MỘT GIẢ THUYẾT KHÁC VỀ HÀNH TRÌNH ĐI SỨ
CỦA NGUYỄN DU NĂM 1813-1814
1. Nguyễn
Du có tạt xuống Lâm An hay không?
Khi nghĩ về cuộc hành trình của sứ bộ Nguyễn
Du vào năm 1813 - 1814 và sắp xếp lại các bài thơ trong Bắc
hành tạp lục theo
hành trình đi sứ, theo chúng tôi, vấn đề lớn nhất là: Nguyễn Du có tạt
xuống Lâm An (Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang hiện nay) hay không, bởi việc Nguyễn
Du có ghé qua Lâm An hay không sẽ ảnh hưởng đến sự suy đoán các địa điểm Nguyễn
Du làm thơ. Khi soạn lại tập thơ ấy, Đào Duy Anh và Mai Quốc Liên đều đoán rằng Nguyễn Du
đến Lâm An. Nhưng ở đây, chúng tôi đặt vấn đề: sự suy đoán ấy có đúng không?
Trong bài “Giới thiệu một số tư liệu về
Nguyễn Du mới sưu tầm được ở Trung Quốc” đăng trên Tạp chí Văn học số 11, năm 1964, Nguyễn Văn Hoàn giới thiệu nội
dung tờ bẩm của sứ bộ Nguyễn Du gửi vua nhà Nguyễn tâu trình về công việc của
sứ bộ. Xem nội dung ấy, chúng ta xác nhận được rằng khi về nước, Nguyễn Du đi
qua các tỉnh Sơn Đông, An Huy, Hồ Bắc và Quảng Tây, chứ không nói là ghé
qua Lâm An[1].
Trong khi đó, Nguyễn Văn Hoàn lại nói rằng “một số bài thơ chứng tỏ rằng Nguyễn
Du có đến Hàng-châu”. Một trong “một số bài thơ” ấy chắc là bài “Nhạc Vũ Mục
huỳnh” tức là Mộ Nhạc Vũ Mục, Mộ Nhạc Phi.
Bây giờ chúng ta hãy xem bản chép tay Bắc hành tạp lục, ký hiệu A.1494 bảo tồn
ở Viện nghiên cứu Hán Nôm. Trong phần “Lời giới thiệu” của sách Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Trương Chính
khẳng định rằng cách sắp xếp các bài trong bản chép tay này đã ổn[2].
Chúng tôi cũng đồng ý với nhận xét này, nhưng theo chúng tôi, nói chính xác hơn
thì các bài thơ trên đường đi Bắc Kinh khá ổn, song các bài thơ làm khi về nước
thì bị mất trật tự sắp xếp. Theo đó, xem thử bài “Nhạc Vũ Mục huỳnh” nằm ở
đâu, nằm giữa những bài nào trong bản chép tay A.1494 thì có thể trình bày như bảng dưới đây:
Số thứ tự các
bài theo bản chép tay A.1494
|
北行雑録
BẮC HÀNH TẠP LỤC
bản chép tay
A.1494
|
Nơi viết (suy đoán)
|
62
|
比干墓
TỈ CAN MỘ |
河南, 衛輝府
phủ Vệ Huy, Hà Nam |
63
|
阻兵行
TRỞ BINH HÀNH |
河南
Hà Nam |
64
|
嵇侍中祠
KÊ THỊ TRUNG TỪ |
河南, 湯隂縣
huyện Thang Âm, Hà Nam |
65
|
岳武穆塋
NHẠC VŨ MỤC HUỲNH |
|
66
|
秦檜像
TẦN CỐI TƯỢNG |
|
67
|
王氏像
VƯƠNG THỊ TƯỢNG |
|
68
|
銅雀臺
ĐỒNG TƯỚC ĐÀI |
河北, 鄴
Nghiệp, Hà Bắc |
69
|
七十二疑冢
THẤT THẬP NHỊ NGHI TRỦNG |
河北, 鄴錦城
thành Nghiệp Cẩm, Hà Bắc |
Dựa vào thứ tự các bài trong bản chép tay này, chúng ta xác nhận
được rằng bài “Nhạc Vũ Mục huỳnh” (và các bài “Tần Cối tượng”, “Vương thị
tượng”) nằm giữa những bài viết ở miền bắc Hà Nam và những bài viết ở miền nam
Hà Bắc, trên đường đi Bắc Kinh, chứ không phải trên đường về như Đào Duy Anh đã
suy đoán. Nếu theo dõi cuộc hành trình đi sứ của Nguyễn Du thì chúng tôi có thể
đoán rằng mộ của Nhạc Phi ở Hà Nam hoặc Hà Bắc, và Nguyễn Du ghé qua mộ ấy trên
đường đi Bắc Kinh.
