Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900-1930( trích một số phần)
Trần Đình Hượu
LỜI NÓI ĐẦU
Trong lịch sử văn học Việt Nam , giai đoạn 1900 - 1930 là một
giai đoạn có tính chất giao thời. Nếu từ thế kỷ XI đến cuối thế kỷ XIX văn học
Việt Nam phát triển theo một hướng, xét về quan niệm văn học, tư tưởng mỹ học,
hệ thống thể loại là cùng loại với văn học một số nước thuộc vùng Đông Á, chịu
ảnh hưởng truyền thống văn học Trung Quốc, thì từ năm 1930 về sau văn học Việt
Nam đã lại phát triển theo một hướng khác, cùng loại với văn học thế giới cận
hiện đại, về nguồn gốc thuộc truyền thống văn học châu Âu. Trong quãng từ 1900
đến 1930 văn học Việt Nam
chuyển từ loại hình này sang loại hình khác.
Với sự tiếp xúc Âu - Á, với công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân
Pháp, nhiều thành phố tư bản chủ nghĩa xuất hiện làm đổi thay cơ sở kinh tế và
kết cấu xã hội của chế độ phong kiến phương Đông, tạo nên một cuộc sống khác
trước, làm hình thành một công chúng văn học có thị hiếu khác trước. Phong trào
đấu tranh chống thực dân Pháp, giải phóng dân tộc cũng chuyển sang có nội dung
mới, có hình thức tổ chức khác trước. Trước tình hình đó, văn học đã thay đổi
khá cơ bản, không những phản ánh phong trào đấu tranh cứu nước của dân tộc mà
cả xu hướng duy tâm hiện đại hóa đất nước của thời đại. Văn học đầu thế kỷ XX
đã ra đời cách khác, truyền bá theo cách khác; tác giả, tác phẩm, công chúng
văn học đều đã thuộc loại hình khác.
Theo xu hướng của thời đại, văn học đi vào quỹ đạo chung của thế giới
hiện đại nhưng lúc đầu nhân vật chủ yếu, có văn hóa nhất, có ý thức nhất, tiêu
biểu nhất cho dân tộc vẫn là nhà Nho. Trong văn học, nhà Nho vừa là người sáng
tác, là công chúng, vừa là hình tượng văn học chủ yếu. Đầu thế kỷ, các nhà Nho
đã đi đầu cách tân văn học cổ truyền để thích ứng với thời đại mới sau đó mới
đến các nhà trí thức tân học học tập viết văn theo lối châu Âu. Việc đổi mới
văn học hoặc là do nhà Nho làm hoặc là lấy văn học nhà Nho làm xuất phát điểm
cách này hay cách khác vẫn không thể thoát ly hẳn ảnh hưởng của nền văn học cổ
truyền, vốn gắn với thế giới quan, quan niệm văn học, tư tưởng mỹ học Nho giáo.
Nhằm làm nổi bật thực chất và diễn tiến cụ thể của giai đoạn văn học giao
thời như thế, chúng tôi quan tâm hàng đầu đến sự vận động, sự biến chuyển: vận
động biến chuyển trong ngôn ngữ, trong hình tượng, trong thể loại, trong từng
tác phẩm, tác giả, từng giòng văn học, vận động biến chuyển theo hướng đi từ
văn học cổ truyền sang văn học hiện đại. Quá trình thay cũ đổi mới ở đây không
thông qua việc ra đời một tác phẩm lớn, một chủ nghĩa văn học mới mà thông qua
sự cải tiến dần dần, ở người này một ít, ở người khác một ít, nhưng nhìn chung,
về thời gian là khá nhanh chóng và về nhịp điệu là khá gấp rút. Sự đổi thay
biểu hiện tập trung ở hai thời điểm: về phía trước xung quanh năm 1905 và về
phía sau xung quanh năm 1925, cùng nhịp với phong trào “phương Đông thức tỉnh”
trước thế giới hiện đại.
Nhằm trình bày quá trình vận động phát triển như thế chúng tôi phân bố
giáo trình thành 5 chương.
Trong chương I chúng tôi trình bày bối cảnh lịch sử nhằm nêu bật những
nét mới trong cuộc sống, những sự đổi thay trong đời sống văn học và các vấn đề
trong phương hướng phát triển của nó.
Chương II và chương V trình bày những sự kiện văn học đánh dấu sự chuyển
biến đầu và cuối giai đoạn.
Chương III và chương IV trình bày diện mạo nền văn học của cả giai đoạn
thành 2 tuyến:
-
Văn học truyền thống cách tân để thích ứng với thời đại mới,
cuối cùng bất lực trong nhiệm vụ phản ánh cuộc sống mới, lạc lõng trước công
chúng nên đi đến tiêu vong.
-
Văn học mới theo con đường bắt chước văn học châu Âu, ra đời
ở thành thị, lúc đầu khá xa lạ, nhưng không ngừng thâm nhập vào cuộc sống, dần
dần giành được công chúng và trưởng thành.
Những sự kiện văn học, các tác giả, tác phẩm, các chi tiết về nội dung
hay nghệ thuật đều lựa chọn và phân tích về mặt có ý nghĩa tiêu biểu cho từng
chặng đường trên quá trình phát triển đó. Cho nên giai đoạn cuối cùng trong
sáng tác của một số tác gia thuộc giai đoạn trước như Nguyễn Khuyến, Nguyễn
Thượng Hiên và bước đầu của một số tác gia thuộc giai đoạn sau như Nguyễn Công
Hoan, Nguyễn Ái Quốc cũng được nói đến, và chỉ nói ở những khía cạnh có ý nghĩa
đối với quá trình chuyển biến đó. Phan Bội Châu và Tản Đà là hai nhà văn tiêu
biểu của giai đoạn 1900 - 1930. Cả hai người còn sáng tác cho đến 1930 - 1940.
Đoạn cuối trong sáng tác của họ đã là vào giai đoạn sau nhưng lại có ý nghĩa
tiêu biểu cho bước kết thúc của giai đoạn 1900 - 1930. Vì ý nghĩa đó, chúng tôi
dành cho phần này một đoạn phân tích tỉ mỉ. Đặt vào quá trình phát triển chung,
chúng tôi nói đến các dòng văn học, các tác phẩm, tác giả với phần đóng góp của
nó vào sự nghiệp phát triển nền văn học dân tộc ở giai đoạn mới, vừa là phát
huy truyền thống, xây dựng nền văn học yêu nước ở bậc cao hơn, vừa là chuẩn bị
cho sự ra đời của kịch nói, tiểu thuyết và thơ mới, cho một nền văn học mới có
khả năng cao hơn để nói về một cuộc sống xã hội phong phú đa dạng, về một con
người phức tạp trong đời sống bình thường, phá bỏ thế giới của những quan hệ
luân thường với cách nhìn theo lăng kính Đạo, Tâm, Chí là thế giới quan niệm
chật hẹp làm khuôn khổ cho cuộc sống và con người trong văn học cũ.
Vấn đề phân kỳ, phân loại và nhiều vấn đề cụ thể khác đề cập đến trong
giáo trình đang ở trong giai đoạn chưa thành ý kiến ngã ngũ dứt khoát. Ý kiến
của chúng tôi lại cũng chưa có thời gian cần thiết để khảo nghiệm. Tuy vậy, năm
này sang năm khác, sinh viên chính khóa và tại chức, học viên nhiều lớp ở các
cơ quan ngoài trường cứ phải nghe giảng mà không có giáo trình để đọc, buộc
chúng tôi phải cho in sớm. Chúng tôi rất mong được các nhà nghiên cứu, các bạn
đồng nghiệp, các bạn sinh viên góp ý
kiến giúp chúng tôi sửa chữa những chỗ sai sót, làm cho giáo trình phục
vụ việc học tập của sinh viên được tốt hơn.
Trong khi biên soạn, chúng tôi được đồng chí Chương Thâu cho sử dụng toàn
bộ tài liệu về Phan Bội Châu mà anh đã để công sưu tầm trong nhiều năm, đồng
chí Tiên Sơn (đã quá cố) giúp tìm tài liệu về Tản Đà. Chúng tôi xin chân thành
cảm ơn các bạn sinh viên các khóa, các bạn đồng nghiệp trong tổ Văn học cổ đại,
cận đại và dân gian Việt Nam trường Đại học Tổng hợp và các đồng chí ở nhà xuất
bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp cổ vũ, thúc giục chúng tôi giúp rất
nhiều cho việc hoàn thành bản thảo và xuất bản cuốn sách.
Hà Nội ngày 1 tháng 1 năm 1977
Trần
Đình Hượu
Chương1:
VĂN HỌC VÀ CUỘC SỐNG CỦA BUỔI GIAO
THỜI ÂU - Á
Trần Đình Hượu
1. Chế độ thực dân nửa phong kiến
Bước vào đầu thế kỷ XX, sau hơn 20 năm dốc sức vào việc đánh dẹp các
phong trào yêu nước, tổ chức bộ máy cai trị, thực dân Pháp cơ bản đã làm xong
công việc bình định. Đã đến lúc chúng có thể yên tâm chuyển sang khai thác
thuộc địa, xây dựng trật tự mới.
Với cái chết của Phan Đình Phùng (1896), phong trào chống Pháp dưới lá cờ
Cần vương rầm rộ hàng chục năm ở hầu khắp các tỉnh cuối cùng đã chấm dứt. Ở
vùng Nhã Nam, Yên Thế, tiếng gầm thét của “con hùm” Hoàng Hoa Thám đã vang xa,
nhưng phong trào yêu nước chống Pháp đã mang nội dung khác và cuộc nổi dậy có
thanh thế lớn cũng chỉ có tính chất cục bộ, địa phương. Khắp nước, trên các vị
trí chiến lược, trên các đường giao thông thành lũy, đồn đài của quân thuộc
địa, lính khố đỏ, khố xanh, pháo thủ, mật thám vẫn bủa ra. Những cuộc hành quân
vẫn còn tiếp tục. Tuy vậy, năm 1902, Pôn Đu - me đã có thể báo cáo về nước: “Từ
năm 1897 đến nay không hề có một tên lính nào chết vì trận mạc ở Đông Dương”.
Trước cảnh thôn xóm bị triệt hạ, nhân dân xiêu tán, các văn thần khởi nghĩa
người thì bị giết, người thì bị tù đày, người thì trốn tránh không dám về,
người thì “bốc bản đạo chạy sang Chiêm sang Lào”, trước cảnh hoang vắng điêu
tàn của đất nước ta, quân xâm lược đã có thể khấp khởi nhìn ra cảnh “thái bình”
mà chúng mong ước.
Từ năm 1887, Đồng Khánh đã ban đạo dụ liệt những người chống Pháp vào
tội phản quốc. Bọn phản nước Nguyễn Thân, Hoàng Cao Khải, Lê Hoan được ban
thưỏng những tước vị cao nhất, dưới danh nghĩa Khâm sai, dẫn đường cho Pháp
đánh nghĩa quân. Cả bộ máy vua, quan, hào lý từ triều đình, tỉnh, huyện đến
làng, xã biến thành tay sai cho bọn xâm lược. Chính quyền bản xứ đã nằm gọn
trong tay thực dân Pháp.
Khi phong trào Cần Vương đã thất bại, văn thần chống Pháp kẻ thì chết, kẻ
thì trốn tránh, kẻ thì ra đầu thú, sống nơm nớp cái cảnh “nguyệt điểm” hàng
tháng đến trình diện ở nhà tổng lý hay ở phủ huyện. Những người không làm gì
được nhưng còn chút liêm sỉ lui về sống cảnh ẩn dật, bất đắc chí. Trong cảnh
sống nghèo túng, bị o ép, giữ được khí tiết cứng cỏi, tấm lòng trong sạch đâu
có dễ dàng. Tâm lý thất bại thừa nhận “việc lớn đã đi đứt” làm cho một số sống
an phận, bất lực, cam chịu mà cũng làm cho một số khác vin vào đó làm cớ ra
phục vụ cho ông chủ mới, vứt bỏ nốt những cái màu mè “nho phong”, “sĩ khí” mà
giành lấy “chiếc lương tây” giúp họ sống giàu có sung sướng hơn. Không ít người trong số những bậc “cao khoa
hiển hoạn”. “trâm anh thế phiệt” trước đây nịnh nọt, bợ đỡ cho quân cuớp nước,
không từ chối cả những việc bỉ ổi. Danh giáo, cái cột sống của chế độ phong
kiến trước đây đã sụp xuống. Bộ máy cai trị gồm Toàn quyền, Khâm sứ, Công sứ,
có các cơ quan chuyên môn giúp việc, đặt đại lý (quan đồn) ở các địa phương,
cưỡi trên đầu chính quyền Nam triều để “bảo hộ” nó. Biến vua quan thành những kẻ
thừa hành hèn hạ, vua quan mà phần lớn là những bậc sĩ phu nhanh chóng biết tìm
cách ngoan ngoãn đua nhau tỏ lòng tận tụy trung thành để cầu xin ân huệ. Họ bị
tước hết mọi quyền hành thực tế. Chỉ cần học mấy tiếng Tây “vâng dạ”, “xin
lỗi”, “cám ơn” là đủ làm được việc. Nhưng “hai chính phủ, được tổ chức lại theo
lối hiện đại, chặt chẽ hơn, có quyền lực hơn, chi phối sâu và toàn diện mọi
hoạt động, phá dần cái thế tự trị của làng xã ngày trước.
Để tuyên truyền cho hòa bình chiến thắng, cho văn minh của nước Pháp,
ngay từ năm 1886 Pôn Be đã bày tấn tuồng Hội đồng tư vấn, lắp cho nước bị xâm
lược một mặt nạ dân chủ, lập viện hàn lâm Bắc kỳ, quét cho nó một nước sơn hòa
bình bảo vệ và phát triển văn hóa. Đến đầu thế kỷ XX, cuộc bình định đã thành
công, chúng tổ chức Hội chợ thuộc địa, xây dựng một số công trình lớn trang sức
cho cảnh thái bình: nhà hát lớn, trường đại học, cầu Long Biên, cầu Tràng Tiền…
Ngoài ý nghĩa thực tế là ý nghĩa lường gạt, uy hiếp về chính trị: cái vẻ đồ sộ,
bề thế sừng sững của cái công trình đó vừa tuyên truyền cho sự tài tình của kỹ
thuật Pháp, vừa phô trương sự cường thịnh của nước Pháp, đe dọa tinh thần người
dân bản xứ đã mất nước mà không chịu khuất phục.
Nhưng cái mà thực dân để tâm nhất, nóng ruột thực hiện nhất là khai thác
xứ Đông Dương giàu có để bóc lột vơ vét về kinh tế.
Trước khi Pháp xâm lược, kinh tế nước ta căn bản có tính chất tự nhiên
với một nền nông nghiệp tự cấp, tự túc. Thủ công nghiệp tuy có nhiều ngành,
đông thợ, phân bố khắp nơi và kỹ thuật khá tinh xảo nhưng do kinh tế hàng hóa
chưa phát triển cao nên chỉ phát triển hạn chế ở mức phường bạn chứ chưa hình
thành thủ công xưởng và chỉ đóng khung trong từng địa phương nhỏ hẹp. Thương
nghiệp chỉ là buôn bán nhỏ, làm nhiệm vụ trao đổi hàng hóa trong từng vùng,
từng mùa. Nghề buôn mành giữa các tỉnh, vì sức tiêu thụ, vì chính sách thuế
khóa và nạn hối lộ, vì giặc giã nên kém phát triển. Việc buôn bán với nước
ngoài bị chính sách bế quan tỏa cảng của triều đình ngăn chặn. Nên kinh tế nông
nghiệp tự nhiên tự cấp tự túc của các hộ tiểu nông, trong phạm vi các làng xã
kìm hãm mọi mặt phát triển. Thực dân Pháp chiếm được nước ta, giành lấy và xây
dựng quyền thống trị về chính trị, dùng nó vào mục đích phát triển kinh tế theo
lợi ích của chúng nhằm giành lợi nhuận cao nhất, bù vào chỗ thua thiệt vì chậm
chạp, vì sa lầy vào chiến tranh trước đây.
Chính sách kinh tế thực dân của chúng có thể tóm tắt là bán hàng hóa,
khai thác nguyên liệu và cho vay lãi. Công nghiệp chỉ được phát triển “trong
giới hạn không hại đến công nghiệp chính quốc” (Pôn Đume - Báo cáo ngày
23/3/1897), “đóng khung trong phạm vi cung cấp cho chính quốc những nguyên liệu
hay những sản vật mà chúng ta thiếu” (Lời bộ trưởng Mê - linh, 1900, Giai cấp
tư sản Việt Nam, trang 153). Chính sách đó có thể cụ thể hóa thành:
- Độc chiếm thị trường, mua rẻ nông phẩm (chủ yếu là gạo, tơ tằm) và bán
đắt công nghiệp phẩm chi nhân dân, độc quyền ngoại thương.
- Độc quyền các ngành kinh doanh quan trọng từ khai mỏ, giao thông đến
làm muối, nấu rượu. Độc quyền ngân hàng, đầu tư vào các ngành lợi cho việc vơ
vét xuất khẩu.
- Lợi dụng quyền thống trị về chính trị duy trì bộ máy quan liêu, cường
hào và những luật lệ, chính sách sưu thuế phong kiến để ra sức chiếm đoạt ruộng
đất tạo ra các vùng sản xuất hàng xuất khẩu (cao su, cà phê, gạo…), tăng cường
bóc lột tô thuế sưu dịch, phá sản nông dân và thợ thủ công, tạo ra nguồn nhân
công rẻ mạt phục vụ cho các công trình xây dựng khai thác của chúng.
Kết quả của chính sách đó là nền kinh tế tự nhiên cổ xưa bị phân giải, sự
lưu thông hàng hóa phát triển, tỷ trọng kinh tế tư bản chủ nghĩa tăng nhanh,
nước ta bị xéo vào quỹ đạo chủ nghĩa tư bản những không được công nghiệp hóa mà
lại biến thành một thị trường tiêu thụ và cung cấp nguyên liệu, hàng xuất khẩu
cho thương nghiệp Pháp. Lợi nhuận vào túi tư bản Pháp còn nhân dân ta thì bị
bần cùng hóa, phá sản trở thành nguồn nhân côn đông đảo và rẻ mạt cho các hãng
buôn, các chủ thầu, chủ đồn điền của Pháp. Trong điều kiện ruộng đất bị chiếm
đoạt tập trung trong tay thực dân Pháp và quan lại tay sai, nhân công thừa, rẻ
mạt mà công nghiệp ở thành thị khồn đủ phát triển để thu nạp hết, kinh doanh
theo lối phong kiến vừa tốn ít vốn, vừa thu lại được nhiều lợi, vừa nhàn rỗi,
vừa chắc chắn. Phụ thuộc vào một nưóc tư bản, nước ta không được giải thoát khỏi
sự trì trệ của nền kinh tế phong kiến. Tuy nước Pháp là một cường quốc tư bản
chủ nghĩa nhưng chủ nghĩa thực dân Pháp không phá hoại kinh tế phong kiến mà
ngược lại cho duy trì, thậm chí là củng cố nền sản xuất đó trên cơ sở phân phối
ruộng đất mới, phân bổ sản xuất mới.
Chế độ thực dân nửa phong kiến
hình thành, tiếp tục kìm hãm sự phát triển của đất nước ta. Tuy vậy đối với
tình hình trì trệ lâu đời của một xã hội phương Đông, không phải nó không gây
ra những biến đổi lớn.
Việc mở mang giao thông buôn bán, phát triển kinh tế hàng hóa tạo ra một
thị trường thống nhất từ Bắc chí Nam , khách quan tạo thêm cơ sở để
củng cố sự thống nhất của dân tộc đã hình thành từ lâu nhưng chưa thật vững
chắc. Đi ngược xu hướng đó, thực dân Pháp lại ra sức thực hành chính sách chia
rẽ: đặt ra chế độ chính trị, ban hành luật pháp khác nhau giữa ba kỳ.
Nó phá chính sách bế quan tỏa cảng của triều đình nhà Nguyễn, làm cho
Việt Nam tiếp xúc với thế giới, trước hết là Đông Á và châu Âu, đưa nước ta hòa
vào cuộc sống chung hiện đại của thế giới. Ngược lại, xu hướng đó, thực dân
Pháp chăng một hàng rào quan thuế làm cho Việt Nam thành cái đuôi của tư bản Pháp,
chỉ có thể có quan hệ là quan hệ phụ thuộc với Pháp.
Sự phát triển buôn bán và giao thông như thế làm mọc lên nhiều thành thị
tư bản chủ nghĩa. Các hải cảng như Sài Gòn, Hải Phòng, Đà Nẵng được xây dựng,
các thành phố công nghiệp mới như Nam Định, Vinh mọc ra. Những đô thị cũ phát
triển thêm. Các tỉnh lỵ, phủ, huyện lỵ, các chợ lớn cũng dần dần thu hút nhiều
người từ nông thôn ra mà thành những
thành thị, những thị trấn lớn nhỏ. Chính sách kìm hãm công nghiệp, duy trì kinh
tế phong kiến làm cho thành thị chỉ thành những trung tâm thương nghiệp và tiêu
thụ, không có tác dụng tích cực đẩy mạnh kinh tế nước ta theo hướng tư sản hóa.
Sự xuất hiện thị trường thống nhất, sự xuất hiện các thành thị đông đúc
đóng vai trò trung tâm kinh tế, sự tiếp xúc với phương Tây là những nhân tố rất
mới. Tuy bị chính sách phản động của thực dân kìm hãm, nhưng nhân tố đó khách
quan ngoài ý muốn của thực dân vẫn gây tác dụng tích cực đến sự phát triển của
nước ta.
2. Sự biến động trong kết cấu xã hội
Những điều kiện kinh tế chính trị trên đây gây ra một sự biến động trong
kết cấu xã hội ta.
