đã thành những người đồng cảnh để cùng đứng trên lập trường dân tộc tố cáo hiện
thực xấu xa của chế độ phong kiến và thực dân, Ranh giới giữa văn chương bác học
và bình dân, một ranh giới mang ý nghĩa đẳng cấp của xã hội cũ trở nên mờ nhạt.
Ý thức dân tộc được nâng cao làm nảy nở tư tưởng quốc dân, quan hệ đồng bào mà
cũng làm cho văn học dân tộc để đi đến nhất thể.
Trong cả thời kỳ Pháp thuộc, văn học yêu nước phát triển mạnh
và liên tục. Nhưng nếu cuối thế kỷ XIX ta gặp trong đó những lời bộc bạch tâm
tình yêu nước, rao giảng nghĩa lý. Cần vương, giết giặc, kích động tâm can,
nghĩa khí của nhiều văn thân chống Pháp từ Nam chí Bắc, đầu thế kỷ XX, ta chứng
kiến việc ra đời hàng loạt bài diễn ca dùng thể lục bát, vè, dân ca dùng để giải
thích, tuyên truyền cổ động. Loại diễn ca đó còn được sử dụng rộng rãi về sau
này để giải thích về chủ nghĩa công sản, để phổ biến đường lối của Đảng Cộng sản,
để giới thiệu Liên Xô. Điều làm ta chú ý là cả các nhà khoa bảng lớn cũng cố gắng
học trong vè cách kể chuyện, mô tả cảnh mất nước, nỗi đau xót, nhục nhã đều
khơi gợi tinh thần yêu nước, dùng lối văn nôm na, dễ hiểu, những hình cảnh thường
ngày để giaingr giải tư tưởng dân chủ, thuyết phục mọi người đoàn kết cứu nước.
Trong văn học mới ra đời ở thành thị vào thời mặt trận Bình
dân đã xuất hiện một số tiểu thuyết có khuynh hướng hiện thực phê phán: Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan, Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Số đỏ, Giông Tố, Vỡ đê của Vũ trọng Phụng.
Ngoài ra còn một số truyện ngắn, phóng sự của nhiều tác giả đi theo khuynh hướng
đó. Các tác giả đó đã khắc họa khá rõ nét những tên quan lại ôm chân đế quốc, học
đòi tư sản, những cường hào ở nông thôn, những nhà tư bản, những tên công chức
sống bừa bãi vô đạo lý… Đối tượng phê phán của họ là xã hội thực dân nửa phong
kiến. Đáng chú ý là các sáng tác của Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng
và nhất là của Nguyễn Công Hoan ta dễ thấy không những là cảm hứng mà cả bút
pháp trào phúng nữa.
Trong các công trình nghiên cứu văn học hiện đại của ta thường
chia ra hai dòng yêu nước và hiện thực. Ở giai đoạn trước khi nói đến vè chống
Pháp, người ta thường nói đến cả hai tính chất đó. Vè, một thể loại văn học dân
gian, thơ trào phúng, thể thơ thất ngôn trước đây phải chăng đã là chiếc cầu nối
mà văn học mới, có tính đô thị, có tính hiện đại, đã tìm được để bắc quan với
truyền thống? Là mảnh đất xới sẵn cho chủ nghĩa hiện thực?
Càng đáng chú ý là các tác phẩm văn học hiện thức phê phán của
ta không chĩa mũi nhọn vào những quan hệ kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa hiện
thực thế giới mà tập trung sự chủ ý nhiều hơn ở những quan hệ, nhiều khi là
tình nghĩa, trong xã hội nông thôn và phong kiến. Tất nhiên điều đó phản ánh
đúng những thực tại của nước ta lúc đó. Cũng đáng lưu ý là dòng văn học khi ra
đời có dụng ý đối chọi với Tự lực văn đoàn và văn học lãng mạn đang thịnh hành
trong văn đàn, nhưng không có ý đối lập với chủ nghĩa lãng mạn về phương pháp
sáng tác. Phải chăng có một con đường riêng của Việt Nam – ít nhiều giống văn học
của vác nước thuộc địa, các nước Đông Á – gia nhập vào quỹ đạo văn học thế giới
bằng những bước gấp gáp chạy cho kịp văn học đương đại? Và trên đà phát triển
như vậy thì vè chống Pháp và thơ trào phúng đã làm bệ phóng cho nó?