Sách Minh nhất thống chí,
địa chí Trung Quốc, xác
nhận rằng ở Thang Âm,
tỉnh Hà Nam, tức là nơi sinh của Nhạc Phi, có ngôi miếu của Nhạc Phi: 「岳飛廟 在湯隂縣治西南飛宋將本朝建賜額精忠勅有司春秋致祭」(『明一統志』巻二十八)[3]. Nơi đấy cũng gần ngôi miếu của Kê Thị Trung(「嵇紹廟 在湯隂縣西南」(『明一統志』巻二十八)、「嵇紹墓 在湯隂縣境内」), gần chỗ mà Nguyễn
Du viết bài thơ “Kê Thị Trung từ” đặt trước bài “Nhạc Vũ Mục huỳnh” trong bản chép tay này.
Tôi chưa bao giờ đến đó, nhưng
trên mạng Internet có những trang giới thiệu miếu Nhạc Phi ở Thang Âm, tỉnh Hà
Nam và cũng xác nhận rằng ở miếu đó có tượng Tần Cối và tượng Vương thị[4]. Có điều, chỗ ấy
là ngôi miếu chứ không phải là ngôi mộ. Nhưng điều quan trọng là Nguyễn Du coi ngôi
miếu ấy là ngôi mộ của Nhạc Phi. Việc miếu ấy có phải là mộ thật sự của Nhạc
Phi hay không, ở đây không quan trọng.
Hơn nữa, khi xem kĩ nội dung bài thơ, chúng
tôi có thể khẳng định rằng chính lúc ở cách xa Lâm An, Nguyễn Du mới viết được
bài này. Ở cuối bài “Nhạc Vũ Mục huỳnh” có câu: “悵望臨安舊陵廟” (Trướng vọng Lâm An cựu lăng miếu - Buồn
trông về lăng miếu cũ ở Lâm An). Ở đây, chúng ta hãy chú ý đến 2 chữ “trướng
vọng 悵望”. Ở phần chú thích bài ấy, Lê Thước và Trương Chính viết
rằng: “Có người dựa vào câu bảy: ‘Trướng vọng Lâm An cựu lăng miếu’ mà nói
Nguyễn Du không đi đến Lâm An. Đứng xa nhìn nên mới nói ‘vọng’”[5].
Chúng tôi cũng hoàn toàn đồng ý với chú thích này. Ở ngay Lâm An thì không
thể nói “trướng vọng Lâm An” được, không tự nhiên. Chữ Hán “vọng” có nghĩa: từ
xa mà nhìn, nên có lẽ phải ở cách xa Lâm An, theo bài thơ này thì là ở Hà
Nam, tác giả mới nói là “trướng vọng Lâm An” được.
Như vậy, chúng tôi tạm kết luận rằng Nguyễn
Du viết bài “Nhạc Vũ Mục huỳnh” ở Hà Nam chứ không ở Lâm An. Cũng có thể suy
đoán rằng hai bài thơ “Tần Cối tượng” và “Vương thị tượng” được Nguyễn Du viết
tại miếu Nhạc Phi ở Hà Nam.
2.