Xã hội ta, trước khi Pháp sang là một xã hội phong kiến phương Đông.
Trong xã hội đó, con người sống gắn bó với họ hàng làng xóm. Họ hàng nội ngoại
không những gắn bó với nhau bằng tình máu mủ mà bằng cả một tổ chức có thứ bậc
chặt chẽ, bằng cả một đạo lý có tính chất tôn giáo. Tình máu mủ được củng cố
bằng những cơ sở vật chất, những nghi lễ, tập tục tạo thành những quan hệ ràng
buộc, những trách nhiệm tinh thần, cố kết bà con họ hàng thành một đơn vị che
chở đùm bọc lấy nhau theo tinh thần “chết cha còn chú, sẩy mẹ bú dì”, “một giọt
máu đào hơn ao nước lã”. Họ hàng hầu như thành đơn vị của làng xã. Làng xã có
ruộng đất riêng, thành hoàng riêng, phong tục luật lệ riêng. Trong xóm trong
làng đi lại với nhau “tắt củi tối lửa có nhau”, ma chay, cưới hỏi dựa vào nhau
tạo thành một thứ tình làng xóm cố kết nhau lại. Làng xã có tính chất tự trị là
đơn vị về kinh tế và hành chính của chính quyền trung ương. Chính quyền trung
ương tập trung chuyên chế, dựa vào bộ máy quan liêu và quân sự để duy trì sự
thống trị, bắt thần dân theo đơn vị làng xã nộp thuế và đi phu.
Chính quyền thuộc về một dòng họ. Triều đình, quan lại là thân thuộc, tôi
tớ của dòng họ cầm quyền. Vua quan và họ hàng của họ - quốc thích và vương thần
– trở thành một tầng lớp quý tộc có đặc quyền, chia nhau hưởng số tô thuế và
các quyền lợi chính trị, tinh thần khác được phân phối theo thứ bậc thân, sơ,
trên, dưới.
Cả hệ thống đó - về mặt nhà nước
là chính quyền, về mặt xã hội là đẳng cấp, về mặt máu mủ là họ hàng – thống trị
“tứ dân”, bốn tầng lớp nhân dân: sĩ, nông, công, thương.
Nông, công, thương mà quan trọng nhất về số lượng cũng như về vai trò
kinh tế là nông dân, cách này hay cách
khác đều bị khinh rẻ, đều bị áp bức, đều bị bóc lột. Đó là những tầng lớp bị
trị. Tứ dân do sĩ đứng đầu. Sĩ - nhà Nho - có thể coi như một đẳng cấp đặc
biệt. Họ tự nhận và được xã hội thừa nhận, là kẻ “cầm chính đạo”, truyền bá
“giáo hóa” của triều đình cho nhân dân; trong một nước tôn giáo không có giáo
hội, không có nhà thờ, không có tầng lớp giáo sĩ có đặc quyền - Phật giáo và
Đạo giáo chỉ có các chùa quán có tính chất địa phương, có ảnh hưởng từng vùng
và không gắn một cách hợp pháp với chính quyền – nhà Nho trong đời sống tinh
thần của nhân dân, có trách nhiệm “chăn dắt” như người giáo sĩ. Nhà Nho đỗ đạt
ra làm quan và nếu không làm quan thì cũng thành thân hào, được hưởng những đặc
quyền kinh tế và tinh thần, trở thành thân hào. Thân hào là một thứ quý tộc ở
nông thôn, một thứ quý tộc không phải do dòng máu, không phải theo tài sản, có
uy quyền tinh thần và bóc lột siêu kinh tế. Sĩ là tầng lớp không có nhiều đặc
quyền nhưng không thuộc nhân dân lao động. Nó là một đẳng cấp xã hội đặc biệt
trong tứ dân. Địa chủ và phú nông là những tầng lớp bóc lột và trong điều kiện
ruộng đất ít, chúng bóc lột bằng nhiều cách rất nặng, nhưng nếu không phải là
có học, thuộc gia đình dòng dõi có quyền thế của thân hào mà chỉ là “trọc phú”
thì không những không có đặc quyền gì mà nhiều khi còn trở thành đối tượng bóp
nặn, làm tiền của thân hào và quan lại. Sự đối lập chủ yếu trong xã hội là: sự
đối lập quyền thế địa vị giữa vua quan và dân. Ruộng đất về danh nghĩa là của
vua về thực tế một số khá lớn là ruộng công. Quyền thế và địa vị là điều kiện
để được phân phối ruộng hưởng thụ rộng rãi quyền lợi ruộng đất. Đó là công cụ
chủ yếu để áp bức bóc lột.
Trong xã hội đó có sự đối lập giữa nông thôn và đô thị, không phải là sự
đối lập giống như trong xã hội tư sản. Khắp nước là nông thôn, là những làng
bản ẩn nấp trong lũy tre xanh có cổng làng đóng kín, là vô số những đám ruộng
đất manh mún, là những đình chùa đền miếu, thần hộ vệ dân làng. Người nông dân
không mấy ai đủ ruộng đất cày cấy phải lĩnh canh, phải làm thuế, phải làm nghề
phụ, hết mùa cày cấy phải bỏ làng đi kiếm ăn xa nhưng dầu có đi đến đâu thì
ngày giỗ, ngày tết họ cũng phải tìm về, không dứt được sự gắn bó với họ hàng
làng nước. Đô thị là nơi thủ phủ về chính trị, văn hóa, nơi tập trung kho lẫm,
quân đội. Ở đô thị có cung thất, dinh thự, phủ đệ của quý tộc. Đô thị cũng là
nơi tập trung những thợ thủ công khéo tay, những con buôn, sống thành phố
phường. Nhưng đây chỉ là những chợ lớn trao đổi hàng hóa có tính chất địa
phương, công thương nghiệp phố phường chủ yếu cũng chỉ nhằm cung cấp nhu cầu xa
xỉ cho bộ máy quý tộc quan liêu và gia đình họ. Nó phụ thuộc vào cung đình chứ
không có ý nghĩa trung tâm kinh tế đầy đủ. Sinh hoạt đô thị có khác nông thôn
nhưng nhân vật trung tâm trong cuộc sống đó vẫn là các nhà quyền quý, các công
tử tiểu thư cành vàng lá ngọc, xe kiệu, võng lọng, cao đạo oai nghiêm, cậy
quyền cậy thế, đi lại có kẻ hầu người hạ rậm rịch chứ không phải là người tư
sản, hợm hĩnh cậy của.
Thực dân Pháp sang nước ta thì
điều đầu tiên là phải có những người bản xứ làm môi giới kiếm giúp chúng thức
ăn vật dùng, giúp chúng giao thiệp buôn bán, giúp việc cho các hãng buôn, làm
công chức cho bộ máy cai trị. Những con buôn chạy việc cung cấp thức ăn vật
dùng cho trại lính, chạy việc mua hàng, bán hàng, những thông ngôn, ký lục giúp
việc giao thiệp, giấy tờ là những nhân vật đầu tiên, sau đó đến những me tây,
những ông thầu khoán, những người học trò các trường thông ngôn, hậu bổ. Những
người
“Tham đồng bạc trắng con cò
Bỏ cha bỏ mẹ đi phò lang
sa”
ấy tập hợp đông dần quanh quân xâm lược nước ngoài, là lớp thị dân đầu tiên của các thành phố nhượng
địa. Kinh tế hàng hóa kích thích sự phát triển của công thương nghiệp, làm cho
thành thị phát triên, làm xuất hiện nhiều nhu cầu mới, nhiều nghề mới. Thành
thị thu hút ngày càng nhiều những người dân chạy loạn, những người nông dân phá
sản và cả những người khác bỏ nông thôn ra thành thị mong kiếm ăn dễ dàng hơn.
Lớp thị dân trong các thành phố nhượng địa – ngoài quyền hạn của triều đình –
là những lớp dân mới ngoài “tứ dân”, có quan hệ với chính quyền khác trước và
quan hệ với nhau cũng khác trước. Họ đã thành những cá nhân trước pháp luật bảo
hộ, ít nhiều có quyền tự do của đời sống thành thị tư sản. Đối với lớp dân mới
đó, họ hàng, làng xã, đẳng cấp không còn nhiều ý nghĩa nữa. Nhưng trong thành
phố nhượng địa thương nghiệp và thuộc địa cũng không hề có người chủ xưởng,
người cướp biển phiêu lưu, nhà khoa học, kỹ thuật, nhà nghệ sĩ tự do, người trí
thức dân chủ… của các thành thị châu Âu dưới thời phong kiến trước đây. Chính
sách kinh tế của thực dân tuy có kích thích nhưng chủ yếu là kìm hãm công
nghiệp phát triển. Giai cấp tư sản từ các từng lớp thị dân như thế phát triển
dần lên không thành những nhà công thương dân tộc. Muốn vững chân họ vừa phải
bám vào thực dân, vừa phải bám vào ruộng đất ở nông thôn. Đáng lẽ họ phải đối
lập với chế độ phong kiến để phát triền thì ngược lại họ tìm cách kiếm chút
phẩm hàm, tìm cách dựa dẫm quyền thế, tậu vườn tậu ruộng để có chỗ đứng vững
chắc ở nông thôn.
Sự xác xơ của làng xóm, sự phá sản của nông nghiệp, sự xuất hiện các
thành thị đòi chiều hướng lưu tán của người nông dân, xô đẩy họ ùn ra thành
thị. Nhưng ở thành thị đông đúc, người khôn của khó, có nhiều nghề cũng không
dễ kiếm ăn. Những người nông dân, thợ thủ công phá sản đáng lẽ làm đội quân hậu
bị cho công nghiệp thì ngoài một số nhỏ trở thành công nhân nhà máy, hầm mỏ
hoặc đi phu làm đường, làm đồn điền; phần lớn còn lại biến thành những anh bồi,
anh xe, những vú em, con sen, những người buôn thúng bán mẹt và không ít trở
thành gái điếm, lưu manh. Một tầng lớp tiểu tư sản dân nghèo đông đảo, phình to
mãi ra, sống một cách bấp bênh ở thành thị, cùng nguồn gốc và không dứt được
dây mơ rễ má với lớp dân nghèo ở nông thôn sống bữa đực bữa cái, không ngớt
từng mùa đi tha phương kiếm việc làm ăn.
Đó là nét biến động cơ bản của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Hai kiểu kết cấu xã hội đó cùng tồn tại, cùng được cả thực dân và phong
kiến chấp nhận, được thực dân bảo vệ tương ứng với vị trí của nó trong thể chế
xã hội mà quyền lợi của chúng đòi hỏi duy trì. Nhưng những giai cấp, đẳng cấp
trong đó không ngừng xâm nhập lẫn nhau, chuyển hóa lẫn nhau, biến động tùy
thuộc vào những chính sách cụ thể của thực dân và theo phương hướng tư sản hóa
của cả đất nước nói chung.
Thực dân muốn lợi dụng tình hình lạc hậu về kinh tế và những phương thức
bóc lột trung cổ, những tổ chức có sẵn để ổn định việc cai trị, thu được nhiều
lợi nhuận nhưng bản thân cả chế độ phong kiến và những con người của chế độ đó
lại cản trở cho việc phát triển kinh tế hàng hóa mà nó cần đến.
Muốn nắm chặt thuộc địa, nó cần nắm chắc chính quyền các cấp và kiểm soát
chặt chẽ nhân dân. Nó cần có một bộ máy cai trị trung thành và đắc lực. Nó cần
tạo được một cơ sở xã hội thích hợp với chế độ của chúng, gắn bó với quyền lợi
của chúng. Tuyệt đại đa số nông dân ở nông thôn xưa nay vẫn chịu ảnh hưởng tinh
thần của thân sĩ Nho sĩ, đã từng là lực lượng chống đối lại sự xâm lược của
chúng một cách ngoan cường trong nhiều năm. Không những thực dân đã đàn áp,
chém giết, khủng bố để khuất phục, chiếm đoạt, tăng cường bóc lột để giảm nhẹ
chi phí cho chính quốc, tăng thu nhập cho ngân sách thuộc địa, đã bần cùng hóa
phá sản nông dân mà còn cần phải ly khai nông dân khỏi ảnh hưởng của thân sĩ
Nho sĩ. Đối với tầng lớp thân sĩ, Nho sĩ là tầng lớp có cội rễ và có uy tín ở
nông thôn, có uy quyền cả với bọn hương lý – về danh nghĩa là chính quyền địa
phương, là lực lượng hậu bị của bộ máy quan lại gắn bó với Nam triều, thực dân
Pháp vừa mua chuộc, vừa hạ uy thế vừa uy hiếp, khuất phục. Phần lớn vì thế đã
mang tâm lý thất bại chủ nghĩa, thất vọng đầu hàng và mất uy tín. Để thay thế
họ trong bộ máy nhà nước, thực dân mở các trường hậu bổ, trường Pháp Việt,
trường cao đẳng đào tạo những người tây học, cải cách thể lệ thi hương, thi
hội, tạo điều kiện cho bọn tay sai, cho những người có tây học chiếm lấy các
danh vị ông nghè ông cử. Những ông thông, ông phán, những người đậu đạt tây
học, những ông nghè ông cử “mới” được triều đình phong tặng hưởng những ưu đãi
về vật chất và tinh thần mà các danh vị ấy cho phép, thay thế dần vị trí các
văn thần xuất thân từ Nho học. Chính sách của thực dân tác động đến lớp quý tộc
thân hào. Muốn giữ chặt quyền lợi, địa vị, bọn chúng ra làm việc cho Pháp, cho con
học trường Pháp, gửi con du học tận bên Pháp, bỏ tiền mua cổ phần, mở cửa hiệu
buôn bán và dần dần cũng có cả hai chân ở nông thôn và thành thị.
Thượng lưu nhân vật trong xã hội
tức là những cụ Thượng, quan Bố, ông nghè, ông tham “hèo hoa gươm bạc, tán tía
lọng xanh” đầy thế lực chuyển sang là những quan Thông, những cô Tư Hồng, những
ông ký Bưởi, rồi đến ông chủ bút, nhà học “giả kính trắng” Phạm Quỳnh và ở nông
thôn thầy chánh, thầy lý, ít lâu trước đó còn là người chạy việc, khúm núm,
vâng dạ nghe theo các thân sĩ, nay bỗng trở thành người có quyền hành thực sự,
được quan sứ, quan đồn bênh vực, giúp đỡ, cho tậu ruộng, chiếm vườn, xây dựng
dinh cơ, chẳng bao lâu nữa cũng thành ông Nghị cầm ba – toong, đội mũ dạ, mặc
âu phục và … đi ô tô hòm. Trong xã hội đó không phải không có những ông “trưởng
giả học làm sang”, những vị “hầu tước dơ dáng đại hình”, nhưng trong vòng tay
của ông chủ thực dân, nhà tư sản và nhà quý tộc sống với nhau êm ả, không xung
khắc. Người tư sản biết quý mảnh sắc phần hoàng của triều đình và cả cái thủ
lợn ở chốn đình trung mà nhà quý tộc cũng biết kính trọng cái túi căng phồng mà
tìm cách ve vãn. Vả nông thôn và thành thị đi đến nhất thể hóa, mà nhất thể hóa
theo hướng tư sản.
Xã hội Việt Nam chuyển mình một cách đau đớn nhục nhã sang hướng tư sản,
một xu hướng tư sản kém lành mạnh nhất, què quặt nhất, để lại những hậu quả tai
hại nhất, nhưng điều đó cũng lôi kéo các mặt khác phát triển: thay đổi bộ mặt
thành thị, thay đổi kết cấu xã hội, làm mất thế lực nhiều lực lượng bảo thủ trì trệ, tạo điều kiện cho cái mới - sau khi
đã thay da đổi thịt, biến hóa - có điều kiện từ thành thị tỏa về nông thôn chi
phối sự phát triển theo kiểu các xã hội hiện đại.
3. Cuộc sống, tâm trạng
đổi thay. Những vấn đề của xã hội
Những sự đổi thay như thế về chính trị, kinh tế, xã hội càng nhày càng
củng có vị trí của thực dân, khẳng định, bình thường hóa những cái xấu xa,
những cái trái mắt của quân cướp nước, của phương Tây, của xã hội tư sản mà
thực dân mang vào cuộc sống của ta. Người ta phải sống với nó, bắt buộc phải
thích ứng với nó và không phải không quen dần.
Lúc đầu Tú Xương chế giễu:
Khăn là bác nọ to tày rế
Váy lĩnh cô kia quét sạch
hè
Công đức tu hành, sư có
lọng
Xu hào rủng rỉnh mán ngồi
xe.
Cái lố lăng, hợm của, trái tôn ti trật tự ấy trông chướng tai gai mắt,
gây ra bất bình phản ứng không phải cho riêng ai mà cho cả xã hội vốn tôn trọng
tục lệ, tôn trọng lễ giáo, phân vị trên dưới. Nhưng về sau, khi quyền của “kẻ
có của” được thừa nhận, sự hưởng thụ thú vui vật chất được coi là quyền lợi tự nhiên
- lễ giáo tục lệ lùi bước - thì cái ngon, cái đẹp, cái tiện lợi, cái hào nhoáng
trở thành có sức hấp dẫn. Người ta không chê việc
“… làm ông Phán
Tối rượu sâm banh, sáng
sữa bò”
nữa
Những người luống tuổi đua nhau đi
học, các bậc cha mẹ thúc dục con cái đi học, kiếm lấy ít vốn liếng chữ Tây và
hãnh diện về cái chức thông phán. Cả những cái còn xa lạ hơn sâm banh, sữa bò,
kiếm được bằng những cách nhục nhã hơn, tội lỗi hơn đã lại gây ra thèm muốn ước
ao. Cái quan trọng không phải chỉ là chỗ thay đổi sự thích thú, ở chỗ bình
thường hóa việc ăn bơ sữa, mặc ngắn gọn, bắt tay để chào hỏi nhau, mà cái quan
trọng là đồng thời với sự thay đổi trong cuộc ống bình thường đó, là sự thay
đổi của cả cuộc sống tinh thần, cả tâm lý, cách suy nghĩ. Trong xã hội xuất hiện
những vấn đề mới và cách nhìn, cách giải quyết các vấn đề đó theo cách khác.
Thành phố mới đã thành nơi
Nhà ngói bát úp đường bàn
cờ
Đèn điện sao sa, nước máy
dội
Những con cò, con vạc không còn những lùm cây um tùm để đêm về đỗ bên hồ
Hoàn Kiếm, và cũng không còn mấy người như Nguyễn Khuyến để chú ý đến nó, than
thở cho nó. Người ta bận rộn về những cái khác. Trong cuộc sống
Người đủ hạng người, trò
đủ trò
Đua nhau thanh lịch cũng
lắm lối
Những của ngon vật lạ hàng ngày tràn về, những nhà hát lộng lẫy, những
quán trà lịch sự lôi cuốn, báo chí không ngớt đăng giá cả, tin tức kinh doanh.
Người ta cần hưởng thụ, cần tiền, cần tính toán chạy vạy. Cuộc sống sôi động,
chen chúc, phức tạp đòi hỏi người ta phải nhanh chóng gọn ghẽ, luôn luôn động.
Để chạy theo tốc độ của chiếc xe ô tô của Pháp, chiếc xe tay gọng đồng sáng
loáng thay cho chiếc cáng cồng kềnh, chậm chạp, cổ lỗ. Những cô gái đã không
quý môi trầu cắn chỉ, chiếc nón quai thao, đã để răng trắng, rẽ tóc lệch, ăn
diện, làm dáng theo lối mới. Người đàn ông nhanh chóng sắm “áo hàng Tàu, khăn
nhiễu tím, ô lục soạn xanh”, rồi lại bỏ nó để sắm âu phục.
Hàng hóa châu Âu từ thành thị tràn về nông thôn. Chiếc đèn Hoa Kỳ rồi
chiếc đèn Măng - sông chói sáng bên cạnh cọc đèn dầu lạc leo lét. Bàn tiện, tủ
chè, không chạm tùng hạc mai lộc, bát tiên tứ quý nữa mà chạm cành nho con sóc
thay thế dần những phản gụ sập lim. Bộ sa - lông, cái đồng hồ quả lắc chiếm chỗ
trong gian giữa nhà trên, được gọi thành phòng khách của ông bá hộ ở nông thôn.
Những bộ đồ mới lạ ấy dồn chỗ cho những hương án, bàn thờ, câu đối, hoành phi,
được xếp bên cạnh, có khi là đuổi thẳng cái án thư, bộ tràng kỷ xuống nhà xép,
nhà ngang. Cái mới tập trung ở thành thị nhưng không chỉ đóng khung ở thành
thị, nó đổi thay cả cuộc sống ở nông thôn, căn cứ địa của nhà Nho và người nông
dân, những người vốn trung thành với cái cổ truyền nhất.
Không phải người ta chấp nhận dễ dàng sự thay thế đó. Thực dân Pháp chỉ
muốn giành cho kẻ thua trận một con đường: đầu hàng khuất phục, chỉ chấp nhận ở
họ một thái độ: cam chịu. Nhưng nhà Nho và người nông dân, dẫu càng ngày càng
thất thế, càng bi quan, vẫn không ngừng phản kháng. Họ có nhiều cách chống lại,
tích cực có, tiêu cực có. Ở nhiều nơi, những người Cần Vương sống sót vẫn ẩn
nấp trong nhân dân, đi về bí mật như những kẻ du hiệp, mong thổi lại đốm lửa
trong đống tro tàn. Ở Yên Thế, Hoàng Hoa Thám vẫn xây dựng đồn lũy. Ở Quảng Nam ,
Nguyễn Hàm vẫn giữ một cái trại ngầm thu nạp hào kiệt. Người thi đỗ cố từ không
chịu ra làm quan. Người làm quan từ chức bỏ về. Dầu vua Hàm Nghi đã bị đày,
Đồng Khánh rồi Thành Thái đã lên ngôi từ lâu, không ít người vẫn dùng niên hiệu
Hàm Nghi để tính năm tháng. Người ta bài bác bộ âu phục “cộc lốc”, đôi giày
“lộp cộp” lấc láo, chữ Tây khó nghe, không có nghĩa lý, không trang nhã, không
quý không đẹp như chữ nghĩa thánh hiền, người đi học phải “liếm đít bát cho
mỏng lưỡi đi mới đọc được”, những nhà gia giáo cấm con cháu mặc đồ tây, nói
tiếng tây trước mặt cha anh.