4. Nền văn học từ
rất sớm đã hướng vào thực tại cho mãi đến hết thế kỷ XIX cũng chưa mang trong
nó khả năng chuyển sang văn học hiện thực chủ nghĩa. Từ nền văn học cổ truyền
đi đến đó cũng cần phải khắc phục nhiều quãng cách, trước hết là giữa văn, thơ,
phú, lục và thơ, kịch, tiểu thuyết. Không có một ngôn ngữ văn học phong phú và
trong sáng, chính xác và có một nền văn xuôi có nhiều khả năng diễn đạt, chưa định
hình được thể loại kịch, tiểu thuyết thì khó trở thành văn học hiện thực chủ
nghĩa. Nên fvawn học căn bản là thơ – văn, thơ, phú, lục của nhà nho hay ca dao
tục ngữ của nông dân cùng đều có vần điệu – là một trở ngại. Điều đó rất khác với
bước chuyển từ chủ nghĩa lãng mạn sang chủ nghĩa hiện thực ở phương Tây, khi
văn xuôi, thể loại kịch, tiểu thuyết và nghệ thuật kể chuyện và miêu tả đều đã
có bề dày lịch sử phát triển đã đạt đến trình độ thiện nghệ.
Tham gia vào quỹ đạo của văn học đương đại thế giới là một bước
chuyển biến đột ngột. Các nhà nho Duy tân đã đóng góp được một cống hiến hết sức
cơ bản: thanh toán thứ văn chương ngâm vịnh của các tao nhân mặc khách. Họ cũng
phủ định chỗ căn bản của quan niệm văn chương của thánh hiền nhưng đã chỉ ra được
sự lố bịch của các văn nhân – nhà nho mà họ coi là hủ nho. Họ chưa đạo diễn được
một cảnh thay thế nhưng đã quét sạch được một mảnh đất trống cho văn học hiện đại.
Công việc tiếp theo là phần việc của các thanh niên Tây học lúc đó: trau dồi
nghệ thuật mô tả kể chuyện, biến ngôn ngữ thông tục thành ngôn ngữ nghệ thuật để
viết văn xuôi. Những nhà báo, nhà văn những năm 10 đến 30 đã cần cù làm công việc
đó.
Vè và thơ trào phúng đã phát triển bên cạnh và không dính
dáng với hai nhóm nhà văn nói trên. Về mặt nghệ thuật, vè và thơ trào phúng còn
là thấp, tự nó chưa mang một ý định cải cách văn học nào. Lịch sử đã cất bước một
cách mù quáng. Ngọn roi của sự xâm lược và của chế độ thực dân quất mạnh trước
tiên vào những người nông dân, vào nông thôn. Trước cuộc sống cay cực, người
nông dân và cả nhà nho – vì nhà nho cũng là một phần của nông thôn – dã kêu lên
thành tiếng tố cáo tình trạng không chịu đựng nổi, mở sẵn lối cho các nhà khoa
bảng, đã thoát ly nông thôn ra sống ở đô thị, nắm bắt được tư tưởng dân chủ của
Tân Thư và dũng cảm truyền bá nó, thay đổi cả cách nhìn cuộc sống. Vào buổi tiếp
xúc Âu Á, nhiều cái lạ mắt của xã hội thực dân nửa phong kiến buổi ban đầu được
các nhà nho nhìn qua lăng kính hài hước và không khỏi cùng với cả màu sắc đạo đức,
thành những ông Tây “mồm huýt chó”, những bà đầm “ngoi đít vịt”, những ông phán
“Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò”, những cô Bồ “chồng chung, vợ chạ”… Rồi tầm
nhìn xã hội được điều chỉnh, thơ đã tập trung vào bằng những tên Tổng đốc Miền
Đông, những tên tri huyện Hà Nam, Tri phủ Quảng, Thám hoa xòe… Việc Nguyễn Thiện
Kế và Kép Trà vịnh hàng loạt đại viên, tiểu viện nịnh hót, tham nhũng, hàng loạt
những nhà khoa bảng bê tha, biến chất làm cho thơ trào phúng đi từ chế giễu cảnh
nhố nhăng của buổi giao thời đặc biệt trong thơ Tú Xương đến vạch mặt mang ý
nghĩa đã kích chính trị bọn “quan quách” thượng lưu, mang ý nghĩa phê phán xã hội.