Xem xét lại một số địa điểm Nguyễn Du làm thơ trên đường về
Nếu giả thuyết nói trên của chúng tôi đúng
thì các nơi Đào Duy Anh và Mai Quốc Liên đã suy đoán cũng phải xem xét lại, bởi
vì ngoài bài “Nhạc Vũ Mục huỳnh”, hai giáo sư còn cho rằng một số bài thơ khác
được Nguyễn Du viết ở Lâm An, hoặc những nơi gần Lâm An, nhưng theo giả thuyết
của chúng tôi thì Nguyễn Du không đến Lâm An. Vì hạn chế nên chúng tôi chỉ xem
xét lại địa điểm viết các bài: “Chu Lang mộ”, “Lương Chiêu Minh Thái tử phân kinh
thạch đài” và “Tổ Sơn đạo trung”.
2.1. Mộ Chu Lang
Đào Duy Anh nghĩ rằng mộ Chu Lang ở Nam Kinh[6].
Nhưng xem sách địa chí Trung Quốc thì có 2 địa điểm mộ Chu Lang ở tỉnh An Huy:
1) Tại huyện Lư Giang, phủ Lư Châu (tỉnh An
Huy):「周瑜墓 在廬江縣東一十里安豐郷瑜三國時呉將又見安慶府」(『明一統志』巻十四).
2) Tại huyện Túc Tòng, phủ An Khánh (tỉnh An
Huy):「周瑜墓 在宿松縣北三十五里」(『明一統志』巻十四).
2.2. Núi [Ngũ] Tổ Sơn
Đào Duy Anh cho rằng Tổ Sơn ở tỉnh Chiết
Giang[7].
Nhưng khi xem kỹ bản chép tay A.1494, chúng tôi nhận thấy bản chép tay ghi tên
bài thơ là “Ngũ Tổ Sơn đạo trung” chứ không phải là “Tổ Sơn đạo trung”.
Núi Tổ Sơn nằm ở phía bắc Hàng Châu như Đào Duy Anh viết, nhưng núi Ngũ
Tổ Sơn lại nằm ở nơi khác, đó là huyện Hoàng Mai, tỉnh Hồ Bắc: 「五祖山 在黄梅縣東北三十里」(『明一統志』巻六十一).
2.3. Thạch đài của Chiêu Minh Thái tử
Đào Duy Anh suy đoán thạch đài nằm ở hoặc
giữa Nam Kinh và Hàng Châu. Nhưng theo sách địa chí Trung Quốc thì ngoài Lâm
An, ở huyện Túc Tòng, tỉnh An Huy cũng có một địa điểm được tương truyền là thạch
đài:
「分經臺在宿松縣北五十里有石高百餘丈梁昭明太子金剛經於此宋嘉泰間建法華亭」(『江南通志』巻三十四). 「法華寺〔宿松〕縣五十里北全舉禪師道塲有昭明太子分經臺」(『江南通志』巻四十七)「分經臺在宿松縣北五十里有石臺相傳梁昭明太子嘗於此金剛經為三十二分」(『大清一統志』巻七十六).
Có thể tóm tắt các địa điểm Nguyễn Du đến để
làm 3 bài thơ trên như sau: Sau khi qua tỉnh Sơn Đông, chắc Nguyễn Du chỉ đi
qua miền Bắc tỉnh Giang Tô như Từ Châu thôi, sau đó đi vào tỉnh An Huy như tờ
bẩm và viết 2 bài “Chu Lang mộ và “Lương Chiêu Minh Thái tử phân kinh thạch đài”,
sau đó đi vào tỉnh Hồ Bắc, viết bài “Ngũ Tổ Sơn đạo trung”, chứ không đi xuống
Nam Kinh, tỉnh Giang Tô, hay Lâm An, tỉnh Chiết Giang.
3. Xem xét lại một số địa điểm khác
Ngoài 3 địa điểm vừa bàn ra, cũng có một số
địa điểm hình như chưa chính xác, nên chúng tôi muốn xem xét lại ở đây.