Nhưng cái mới, cái đẹp, cái tiện lợi vẫn có sức mạnh của nó. Ưu thế của cái
dân tộc, của tình cảm thiêng liêng với cha ông, của đạo nghĩa thánh hiền cũng
không lấn át được. Dần dần cái mới chinh phục được cả những người khó tính, nệ
cổ. Khi tìm ra trong những của mới lạ ấy phương tiện để trang sức thêm cho sự
oai nghiêm của cuộc sống phong kiến cổ lỗ nặng nề, những người quyền quý giàu
có mua gấm vóc để may mặc, xe cộ để đi lại, mua đồ sứ, đồ pha lê trang hoàng
nhà cửa, trân thiết nhà thờ. Những họa tiết trang trí, cả nghệ thuật chạm trổ,
xây dựng làm cho quy mô xây dựng nhà cửa, phủ đệ, nhà thờ, sinh phần to lớn
lộng lẫy hơn. Những nhà Nho cũng thấy đèn Hoa Kỳ nhẹ hơn, tiện hơn, sáng hơn
đèn dầu lạc. Vải cát bá nhẹ hơn, mát hơn vải thô dệt tay. Một ông đồ chít khăn
lượt, đi guốc cao, để móng tay dài khó mà giữ được cái dung mạo trang nghiêm
cung kính khi ngả lưng vào chiếc “phô - tơi” hiện đại, nhưng khi đã đội khăn
đóng, mặc áo sa, đi giày da thì họ thấy ngay sự thoải mái mà những bàn ghế, xe
cộ hiện đại đưa lại là thú vị. Không ai có thể đuổi nó hay tính đến chuyện đuổi
nó ra khỏi cuộc sống mà ngược lại chỉ tính chuyện sửa đổi mình cho thích hợp
trong cuộc sống với những cái mới đó.
Không phải chỉ người nông dân phá sản chạy ra thành phố mà các nhà Nho
cũng di ra thành phố, Dần dần họ thành người thành thị hóa, tiểu tư sản hóa. Cái
ranh giới của địa vị, gia thế bị xóa bớt. Một ông nghè có thể ra đứng chủ trì
một hội buôn. Một ông quan có thể ra ngồi bốc thuốc ở hiệu, một cậu ấm có thể
ra viết tuồng, đạo diễn tuồng mà không cảm thấy mất thể diện. Dần dần chính họ
lại tập hãnh diện với những mánh khóe trong nghề buôn bán làm ăn. Họ quan niệm
nghề buôn, việc làm giàu theo triết lý cạnh tranh sinh tồn chứ không phải với
thái độ khinh bỉ nghề “trục mạt” như lời thánh hiền ngày trước. Lớp nhà Nho trẻ
mới lên, sống cuộc sống mới đó, có phương tiện “vừa ra Bắc đó lại vào Nam”dần
dần mở rộng tầm mắt thấy ra nhiều cái mới lạ không phải chỉ của những nước khác
mà cả của đất nước mình, họ thấy được cái chật hẹp, những chỗ yếu của chính
mình. Trong số đó xuất hiện những người xông xáo - có chí “hồ hải” - trái với
bản tính Nho gia, như loại Phan Bội Châu, Đặng Thái Thân… Trước khi người tư
sản dân tộc có ý thức giành lấy quyền làm chủ cuộc sống đáng lẽ thuộc về họ,
thì những nhà Nho này, nhờ uy tín xã hội, nhờ khả năng về văn hóa đã đóng hộ họ
vai trò nhà tư tưởng của giai cấp mới. Theo quan niệm của mình và với phương
tiện mình có, họ nhìn và giải quyết những vấn đề mới của thời đại.
Thực tế lớn nhất của cuộc sống là đất nước đã mất vào tay quân giặc, làm
nghẹn thở cả dân tộc. Một thực tế nữa cũng lớn nhất là nếu ở thành thị thì càng
thấy rõ là đất nước đang đi vào con đường tư sản hóa. Cho nên thực tế đặt ra
vấn đề chống Pháp cứu nước giành độc lập mà cũng đặt ra vấn đề duy tân, đi theo
Âu Mỹ, theo kịp các nước văn minh. Vấn đề cứu nước, vấn đề duy tân đều được đặt
ra từ thế kỷ trước nhưng đến nay phải nhìn lại trong hoàn cảnh mới. Không những
kinh nghiệm thất bại vừa qua cho phép rút ra nhiều bài học mà những điều tai
nghe mắt thấy ở thời này cũng cung cấp cho người ta nhiều điều kiện để thấy vấn
đề thiết thân hơn. Phải có dân đứng lên mới cứu nước được, phải giàu mạnh mới
đánh Pháp được. Phải duy tân mới độc lập được. Nhưng với vốn tri thức và cách
suy nghĩ của nhà Nho, lúc đó chưa ai có điều kiện để hiểu cái mới - mà mỗi
người nhìn một cách - thật sâu xa. Theo cái mới là theo con đường của kẻ thù.
Thực dân Pháp chẳng đã khoe khoang những việc làm của chúng nhằm mục đích khai
hóa, truyền bá văn minh, ban ơn cho thuộc địa đó sao? Quá nửa những việc chúng
làm là xấu xa tàn ác, và hầu hết là trái với phong tục tập quán của dân tộc.
Không phải duy tân và yêu nước đã kết hợp với nhau. Không dễ dứt bỏ cái của cha
ông, của dân tộc, của thánh hiền để theo cái mới. Có người ghét Pháp, cự tuyệt
mọi cái mới. Có người cho duy tân là tất cả, lầm lẫn những việc Pháp làm cũng
là duy tân. Duy tân là cả một cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, giữa cái
dân tộc và phản dân tộc. Ở giữa hai thái độ cực đoan đó là những quan niệm mơ
hồ yêu nước và duy tân ở những phạm vi khác nhau, ở mức độ khác nhau. Kết hợp
yêu nước và duy tân trong thực tế không phải là chuyện dễ dàng và xác định cái
mới nào là cái mới cần cho dân tộc cũng không phải một lúc đã làm ngay được.
Nhưng cái mới vẫn cứ thâm nhập bất chấp mọi sự chọn lựa. Nó chi phối sự
suy nghĩ, tác động đến tâm lý xã hội.
Trong cuộc đổi thay như vậy - một cuộc đổi thay mà bất cứ một cuộc “bể
dâu” nào trước đây cũng không thể so sánh - có nhiều con người khác trước,
nhiều quan hệ khác trước, nhiều chuyện khác trước. Cuộc sống tràn ra ngoài
khuôn khổ luân thường và nhân tình thế thái, mà trở thành một cuộc sống xã hội
cụ thể, đa dạng và sôi động. Sự êm ấm của lòng từ hiếu, cung thuận trong gia
đình không giữ được người con dưới gối cha mẹ; tình làng xóm quê hương với cái
rộn ràng của hội hè đình đám không fiữ chân được chàng trai sau lũy tre xanh.
Bước ra khỏi khuôn khổ chật hẹp yên lặng đó, người ta phải tỉnh táo, tính toán,
vật lộn trong tình thế “khôn sống, vống chết” của một quan hệ lạnh lùng “tiền
trao cháo múc”. Người ta phải tự ý thức, phải sống, suy nghĩ, mơ ước cho riêng
mình trong những điều kiện của một xã hội phức tạp rộng lớn.
Chính sự đổi thay, sự đấu tranh ấy tạo ra những con người khác trước, đặt
ra những vấn đề thành đề tài văn học khác trước, những nhân vật văn học, những
suy nghĩ cảm xúc mà ta sẽ gặp trong văn học thời kỳ này. Những bài thơ ngâm
chậm rãi từng câu bên chiếu rượu, những câu hò hát khoan thai của những buổi
dêm trăng khó gây hào hứng quyến rũ. Văn học phải là văn học của những con
người cụ thể và của một xã hội động.
II. TÌNH HÌNH
CHUNG CỦA SỰ PHÁT TRIỂN VĂN HỌC
Sự đổi thay trong thực tế xã hội phản ánh vào văn học, kéo theo sự đổi
thay trong văn học. Xã hội thực dân nửa phong kiến hình thành qua một quá trình
đấu tranh giữa ta và địch, tranh chấp giữa cái mới và cái cũ. Song song với nó
hay đúng hơn là tương ứng - vì là nó phản ánh - với quá trình đó là một cuộc
cạnh tranh Âu Á về văn học. Thực dân Pháp đã du nhập văn hóa Pháp để đẩy lùi,
chiếm chỗ, thay thế văn hóa cổ truyền của ta, mà ta phản kháng lại sự xâm nhập,
nô dịch đó để bảo vệ văn hóa của dân tộc, đồng thời cũng bắt chước, chọn lọc,
tiếp thu cái mới, chịu ảnh hưởng của cái thống trị, dần dần hưởng theo nền văn
hóa mới một cách không cưỡng lại được.
Kết thúc giai đoạn đấu tranh quân sự và chính trị, một bên chỉ còn một vũ
khí là văn học và một bên phải chuyển sang dùng vũ khí văn học để tiếp tục
chinh phục. Hai bên đều sử dụng văn học và đều muốn giành giật lấy vũ khí đó.
Những nhân tố đối lập nhau cùng tác động ảnh hưởng đến cảm xúc, suy nghĩ của
mọi người trong cuộc sống, ảnh hưởng đến người sáng tác, quá trình sáng tác.
Bên cạnh những nhà Nho vẫn tiếp tục làm thơ làm phú, người nông dân vẫn tiếp
tục ca, vè, hò, hát, nền văn học cũ vẫn tồn tại khắp nước; một lớp nhà văn kiểu
mới, một nền văn học có tính chất khác trước xuất hiện tạo thành một cảnh tượng
giao thời giữa hai nền văn học.
Cả giai đoạn 1900 - 1930 có nhiều sự kiện văn học, nhiều tác giả tác phẩm
đánh dấu từng bước của quá trình đấu tranh, phát triển, tranh chấp giữa hai thứ
văn học cũ và mới trong giai đoạn có tính chất giao thời đó.
1. Một giai đoạn văn học có tính chất giao thời
Trước thế kỷ XX trong lịch sử văn học của ta có hai dòng rõ rệt: bác học
và bình dân. Mọi dòng đều có người sáng tác, cùng chung đề tài, đời sống,
phương thức truyền bá riêng, đều được sáng tác theo những quan niệm văn học,
những lý tưởng thẩm mỹ riêng, và theo những thể loại nhất định.
Văn chương bác học là văn chương của nhà Nho, từng lớp trí thức tự coi
mình là phần tử của triều đình, kẻ hướng đạo nhân dân, kẻ bảo vệ đạo lý thánh
hiền. Nhà Nho viết văn không phải để biểu hiện cái đẹp, không phải để mua vui.
Văn gắn liền với đạo, viết văn là để vì đời, để bảo vệ đạo lý cương thường. Có
thể đó là thứ văn chương ca tụng vua hiền tôi giỏi, giảng giải đạo lý nhằm treo
gương, thuyết phục, răn dạy. Có thể đó là thứ văn chương mượn cảnh nói tình,
biểu đạt tâm chí, bộc bạch tấm lòng trung trinh tiết tháo cũng là thể hiện của
đạo lý cương thường. Trong nhà Nho cũng có nhiều người chán cái gò bó, khắt
khe, chật hẹp của khuôn khổ lễ giáo, viết một thứ văn chương ca tụng thiên
nhiên, ca tụng sự phóng khoáng, sự thanh cao của người ẩn sĩ, ca tụng cái hào
hoa phong nhã của người tài tử. Lý tưởng thẩm mỹ có thể khá khác nhau, nội dung
tư tưởng có thể khá khác nhau nhưng văn chương viết ra vẫn là thơ, vẫn là một
thứ văn xuôi có vần, có điệu, mỗi thể loại đều phải tuân theo những luật lệ
nghệ thuật chặt chẽ, hạn chế sự sáng tạo của cá nhân. Đời sống của nó là ở
triều đình giữa vua tôi và đồng liêu, trong trường học, thi xã giữa thầy trò,
bè bạn, trong gia đình giữa cha con anh em. Văn chương viết ra là để cho mình,
viết vào văn tập, thi tập lưu lại là để cho con cháu, “cất vào danh sơn”. Những
áng văn hay vẫn được phổ biến, truyền tụng, nhưng đó là sự trao đổi bằng cách
đọc cho nghe, chép cho xem giữa những người giống mình. Người viết không hề
nghĩ đến chuyện công bố tác phẩm, không hề quan tâm đến công chúng. Trong thứ
văn chương ấy, người ta quan tâm trước hết không phải là thực tế khách quan mà
là đạo lý cương thường. Cái đẹp, cái hay của nó trước hết là nghĩa lý. Hình
thức chuộng cân đối hài hòa trang nghiêm. Không phải là người ta coi thường kỹ
xảo, gọt rũa, hoa mỹ; thay cho những từ ngữ thông thường là điển tích nhưng
không phải vì thế mà người ta chuộng sự cầu kỳ khó hiểu. Người ta vẫn quý sự
bình dị tự nhiên trang nhã. Văn chương trang nhã tránh cái thô, cái tục, vừa
không quan tâm biểu đạt thật đúng thực tế, vừa không coi trọng cuộc sống của
nhân dân quần chúng mà họ cho là tầm thường thấp kém. Nhà Nho viết văn không để
cho nông dân đọc mà đọc văn cũng không nhắm cho nông dân nghe.
Văn học bình dân là văn chương của nhân dân lao động. Đó là lời ca tiếng
hát bộc lộ những xúc cảm trong cuộc sống thôn dã, trong khung cảnh cùng nhau
lao động sản xuất, cảnh hội hè đình đám tụ tập đông người, kể những chuyện
trong xóm trong làng làm họ xúc động, những chuyện ngang trái mà họ muốn phê
phán. Khi hò hát hay kể vè họ không coi đó là văn chương, nghệ thuật nhưng căn
chương bình dân vẫn có cái đẹp tự nhiên giản dị như tâm hồn người sáng tác ra
nó, như khung cảnh thiên nhiên mà họ sống. Người bình dân hò hát, làm vè cũng
không nhằm vào một công chúng nào. Đó cũng là một thứ văn chương trữ tình. Cái
đẹp chất phác của nó cũng xa lạ đối với nhà Nho.
Nhà Nho coi thường, ít quan tâm đến bài vè câu hát của nhân dân mà nhân
dân cũng giữ thái độ “kính nhi viễn chi” đối với văn chương bác học cao đạo xa
lạ. Hai thứ văn chương đó căn bản đều là trữ tình ra đời trong cùng một khung
cảnh, một thời đại, nhưng là của hai loại người sáng tác khá xa cách nhau. Tuy
xa cách nhau, giữa hai loại tác giả - công chúng văn học đó vẫn có chỗ gặp
nhau. Đó là trường hợp những nhà Nho có tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa quan tâm
đến thực tế cuộc sống, đến con người, viết những truyện nôm, tỏ sự đồng tình
với những kẻ chịu cảnh bất công áp bức, gặp cảnh ngộ ngang trái, chịu số phận
hẩm hiu. Suy nghĩ cảm xúc của họ về cuộc đời không phải hoàn toàn giống người
nông dân nhưng người nông dân cũng thích thú tìm được trong câu chuyện trong
lời thơ của truyện nôm cái gì đó là đồng điệu mà ca dao, hò vè của họ không nói
lên được. Khi dùng những thể loại dân tộc ngôn ngữ dân tộc để viết truyện, các
nhà Nho tự nhiên phải đi sâu vào tiếng nói, tâm tình của nông dân và khi truyền
miệng ngâm đọc truyện đó, người nông dân cũng chia sẻ phần đồng tình, đồng cảnh
phần con người nhất trong xúc cảm của Nho sĩ. Thứ văn chương ở giữa bác học và
bình dân đó làm dấu nối giữa hai loại người, có tác dụng to lớn nhân dân hóa văn chương bác học, nghệ thuật hóa
văn chương bình dân, là những cái mốc quan trọng trên bước đường phát triển văn
học dân tộc.
Việc gặp nhau, học nhau như thế vẫn không xóa bỏ được sự cách biệt. Kinh
tế và xã hội một nước nông nghiệp không có khả năng khắc phục tính chất phân
tán của nó. Vì vậy nó vẫn giữ nhà Nho và nông dân, ba dòng văn học nói trên –
những sản vật của kinh tế nông nghiệp của xã hội phong kiến – trong tình trạng
xa cách, riêng rẽ, không đi đến nhất thể hóa. Tình trạng đó tồn tại lâu dài
cùng với sự trì trệ của xã hội phong kiến nước ta.
Sự đổi thay bắt đầu với việc đổi thay vị trí của cung đình và nông thôn
so với thành thị tư bản chủ nghĩa, của nhà Nho và người nông dân – những nhân
vật nông thôn – so với người thị dân.
Trong xã hội thực dân nửa phong kiến không thuần nhất như trước, cung
đình không còn là trung tâm của cả nước. Quan hệ vua tôi đồng liêu, trật tự tôn
nghiêm của triều đình bị xáo tung bởi một quan hệ mới: giữa tất cả những cái đó
với chế độ thực dân.
Chiếc lương tây hậu hĩ đang lôi cuốn đám thanh thiếu niên đến các trường
Pháp – Việt. Các trường học chữ Nho xưa kia tấp nập đến cả nơi thôn cùng xóm
vắng thì nay hiện ra quan cảnh tàn tạ của buổi chợ chiều:
Đạo này học đã chán rồi
Mười người đi học chín
người thôi.
Cô hàng bán sách lim dim
gật
Thầy kóa tư tương nhấp
nhổm ngồi.
(Tú Xương)
Trong cảnh loạn ly không ai còn nghĩ đến chuyện lập thi xã. Bạn bè thân
thích cũng ngại gặp nhau. Quan hệ thầy trò bè bạn không còn chặt chẽ như trước.
Nhà Nho, người đại biểu tinh thần của xã hội trước đây, trải qua một sự đảo lộn
về số phận. Ở nông thôn dưới cặp mắt thiếu thiện cảm của thực dân, nhà Nho –
thân sĩ hay Nho sĩ – đã nép mình nhường chỗ cho những người chức sắc mới. Tiếng
nói của họ không còn được coi trọng và họ cũng đã biết thân phận, không dám nói
nhiều. Văn học bác học, chung số phận với người sinh ra nó mất cả sinh khí và
đất sống, không có điều kiện phát triển, càng ngày càng tàn lụi.
Ở các thành thị càng ngày càng đông đảo những con người mới, sống hoàn
toàn khác trước. Ở đây người công chức sau 8 giờ làm việc ở công sở, về nhà rỗi
rãi, cần đọc báo, đọc tiểu thuyết, đi xem hát. Những nhà kinh doanh cần biết
tin tức, cần tiêu khiển. Những cô gái ngồi trông cửa hàng, những cậu bồi anh xe
ngồi chờ chủ, những cô sen ngồi chờ lấy nước bên giếng máy, cần xem truyện. Người
ta đòi hỏi biết nhiều truyện có tình tiết cụ thể, hấp dẫn, ly kỳ, gây xúc động.
Người ta cần giải trí, cần cười, cần mơ màng. Ở thành phố không có chỗ cho
những buổi hò hát dưới ánh trăng và thứ văn nghệ thôn dã ấy cũng không thỏa mãn
được thị hiếu thị dân của họ nữa. Lớp công chúng mới ra đời đó đòi hỏi một nền
văn học thị dân.
Trong truyền thống văn học dân tộc ta chưa có nền văn học thị dân và
thưởng thức một thứ văn học thị dân như vậy cũng không phải là việc dễ dàng, tự
nhiên đối với người bằng con đường này hay con đường khác mới từ nông thôn ra
thành phố. Vai trò môi giới lúc này rất quan trọng. Trong nhà trường, người học
sinh từ học tiếng Pháp đến học văn học Pháp. Những giờ phân tích giảng dạy văn
học trong trường có tác dụng cải tạo, giáo dục quan điểm thẩm mỹ làm cho người
đọc hiểu, thích văn học tư sản Pháp, một thứ văn học rất khác với văn học
truyền thống của ta. Những chuyện dịch từ tiếng Pháp, từ tiếng Trung Quốc đăng
dần trên báo chí, hay in thành sách mỏng là món ăn tinh thần đầu tiên của lớp
công chúng thị dân mới mẻ ấy.
Không phải văn học thị dân đã có thể lấn át ngay văn học nông thôn. Nhà
Nho vẫn tự hào về thơ phú, chữ nghĩa, đạo lý thánh hiền, vẫn làm thơ phú đọc
cho nhau nghe. Nhiều vị khoa bảng có tiếng tăm, quan lại cao cấp được thực dân
khuyến khích tổ chức những buổi xướng họa, thi thơ lớn. Nhiều người công bố cả
sáng tác lên báo chí. Nam
triều vẫn tồn tại, vẫn có những ông quan ngồi viết chiếu biểu. Người ta vẫn
nhai lại thứ văn chương giáo huấn về vua thánh tôi hiền, về đạo lý cương
thường… nhưng không còn ai thích thứ văn chương dối trá trơ trẽn viết chỉ để
tiêu sầu và kiếm cơm ấy. Những nhà Nho yêu nước, trong sạch dùng văn thơ để nói
khí tiết bất khuất, để vạch mặt bọn phản bội, ca tụng những người anh hùng hy
sinh. Người nông dân vẫn không có quan hệ gì với những truyện đăng trên báo
chí, những bài văn giảng dạy trong nhà trường, vẫn bộc bạch nỗi lòng của mình
trong bài vè, câu hát. Phạm vi co rút lại, tác động tuy có ít hơn, văn học cũ
của nhà Nho và của người nông dân vẫn cứ tồn tại trong địa bàn nông thôn của
họ.