Những “Hàn Đài” “quan lớn Lại” đã chẳng cách xa bao nhiêu với Nghị Quế, Nghị
Hách của Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố.
Vè là thể loại kể chuyện trong văn học dân gian. Thơ trào
phúng là thơ vịnh người, vịnh vật viết theo thể thất ngôn. Cả hai đều có đòi hỏi
nhìn thẳng vào sự thật, đều có nhu cầu kể và tả thực tế. Nhưng vì không đáp ứng
đòi hỏi của cái đẹp trang nhã theo quan niệm văn học gắn với Tâm và Đạo nên bị
kìm hãm. Trong vè yêu nước, người nông dân chỉ kể, chỉ tả những điều tai nghe mắt
thấy trong xóm làng quê hương. Trong thơ trào phúng, các nhà nho vạch mặt những
tên Tổng đốc, những tên Tri huyện, Tri phủ, những tên hào cường, cụ thể mà họ
biết và họ cảm ghét. Cảm hứng của họ cũng không xa cảm hứng của Phạm Duy Tốn
khi viết Sống chết mặc bay. Nhưng
không nằm trong truyền thống văn học coi trọng vấn đề nhận thức thế giới quan,
họ không hề có ý thức về một phương pháp, một chủ nghĩa hiện thực nào cả. Chỉ
là một sự nếm trải thực tế, tinh thần dân tộc, chính nghĩa cảm đã chỉ cho họ cách
nhìn ra đáng thấy, nói được cái nên nói. Và mặt khác, vè và thơ trào phúng được
sáng tác với một số lượng lớn ở nhiều thời gian, nhiều địa điểm, cả hai loại
văn học đó đã vẽ ra hình thức có khả năng làm khâu trung gian, làm điểm tiếp nối,
tạo cho cái mới còn xa lạ có điều kiện bắt rễ được vào cuộc sống, đi được vào
công chúng. Đời sống văn học, công chúng văn học của ta gắn chặt với một thực tế
là nông thôn bao la gồm cả đất nước. Trong nông thôn đó có nông dân và nhà nho
là hai tầng lớp đối nghịch với nhau nhưng không phải không có chỗ thống nhất là
đối nghịch với thành thị, Đặc điểm phương Đông đó là một thực tế không nhận thức
hết ý nghĩa nhưng lại chi phối dai dẳng tiến trình hiện đại hoá văn học của ta.
Ta đến chủ nghĩa hiện thực không có cái vốn văn học đô thị như ở Nhật Bản và
Trung Quốc. Vè và thơ trào phúng là cô bác gần nhất của nó, nên vì dòng máu nó
cũng không thể không chịu ảnh hưởng. Tôi muốn nói đến những đặc điểm có tác dụng
tiêu cực hay tích cực đến văn học hiện đại của ta như chủ nghĩa tình cảm, tính
khách quan và chức năng nhận thức của nó.