3.1. “Vinh Khải Kỳ thập tuệ xứ” (nơi Vinh
Khải Kỳ mót lúa)
Lê Thước, Trương Chính và Mai Quốc Liên cho
rằng núi Đông Sơn được nhắc đến trong bài “Vinh Khải Kỳ thập tuệ xứ” nằm ở
Chiết Giang[8].
Tuy nhiên, chúng tôi đoán núi Đông Sơn được nói tới trong bài thơ này là núi
Thái Sơn hoặc núi Đông Mộng Sơn ở tỉnh Sơn Đông, vì câu chuyện giữa Khổng Tử và
Vinh Khải Kỳ diễn ra ở tỉnh Sơn Đông nên như vậy sẽ hợp lý hơn.
3.2. “Tây Hà dịch” (Trạm Tây Hà)
Ngoài ra, chúng tôi cũng muốn xem xét lại trạm
Tây Hà ở đâu, bởi vì trong 2 bài thơ “Tây Hà dịch” và “Sở kiến hành”, Nguyễn Du
có nhắc đến địa điểm Tây Hà, nhưng việc nó nằm ở đâu vẫn chưa được làm sáng tỏ.
Đào Duy Anh viết rằng “Tây Hà: không rõ trạm ở chỗ nào. Có lẽ là trên đường An Huy đi Hồ
Bắc”[9].
Lê Thước, Trương Chính và Mai Quốc Liên nghĩ “Tây Hà ở tỉnh Sơn Tây[10]”,
tuy nhiên, nếu đối chiếu với cuộc hành trình của Nguyễn Du thì thấy nơi ấy không
hợp lý. Sách địa lý Trung Quốc cho biết trạm Tây Hà nằm ở Kỳ Châu (蘄州):
「西河驛 在蘄州北五十里」(『大清一統志』巻二百六十四)
Chỗ ấy cũng gần Quảng Tế mà Nguyễn Du đã nói đến trong
bài thơ “Quảng Tế ký thắng”. Cho nên, chúng tôi đồng ý với Đào Duy Anh và có
thể đoán rằng trạm Tây Hà nằm ở Kỳ Châu, miền Nam Hồ Bắc.
4.
Tạm kết
Chúng tôi đã xem xét lại một số
địa điểm mà Nguyễn Du làm thơ trên đường đi sứ về. Dĩ nhiên, điều quan trọng
nhất là nội dung các bài thơ mà Nguyễn Du để lại cho thế hệ sau. Ví dụ, đọc bài
“Lương Chiêu Minh Thái tử phân kinh thạch đài”, bản thân tôi rất xúc động và
kinh ngạc trước tư tưởng sâu sắc của Nguyễn Du. Nhưng trước khi tìm hiểu nội
dung, chúng ta cũng cần nghiên cứu thêm về phần cơ sở một cách khách quan, một
cách khoa học một lần nữa, cần phải đối chiếu lại với sách địa chí Trung Quốc
một lần nữa, ít nhất cá nhân tôi nghĩ như vậy. Bởi vì việc suy đoán Nguyễn Du
làm thơ ở đâu sẽ ảnh hưởng ít nhiều đến cách giải thích thơ như chúng tôi đã bàn
về bài “Nhạc Vũ Mục huỳnh”. Ngoài ra, giả thuyết của chúng tôi có lẽ sẽ đóng
góp một phần nào đó để bác bỏ giả thuyết quá nhiều tưởng tượng[11].
Chúng tôi đã lập luận giả thuyết
của mình căn cứ vào 2 tài liệu chính: (1) bản chép tay Bắc hành tạp lục A.1494, (2) tờ bẩm của sứ bộ Nguyễn Du được giới
thiệu trong bài “Giới thiệu một số tư liệu về Nguyễn Du mới sưu tầm được ở
Trung Quốc” của Nguyễn Văn Hoàn. Chúng tôi phải thú thật rằng nếu 2 tài liệu
này có vấn đề gì thì giả thuyết của chúng tôi cũng sẽ bị ảnh hưởng.