Thế là ở hai địa bàn thành thị và nông thôn có hai nền văn học khác nhau.
Bên cạnh nhà Nho là lực lượng sáng tác chủ yếu trước đây, xuất hiện lực lượng
sáng tác mới: những người làm báo – trong đó có cả những nhà cựu học viết bằng
chữ Hán. Dần dần bằng con đường dịch thuật, phóng tác, một số người viết báo
chuyển sang viết truyện ngắn, kịch, đáp ứng đòi hỏi của công chúng ở thành thị.
Hai lực lượng sáng tác đó khác nhau hẳn về quan niệm văn học, về mục đích sáng tác,
về phương pháp sáng tác, về tiêu chuẩn thẩm mỹ.
Trong điều kiện phương tiện giao thông và giao lưu văn hóa phát triển
hơn, báo chí, nhà xuất bản, nhà hát truyền bá tác phẩm văn học nhanh chóng và
rộng khắp hơn, thành thị và nông thôn liên lạc thường xuyên hơn, nhân dân ở vào
hoàn cảnh giống nhau, có tâm tư nguyện vọng gần nhau, dễ hiểu nhau hơn, quần
chúng nhất thể hơn trước, dân tộc thống nhất hơn trước, hai nền văn học ấy phải
tiếp xúc với nhau, ở vào thế phải cạnh tranh với nhau để thành một nền văn học
chung cho cả dân tộc. Văn học bác học của nhà Nho rút hẹp địa bàn lại và văn
học cũng thay đổi tính chất. Văn mới và văn cũ đều đăng lên báo chí, đều đem ra
công bố cho mọi người. Nó thành một thứ hàng hóa, không thể không chú ý tới yêu
cầu của công chúng. Trong cuộc cạnh tranh đó, văn học cũ, căn bản là một sản
vật có tính chất nông thôn, phong kiến, không thể thích hợp với xã hội mới.
Công chúng thành thị đông đảo về số lượng lại có đồng tiền bỏ ra nuôi sống báo
chí, người cầm bút, trở thành lực lượng chi phối sự phát triển của văn học, bắt
người ta quan niệm văn học theo yêu cầu của nó. Khi lớp thanh niên lớn lên,
nhiều người đã đi học chữ Pháp, xa dần những chữ “chi hồ giả dã”, xa dần cách
làm đối, làm đoạn, chọn vần, gò gẫm niêm luật thì thơ phú của những bậc cha chú
về mặt văn học trở thành xa lạ đối với họ, xa lạ hơn cả tiểu thuyết và kịch nói
về những ông hiệp sĩ, những bà quý tộc, những nhà tư sản thế kỷ trước ở tận
châu Âu. Mặc dầu các cụ, và nhiều người vẫn theo các cụ chỉ thừa nhận có một thứ
văn chương là văn thơ phú lục, không thể nào coi việc tả hàm râu con dê, bộ
lông con cú, tiếng xe bò ậm ạch lăn trên đường đá là văn chương. Những đoạn văn
tả cảnh của A. Đô – đê, Guy Mô – pát – xăng, G. Phờ - lô - be vẫn làm người ta
thích thú say mê. Kịch của Mô – li – e, của Coóc – nây vẫn hấp dẫn dễ dàng hơn
là văn của Hàn Dũ, thơ của Lý Bạch, Đỗ Phủ và ngay đến cả văn thơ Nguyễn Trãi
nữa.
Văn học thành thị thay cho văn học nông thôn, người trí thức tân học thay
cho nhà Nho làm chủ văn đàn. Nhưng sự thay đổi đấu tranh – tiêu diệt – thay thế
mà trải qua một cuộc cạnh tranh âm thầm lặng lẽ, chuyển hóa dần. Văn học cũ cố
gắng cách tân, thích ứng với công chúng mới nhưng bất lực, dừng lại, héo mòn
dần. Văn học mới ra đời, đầu tiên khá mỏng manh, nội dung khá nghèo nàn, nghệ
thuật khá ấu trĩ, nhưng dựa vào sự phát triển, chiếm lĩnh dần trận địa, dồn văn
học cũ vào một góc trong từng người, trên tờ báo, trong cả xã hội, cho đến lúc
nó biến mất hẳn.
Văn học của cả giai đoạn 1900 – 1930 có tính chất giao thời. Tính chất
giao thời đó biểu hiện ở sự tồn tại song song của hai nền văn học cũ và mới với
hai lực lượng sáng tạo, hai công chúng với hai quan niệm văn học, hai ngôn ngữ
văn học ở hai địa bàn khác nhau, ở xu thế thắng lợi của nền văn học mới đang
tiến tới thay thế nền văn học cũ đang suy tàn dần. Ở giai đoạn giao thời này,
nền văn học cũ tuy đã ở trên đà suy tàn nhưng vẫn còn giữ một vị trí đáng kể,
vẫn còn có tác dụng tích cực nhất định trong sự phát triển của văn học dân tộc.
2. Nền văn học hiện đại hóa, đi vào quỹ đạo chung của
văn học thế giới
Trước thế kỷ XX, nền văn học của ta giống với nền văn học một số nước
Đông Á, chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc, không cùng loại với nền văn hóa
của nhiều nước trên thế giới, chủ yếu là nền văn hóa châu Âu lúc đó. Nền văn
học chính thống do nhà Nho viết và chịu ảnh hưởng Nho giáo.
Nhà Nho để cả cuộc đời vào việc viết văn làm thơ và theo quan niệm Nho
giáo, họ viết văn làm thơ trong những trường hợp nhất định, theo những ý định
nhất định, không giống với hoạt động sáng tác của các văn nghệ sĩ. Văn chương
có thể coi là một thứ nghề, một thứ kỹ xảo, nắm vững nó, nhà Nho có thể thi đậu
làm quan và công việc của một ông quan nhà Nho là làm văn chương trong các
trường hợp khác nhau của công việc cai trị. Từ nhỏ họ đã tập làm thơ, viết văn
tuần tự từ việc học thuộc, làm đối, làm đoạn. Khi vào đời, văn chương được dùng
để chép sử, thảo các giấy tờ việc công (chiếu biểu, từ lệnh ngoại giao, văn tế
thần, phê đơn làm tờ sức, tờ bẩm), văn chương cũng được dùng trong việc thù ứng
giao thiệp. Người ta chia vui chia buồn với nhau bằng một đôi câu đối, viếng
nhau bằng một bài văn tế, đón nhau tiễn nhau bằng một bài thơ, ghi lại kỷ niệm
bằng một bài ký bài tự. Tất cả những thứ văn chương thù ứng đó không phải đều
viết theo sự đòi hỏi của xuác cảm mà theo đòi hỏi của quan hệ, của cương vị,
thể diện không cho phép thoái thác. Giữa bạn bè thường cùng nhau ngâm vịnh,
cùng nhau xướng họa. Đối với riêng mình, nhà Nho dùng văn ghi chép những điều
mình nghe mình thấy, những sự tích, những thắng cảnh, làm những bài vịnh cảnh,
vịnh vật hay thổ lộ tâm sự (cảm hoài, ngôn chí). Cảm hoài, ngôn chí hay vịnh
cảnh vịnh vật chủ yếu cũng là để gửi gắm tâm sự. Quan niệm thế giới, quan niệm
con người, quan niệm văn học Nho gia ảnh hưởng sâu sắc đến việc viết văn làm
thơ của họ.
Nho gia cho trời đất, muôn vật và con người đều được sắp xếp theo một
trật tự, đều diễn ra theo một quy định hợp lý nào đó mà họ gọi là Đạo, là Lý,
có liên quan tới ý Trời, mệnh Trời (thiên ý, thiên chí, thiên mệnh). Đạo, Lý là
vĩnh viễn bất biến, chi phối tất cả. Trong thế giới, trong lịch sử tuy có xảy
ra bao nhiêu biến động, nhưng những sự mất thăng bằng đo chệch tạm thời đó luôn
luôn có xu hướng ổn định lại, trở về trật tự hợp lý của Đạo, Lý. Hình ảnh cụ
thể của trật tự hợp lý là cương thường, là quan hệ vua tôi, cha con, thầy trò,
anh em, chồng vợ tức là quan hệ trên dưới, quan hệ phục tùng của con em, của
người dưới, của người chịu ơn đối với người tôn trưởng có ơn huệ. Trật tự hợp
lý đó là chế độ gia trưởng. Không những trong gia đình giữa cha mẹ và con cái
có quan hệ máu mủ, có công ơn nuôi dưỡng, quan hệ gia trưởng hình thành một
cách tự nhiên, dễ thấy là hợp lý mà trong một nước, trong cả thiên hạ - những
cộng đồng có tính chất xã hội – người ta cũng thấy hợp đạo lý việc theo nguyên
tắc địa vị xã hội và tuổi tác (tước xỉ) mà lập ra một trậ tự trên dưới kiểu gia
trưởng. Rộng hơn nữa trong trời đất, trong thế giới tự nhiên người ta cũng hình
dung giữa trời và bách thần, giữa mặt trời và tinh tú, giữa con lân, con rồng,
con phượng và loài chim, loài cá, loài thú cũng có một trật tự trên dưới như
vậy. Nho gia lấy gia đình mở rộng để hình dung thế giới và thế giới theo họ chỉ
là những thứ gia đình lớn nhỏ. Cuộc sống được quan niệm là cuộc sống trong luân
thường. Trong cuộc sống đó con người không được coi là những cá nhân mà coi là
những thành viên có chức năng trong xã hội luân thường: là vua, là tôi, là cha,
là con… Làm nội dung cho quan hệ luân thường đó không chỉ là bổn phận trách
nhiệm theo lễ mà quan trọng hơn là tấm lòng, là tình cảm đối với nhau khoan
nhân, từ ái, hiếu thuận, trung nghĩa, là tình nghĩa về mặt đạo đức chứ không
phải là bổn phận về mặt tục lệ pháp luật. Con người bị trừu tượng hóa các mặt
cụ thể khác của từng cá nhân riêng lẻ mà chỉ được nhìn, chỉ được đánh giá về
một mặt: có đức hay không, tức là có hoàn thành chức năng trong quan hệ luân
thường, với nội dung tình nghĩa đầy đủ hay không? Những quan hệ khác giữa người
với người có tính chất xã hội như bè bạn, xóm giềng, làng nước mà tam cương ngũ
luân không quy định cụ thể cũng được suy từ Đạo Lý luân thường ra mà suy xét
bình phẩm về mặt nhân tình thế thái, theo giác độ đạo nghĩa.
Đạo lý tòn tại trong vũ trụ mà cũng tồn tại trong con người. Con người
được trời đất ưu đãi hơn so với muôn vật vì nó có Tâm. Tâm là quan năng cảm thụ
đạo lý, giúp cho con người trở thành thông minh trí tuệ để suy nghĩ về Đạo lý.
Có lý tính, và ý chí (chí, khí) để hành động theo Đạo lý. Tâm con người và Đạo
của trời đất là một. Con người được trời ban cho Tâm Tính, biết sống theo luân
thường nên là vật linh thiêng xếp ngang hàng với trời đất.
Đạo lý cương thường là bản chất (chất) của vũ trụ và con người. Văn là
biểu hiện bên ngoài của bản chất đó. Văn là cái trời có ý trao cho thánh nhân
mà cũng là lời nói, văn tự mà thánh nhân dùng để truyền đạt Đạo lý của trời
đất. Văn nhân tuy vẫn là để chỉ những người có tài “nhả ngọc phun châu”, có tài
năng sử dụng ngôn ngữ văn tự nhưng trước hết phải có cái chứa ở bên trong là
đạo đức, gần loại thánh nhân hơn là loại tài nghệ. Văn là để “chở đạo”, là để
“tịch tà cự bí”, để tuyên dương đạo đức, để bảo vệ đạo lý luân thường. Nó có
chức năng thiêng liêng đem đạo lý thánh hiền, gương sáng cổ nhân để giáo dục.
Sử vì thế có một ý nghĩa đặc biệt. Văn học, sử học và triết học kết hợp làm
một. Cả ba thứ chỉ là biểu hiện của Đạo lý. Văn không tách ra thành một bộ môn
nghệ thuật.
Theo quan điểm như vậy chức năng của văn học không phải là nhận thức mà
là truyền đạt, không phải là phản ánh mà là giáo dục. Văn chương có quan hệ với
“thế đạo nhân tâm”. Nó là phương tiện tốt nhất để “di dưỡng tính tình”, không
phải vì cái đẹp nghệ thuật của nó mà vì cái nội dung đạo lý luân thường của nó.
Cáo quan trọng không phải là khách thể, thực tế khách quan mà là chủ thể, cái
đạo lý chứa đựng trong tâm người viết.
Không phải là người viết văn không nói đến thực tế, không mô tả thực tế,
nhưng theo quan điểm Nho gia cái quan trọng nhất trong thực tế là sự hài hòa
của trật tự theo cương thường. Không phải chỉ xã hội mà cả giới tự nhiên cũng
chỉ là biểu hiện của trật tự đó. Mô tả không phải là dựa vào sự quan sát tỉ mỉ
đối tượng bằng các giác quan mà quan trọng hơn là dựa vào sự cảm thụ, lĩnh hội,
phát hiện cái nằm bên trong sự vật bằng tâm. Hiện thực bị khuôn lại, bị rũa đi
theo quan hệ luân thường. Mô tả bị hạn chế theo giác độ cảm thụ của tâm. Tình
thường xúc động theo Đạo mà cảnh thường được cảm thụ theo lòng. Người ta không
quan tâm nhiều đến thời gian, không gian để quan sát hình khối, vị trí, vận
động; sự vật thường hiện ra thành mặt bằng thành mảng, chấm phá. Trong thơ có
loại vịnh cảnh, vịnh vật, trong văn có loại ký, tự đều là những thể loại miêu
tả, ghi chép thực tế tìm cảm hứng trong sự vật khách quan, nhưng ngay ở đây
thực tế vẫn bọ gạn lọc theo đạo lý như vậy. Hình ảnh của thực tế trong văn
chương nhà nho không phải không có khi đạt đến những hình tượng cực kỳ cô đọng
sâu sắc trùng hợp với cái điển hình, nhưng thường là bị cách nhìn trên đây làm
cho mờ nhạt, khô cứng và thiếu sinh động.
Khi nói đến cái hay cái đẹp của văn chương, người ta cũng đề cao cái
“thực”, phản đối cái “hư”, tức là chống lại phù phiếm trống rỗng, hình thức.
Nhưng cái thực là cái chứa nội dung đạo lý, cái hữu ích cho việc giáo dục chứ
không phải là hiện thực. Có hai thể loại chính là thơ và phú. Thơ chủ yếu là
trữ tình nhưng con người sống và có giá trị chủ yếu bằng đạo lý cương thường
cho nên bộc bạch tâm sự không nhắm nói tiếng nói của cái tôi riêng lẻ mà nói
tiếng nói của cái ta – phần đạo lý trong cái tôi đó. Phú là một thể loại mô tả,
nhưng không có ý mô tả cái thực, cái bình thường mà mô tả cái lớn, cái cao, cái
phi thường để ca tụng. Trong thể phú, người ta chú ý đến hình thức diễm lệ,
khuyến khích lời văn hoa mỹ, cho phép tưởng tượng hư cấu rộng rãi. Phú thường
viết bằng bút pháp khoa trương. Thế nhưng cái hoa mỹ, khoa trương, hư cấu đó
nếu để nói nội dung đạo lý thì vẫn là thực.
Văn chương có quan hệ đến thế đạo nhân tâm. Người cầm bút không được quên
điều đó. Một nhân vật mà người viết muốn đề cao phải có đạo đức. Kể lại thân
phận một người con gái tài sắc tuyệt vời, bị số phận vùi dập đến mức tan nát
hết mọi hạnh phúc “thanh lâu hai lượt thanh y hai lần”, mà mình đồng tình sâu
sắc, Nguyễn Du cũng phải tô vẽ cho Kiều đủ thứ đức hạnh, nào hiếu, nào nhân,
nào nghĩa, nào trinh… và cuối cùng vẫn nghĩ tác phẩm mình viết ra chỉ là loại
để “mua vui”, không phải là văn chương chính đạo. Quan niệm văn chương đạo lý
không làm cho văn học chú ý đến con người thực, cuộc sống thực, ràng buộc, kìm
hãm văn nghệ chân chính phát triển.
Cuộc sống ở một nước nông nghiệp kiểu châu Á vốn trì trệ, luẩn quẩn. DÙ
có xảy ra bao nhiêu cuộc bể dâu hì luân thường vẫn cứ là khuôn vàng thước ngọc.
Người ta dựa vào nó để đánh giá, noi theo nó để suy nghĩ hành động, lấy nó làm
mô hình để khôi phục trật tự, đưa về lối cũ. Trong một xã hội bảo thủ như vậy
nhà Nho vốn là người hiếu cổ nhất, trong một xã hội im lìm như vậy nhà Nho vốn
là người ít hoạt động nhất. Khuôn sáo không hề bị phá vỡ. Nền văn học của nhà
Nho là con đẻ của xã hội đó và cũng rất thích hợp với xã hội đó.
Sự đổi thay bắt đầu từ khi trong xã hội cuộc sống im lìm phẳng lặng của
chế độ phong kiến, của nền sản xuất nông nghiệp bị phá vỡ. Hàng hóa, tiền bạc
mà thực dân tuôn vào cuộc sống phá vỡ các quan hệ luân thường trong thực tế. Kinh tế tư bản chủ
nghĩa ở thành thị làm cho con người trở thành những cá nhân. Tình nghĩa lép vế
trước lợi nhuận. Xã hội trở thành phức tạp, cuộc sống trở nên rộn rịp, gấp rút,
thay đổi nhiều hình vẻ. Trong một xã hội như vậy cá nhân trở thành thực tế, có
đời sống cụ thể, có nhận thức, suy nghĩ, cảm xúc riêng, có tâm lý riêng, họat
động riêng trong những điều kiện cụ thể rất khác nhau. Luân thường – những quan
hệ đạo lý bất biến – quá đơn giản chật hẹp không thể chứa đựng nổi sự phức tạp
đa dạng, sự biến động của thực tế cuộc sôngs. Ân tình không thể giải quyết hết
các quan hệ. Người ta phải nhìn thế giới xã hội cách khác, có thái độ khác và
chờ đợi văn học đưa lại cho mình những cái khác trước.
Người ta – nhất là người dân thành thị - trong cuộc sống đua chen, cạnh
tranh cần sống thực, cần hiểu, cần biết, không thể thỏa mãn với những lời giáo
huấn về đạo lý cương thường, không thể thích thú với cái đẹp trang nghiêm.
Người ta cần hiểu rõ, hiểu kỹ cuộc sống với cả những tình tiết đầy đủ, những
chi tiết cụ thể, gây được cảm giác, thỏa mãn được sự tò mò. Người ta cần sống
những cảnh ngộ của kịch, những số phận của tiểu thuyết – những cảnh ngộ, số
phận của những con người cụ thể trong cuộc sống bình thường thế tục. Người ta
muốn nếm trải cái có thật (hay có thể có thật) chứ không phải được khích lệ
bằng những gương trung hiếu, minh họa đạo nghĩa. Người ta cũng muốn rút ra từ
đó những bài học nhưng là những bài học của cuộc sống chứ không phải những bài
học của giáo lý. Người ta muốn xúc cảm, muốn mơ màng như những con người, những
cá nhân – chứ không phải xúc động như những người thấp hèn chiêm ngưỡng tấm
gương cao cả của vị thánh xuất chúng.
Đáp ứng thị hiếu văn học đã thay đổi như vậy, quan niệm văn học, tư tưởng
thẩm mỹ của người sáng tác cũng phải khác hẳn trước. Một nền văn học lấy đề tài
trong cuộc sống bình thường trong đời sống xã hội – con người có thể là nhà
quyền quý, nhà tư sản thuộc tầng lớp thượng lưu, nhưng đặt trong cuộc sống bình
thường của họ - một nền văn học trong sự thực (và cả cái mơ mộng) hơn đạo lý,
có những tình huống được mô tả qua quan
sát (hay tưởng tượng thêm) thay cho nền văn học giáo huấn, truyền đạt, ký ngụ
tâm sự chỉ trọng đạo lý. Khách thể phải được coi trọng. Đặt vấn đề phân biệt
khác thể - chủ thể, cái dấu nối liên hệ giữa Tâm – Đạo – Khách quan, đặt vấn đề
mô tả phán ánh, văn học phát triển theo một hướng khác hẳn trước. Mô tả ở mức
đơn sơ nhâts, ít gia công tư duy nhất cũng đã là mới, cũng đã là phá vỡ khuôn
sáo. Văn không còn gắn với sử, không còn gắn với triết, tách ra thành một nghệ
thuật và phải coi trọng cái đẹp. Trong xã hội tư sản văn nghệ sĩ sẽ thành một
chức nghiệp: viết văn bán cho công chúng. Thoát khỏi sự ràng buộc của đạo lý để
nói về những con người thực, về cuộc sống bình thường, kịch và tiểu thuyết phát
triển. Văn học Việt Nam đi vào hướng hiện đại hóa.
Quá trình hiện đại hóa văn học là quá trình xóa bỏ quan niệm xã hội luân
thường, với con người đạo đức và chức năng hình thành quan niệm xã hội, quan
niệm con người, quan niệm cuộc sống, chi phối việc thay đổi đề tài văn học.