KẾT LUẬN
Văn học mỗi dân tộc có bản sắc riêng, có con đường khác nhau
để có mặt trong văn học nhân loại. Ở thời trung cận đại đặc sắc và con đường
riêng đã làm cho văn học phương Đông rất khác phương Tây. Văn, thơ, phú, lục là
thứ văn học khác thơ, kịch, tiểu thuyết. Vấn đề chủ nghĩa hiện thực cũng như
các vấn đề khác của văn học Việt Nam trung cận đại phải nhìn dưới ánh sáng của
thực tế: Việt Nam nằm trong nền văn minh phương Đông, chịu ảnh hưởng của văn
hóa Trung Hoa, cùng loại với văn học Nhật Bản, Triều Tiên và khác văn học châu
Âu, nơi ra đời chủ nghĩa hiện thực. Nói cách khác, văn học ở đây không trải qua
quá trình giống như ở phương Tây từ thời Phục Hưng cho đến thế kỷ XIX, trực tiếp
dẫn đến chủ nghĩa hiện thực. Đến thời hiện đại, chủ nghĩa tư bản mới làm cho thế
giới trở thành nhất thể, phương Đông Âu hóa kinh tế, chính trị và cùng viết
thơ, kịch, tiểu thuyết theo phương Tây. Từ đó, trong văn học mới có vấn đề chủ
nghĩa hiện thực. Ở Nhật Bản và Trung Quốc thì sớm hơn, nhưng ở Việt Nam mãi đến
đầu thế kỷ XX mới thực sự bắt đầu quá trình đó. Sự phát triển ở đây không phải
liên tục, chủ nghĩa hiện thực không phải ra đời như sự vận động của các yếu tố,
các khuynh hướng hiện thực đã có sẵn từ trước mà do tác động từ ngoài của văn học
hiện thực chủ nghĩa Pháp. Không phải từ vè, thơ trào phúng mà có tác phẩm của
Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố. Đó là những hình thức trung gian chuyển tiếp rất
đặc biệt từ nền văn học gồm văn, thơ, phú, lục sang thơ, kịch, tiểu thuyết hiện
đại và nhanh chóng hóa dòng vào văn học thế giới đương đại.
Văn học là một sản phẩm của cuộc sống chịu sự quy định của thể
chế kinh tế, chính trị, xã hội, nhưng trực tiếp với nó hơn nữa là đời sống văn
học, là quan niệm văn học, là lý tưởng thẩm mỹ, tất cả đều gắn bó với ý thức hệ.
Ở các nước Đông Á, trong một thời gian dài, Nho giáo, Phật giáo và tư tưởng Lão
– Trang thống trị đời sống tinh thần cùng nhau tác động vào văn học. Tất cả tạo
ra ở đây những loại hình tác giả, công chúng, tác phẩm rất khác. Không thể nhìn
các nhà nho – tác giả và công chúng chủ yếu – như những tri thức, những văn nghệ
sĩ phương Tây, nhìn những bài thơ, bài phú ngâm vịnh, sướng tụng trong các buổi
bình văn, những buổi xướng họa giống như sách báo in bán. Tình trạng phát triển
của đô thị có tác động tiêu cực rõ rệt đến tiến trình văn học, nhất là văn học
hiện thực chủ nghĩa.
Có ảnh hưởng nhất là Nho giáo. Nho giáo chủ trương một lối sống
hướng vào con người, xa lánh quỷ thần, bài xích cái kỳ quái, thần bí, huyền ảo;
đồng thời hết sức coi trọng văn học, giao cho nó chức năng cực quan trọng là
giáo dưỡng con người. Cho nên từ sớm văn học đã được định hướng vào con người,
cõi người tức là hướng vào thực tại. Nhưng theo Nho giáo, thực tại lại không
tách khỏi Đạo và Tâm để thành thực sự khách quan và cách nhận thức của nó bằng
Lý, phản ánh nó vào văn học bằng phú, tỷ vag hứng lại không đòi hỏi tính khách
quan đó. Văn học nhằm biểu đạt không phải cái thực mà là cái thần của một trạng
thánh hòa nhập giữa tâm và cảnh. Theo con đường đó văn học phương Đông đã đạt đến
những thành tựu rất cao nhưng không phải theo khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa.