Nếu có bằng chứng chứng minh một
cách khách quan rằng Nguyễn Du đã đến Lâm An thì chúng tôi sẵn sàng từ bỏ giả
thuyết của mình. Nhưng khi chưa có bằng chứng khách quan nào phản bác lại điều
đó thì phải chăng vẫn có quyền bàn luận thêm về giả thuyết của chúng tôi?
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Văn Hoàn. “Giới thiệu một số tư liệu về
Nguyễn Du mới sưu tầm được ở Trung Quốc”. Tạp
chí Văn học, số 11. 1964.
2. Lê Thước, Trương Chính (biên soạn). Thơ chữ Hán Nguyễn Du. In lại theo bản
1965. Nxb Văn học và Công ty Sách Thời đại. Hà Nội. 2012.
3. Đào Duy Anh (sắp xếp, dịch nghĩa, chú thích). Thơ chữ Hán Nguyễn Du. Nxb Văn học. Hà
Nội. 1988.
4. Mai Quốc Liên (biên soạn). Nguyễn Du toàn tập, tập I. Nxb Văn học. 1996.
5. Viện nghiên cứu Văn Sử - Đại học Phúc Đán, Trung
Quốc & Viện nghiên cứu Hán Nôm, Việt Nam (hợp biên). Việt Nam Hán văn Yên hành văn hiến tập thành, tập 10. Nxb Đại học
Phúc Đán. Thượng Hải. 2010.
(中 国・ 復 旦 大 学 文 史 研 究 院、 越 南・ 漢 喃 研
究 院 (合 編)『越 南 漢 文 燕 行 文 献 集 成』(越 南 所 蔵 編)第 十 冊. 復 旦 大 学 出 版 社.
上 海. 2010)
6.『文 淵 閣 四 庫 全 書』 原 文 電 子 版、 武 漢 大 学.
(Nguồn: kỷ yếu Di sản văn chương
đại thi hào Nguyễn Du 250 năm nhìn lại, Viện Văn học, NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội, 2015, tr.283 - 290)
[1] Tờ bẩm chép: “Ngày 22 lại
nhận được công văn thay đổi đường đi, theo một dãy các tỉnh Trực-lệ, Sơn-đông,
An-Huy, Hồ-bắc mà về Quảng Tây” (Nguyễn Văn Hoàn. “Giới thiệu một số tư liệu về
Nguyễn Du mới sưu tầm được ở Trung Quốc”. Tạp
chí Văn học, số 11. 1964. Tr.46).
[2] Lê Thước,
Trương Chính (biên soạn). Thơ chữ Hán
Nguyễn Du. In lại theo bản 1965. Nxb Văn học & Công ty Sách Thời đại.
Hà Nội. 2012. Tr.15.
[3] Tôi tra cứu
sách địa lý Trung Quốc và trích dẫn nguyên văn, có tham khảo bản điện tử Tứ khố toàn thư 電子版『四庫全書』.
[4] Ví dụ:
http://www.keyunzhan.com/knews-99919.
[6] Đào Duy Anh
(sắp xếp, dịch nghĩa, chú thích). Chú thích 107. Thơ chữ Hán Nguyễn Du. Nxb Văn học. Hà Nội. 1988. Tr.435.
[8] Mai Quốc
Liên (biên soạn). Chú thích 3. Nguyễn Du toàn
tập (tập I). Nxb Văn học. Hà Nội. 1996. Tr.508.
Lê Thước, Trương Chính. Chú
thích 4. Sđd. Tr.367.
[9] Đào Duy Anh.
Chú thích 121. Sđd. Tr.440.
Lê Thước, Trương Chính. Chú
thích. Sđd. Tr.381.
[11] Xem Phạm
Trọng Chánh. Nguyễn Du, từ Thái Nguyên
sang Vân Nam cuối năm 1787. Truy cập tại: http://chimviet.free.fr/vanhoc/phamtrongchanh/PhamTrongChanh_ND_01SangVanNam.html