Người sáng tác phải chú ý đến người, đến việc và phải quan tâm đến cốt truyện, đến nhân vật,
phải quan tâm đến nhận thức, đến xây dựng. Đó là quá trình biến dạng tha hóa ba
mẫu nhân vật Nho gia: người hành đạo, người ẩn sĩ và người tài tử tồn tại mấy
trăm năm trong văn học bác học. Đó là sự cụ thể hóa, đa dạng hóa các nhân vật
của xã hội cũ: vua, quan, nhà Nho, ông lý, người nông dân… Đó là quá trình xuất
hiện càng ngày càng nhiều những nhân vật thành thị:thầy thông, thầy ký, ông
thầu khoán, cậu học trò, người dân lao động, người công nhân, cô tiểu thư và cô
gái mới… Cuộc sống trong văn học cũng dần phức tạp, đa dạng nhiều mầu sắc như
cuộc sống thực. Và để thể hiện nó, thể lọa, phương pháp sáng tác, tiêu chuẩn
thẩm mỹ phải kịp thời thay đổi theo.
Chưa phải ngay từ đầu, người văn nghệ sĩ đã nghĩ đến những quan điểm văn
học trước hiện thực khách quan, nhưng đứng trước khách quan mà người ta bắt
buộc phải thể hiện, người sáng tác dần dần chú ý đến những vấn đề mà các chủ
nghĩa văn học trên thế giới đã đặt ra. Thoát khỏi sự trì trệ của nền văn học
cũ, đi theo hướng nền văn học hiện đại, văn học Việt Nam gặp những vấn đề chung
của văn học thế giới lúc đó, bước vào quỹ đạo của văn học thế giới lúc đó.
Trên cơ sở của một nền kinh tế đã gia nhập vào hệ thống tư bản chủ nghĩa
thế giới, một nền văn học dựa vào chỉ một bộ phận công chúng là dân thành thị,
đang đi vào quỹ đạo văn học thế giới, một nhân tố trong điều kiện lịch sử lúc
đó rất có ý nghĩa đối với sự phát triển của văn học nước ta, là sự tồn tại của
một tầng lớp trí thức biết tiếng Pháp, hiểu văn học Pháp. Việc giảng dạy văn
học Pháp trong nhà trường, việc tiếp xúc trực tiếp hàng ngày với các tác phẩm
từ Pháp gửi sang làm cho tầng lớp trí thức đó nhanh chóng am hiểu những vấn đề
đương thời của nền văn học Pháp hiện đại. Qua họ, văn học Pháp tác động một
cách rất sâu sắc đến sự phát triển về sau của văn học ta, làm nên chỗ khác nhau
giữa văn học Việt Nam, so với văn học các nước cùng ở Đông Á, cũng do hoàn cảnh
chung mà đi vào quỹ đạo văn học thế giới, hoặc là chịu nảh hưởng văn học Anh,
hoặc là chịu ảnh hưởng văn học Nga, hoặc là chịu ảnh hưởng văn học Đức. Qua
tiếng Pháp họ hiểu được văn học các nước khác ở châu Âu, là một nền văn học tuy
có những sắc thái dân tộc riêng, nhưng vẫn là ra đời trên cơ sở một hoàn cảnh
khách quan có tính chất chung là thế giới hiện đại và đã trải qua một lịch sử
phát triển tác động lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau nên có thể nhìn là thống nhất
từ văn học phục hưng đến văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa qua chủ nghĩa cổ
điển, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tự nhiên, chủ nghĩa hiện thực phê phán… Tên
tuổi các nhà văn nhà thơ lớn lần lượt vang dội vào tai, các tác phẩm nguyên văn
hay phiên dịch ra tiếng Pháp rơi vào tay những độc Việt Nam ấy. Mãi đến thé kỷ
XX, người Việt Nam mới đọc các tác phẩm viết từ thế kỷ XVI – XVII ở phương Tây,
nhưng cũng cùng lúc đó, họ đọc cả những tác phẩm vừa in chưa ráo mực. Họ làm
quen chậm nhưng cùng một lúc với cả Đăng – tơ, Mô – li – e, Sếch – spia, Vích –
to Huy – gô, Ban – dắc, Tôn – stôi và với cả Goóc – ki. Tiếp xúc cùng một lúc
và không phải chờ qua đấu tranh mới nhận ra cái hay, cái dở, họ đã học hỏi
được, rút ra được kinh nghiệm của 3, 4 thế kỷ của thế giới cho sự phát triển
căn học ta. Điều đó giúp cho nền văn học Việt Nam mới được hiện đại hóa, phát
triển theo một nhịp độ gấp rút nhanh chóng.
3. Nền văn học đi đến dân tộc, thống nhất, cận hiện
đại
Trước thế kỷ XX, Việt Nam
đã có một nền văn học phát triển không cao lắm nhưng khá phong phú và sớm có
tính chất dân tộc rõ rệt.
Trong tình hình đặc biệt luôn luôn phải chống ngoại xâm, chính quyền
trung ương ra đời sớm. Với trách nhiệm bảo vệ nền độc lập, bảo vệ đê điều để
sản xuất, nó đã tìm ra biện pháp thích hợp tổ chức quy tụ các thôn xóm rải rác,
gắn bó các khu vực, các địa phương bảo đảm sự giao thông liên lạc, hạn chế các
xu hướng phân tán thành lãnh chúa, duy trì được sự thống nhất lãnh thổ, làm cho
cả nước dùng ngôn ngữ chung, có lịch sử chung. Dân tộc hình thành sớm. Nhà nước
tập quyền cần đến một bộ máy quan liêu, cần đến một văn tự chính thức, khuyến
khích việc phát triển một từng lớp trí thức với số lượng khá đông đảo là nhà Nho,
khá thống nhất về tư tưởng. Việc học chữ Hán, làm văn theo văn học Trung Quốc,
vốn là một nền văn học cổ phát triển khá cao có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển
văn học ở ta: nền văn học bác học, viết bằng chữ Hán, về sau viết bằng cả chữ
Nôm theo thể loại Trung Quốc của ta có trình độ nghệ thuật khá cao trở thành
điển phạm cho cả nước. “Nếu các dân tộc đều xem xét nhà văn nào tiêu biểu cho
họ nhất, nước Anh sẽ kể đến Sếch – spia của mình, nước Đức – và cả nước Pháp sẽ
không ngừng đồng thanh cử Mô – li – e” (Xanh Bơvơ). Một dân tộc khi thống nhất
và phát triển đến một trình độ nhất định, tương đối ổn định, thì cũng đẻ ra những nhà văn, nhà thơ tiêu biểu cho cả
dân tộc và từ đó nền văn học có màu sắc dân tộc rõ rệt. Bên cạnh Sếch – spia
nước Anh ở thế kỷ XVI, Mô – li – e nước Pháp ở thế kỷ XVII, Gớt nước Đức ở thế
kỷ XVIII, Pus – kin nước Nga cũng thế kỷ XVIII ta có thể kể đến Nguyễn Trãi của
ta ở thế kỷ XV. Từ đây ta có một nền văn học có tính chất truyền thống.
Chữ Hán là một từ ngữ, không phải là chữ của dân tộc nhưng được sử dụng
rộng rãi trong mọi hoạt động trong một thời gian dài nhiều thế kỷ, đã trở thành
một thứ “chữ ta”. Đại bộ phận văn học của ta viết bằng thứ chữ đó cho nên văn
học bác học viết bằng chữ Hán thành một bộ phận của nền văn học dân tộc, bên
cạnh nền văn học dân gian truyền miệng ra đời từ lâu và rất phong phú. Từ thế
kỷ XVIII, truyện nôm phát triển thêm. Nền văn học dân tộc trở thành có ba bộ
phận. Đất nước tuy từ lâu có chính quyền tập trung, không có lãnh chúa cát cứ
nhưng nền kinh tế lạc hậu nên không cho phép dân tộc hình thành trọn vẹn và nền
văn học dân tộc hình thành trọn vẹn.
Đầu thế kỷ XX, với sự phát triển của kinh tế hàng hóa thị trường chung ra
đời, thành thị phát triển, đất nước đi vào con đường tư sản hóa. Một mặt cơ sở
kinh tế xã hội đó xúc tiến sự thống nhất dân tộc, mặt khác trước yêu cầu chống
Pháp cứu nước tình cảm nguyện vọng suy nghĩ của các tầng lớp nhân dân thống
nhất lại. Điều đó cũng xúc tiến sự thống nhất dân tộc. Hai nhân tố yêu nước và
duy tân cùng tác động vào quá trình phát triển văn học trong những điều kiện
mới: sự truyền bá chữ quốc ngữ, việc ra đời báo chí, nhà xuất bản, việc hình
thành công chúng văn học ở thành thị. Văn học dân tộc có điều kiện thuận lợi để
phát triển nhưng lại gặp một trở lực lớn khác: chính quyền thực dân không muốn
phát triển nền văn học thật sự dân tộc mà muốn thay thế nó bằng một nền văn học
mất gốc.
Thích ứng với các điều kiện mới, các dòng văn học ra đời từ trước đều
biến động theo tác động của các nhân tố kể trên.
Trong văn học bác học, các nhà Nho hoặc tiếp tục ngôn chí, cảm hoài trước
cảnh đất nước sa vào tay giặc, trước cảnh cương thường điên đảo, đạo thánh hiền
suy vi, nhân tình đen bạc, nhà Nho thất thế. Họ lên án bọn cướp nước bán nước,
bọn hèn nhát, bọn trục lợi… nhớ tiếc thời kỳ vinh quang của dân tộc. Họ bộc
bạch khí tiết kiên trinh bất khuất. Cũng có những nhà Nho khác dùng văn chương
để than thở, tiếp tục ca ngợi cảnh phong hoa tuyết nguyệt, bịt mắt trước cảnh
thực tế đau xót, thậm chí ca ngợi cảnh phồn vinh của thời đại mới, biện bạch
cho thái độ ươn hèn, bào chữa cho hành vi phản bội… Nhưng quan trọng hơn cả là
ta chứng kiến được ở đây việc các nhà Nho yêu nước vứt bỏ lối văn chương cao
đạo, xa quần chúng, thứ văn chương gọt rũa tỉ mỉ để tranh khéo mua vui, biến
văn học thành vũ khí phục vụ cho sự nghiệp cứu nước và duy tân. Trong khi giao
cho văn học làm nhiệm vụ cao quý đó, các cụ đã đặt mình trước dân tộc, trước
nhân dân, quan tâm đến công chúng tức là mọi tầng lớp nhân dân, cải tạo văn học
chữ Hán cho dể hiểu hơn, gây xúc động hơn, có ý thức sử dụng chữ Nôm và các
hình thức văn học dân gian, đem tư tưởng yêu nước duy tân thay cho đạo lý cương
thường “giác ngộ” cho quần chúng. Trong thực tiễn sáng tác họ đã nâng cao cả
chất lượng nội dung và nghệ thuật. Phải tuyên truyền, các cụ cũng chịu theo thị
hiếu của công chúng, cố gắng sáng tác các thể loại mới, như truyện ngắn, truyện
dài, tuồng, chèo là những thẻ loại các cụ không thích, không quen viết. Loại
văn học yêu nước đó không những có nội dung tiến bộ, có tác dụng giáo dục tích
cực mà còn đem vào lịch sử phát triển văn học dân tộc cả những cách tân đáng kể
về nghẹ thuật đánh dấu một bước thay đổi có ý nghĩa tiến bộ lớn về quan niệm
văn học.
Ta cũng chứng kiến việc một số nhà Nho ra thành phố sinh nhai bằng nghề
viết văn. Sống ở thành thị và với những người thành thị, bản thân họ cũng thành
thị hóa. Họ đưa vào văn học cũ những xúc cảm cá nhân, những cảnh vật, không khí
thành thị và vì nghề nghiệp viết văn bán cho công chúng họ đã ra công khai thác
tất cả những kinh nghiệm sáng tác trong ca dao dân ca và các truyện nôm của các
nhà Nho tài tử thế kỷ trước, tìm những cái gì thích hợp để nói về cuộc sống
mới, con người mới ở thành thị. Họ cũng mang vào lịch sử văn học dân tộc những
cách tân đáng kể về nội dung, nghệ thuật, về quan niệm văn học.
Văn học dân gian vẫn phát triển trong những điều kiện nông thôn như cũ
nhưng hoàn cảnh mất nước, chiến tranh làm cho những sinh hoạt sản xuất tập thể,
hội hè đình đám kém phần nhộn nhịp tấp nập. Trước cái nhục mất nước, cái khổ vì
chiến tranh, vì phá sản mà thực dân gây ra, người nông dân không đủ cảnh thanh
bình và tâm trạng thoải mái để nhìn cảnh tát nước bên đường, thành nên thơ đến
mức “múc ánh trăng vàng đổ đi” được. Họ phải dùng câu vè để kể nỗi khổ, để tố
cáo những cảnh bất công áp bức của bọn hương lý mới, của bọn Tây xâm lược.
Người nông dân phá sản phải bỏ nhà làm cu - lít, cu ly ở thành thị hay làm lính
mộ lênh đênh trôi dạt đến những phương trời xa lạ tận châu Phi, châu Âu. Họ
mang theo thói quen kể lể tâm sự bằng những câu hát, bài vè và làm cho việc
sáng tác văn học dân gian đi theo họ ra khỏi lũy tre làng vào cả những môi
trường sinh hoạt mới đó. Từ đó trong văn học dân gian không chỉ có tiếng hát
tình tứ, cái cười hóm hỉnh của người nông dân sau lũy tre xanh mà có cả tiếng nói
uất ức của người công nhân, của người lính – những tầng lớp lao khổ của thành
thị, của xã hội mới.
Ở giữa văn học bác học và văn học dan gian không thấy xuất hiện truyện
nôm. Điều này cũng dễ hiểu: người tài trí phong nhã hào hoa đa tình kiểu Kim
Trọng đã không hợp thời lại không hợp cảnh. Một cái nhìn hiện thực đối với xã
hội, một tư tưởng nhân đạo đối với cảnh bất công, đối với những con người khổ
cực chỉ có thể dẫn đến chỗ lên án chế độ thực dân và bọn bán nước. Nó không đi
vào hướng chống lại sự gò bó của lễ giáo mà đi vào hướng chống lại sự xâm lược
bóc lột. Văn học trào phúng chế giễu, nguyền rủa bọn thống trị mới và bọn theo
đóm ăn tàn từ hương lý, huyện tỉnh đến bọn đại thần, phát triển làm dấu nối
giữa hai dòng văn học bác học và văn học bình dân trước đây. Nó nối liền tiếng
rên xiết uất ức, lời tố cáo căm phẫm của nhân dân lao động, với lời thương cảm
đạo lý, với lời kêu gọi cứu nước của nhà Nho. Nó nối cái kể lể của vè tự sự với
cái giáo huấn đạo nghĩa của văn chương bác học. Nó cũng đi dần đến văn học yêu
nước.
Sự gặp nhau giữa ba dòng văn học này ở nội dung tố cáo hiện thực, khích
lệ lòng yêu nước đánh dấu một sự tập hợp dân tộc làm nền tảng cho nền văn học
dân tộc sau này, là điều hoàn toàn mới so với trươcs.
Ở thành thị hoạt động văn học nhộn nhịp hơn hẳn trước. Việc ra đời báo
chí, nhà xuất bản, những công chúng chờ đọc văn học tạo ra điều kiện thuận lợi
cho việc công bố tác phẩm. Người ta phiên âm các truyện nôm ra quốc ngữ, dịch
các truyện Pháp, truyện Trung Quốc ra tiếng Việt, phiên dịch các áng văn cổ,
sáng tác thơ văn mới cả bằng chữ Hán, cả bằng tiếng Việt để đăng lên báo, để in
thành sách. Đáng chú ý hơn cả là việc một số người có Tây học phóng tác theo
các nhà văn nước ngoài, sáng tác theo kiểu văn học cận hiện đại. Từ những bài
tường thuật, phóng sự, du ký tập dượt mô tả, kể chuyện, dần dần người ta viết
những truyện ngắn, những quyển tiểu thuyết. Từ dịch và diễn kịch cổ điển Pháp,
người ta sáng tác cả kịch.
Một mặt thực dân Pháp muốn lợi dụng phương tiện báo chí, nhà xuất bản để
truyền bá rộng rãi những tư tưởng thân Pháp, phục Pháp, cho tay sai ra viết
văn, ra làm chủ bút, chủ nhiệm các báo chí, đề cao vài trò người cầm bút, người
chủ báo được chúng bí mật phụ cấp tiền bạc. Mặt khác, một số nhà văn tuy không
dám hành động cách mạng, nhưng trong lòng vẫn còn tinh thần dân tộc hoặc có ý
muốn kín đáo dùng văn chương bóng gió nhắc mọi người nhớ đến Tổ quốc hoặc coi
duy tân tư sản hóa là con đường có hiệu quả nhất, có ích nhất, muốn dùng tờ báo
để kêu gọi hợp đoàn doanh sinh.
Chính ở thành thị thực sự xẩy ra sự ganh đua tranh chấp. Các dòng văn học
cũ và mới đều có mặt ở đây và cũng chính ở đây xẩy ra những sự kiện văn học có
ý nghĩa nhất của thời đại.
Ngay từ đầu thế kỷ các nhà Nho yêu nước đã thử mở trường Đông kinh nghĩa
thục, lập nhà xuất bản, ra báo công khai tuyên truyền tư tưởng yêu nước và duy
tân. Bị thực dân Pháp đàn áp, các nhà văn nhà thơ yêu nước vào tù. Trường học,
nhà xuất bản bị đóng cửa. Tác phẩm bị cấm. Văn học yêu nước phải rút về sống
bất hợp pháp.
Trước sau Đại chiến 1914 – 1918 thực dân cho bọn tay sai Nguyễn Văn Vĩnh,
Phạm Quỳnh ra Đông dương tạp chí, Nam Phong tạp chí, loại sách Âu Tây tư tưởng
vừa tuyên truyền cho văn học Pháp vừa đề xướng một tư tưởng yêu nước duy tân
giả hiệu, đánh lạc hướng quần chúng. Nhiều nhà văn, nhà báo, nhà thơ tập hợp
lại quanh các tờ báo ấy làm thơ, viết tuồng chèo, truyện ngắn, tiểu thuyết,
kịch. Một số ra mở báo riêng, làm văn riêng độc lập với bọn Quỳnh, Vĩnh như Tản
Đà.
Tình trạng hỗn loạn về tư tưởng đó dẫn đến môt jcuộc đấu tranh về quan
niệm văn học. Các nhà Nho yêu nước đứng đầu là Ngô Đức Kế đã vạch bộ mặt dân
tộc giả hiệu của Phạm Quỳnh, âm mưu thâm độc của thực dân và đồng thời nêu cao trách nhiệm chân chính của văn học
đối với đất nước, khắc phục cả tình trạng ươn hèn yếu đuối trong thị hiếu văn
học thành thị lúc ấy.
Nền văn học mới hình thành. Những tiểu thuyết, kịch nói qua giai đoạn mô
phỏng ấu trĩ đã có những thành tựu đàu tiên, dần chiếm được công chúng, có ảnh
hưởng trong xã hội.
Ba loại văn học của nhà Nho, của nhân dân lao động, của nhà văn ở thành
thị đều bắt buộc phải phát triển trong điều kiện mới của đất nước, đều có những
tiến bộ nhất định. Nhưng trong điều kiện đã nói ở trên, nền văn học của nhà Nho
và nền văn học dân gian, hoặc là bị hạn chế, hoặc là không lợi dụng được những
điều kiện mới của hoàn cảnh, phát triển chậm chạp chẳng bao lâu lạc hậu với
thực tế, xa lạ với công chúng. Ngược lại văn học tuy đầu tiên khá xa lạ, nội
dung và nghệ thuật còn rất ấu trĩ, non yếu, lệch lạc, nhưng lại thích hợp với
những điều kiện mới nên phát triển rất nhanh chóng, cuối cùng thay thế nền văn
học của nhà Nho, đóng vai trò chủ lực của nền văn học dân tộc cận hiện đại.
Đi theo hướng cận hiện đại thế giới, văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX không
phải đoạn tuyệt với văn học truyền thống của dân tộc mà là phát triển nó lên để
có tính chất dân tộc cao hơn trước – dân tộc với ý nghĩa hiện đại, nhất thể hơn
trước. Đây là cuộc đọ sức và chiến thắng của văn học dân tộc đã có truyền thống
chống lại sự thôn tính, sự lấn lướt của văn học tư sản phương Tây. Nó có ý
nghĩa đấu tranh cho độc lập, bảo tồn nền văn hóa, giữ vững phẩm giá dân tộc
trước quân xâm lược.
Trong xã hội hiện đại, thành thị là trung tâm cả nước, trung tâm kinh tế
mà đồng thời cũng là trung tâm văn hóa, văn học. Nông thôn không còn giữ tình
trạng tự trị phân tán, quy tụ một cách không chắc chắn quanh lỵ trấn, kinh đô
như trước. Nó nằm trong một guống máy kinh tế thống nhất do thành thị chi phối.