Hiện thực chủ nghĩa là một phương pháp sáng tác chỉ có thể xuất hiện khi trong
xã hội, cá nhân được khẳng định, có nhu cầu khám phá để làm chủ môi trường sống
của nó và đã được tích lũy đủ trí thức khoa học đẻ có khả năng phân tích hay có
hứng thú phân tích con người và xã hội để nhận thức những quan hệ bí ẩn, phức tạp
trong đó. Chỉ như vậy mới có ý thức về cái điển hình và tìm cách phản ánh nó. Tất
cả những điều kiện như vậy chỉ khi định hình thể chế tư bản tức là vào thời hiện
đại của lịch sử nhân loại mới có. Thể chế chuyên chế phương Đông còn tồn tại
cho đến giữa thế kỳ XIX và vị trí độc tôn của Nho giáo ngăn cản sự hình thành
chủ nghĩa hiện thực. Văn học Nôm ra đời không thay thế văn học chữ Hán, ngâm
khúc, truyện Nôm, hát nói không làm suy giảm vị trí văn, thơ, phú, lục, thực tại
vẫn được hình dung như cũ, có thể được mở rộng, được lĩnh hội sâu sắc hơn,
nhưng không thành đối tượng cho phương pháp sáng tác hiện thực chủ nghĩa.
Trong việc nghiên cứu văn học Việt Nam, chúng ta cần phải
phát hiện bản sắc của nó mà cũng cần phát hiện con đường phát triển của nó. CÓ
bản sắc văn học từng dân tộc mà cũng có những nét chung của văn học nhân loại;
có con đường riêng của từng dân tộc mà cũng có quy luật chung của văn học. Thấy
cái độc đáo đồng thời cũng phải thấy chỗ hòa đồng, hiện tượng hòa dòng của văn học
các dân tộc ở những thời kỳ lịch sử nhất định. Tác phẩm có giá trị bao giờ cũng
là những sự thành công của độc đáo. Cái đẹp là đa dạng, và độc đáo, không lặp lại,
mới là dấu hiệu của kiệt tác. Trong văn học Việt Nam trước đây chưa có một xu
hướng hiện thực mạnh mẽ. Chố khiếm khuyết đó chắc chắn phải bổ sung, hứa hẹn những
thành tựu mới. Nhưng đối với dân tộc cũng như đối với toàn nhân loại không phải
chỉ có một con đường, một khả năng phát triển. Và lại hiện tại và tương lai
không đoạn tuyệt với quá khứ, những kiệt tác không xa lạ với truyền thông. Văn
học của ta – chủ yếu là thơ – có một cách riêng để lĩnh hội thực tại. Đó là gắn
cảnh với tâm là tìm cái thần trong thực tại. Các nhà sáng tác, trong việc đi
tìm cái mới sẽ tự giải quyết cách thừa kế truyền thống, quan tâm nhiều hay ít đến
kinh nghiệm sáng tác. Nhưng những người nghiên cứu và giảng dạy văn học thì quá
khứ thì nhất thiết phải hiểu đúng cái hay của văn học khi nó được coi là nghệ
thuật từ chương, có chức năng dưỡng tâm và giáo hóa, mới nắm bắt đúng cái mà
trước đây tác giả cảm nghĩ, phát hiện đúng cái đẹp mà tác giả theo đuổi, mới
không gượng ép tìm cho nó dáng dấp hiện thực chủ nghĩa mong so sánh với văn học
phương Tây, dành cho nó một chỗ đứng giữa văn học các dân tộc, một chỗ đứng thường
chỉ là khiêm tốn vì về căn bản nó không hiện thực.
Nếu cái đẹp là sự đa dạng của những cái độc đáo thì văn học
Việt Nam trung cận đại cũng không nhất thiết có khuynh hướng hiện thực, có nhiều
yếu tố hiện thực mới chỉ là một nền văn học phát triển. Và phải chăng cũng có
thể nghĩ rằng văn học Việt Nam tương lai thì ngoài bộ phận hiện thực chủ nghĩa
mà thành công thì chắc phải dựa theo kinh nghiệm văn học nước ngoài, thì cũng
có những thành công khác, phát triển từ những truyền thống không phải là hiện
thực của văn học quá khứ?