Nông thôn tuy vẫn khác thành thị, nông dân vẫn khác thị dân, sở thích văn học
hai bên cũng khác nhau, nhưng đã có một công chúng văn học nhất thể. Cả dân tộc
chỉ có một nền văn học. Bước vào đầu thế kỷ, phương tiện truyền bá văn học cao
hơn trước và đều tập trung ở thành thị, các trung tâm văn học không còn phân
tán ở “đất văn vật”, quê hương của các nhà khoa bảng lớn, mà tập trung ở các
thành phố có báo chí, có nhà xuất bản, có sinh hoạt văn học… Ở nước ta lúc đó,
Huế vẫn là kinh đô của Nam triều, là nơi có Quốc Tử Giám, tập trung các nhà
khoa bảng già, trẻ - một thứ trung tâm văn học theo kiểu cũ. Sài Gòn so với
toàn quốc là nơi buôn bán với trong nước và ngoài nước sầm uất nhất, kinh tế tư
bản chủ nghĩa phát triển nhất, thị dân đông nhất, ảnh hưởng phương Tây nhiều
nhất, chữ quốc ngữ truyền bá sớm nhất, báo chí, nhà xuất bản ra đời ở đây trước
tiên. Thế nhưng Huế và Sài Gòn khôngthành trung tâm văn học cả nước. Một thời
gian không lâu, Hà Nội, thủ đô văn vật cổ xưa của dân tộc, giành lại được vị
trí trung tâm văn học mới của cả nước. Điều đó có nghĩa là bọn thực dân đã
không thể dùng những người ra cộng tác với giặc, dầu đó là người có nhiều tài
năng như bọn Trương Vĩnh Ký, áp đặt một nền văn học theo ý chúng và văn học chỉ
có thể phát triển bám chắc vào truyền thôngs và ngôn ngữ văn học được trau
chuốt trong lịch sử lâu dài. Ở Hà Nội, thực dân Pháp đã dùng bọn Nguyễn Văn
Vĩnh, Phạm Quỳnh để thực hiện một âm mưu xảo quyệt mới: chúng đưa ra nội dung
và nghệ thuật mới, dương lá cờ dân tộc một cách dối trá hòng đánh lừa quần
chúng, những người thiết tha yêu nước và duy tân. Một thời gian, người ta lầm
lẫn về con đường cứu nước bằng văn học, người ta mê say văn chương Pháp. Nhưng
cuối cùng, tư tưởng yêu nước chân chính, nền văn học dân tộc chân chính đã soi
sáng đường đi cho họ và cả những người trước đã tập hợp xung quanh Quỳnh, Vĩnh
cũng tách ra xa chúng. Đây cũng là một sự thất bại của âm mưu nô dịch của thực
dân và là một sự thắng lợi của truyền thống văn học. Lòng yêu nước, tinh thần
bất khuất, một thứ bản lĩnh của dân tộc đã thấm vào văn học và được văn học góp
công xây dựng thành linh hồn của văn học Việt Nam, đến đây đã soi đường, giữ
đúng hướng cho văn học không đi vào con đường nhục nhã.
Truyền thống có vai trò quan trọng, khá quyết định đối với sự phát triển
của văn học nhưng không phải khi nào nó cũng có tác dụng tích cực, làm thuận
lợi cho sự phát triển. Nền văn học truyền thống của ta căn bản là một nền văn
học văn vần. Văn xuôi cũng phải có nhạc điệu tiết tấu hoặc là viết theo thể
biền ngẫu hoặc là phải viết chen vào những đoạn văn vần. Văn xuôi viết bằng
tiếng nói thông tục không phát triển.
Khi đi vào quỹ đạo cận hiện đại, văn xuôi phát triển trước hết và phát
triển khá nhanh chóng. Đây là một quá trình cố gắng thoát khỏi ảnh hưởng văn
vần, văn biền ngẫu, đi gần với tiếng nói thông tục để có khả năng phản ánh thực
tế đúng hơn. Văn xuôi đầu tiên chỉ là những câu viết ngây ngô, dịch sống sượng.
Truyền thống không để lại bao nhiêu vốn liếng cho văn xuôi phát triển nhưng
cũng không có sức mạnh gì ràng buộc nó. Chỉ trong 10 năm, nó đã có thể phát
triển từ văn Nguyễn Bá Học, Nguyễn Hữu Tiến, Tản Đà đến Nguyễn Công Hoan.
Trái lại, thơ là một thể loại khá phát triển. Người Việt Nam có
thói quen diễn đạt tư tưởng tình cảm thành văn vần dễ dàng. Thơ ca dân tộc
trong văn học dân gian cũng như trong văn chương bác học đều đã đi đến hình
thức ổn định, có tính cách điển phạm. Đầu thế kỷ, trước bao nhiêu đổi thay, văn
xuôi mới ra đời đã từ lâu, thế mà mãi đến cuối những năm 20 khi Hoàng Ngọc Phách đã viết Tố Tâm,
Nguyễn Công Hoan đã cho in nhiều truyện ngắn, Vũ Đình Long đã xuất bản và cho
công diễn kịch và đều được công chúng hoan nghênh mà những người làm thơ mới
lén lút vẫn rụt rè không dám công bố. Cái điển phạm của thơ truyền thống bắt
người ta phải kiêng nể không dám thay đổi. Tuy vậy, ngay đối với thơ, cũng
chính nhờ truyền thống tích lũy cho khác nhiều vốn liếng, nên sau khi can đảm
bước được bước đầu thì nó lại tiến nhanh hơn văn xuôi – vượt xa trình độ của
tiểu thuyết và kịch.
Cuộc sống mới đã có tất cả những tiền đề cho văn học thành thị mới ra
đời, chiếm ưu thế so với văn học nông thôn, thị hiếu văn học thị dân chiếm ưu
thế so với thị hiếu nông dân và nhà Nho, làm thay đổi cả quan niệm văn học: văn
học phải đi theo hướng cận hiện đại của thế giới. Đó là một tất yếu lịch sử
không cưỡng lại được. Nhưng văn học thành thị dẫu chiếm được tâm hồn dân thành
thị vẫn chỉ có ảnh hưởng trong thành thị, không lan rộng được ra ngoài. Thành
thị đã là trung tâm cuộc sống nhưng văn học thành thị lúc này lại không phản
ánh được hai yêu cầu cơ bản của dân tộc: cứu nước và duy tân cách mạng. Ở thành
thị chưa có một giai cấp tư sản có tinh thần dân tộc để tiêu biểu cho dân tộc
trong giai đoạn lịch sử mới. Nhà Nho vì yêu nước, nhận ra sự tất yếu phải tư
sản hóa là lớp người tiến bộ nhất lúc ấy. Chính họ mới là người nói được nội
dung yêu nước bất khuất của bản lĩnh dân tộc, mới tiêu biểu được cho tinh thần
đấu tranh của nhân dân và gắn bó với nhân dân. Và nông dân – lực lượng chủ yếu
của dân tộc vì nghèo khổ nói chung không biết chữ, chưa có đòi hỏi gì khác
trước về văn học, vẫn dễ hiểu văn thơ nhà Nho quen thuộc hơn là tiểu thuyết và
kịch phương Tây xa lạ. Chủ lưu văn học tiêu biểu cho quảng đại nhân dân, tiêu
biểu cho xu hướng tiến bộ nhất của dân tộc vẫn là văn học yêu nước, văn học cũ
cách tân của nhà Nho duy tân. Trong tình hình nước nhà mất chủ quyền, dòng văn
học tiến bộ đó phải chịu chung vận mệnh với dân tộc, nó phải lưu vong, phải vào
tù, phải truyền bá bí mật, xa cách với quần chúng. Đầu thế kỷ, dòng văn học yêu
nước quả thật đã đóng được vai trò “vừa là trống, vừa là chiêng, vừa là gươm, vừa là súng” trong cuộc
đấu tranh với kẻ thù dân tộc, nhưng sau một thời gian, sức mạnh đó cũng giảm
dần, bản thân nó cũng không còn giữ được khí lực ban đầu nưax. Không phải sự xa
cách về không gian, sự bao vây và khngr bố của quân thù đã có thể làm cho nó
cách tuyệt với quần chúng. Có những lúc như năm 1924 – 1927, nó có điều kiện
xuống đến quần chúng mà nó cũng không còn đủ sức tác động mạnh mẽ như xưa,
không phát triển được như xưa. Quần chúng đã tiến lên với thời đại đòi hỏi ở
văn học nhiều hơn trước. Quan điểm nhà Nho cả ở nội dung cứu nước duy tân, cả ở
nghệ thuật đã không theo kịp đòi hỏi của quần chúng nữa. Hiện đại hóa văn học
là một đòi hỏi đúng quy luật phát triển của thời đại, cũng như dân tộc hóa là
một đòi hỏi đúng quy luật phát triển của văn học. Cả giai đoạn 1900 – 1930 chưa
kết hợp được hai yêu cầu đó để có một nền văn hcọ dân tộc chân chính hiện đại.
Một mặt, nhà Nho không hiện đại hóa được dòng văn học yêu nước trong tay họ,
cách tân nhưng phải dừng lại. Mặt khác, nhà văn ở thành thị cũng không cách
mạng hóa được dòng văn học trong tay họ để thành văn học dân tộc. Họ giành được
công chúng thành thị nhưng dừng lại ở đó, không về được nông thôn.
Giai đoạn 1900 – 1930 là thời gian xảy ra quá trình văn học nông thôn mất
dần vị trí, củng cố thêm vai trò của văn học thành thị, xảy ra quá trình các
dòng văn học có tính chất địa phương, có tính chất phân tán, quy tụ dần thành
xu hướng chung. Đó cũng là giai đoạn dân tộc biểu hiện được bản lĩnh của mình
trước các vấn đề của thế giới hiện đại. Nhưng một nền văn học dân tộc hiện đại
chân chính tiêu biểu cho dân tộc trong thời đại mới thì vẫn chưa ra đời được.
Phải đợi đến khi thành thị cách mạng hóa, giai cấp công nhân đã khá phát
triển, có ý thức về vai trò của mình trong thế giới hiện đại, tiểu tư sản –
nhất là trí thức tân học, giáo viên, học sinh sinh viên – nhìn ra trên thế giới
ngày nay không chỉ có những cái do thực dân Pháp đưa lại, thì nền văn học như
thế mới có tiền đề để hình thành.
Những bài báo, những truyện ngắn của Nguyễn Ái Quốc từ trong dòng xoáy
của phong trào công nhân châu Âu là Pari, từ trái tim của cách mạng thế giới là
Mát- scơ - va, qua các thuỷ thủ theo các chuyến tàu về với công nhân, trí thức,
rồi lại từ ngay trong dòng xoáy của phong trào chống đế quốc châu Á là Quảng
Châu qua những người yêu nước xuất dương theo đường mòn rừng núi mà về với nông
dân và cả cacss nhà Nho yêu nước đã nối liền công nhân, nông dân và trí thức,
nông thôn với thành thị đã làm cho dòng máu lưu thông đều khắp cơ thể, tập hợp
mọi lực lượng của dân tộc thành tổ chức cách mạng mới. Những tác phẩm đó làm
chuyển hướng cách mạng Việt Nam và vì vậy làm chuyển hướng dần phương hướng văn
học cả ở nông thôn, cả ở thành thị từ quãng 1925 về sau.
Ở giai đoạn 1900 – 1930 trong văn học Việt Nam liên tiếp xảy ra hiện tượng
chuyển hóa tập hợp những nền văn học hiện đại chưa hình thành. Cả giai đoạn có
tinh thần giao thời, chuẩn bị cho giai đoạn văn học hiện đại về sau.
Chương 2: VÀO NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XX VĂN HỌC CHUYỂN
MÌNH
Trần Đình Hượu
Những năm bản lề giữa hai thế kỷ XIX và XX cũng là những năm bản lề giữa
hai giai đoạn văn học. Cuối thế kỷ trước vào những năm 1887 đến 1900, trong văn
học dòng chính thống nhất, tiêu biểu cho nhà Nho nhất của văn chương bác học đã
bước vào đoạn đường kết thúc. Đầu thế kỷ này, vào những năm 1903 - 1908, trên
đất nước xuất hiện dồn dập một số sự kiện văn học có tiếng vang lớn, về tư
tưởng và nghệ thuật có ý nghĩa cắm mốc báo hiệu một sự chuyển hướng trong văn học.
Tuy rằng ngay từ khi mới chiếm được Nam kỳ, Pháp đã truyền bá chữ quốc
ngữ, đã xuất bản báo chí, đã phiên âm truyện nôm ra quốc ngữ, Trương Vĩnh Ký
cũng đã viết một số văn chương quốc ngữ, nhưng những họat động có tính cách văn
hóa học thuật đó chủ yếu nhằm mục đích làm môi giới cho kẻ xâm lược và kẻ bị
xâm lược hiểu nhau, hơn là một hoạt động văn học thực sự. Cho đến mười mấy năm
đầu thế kỷ XX giữ vị trí thống trị trong đời sống văn hóa vẫn là văn học nhà
Nho và văn học truyền miệng của người nông dân phát triển trong khuôn khổ
truyền thống, phản ứng với sự đổi thay của đất nước theo kiểu truyền thống. Thứ
văn chương quốc ngữ loại của Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của về nội dung, về
nghệ thuật bị công chúng coi như là một sản vật ngoại lai, tuy dùng tiếng nói
thông tục của nhân dân nhưng vẫn không ai kể nó là văn chương, tồn tại như
những yếu tố xa lạ không ăn nhập được vào cuộc sống văn học của dân tộc.
Sau khi ký hiệp ước đầu hàng nhục nhã, Nam triều được thực dân Pháp cho
phép khôi phục uy quyền hoàng đế giúp chúng lôi kéo đám thần dân đang hăng hái
cần vương chống xâm lược trở về với đức vua đã đầu hàng, nói năng, hành động
nhất nhất theo lệnh chủ. Một trong những biện pháp chiêu an đó là vội vã mở các
kỳ thi hương, thi hội. Sĩ tử lại dùi mài kin sử, trau dồi văn thơ phú lục, tấp
nập khảo hạch, lều chõng thi cử. Các kỳ thi tuy có quan khâm, quan sứ “quý
quốc” chủ tọa, giám sát, có cả các “bà đầm ngoi đít vịt” ngồi “trên ghế” để cho
các ông cử tân khoa quỳ lạy tạ ơn ở dưới sân, nhưng cảnh trường thi vẫn rộn
rịp, sĩ tử vẫn sốt ruột chờ khoa thi để giành giật nhau: số cử nhân tiến sĩ vẫn
tăng lên một cách đều đặn, vẫn hãnh diện vinh quy và văn nhân vẫn tuôn ra được
một khối lượng không ít những văn thơ ca ngợi cảnh phong hoa tuyết nguyệt và ca
ngợi cả cảnh thanh bình thịnh trị.
Thế nhưng đằng sau cái vẻ ngoài náo nhiệt đó, hơi lạnh của sự chết chóc
đã thấm vào cơ thể: giờ phút cáo chung vận mệnh nhà Nho và văn chương nhà Nho
đã đến gần.
Đối với thế giới năm 1905 có ý nghĩa mốc, đánh dấu bằng cách mạng ở Nga,
mà đối với phương Đông năm 1905 cũng có ý nghĩa mốc đánh dấu bằng sự kiện Nhật
thắng Nga. Đối với lịch sử phát triển của loài người, hai sự kiện đó có ý nghĩa
hoàn toàn khác nhau nhưng cả hai đều ra đời trên cơ sở cùng một tình hình: sự
phát triển không đồng đều của hệ thống tư bản chủ nghĩa, cả hai đánh dấu một
bước mới trong sự phát triển và cả hai, từ hai mặt, kích thích phương Đông thức
tỉnh.
Sự bế tắc nội tại trong sự phát triển của nhà Nho và văn chương nhà Nho
trong từng nước gặp sự thức tỉnh của các dân tộc phương Đông trước thời đại mới, dẫn
đến xu thế cách tân về tư tưởng và văn học xảy ra ở nhiều nước ở châu Á. Ở Việt
Nam, cũng như ở các nước châu Á chịu ảnh hưởng văn hóa Hán, điều đó dẫn đến
việc mất vai trò của nhà Nho và văn chương nhà Nho chính thống.
I. BẾ TẮC NỘI TẠI TRONG VĂN HỌC NHÀ NHO
Nhà Nho là một sản phẩm của chế độ
phong kiến phương Đông. Văn học của họ ra đời rong khuôn khổ chế độ đó và tồn
tại phụ thuộc vào điều kiện của chế độ đó. Thực tế cuộc sống trong chế đọ phong
kiến phương Đông là chất liệu văn học, là nguồn cảm hứng quy định nội dung,
nghệ thuật của tác phẩm mà cũng sẽ là môi trường truyền bá điều kiện tồn tại
của tác phẩm. Sự đổi thay lớn lao cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX không những
thay đỏi một cách căn bản môi trường truyền bá, điều kiện tồn tại mà tác động
sâu sắc, bắt buộc phải đổi thay một cách cơ bản nội dung và nghệ thuật làm
cho nhà Nho chính thống và nền văn học
của họ thay đổi về chất, không thể tiếp tục tồn tại.
Nhà Nho vốn là những người chủ trương sống có trách nhiệm với cuộc đời,
“vũ trụ nội giai ngô phận sự”. Học đạo thánh hiền, thi đỗ làm quan là lý tưởng
của họ, vì đó là con đường để họ có thể “trí quân trạch dân” làm việc có ích
cho đời. Làm quan là “vì nghĩa”, là làm một phận sự. Tuy từ nhỏ
đến già chăm lo dùi mài kinh sử nhằm đạt mục đích đó, nhưng nhà Nho, thuộc tầng
lớp trung gian, tự nhận mình là thần tử, không thể tự quyết định trong việc lập
sự nghiệp. Đạt mục đích hay không phải tùy thuộc ở mệnh trời và mệnh vua. Phục
tùng, yên mệnh là những đức tính cao cả. Bước vào cuộc đời, họ phải chuẩn bị cả
hai khả năng.
Làm quan là để hành đạo: treo gương đạo lý, cương
thường và đem văn chương giáo hóa nhân dân. Muốn hành đạo thì trước tiên mình
phải có đạo đức, giữ đúng đạo lý cương thường. Nếu làm quan chỉ để cầu kiếm
bổng lộc, làm cho bản thân sung sướng là trái với đạo đức thì không đạt mục
đích hành đạo. Ngược lại, nếu giữ được đạo đức thì tuy không có chức vị, không
có điều kiện hành đạo rộng rãi, vẫn có thể treo gương đạo đức, có tác dụng giáo
hóa. Họ phải cân nhắc lựa chọn giữa hành và tàng, giữa xuất và xử, giữa giáo
hóa nhân quân và độc thiện kỳ thân.
Trong cuộc đời, số người có mệnh trời, được vua dùng
là có ít. Trong một con người lúc đắc ý để có thể hành đạo cũng thường không
nhiều. Chế độ phong kiến xấu xa, tàn ác làm cho những nhà Nho chân chính phải
than vãn “ở đời việc bất như ý mười điều thường có đến tám chín”. Cho nên trong
cuộc đời của một nhà Nho thường xảy ra cảnh lúc đầu thì hăm hở nhập thế, say mê
mơ ước lập sự nghiệp, vì vua, vì dân, mà cuối đời thì chán nản muốn thoái lui
thây kệ cuộc đời.
Ra làm quan là đắc ý, là được hành đạo, nhưng đồng
thời cũng là bán mình làm tôi tớ cho một giòng họ, chịu khom lưng uốn gối với
người trên, người có nhân cách cảm thấy điều đó là nhục nhã, tổn thương đến đạo
đức. Cho nên mỗi một nhà Nho không những chuẩn bị hai khả năng, luôn luôn thao
thức về vấn đề xuất xử, mà trong tâm hồn – bên cạnh lời hứa hẹn lập sự nghiệp
với núi sông thường có cả cái ao ước làm bạn với mây ngàn hạc nội, làm họ xuất
một cách dùng dằng, xử một cách ân hận. Một người tích cực vì nước vì dân như
Nguyễn Trãi, chủ động trong cuộc đời như Nguyễn Trãi mà vẫn bị cây thông, hòn
đá nơi khe suối vẫy gọi, quấy rầy. Ngay khi vừa chiến thắng quân Minh về thăm
nhàm ông đã bùi ngùi với lời hẹn ước với Côn Sơn, nhìn cả cuộc đời oanh liệt
của mình vẫn cảm thấy thẹn với Sào, Do.
Tâm hồn của một nhà Nho có hai mặt: hành đạo và ẩn
dật. Vận mệnh của nhà Nho có hai nửa: hành đạo và ẩn dật. Trong văn chương của
nhà Nho chính thống luôn luôn có hai nhân vật chính: người hành đạo và người ẩn
sĩ.
Nhìn chung trong lịch sử văn học ta từ thế kỷ XV đến
thế kỷ XIX, ở thời đại nào cũng có hai nhân vật như thế và trong một nhà Nho
cũng có hai mặt như thế. Tuy vậy trong
văn chương nhà Nhom trong những lời bộc bạch và ký thác tâm sự của họ, người
hành đạo chỉ thành một hình tượng văn học đẹp đẽ khi nó là người trung nghĩa,
hành động anh hùng, hy sinh vì vua, trong điều kiện vua tiêu biểu cho nước, cho
dân, cho chính nghĩa. Người ẩn sĩ chỉ thành một hình tượng văn học đẹp đẽ khi
nó là người khí tiết thanh cao, bỏ về vui cảnh điền viên để tỏ lòng trung trực
bất khuất chống lại vua quan xấu xa.
Người trung nghĩa anh hùng và người ẩn dật thanh cao
đã từng là nhân vật lý tưởng trong văn học phong kiến, đã từng là những tấm
gương sống khí tiết, làm xúc động nhiều thế hệ. Vào những năm cuối của thế kỷ
XIX, hai nhân vật đó có điều kiện khách quan để xuất hiện nhiều, đạt đến mức
đẹp đẽ, nhưng đồng thời đó cũng là những hình tượng người trung nghĩa, người ẩn
dật thanh cao cuối cùng.
1. Phan Đình Phùng và hình tượng
người trung nghĩa
Sau khi kinh thành Huế rơi vào tay giặc, phong trào
Cần Vương rầm rộ nổ ra khắp nơi. Từ vùng núi rừng hiểm trở ở Hương Sơn, Phan
Đình Phùng đã dựng lên một căn cứ kháng chiến bao gồm cả hai tỉnh Nghệ An và Hà
Tĩnh. Sau khi phong trào kháng chiến của các tỉnh khác thát bại, căn cứ của
Phan Đình Phùng trở thành thứ triều đình độc lập, một mảnh đất tự do cuối cùng
của đất nước. Trong điều kiện bị bao vây, thiếu thốn đủ mặt, Phan Đình Phùng đã
chiến đấu ngoan cường trong 10 năm, cuối cùng bệnh sốt rét và bệnh lỵ quật ông
ngã xuống trong lúc căn cứ đang bị quân thù bao vây và tấn công. Trước khi
chết, người anh hùng ấy đã mặc triều phục lạy về cửa khuyết và để lại một bài
thơ tuyệt mệnh.
Nhung trường phụng
mệnh thập canh đông
Võ lược y nhiên
vị tấu công
Cùng hộ ngao
nhiên vong trạch nhạn
Phì đồ biên địa
thượng đồn phong
Cửu trùng xa giá quan san
ngoại
Tứ hải nhân dân thủy hỏa
trung
Trách vọng dũ long, ưu dũ
trọng
Tướng môn thâm tự quý anh
hùng.
Dịch:
Nhung trường vâng mệnh đã
mười đông
Vũ lược còn chưa lập được
công
Dân đói kêu trời tan tác
nhạn
Quân gian chật đất rộn
ràng ong
Chín lần xa giá, non sông
cách
Bốn bể nhân dân nước lửa
nồng
Trách nhiệm càng cao càng
nặng gánh
Tướng môn riêng thẹn mặt
anh hùng.
Trần Huy Liệu dịch
Bài thơ được sáng tác trong một hoàn cảnh rất điển hình và nội dung cũng
rất điển hình. Ở vào một hoàn cảnh người làm thơ phải euy nghĩ đến cả vận mệnh
đất nước, đến trách nhiệm của cả đời mình, Phan Đình Phùng đã nói những điều mà
một nhà Nho chân chính có thể nói.
Toàn bài là một nỗi đau thương nén lại. Toàn bài là một lời nhận tội:
không hoàn thành nhiệm vụ. Tác giả đặt mình trước vua và dân mà suy nghĩ về
trách nhiệm của mình. “Vâng lệnh vua cầm quân đã hơn 10 năm mà vẫn chưa giành được
thắng lợi”. Vua giao cho trách nhiệm khôi phục đất nước, quét sạch quân thù,
bảo vệ ngôi vua, bảo vệ nhân dân mà tình hình thực tế thì còn là nhân dân tan
tác nguy khốn cùng cực, quân thù lan tràn chiếm đóng khắp đất nước, vua phải
đầy đi xa… Về bản thân, tác giả chỉ nói có hai điều: lo lắng và xấu hổ. Lo lắng
vì trách nhiệm, vì sự tin cậy và xấu hổ vì mình không có tài của kẻ anh hùng để
hoàn thành nhiệm vụ vua giao, để đáp lại sự tin cậy ủy thác. Sự đau xót của bản
thân nén lại đằng sau tinh thần trách nhiệm.
Phan Đình Phùng là một nhà Nho trung thực kiên cường, suốt đời vì vua vì
nước. Trong tình hình triều đình lộn xộn, ông dám một mình can ngăn việc thay
đổi ngôi vua, đến nỗi suýt bị chém. Khi đất nước rơi vào tay quân giặc, mặc dầu
có người trực tiếp giao mệnh lệnh là kẻ địch định chém mình một năm trước, mặc
dầu trong hoàn cảnh có tang, có đủ lý do để từ chối, ông đã mặc áo tang đến yết
kiến vua và khảng khái nhận nhiệm vụ cầm quân đánh giặc. Mười năm ông sống
trong rừng núi, nhà cửa xóm làng bị địch đốt phá, gia đình vợ con chạy tan tác,
mồ mả cha mẹ bị quật… nhưng trong bài thơ ông không nói một lời nào về hoàn
cảnh riêng, không một chút khoe khoang tự hào nào về những hành động oanh liệt
của mình. Tình thế đổ nát, hoàn cảnh khó khăn mà ông phải chịu đựng đâu phải do
ông gây ra, do ông chịu trách nhiệm, nhưng ông chỉ nói về mình – nhận hết trách
nhiệm và không oán trách ai.
Đó là tinh thần trách nhiệm: nhận mệnh vua thì quên mình, quên nhà, lấy
chết để đền ơn vua. Đó là khí phách cao cả, là thái độ bình tĩnh hy sinh của
người trung nghĩa. Đó là thái độ nhập thế, có trách nhiệm tinh thần dũng cảm vì
nghĩa của nhà Nho hành đạo. Ông tự xử như người anh hùng trung nghĩa trong sử
sách và nhà Nho cũng coi ông là một tấm gương, so sánh ông với Trương Tuần,
Hứa, Viễn, Nhan, Cảo Khanh, Văn Thiên Tường.
Nhưng đối với nhà Nho trung nghĩa, vua chứ không phải là nước hay dân
chiếm địa vị trọng yếu. Vua là chủ của nước mà cũng là chủ chủa dân. Nhà Nho có
lòng yêu nước, có lòng thương dân nhưng tự coi mình là thần tử, họ quan hệ với
nước với dân qua cái khâu trung gian là mệnh vua. Họ hành động theo sự chi phối
của mệnh vua chứ không phải theo ý chí của bản thân và trực tiếp có trách nhiệm
với dân, với nước. Với cách suy nghĩ như vậy, một con người như Phan Đình Phùng,
trong 10 năm kháng chiến đã trực tiếp nhận biết bao sự ủng hộ, đùm bọc che chở
của nhân dân, thấy biết bao gương hy sinh, bỏ mình theo việc nghĩa của nhân dân
và cộng tác với biết bao sự ủng hộ, đùm bọc, che chở của nhân dân, thấy biết
bao gương hy sinh, bỏ mình theo việc nghĩa của nhân dân và cộng tác với biết
bao người tài trí xuát thân từ trong đám nhân dân mà ra mà ông vẫn không thấy
rõ rằng trách nhiệm và sự tin cậy mà mình chịu là với dân, Bài thơ nói đến cảnh
khổ cả dân đến hai lần nhưng không nói đến tương lai. Không phải bài thơ bộc lộ
một tinh thần thất bại chủ nghĩa: chưa báo được tin thắng trận chứ không phảo
là đã kết thúc thất bại, nhưng cái thẹn thùng lo lắng của ông đối với mệnh vua
là của một cá nhân ông, bài thơ không để lại một sự khích lệ, một lòng tin
tưởng cho những người đang tiếp tục chiến đấu. Tương lai sẽ được định đoạt bằng
mệnh vua chứ không phải sức dân.
Bài thơ là một tác phẩm trữ tình có sức xúc động, xúc động bằng tấm lòng
trung nghĩa. Nó cùng loại với những bài cảm hoài, ngôn chí, tức sự ngẫu hứng
của các trung thần nghĩa sĩ ngày xưa và rất giống những bài tuyệt mệnh, điếu
phúng, cảm hoài của nhiều nhà Nho Cần Vương đã ngã xuống trước Phan Đình Phùng.
Một ông giải nguyên Lê Trung Đình, một ông phó bảng Nguyễn Duy Hiệu khảng khái
chịu chết. Một ông thủ khoa Nguyễn Cao lấy dao tự rạch bụng kéo “ruột trung”
cho quân bán nước xem. Những người đó để lại những bài thơ tuyệt mệnh, những
người khác làm thơ xúc động làm thơ văn điếu phúng, ca ngợi tấm gương vì nghĩa
quên mình. Những thơ văn đó được truyền đi một cách thành kính gây ra một xúc
động lớn lao. Trong trường hợp trung quân còn dồng nghĩa với yêu nước, còn đồng
nghĩa với vì dân, thơ văn của nhà Nho hành đạo bộc bạch tấm lòng trung nghĩa
tuy cũng là nói về đạo lý cương thường, vẫn gây được căm thù giặc, ngưỡng vọng
hành động anh hùng, thúc dục hành động vì chính nghĩa, vẫn có xúc động và tác
dụng tốt.
Thế nhưng trong lịch sử văn học của ta, đây cũng là những tác phẩm cuối
cùng vào loại ấy. Sau Phan Đình Phùng không còn người trung nghĩa nữa: trung
quân không thể nào kết hợp với yêu nước
và vì dân. Khi ngôi vua đã trở thành công cụ của quân xâm lược và chủ
nghĩa thực dân thì thần tử chỉ có nghĩa là làm ông quan phản bội tổ quốc, ăn
lương Pháp để áp bức nhân dân, vua đã tự tách khỏi nước, khỏi dân. Mọi tình cảm
yêu nước vì dân bộc lộ trực tiếp không cần đến khâu trung gian ấy nữa. Tình cảm
trung nghĩa chỉ còn có ý vị khi ca tụng những nhân vật lịch sử và lên án kẻ
phản bội.
Phan Đình Phùng ngã xuống đã kết thúc phong trào Cần Vương. Cùng với cái
chết của ông cũng kết thúc một mẫu người đẹp, một hình tượng văn học đẹp trong
văn học cổ: người trung nghĩa, người lãnh đạo trong nhà Nho chính thống.
2. Nguyễn Khuyến và hình tượng người ẩn sĩ
Trong xã hội trước đây, những nhà khoa bảng tự coi mình là người hướng
đạo, có trác nhiệm tình thần, làm gương cho nhân dân và trong thực tế họ cũng
là những người có uy vịng lớn. Cả xã hội coi họ là những người có tài cán nhất,
tiêu biểu cho nhân dân từng vùng, từng tỉnh, có khi cả nước. Khi nước và vua
gặp nạn lớn, những người khoa bảng theo đạo nghĩa tự nhận lấy trách nhiệm làm
Lỗ Trọng Liên, làm Văn Thiên Tường “gánh vác cương thường”, “lo việc vũ trụ”.
Họ thấy việc phải làm thì làm, không từ nan, không suy tính thành bại. Phong
trào Cần Vương các tỉnh đều do các ông Thám hoa, Hoàng giáp, Tiến sĩ, Phó bảng,
Giải nguyên cầm đầu. Họ ra tự nhận mà mọi người cũng coi đương nhiên. Họ là
những nhà Nho hay chữ. Những bài hịch, bài thơ của họ kích động lòng người. Tấm
gương của họ có sức thúc giục, lời nói của họ chỉ ra phương hướng của lẽ sống.
Mọi người tin theo, sẵn sàng đi lính, sẵn sàng quyên góp tiền của cho nghĩa
quân gây nên thanh thế hùng hậu toàn dân chống Pháp. Đó là hoàn cảnh làm xuất
hiện hàng loạt nhà khoa bảng trung nghĩa và hàng loạt những thơ văn yêu nước
thấm nhuần tư tưởng trung nghĩa cuối thế kỷ XIX.
Nhưng trước tình hình đất nước cuối thế kỷ trước, các nhà khoa bảng còn
có một con đường nữa cũng được coi là hợp đạo lý không khác gì con đường trên:
con đường rút lui ẩn dật.
Ta hãy lấy ví dụ một nhà khoa bảng khác: Nguyễn Khuyến. Nguyễn Khuyến đậu
tam nguyên, làm quan tất cả 12 năm. Trước tình hình kinh thành thất thủ, đất
nước rơi vào tay giặc Pháp, Nguyễn Khuyến không đứng vào hàng ngũ Cần Vương,
khởi nghĩa, mà xin cáo quan về nhà. Về sống ở quê nhà, ông cam chịu cuộc sống
nghèo khổ vắng vẻ. Lấy cớ già yếu lại đau mắt, ông khước từ mọi sự dụ dỗ, đe
dọa, giữ vững khí tiết, không chịu khuất phục. Đó cũng là một sự hy sinh, một
thái độ chống đối quân giặc, một cách bảo vệ đạo lý luân thường. Chỉ khác một
bên là hành động cứu nước và một bên là ẩn dật bất hợp tác.
Lựa chọn làm Đào Tiềm chứ không làm Văn Thiên Tường, Nguyễn Khuyến tự nói
với mình:
Người chớ giận Lỗ hầu
chẳng gặp
Như lơ phơ tóc trắng lại
làm chi?
(Trở
về vườn cũ 82) (1)
Và nhắn với bè bạn
Huyên án tiên sinh đã bạc đầu.
(Tiễn học trò là Nghĩa định sứ quân) (341)
Tuổi tác và sức khỏe cho phép ông yên tâm ngắm “năm cây liễu thướt tha
trước cửa” (Hạ vu – 333), làm người ẩn sĩ trong khi
những nhà khoa bảng khác xông pha vào nơi nguy hiểm, không tránh một kẻ thù
mạnh hơn, sẵn sàng đổ máu để trọn tấm lòng trung nghĩa.
Làm người ẩn dật là tự chọn thái độ xa lánh cuộc đời, thây kệ mọi người,
chấp nhận một cuộc sống nghèo khổ, cô độc, trái với xung quanh. Có thể nói với
người khác là vì thích nhàn, tính lười, vụng về, không chịu được gò bó… Nhưng
với bản thân mình, trong thâm tâm, phải có một lý do nào khác chính đáng làm
cho mình yên tâm, tự tin, tự hào vì cách xử sự đó, không nao núng trước hoàn
cảnh khó khăn do cuộc sống nghèo khổ và cô độc gây ra trước lời trách vấn của
lương tâm, do lối sống trái đời đặt ra. Muốn sống ẩn dật được phải có một khung
cảnh yên tĩnh giúp cho sự quen lãng, phải có một tâm hồn thanh thản giữ cho
mình một thú vui bên trong: hài lòng về mình và không xao xuyến trước những
sóng gió từ bên ngoài.
Sống ẩn dật – nghèo khổ và cô độc – không phải là dễ chịu. Đó là một sự
chịu đựng hy sinh. Cho nên phải có tấm lòng
Độc đương hàn tuế thùy vi ngẫu
Bất lạc phương tâm chân khả si.
(Vịnh cúc II - 262)
Dịch: Một mình chọi với khí trời rét mướt, lấy ai bầu bạn?
Giữ lòng thơm không rơi, nghĩ thật đáng thương.
Chống chọi một mình với cái rét,
chịu để rơi những cánh hoa đẹp đẽ ở bên ngoài nhưng phần bên trong – phần thơm
trong lòng (phương tâm) – thì giữ chặt không thể rơi rụng. Chỉ có lòng tự hào
vì chính nghĩa đó mới làm cho người ẩn sĩ đứng vững. Những thú vui về cảnh đầm
ấm với thôn xóm, về cảnh đẹp thiên nhiên, về cuộc sống thoải mái tự do và cuồng
phóng chỉ là kết quả, chỉ là tô điểm thêm cho lòng tự hào về tinh thần ấy.
Nguyễn Khuyến lựa chọn làm người ẩn dật không dễ dàng như những người ẩn
sĩ trước ông: lựa chọn giữa làm triều thần hèn hạ chạy theo sanh lợi và làm
người dân thanh cao giữ khí tiết. Bên cạnh hai loại đó còn có hành động trung
nghĩa cảo cả, đổ máu, chịu chặt đầu, tự tử để giữ danh tiết. Nhiều lần Nguyễn
Khuyến xúc động nói đến ơn vua. Hoàn cảnh không cho ông hành động trung nghĩa
được chứ tự ông không thể coi ẩn dật là cao hơn cả. Trong tâm hồn, đó là một
điều day dứt. Đó là một việc làm bất đắc dĩ chứ không thể lấy điều đó tự hào
với mọi người.
Lúc đầu trong những bài thơ làm 5 - 6 năm sau khi về nhà, Nguyễn Khuyến
đã bằng lòng về sự lựa chọn của mình và nhiều năm trời ông đã cố gắng tìm thú
vui trong cuộc sống đó. Ta gặp trong thơ ông cuộc sống nhàn tản của nhiều nhà
Nho ẩn dật khác. Đó là những bài vịnh hoa cúc, hoa mai, cây trúc, hòn non bộ…
Đó là những bài nói về cuộc sống cuồng phóng: uống rượu say, nằm khểnh ngâm thơ
tràn. Ông vui với cảnh thực của mình và ông vui với hình ảnh của cảnh cũ, người
xưa. Nhiều bài nhắc đến Đào Tiềm, Liễu Tôn Nguyên, đến ba rặng cúc, năm cây
liễu, đến Ngu Khê…, đến hứng thơ của các nhà ẩn sĩ nổi danh ấy. Cũng như các ẩn
sĩ khác, ông tỏ ra không quan tâm đến cuộc đời: ai nói với mình chuyện thế sự
chỉ gãi đầu, cười mà không nói (Thu nhiệt – 241), nhìn trời đất chỉ
một mà vàng hoen ố (Túy hậu – 250), coi tượng đá là bạn tri kỷ (Úy
thạch lão nhân – 274), ca tụng rượu và người say rượu,… Có khi lớn
tiếng bài bác cả tưởng Nho gia và tán dương tháo độ ngông cuồng của Lão Trang.
Bất tri thùy vị vi Bàn Cổ
Hưu bả phù đàm tiếu Lão
Trang
(Hữu cảm – 356)
Dịch:
Không
biết ai là Bàn Cổ
Đừng
cười lời nói của Lão Trang là phù phiếm.
Nhưng bài thơ đó của ông khác với những bài thơ kẻ khác giả dối làm bộ
thanh cao. Đây là những lời chân thật, có khi có cường điệu, nhưng tình cảm vẫn
là chân thật. Nhưng những bài đó vẫn chưa phải là chỗ đặc sắc của người ẩn sĩ
Nguyễn Khuyến.
Nguyễn Khuyến là người quen thuộc cuộc sống nông thôn, khi về ông lại tìm
cái thích thú trong cuộc sống đó. Ông nói về cuộc sống gia đình, làng xóm, quê
hương, đến thời tiết, đến phong cảnh đồng quê Việt Nam một cách thắm thiết.
Nguyễn Khuyến nói đến cảnh chống gậy dạo bờ tre, men bờ ao đến thăm bà
con, đến việc con rán đậu phụ cho mình uống rượu, bà hàng đưa rượu ra mời ăn,
và cả những chuyện không may: mua được chân giò học cách ninh theo lối Tàu thì
ninh lại hỏng mất, kiếm được con cá rán để nhắm rượu vừa để lên mâm con mèo lại
cuỗm đi. Ông nói đến chuyện dâu con làm nhà thờ, chuyện mình lên lão ở phe
giáp, đến chuyện sớm mai thức dậy nghe trẻ con ê a học Tam tự kinh, buổi chiều
nghe mục đồng lùa trâu về vắt vẻo ngồi trên lưng trâu thổi sáo, ông già tơi nón
chống gậy đi thăm đồng…, chuyện gặt hái cấy cày của người nông dân, chuyện ông
lão đan 30 cái đó để kiếm cá. Ông nói đến cả con chó sủa khách lạ đến chơi nhà
láng giềng, con trâu say nắng thở phì phò dưới gốc cây, cái nắng gay gắt của
mùa hạ, mặc áo quần thì đứng ngồi không được mà cởi ra thì bất lịch sự, thế mà
vẫn phải phơi thóc chất rơm… Trong cuộc sống đó ông xúc cảm một cách chân
thành, hòa làm một với mọi người xung quanh. Ông nghĩ đến chuyện giá cả thóc
gạo, chuyện đi khua chim với xóm làng, chạy lụt, lo đói, băn khoăn trước cảnh
rét sớm, nắng dai và nhớ cả đến những ông già nếm rượu bên tường đến chợ Đồng
ngày chợ Tết.
Nguyễn Khuyến
thâm nhập vào cuộc sống đó và thấy thỏa mãn:
Ta về năm sáu năm nay
Bảy gian nhà ở tháng ngày ung dung
Tây nam có lạch nước trong
Cúi xem đàn cá vẫy vùng sớm trưa
Đông bắc tre mọc đày bờ
Rạng ngày hơi mát thoáng đưa song đào
Nào khi chống gậy ra vào
Khi ngồi tựa ghế thấy cao mặc lòng
Khi vui chuốc chén rượu nồng
Có khi hào hứng mươi chung chẳng từ
Lại thêm gạo mới ngọt lừ
Lại thêm rau hái vườn nhà thơm tho
Gọi con giở sách bi bô
Xa xôi nghĩ đến đời vua Toại Hoàng.
(Hạ nhật ngẫu thành
Vũ Hồng Phúc dịch. 331)
Hơn hai mươi năm sống cuộc đời ẩn dật, Nguyễn Khuyến đã trở thành nhà thơ
có một không hai về nông thôn Việt Nam . Sự thâm nhập làm cho ông có
cái nhìn tinh tế, nhìn ra cái phong phú sinh động của cuộc sống trong sự vắng
lặng. Ông đưa vào cảnh nông thôn đặc biệt Việt Nam ấy cả tấm lòng thông cảm chân
thật với cái mỉm cười hóm hỉnh thông minh. Sự hiểu biết về nông thôn, lòng
thông cảm với nông dân làm cho thơ ông nói được cái đẹp trong sáng dịu dàng của
dân tộc mà thành tuyệt xướng và trong những bài thơ nông thôn ấy con người ẩn
sĩ của ông phát lộ đầy đủ.
Là là mặt đất
lớp sương sa
Ánh sáng ban mai
vẫn mập mờ
Hạt quất ngoài
vườn chờ nứt vỏ
Rò tiên trong chậu chửa
bung hoa
Đầm đìa lệ sớm, cnàh tre
rủ
Lạc lõng canh khuya, tiếng
hạc qua
Ấm chỗ chẳng buồn tung áo
dậy
Cửa ngoài vẫn mở, khách
chừng thưa.
(Xuân nhật - Nguyễn Văn Tu dịch, 184)
Một cuộc sống vắng lặng ngưng đọng và một con người nhàn nhã “lười
biếng”, thấy thú vui trong sự vắng vẻ, đúng như những người ẩn dật! Thế nhưng
với tất cả những sự quen thuộc và say mê đó, Nguyễn Khuyến vẫn không tìm được
sự yên tĩnh.
Trước hết tác giả phải đương đầu với cảnh nghèo đói:
Sớm trưa dưa muối cho qua
bữa
Chợ búa trầu chè chẳng dám
mua.
(Chốn quê. 121)
Cuộc sống dựa vào cày cấy ở nông thôn Việt Nam vốn bấp bênh: hạn lụt, nắng
dài, rét sớm… đều ảnh hưởng đến mùa màng. Nhưng nếu chỉ có thế thì đối với “nhà
Nho” có “may mắn được xếp trên ăn mày một bực, đã quen nhá rễ rau, da cũng
không phải chóng nhăn” (Hung niên II, 316). Người ẩn dật đã
tự nguyện sống nghèo khổ, điều đó không làm họ bất ngờ lúng túng. Cái làm cho
ông không yên tĩnh được là những chính lệnh của thực dân trói buộc, đè nặng,
làm cho cuộc sống nghẹt thở. Cái làm cho ông không yên tĩnh được là bọn ươn hèn
đầu hàng giặc, trở mặt, đắc thế trở thành tàn ác, giả dối, đểu cáng. Trong bọn
“quan lớn mà chỉ đáng là quan lợn” (Hung niên IV, 318) áy có những bạn
cũ của ông. Bọn đó vẫn đi lại với ông, dụ dỗ, đe dọa, xỏ xiên, quấy rầy ông…
Pháp lệnh của chính quyền thực dân trói buộc chặt ché. Kinh tế hàng hóa gây sức
ép nặng nề. Nó vươn tới khắp, không còn bỏ sót mảnh đất nào để sống đời Toại
Hoàng nữa.
“Gió Tây thổi cuột cuột biết làm thế nào”
(Ngày trùng dương không mưa,
261)
Nếu chỉ liên quan đến bản thân, nếu chỉ là quan hệ giữa cá nhân thì còn
có thể thây kệ, xa lánh, coi là không dính dáng
Đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ
Rằng khôn cũng kệ, rằng
khờ cũng thây.
(Mẹ mốc, 95)
Nhưng đây là cảnh mất nước, Nguyễn Khuyến không thể quay lưng làm ngơ
được. Ông tiếc rẻ:
Nặng như ngoan thạch hà
trị khổ
Chỉ thị lương tâm thượng
vị dân.
(Khổ nhiệt, 254)
Dịch:
Chỉ có cách như hòn đá trơ
trơ mới không thấy khổ
Vì một chút lương tâm
không mất đi cho.
Bọn phản bội như ruồi như nhặng
Ta say đương buồn ngủ
Muỗi quấy không cho nằm
Giơ quạt đuổi lại đến
Bên tai réo ầm ầm.
(Văn, 257)
Đối với “chính lệnh của Tây”, bọn “quan chèo”, “phường xỏ lá”, thứ văn
chương tán tụng công đức”… tác giả không thể nín lặng được. Ông phải lên tiếng,
phải đối phó. Đối phó bằng cái cười mỉa
mai, bằng thơ trào phúng.
Người ẩn sĩ ngày xưa có thể không tiếp khách, có thể rào cổng lại là yên
chuyện. Nguyễn Khuyến ở vào thời đại không thể làm thế được và làm thì cũng
không yên được:
Thế là từ trong tâm hồn, ông luôn luôn bị giằng xé. Chống gậy dạo chơi,
uống rượu, ngủ dài cũng không thể làm ông khuây khỏa. Lương tâm trách vấn ông:
ẩn dật không phải là hành động trung nghĩa yêu nước.
Bắt chước Đào Tiềm ghi năm tháng bằng giáp tý, không chịu thừa nhận triều
đại mới là một cách phản kháng. Nhưng mất nước, vua bị đi đày, quân thù ở bên
mình mà đành chịu khoanh tay! Đào Tiềm lui về nhà, không nhận bổng lộc là triều
đình mới không có cách gì bắt người ẩn sĩ thừa nhận thân phận thần dân được.
Nguyễn Khuyến “may vì là kẻ đậu đạt không phải nhận thẻ tùy thân. Còn có mặt
mũi mà đến gặp và ăn nói với cha ông (dưới đất)” (Xuân nhật hữu cảm II,
391), nhưng không mang thẻ cũng chỉ là một loại thần dân! Ông cảm thấy xấu hổ
thẹn thùng, thẹn với áo xiêm, với chăn gối, với sách vở.
Vô lịch ná tri thư giáp tý
Hữu cừu vị cảm độc Xuân
Thu.
(Xuân nguyên hữu cảm, 371)
Dịch:
Không
có lịch biết đâu mà ghi được giáp tý
Kẻ
thù còn đó, chưa dám đọc sách Xuân Thu
Ông day dứt tự chế giễu:
Bây giờ đến bậc ăn dưng
nhỉ
Có rượu thì ông chống gậy
ra
(Lên lão, 87)
Ông tìm cách tự giải thích (xem Anh
giả điếc, mẹ mốc), ông tự chế giễu và càng cảm thấy cô độc:
Loạn thế hành tàng như độc
hạc
Lão lai hình ảnh tự cô vân
(Ký hữu, 248)
Dịch:
Đời
loạn đi về như hạc độc
Tuổi
già hình bóng tựa mây côi.
Khi đạo học cựu học đã thành vô ích không thể làm chỗ dựa tinh thần cho
mình nữa, nhà Nho ẩn dật không có cách gì tìm được tâm hồn yên tĩnh.
Khi ra về, ông cũng thấy việc cáo quan lui về không dễ được nhiều người
đồng tình:
Khứ quốc khởi vô bằng bối
tại
Quy gia vị tất tử tôn
hiền.
(Cảm
tác, 223)
Dịch:
Bỏ nước ra về, há chẳng có bạn bầu còn ở lại,
Về nhà chắc gì con cháu đã cho thế là hay.
Nhưng đến cuối đời không những bạn bè, con thầy học, nhiều người ra làm
quan mà con nhà thơ cũng ra làm quan. Nguyễn Khuyến vốn là người kín đáo, ông
nío với con:
Ngã dĩ từ quan nhữ tố quan
(Xuân
nhật thị từ Hoan, 341)
Dịch:
Ta đã từ
quan, con lại ra làm quan
Và dặn con:
Hoạn đào chỉ dĩ
khinh tâm trạo
Lời cục hà năng
lãnh nhãn khan.
Dịch:
Thuyền chèo bể hoạn lòng nên nhẹ
Lợi bén hơi đồng mắt chớ ham.
(Hoàng Tạo dịch)
Khuyên con có nghèo mà ra làm quan thì cũng đừng quá
hăng hái, tích cực, đừng tham lợi, phải chú ý nới tay với nhân dân, đừng mong
làm quan to. Thế nhưng con ông cũng có nghe ông đâu:
Tự kiến nhi lang
năng tác quận
Toại linh thử
lão bất đề thi
(Ngẫu
tác, 368)
Dịch:
Từ khi thấy cậu con lên làm quan chức quận
Khiến cho già này không làm thơ nữa.
Đạo nghĩa không ai theo, sách vở vô ích, khoa bảng
là đồ chơi, chỗ dựa tinh thần sụp đổ. Ông mỉa mai:
Cổ kim duy hữu
nhất Bành Tổ
Thiên hạ nguyên
vô sóng Bá Di
(Ngẫu tác, 368).
Dịch:
Từ xưa đến nay chỉ có một ông Bành Tổ
Trên đời vốn không có hai ông Bá Di.
Nguyễn Khuyến không thể yên tâm được trong hoàn cảnh
ẩn dật. Cái ông ghét bỏ, muốn tránh, muốn từ bỏ vẫn cứ theo ông vào tận chỗ ông
ẩn nấp.
Tâm sự đau xót dằn vặt như vậy ta có thẻ thấy trong
bài Nhân
tặng nhục:
Đám ma ăn đã no nê
Có người đem miếng thịt về tặng ta.
Tặng ta đâu sợ
ta mà
Thương ta cái
bụng thường là rỗng không
Ngậm ngùi khôn
ngỏ nỗi lòng
Tay cầm, mặt
cúi, ròng ròng lệ rơi.
Gặp khi loạn lạc
tơi bời
Lại thêm đói kém
cho người khó khăn
Ơn người có ý ân
cần
Lòng ta đâu có
ngại ngần mảy may
Tử Hoa ngựa béo
áo dày,
Cũng còn xin
thóc hũ đầy hũ vơi.
Đào Chu thuyền nhẹ rong chơi,
Trâu dê vẫn cứ chăn nuôi đầy đàn.
Uyên Minh khi mới từ quan,
Cũng ba luống cúc trồng bên cạnh nhà.
Lạc Thiên bị trích phương xa
Cũng còn chùm được ngôi nhà vài gian.
Thương ta đau ốm nghèo nàn,
Phong trần lại quá ươn hèn hơn ai.
Tuổi già mình chẳng có tài,
Lấy gì chống đỡ những ngày gieo neo?
Không ăn, cái bụng đói meo
Ăn vào cái nhục mang theo bên người.
Không ăn thân xác còm còi
Ăn vào, mang tiếng con người bê tha.
Biết ta, người đã Thúc Nha
Cảm người, ta được đâu là Vương Tôn!
Âu đành nhận lấy là hơn
Kẻo đi cửa khác van lơn cũng rầy.
Chuyện trò chốc lát cùng khuây
Gió thanh hiu hắt rung cây trúc già.
Đỗ Ngọc Toại
dịch
Có bài thơ chất chứa một bầu tâm sự. Tác giả kể một chuyện rất nhỏ nhặt
cụ thể: có người cho tác giả một miếng thịt.
Tác giả không nói người cho là ai, quan hệ với tác giả như thế nào, nhưng
rõ ràng không phải là người thân (nhân, tử) mà miếng thịt thì mang từ một chỗ
không sạch sẽ đến (phần gian nhân yếm túc). Động cơ của người cho là lòng
thương xót: lân dư độc khoáng phúc. Ít ra trong ý nghĩ của tác giả điều đó cũng
gợi lại việc một số người đã ra làm cho Pháp khuyên tác giả theo gương họ ra
làm quan – cùng ý với bài Lời gái góa.
Tác giả kể “cầm lấy miếng thịt rồi ôm mặt khóc”. Cả một đoạn trao đổi với
người cho thịt, cũng tức là sự suy nghĩ dằn vặt của tác giả khi nhận miếng thịt
với lòng thương xót cho ta thấy người ẩn dật giữ được thanh cao khó khăn biết
chừng nào.
Tác giả không thể từ chối vì trong lòng quê muốn được miếng thịt (dư tâm
khởi bất dục). Điều đó là thường tình, ngày xưa Công Tây Hoa, Phạm Lãi giàu hơn
nhiều mà có từ chối của cải đâu. Người
thì cò kè xin thêm thóc, người thì ra sức kinh doanh làm giàu. Huống chi mình
đói, rét, nghèo, bệnh, già, bỏ quan về không biết trông cậy vào đâu.
Người ẩn dật thanh cao cũng phải lo cái ăn cái uống. Đào Tiềm cũng trồng
cúc. Bạch Cư Dị cũng làm nhà, ẩn dật giữ thanh cao không phải là lý do không
chú ý đến cái ăn cái uống, chỉ có mình mới “gặp lúc phong trần lại càng đớn hèn
hơn ai”.
Nhận miếng thịt cũng không hại danh dự. Đây không phải là của hối lộ,
tặng là vì sợ ta. Người cho lại rất ân cần, biết ta thiếu thốn mà cho ta như
Bão Thúc Nha, biết Quản Trọng có mẹ già mà giành phần hơn chứ không phải vì
tham.
Người cho hoàn toàn quang minh chính đại mà tự mình cứ thấy rơi xuống
không bám víu được vào một lý do nào đẻ tỏ ra cao thượng. Sự lựa chọn thật là
khắc nghiệt, không lấy thì đói và gầy, mà lấy thì nhục và tục. Để cho người
thương xót là nhục, vì miếng ăn miếng uống là tục. Thế nhưng thà nhục và tục
như vậy còn hơn là “phải đi xin nhà khác”.
Cả cái dằn vặt, đấu tranh ấy kết thúc một cách lặng lẽ đầm đìa nước mắt:
hai người nói với nhau mà mỗi người giữ một suy nghĩ riêng đến quên cả người
đối thoại. Chỉ có mọt cay trúc đứng chơ vơ bị ngọn gió thổi lắt lay
Nạt hốt đàm tương vương
Thanh phong động cô trúc.
Sự cô độc chính là chỗ tự hào của người ẩn sĩ. Vì chỉ có trong đoềi kiện
đó nó mới tự phân biệt với phàm phu tục tử và đó mới chính là chỗ họ coi là bản
chất của mình: sự thách thức cứng cỏi. Người ta nói đến cây tùng xanh tốt, reo
trước gió đông, cây mai khẳng khiu nở sớm hơn các loại hoa, cây cúc yếu đuối xở
hoa trong sương rét, cây trúc đến cháy vãn còn giữ nguyên đốt cứng… Trong thơ
văn xưa ngoại cảnh hình như chỉ làm cho cái cứng cỏi biểu tượng của người ẩn sĩ
thanh cao đó thêm rõ chứ xhưa ai nói đến cái nếm trải thực: tình trạng cây trúc
cô độc bị gió vờn cho lao đao.
Cũng không phải gió dễ làm gẫy ngay được cây trúc nhưng cây trúc đứng
được cũng không phải dễ dàng.
Trong xã hội phong kiến trước dây, người ẩn dật cũng là một mẫu người
đẹp. Đó là con người muốn sống trong sạch giữ vững nhân cách, không chịu khuất phục
kẻ quyền quý để cầu sự sung sướng. Nhiều người trong số đó ẩn dật để tỏ thái độ
phản kháng về chính trị dối với vua quan và tỏ ra đồng tình với những người
nghèo khổ oan khuất. Trong cuộc sống ẩn dật họ gần gũi, thông cảm với nhân dân
lao động và yêu mến cảnh đẹp thiên nhiên. Tâm hồn phóng khoáng tự do ở nhiều
người ẩn sĩ tuy nhiều khi đẩy đến quá mức mà thành nhàn tản, ngông cuồng, bừa
bãi - vẫn khuyến khích người ta sống cứng cỏi, trong sạch, gần nhân dân và
thiên nhiên. Hình tượng người ẩn sĩ trong văn học vẫn là một hình tượng đẹp đẽ,
có sức xúc động.
Người ẩn sĩ, cũng như người trung nghĩa, là một sản vật có tính lịch sử.
Chỉ có nền kinh tế tự nhiên tự cấp tự túc, chỉ có một xã hội có tổ chức lỏng
lẻo mới tạo ra điều kiện cho người ẩn sĩ tồn tại. Chỉ có một chế độ chính trị
cho phép con người quan niệm được mình không cớ trách nhiệm với xã hội – hoặc
coi cuộc đời là hư ảo, hoặc coi trách nhiệm thuộc về vua, hoặc coi cá nhân là
cứu cánh – mới làm cho người ta thây kệ cuộc đời, yên tâm trong cảnh ẩn dật.
Kinh tế tự cấp tự túc với chính quyền chuyên chế, với làng xã tự trị kiểu
phương Đông để cho người ẩn sĩ tồn tại, nhưng kinh tế hàng hóa của chủ nghĩa tư
bản kích thích nhu cầu con người ràng buộc mọi người. Chính quyền thực dân vươn
đến tận làng xã, kiểm tra tận từng người, không để cho ai ẩn dật được. Nước
mất, ngôi vua thành công cụ của giặc, ngay người nhận mình là thần dân như nhà
Nho cũng phải làm kẻ sĩ có trách nhiệm, chưa nói là người dân bấy giờ phải lo
tự cứu.
Nguyễn Khuyến là người ẩn sĩ phải dằn vặt trước sự đổi thay của ngoại
cảnh như vậy. Khi mới về, ông còn bông đùa hóm hỉnh “ngọn gió không nhường tóc
bạc a?”. Nhưng đến cuối đời ông mới thấy cảnh chua xót: “thanh phong động cô
trúc”.
Ngọn gió – ngoại cảnh chi phối ngày càng mạnh. Trong cuộc đời không phải
chỉ có một Bá Di, nhưng khi hoàn cảnh mới đã thành nề nếp ổn định thì con trai
ông cũng không thể theo ông mà làm Bá Di. Ngay cả bản thân ông khi đã phải tự
thanh minh – bằng thơ tự trào, ký ngụ - phải trào phúng, phải tố cáo một cách
căm giận thì cũng đã là không bỏ qua được xung quanh, cũng đã hết làm ẩn sĩ.
Nguyễn Khuyến là một mẫu người ẩn sĩ đẹp đẽ nhưng ông cũng là mẫu người
ẩn sĩ cuối cùng có thể có.
Sau khi Phan Đình Phùng chết, có người trung nghĩa khác vẫn còn sống. Sau
khi Nguyễn Khuyến chết, có người ẩn sĩ khác vẫn còn sống. Tư tưởng Nho gia
chính thống – cơ sở của hai mẫu người ấy còn kéo dài thêm một thời gian. Nhưng
đó là cái sống sót của một thời đại đã qua. Về lô - gích của lịch sử với sự
hình thành xã hội thực dân nửa phong kiến hai mẫu người chính thống của Nho gia
đó không còn cơ sở để tiếp tục tồn tại nữa. Và trong văn học hai hình tượng
người trung nghĩa và người ẩn sĩ trước đây làm xúc động lòng người cũng hết
sinh khí. Đó là dấu hiệu cáo chung không phải chỉ có hai hình tượng văn học ấy,
mà cả của Nho giáo, của cả nền văn học nhà Nho chính thống.
II. NHÀ NHO VÀ
NÔNG DÂN GẶP NHAU Ở NHU CẦU TỐ CÁO NỖI KHỔ NHỤC CỦA NGƯỜI DÂN MẤT NƯỚC
Thực dân Pháp tiến hành khai thác
thuộc địa khá gấp gáp. Trong việc xâm lược nước ta, chúng đã để lỡ thời cơ,
giằng giai mất nhiều thì giờ nên chậm chạp so với các nước khác. Khi chiếm
xong, chúng lại bất ngờ bị sa lầy vào một cuộc chiến tranh hao người, tốn của
trong nhiều năm với nhân dân khởi nghĩa khắp nước. Chúng rất sốt ruột. Ngày khi
tình hình còn chưa ổn định, chúng cũng đã bắt đầu tiến hành việc khai thác: mở
hải cảng, lập phố xá, khai mỏ, làm đường nhựa, đường xe lửa… Nhưng muốn cho
việc đầu tư được đảm bảo và kợi nhuận thu được chắc chắn thì phải dập tắt phong
trào chống Pháp của nhân dân các tỉnh. Những đội quân thuộc địa, quân lê dương
đưa từ ngoài vào, những đội lính tập mộ người bản xứ, những đội lính Nam triều
đều được tổ chức, huy động ném cả vào công cuộc bình định. Đến một nước phong
kiến chuyên chế như nước ta lúc đó, tên cướp bể tàn bạo lại được cả một bộ máy
tay sai vừa sợ sệt hám lợi, vừa quen dùng các thủ đoạn trung cổ giúp đỡ đắc
lực. Quân đội tha hồ cướp bóc, bắn giết, đốt phá, chém bêu đầu, đào mồ mả,
triệt hạ làng mạc, làm cỏ cả vùng. Chính quyền tha hồ thu thuế không định mức,
bắt phu không định hạn và không trả công. Những tên thực dân phiêu lưu tự do
dùng mọi cách man rợ để khủng bố, vơ vét thỏa mãn lòng tham lam tàn bạo mà bọn
tay sai tự do dở mọi ngón độc ác trổ tài khuyển mã để lấy lòng chủ. Nhân dân ta
quen sống yên tĩnh trong làng xã đóng kín của nền kinh tế tự nhiên trước đây
tuy cũng phải đi phu, nộp thuế, chịu áp bức bóc lột nặng nề, nhưng trước những
thủ đoạn của bọn thực dân Pháp và tay sai lúc đó, cũng thấy sự thống trị mà nhà
nước bảo hộ là cực kỳ khắc nghiệt.
Từ nông thôn mà nhìn, hầu như bộ máy và cách thống trị chưa có gì thay
đổi: cũng vẫn là những ông quan, ông chánh, ông lý thu thuế bắt phu như trước,
nhưng tất cả đã nằm trong một guồng máy mới, những chính sách là của một nhà
nước thạo việc trói buộc bóp nặn: cái giây cũ trong bàn tay mới xiết chặt cái
thòng lọng trong cổ người nông dân.
Trong nông thôn, nhà Nho và người nông dân vẫn còn có khác nhau nhưng
những đặc quyền của đẳng cấp Nho sĩ đã bị nhà nước bảo hộ hạn chế. Cho nên tuy
hai lực lượng đó nhìn thực tế vẫn còn có chỗ khác nhau, nhưng cả hai đều cùng ở
trong một tình thế dễ dàng nhận ra số phận chung là làm người dân mất nước. Cả
hai đều nếm trải sự thất bại, sự bất lực và đều có nhu cầu thổ lộ nỗi uất ức
của mình trong văn học.
Chịu đựng cảnh điêu đứng một cách trực tiếp va fnặng nề nhất là người
nông dân. Nông dân là lực lượng lao động sản xuất, là nguồn thu tô thuế, là
nguồn nhân công khai thác cho nên ngay từ đầu tất cả gánh nặng đổ lên đầu họ.
Ở Đà Nẵng, khi thực dân bắt đầu đào sông đắp đường, khai mỏ xây dựng hải
cảng, hai cảnh tượng đối lập đều đã xuất hiện:
Bên sông Hà thân nước xanh như tàu lá
Ngó qua bên đất Hàn, phố xá nghênh ngang.
Để tạo nên cảnh đối lập giữa quân xâm lược và người bản xứ đó, người nông
dân đã phải đo phu “đào sông Cu Nhí, đắp đường Hồng Miêu”. Bỏ làng xóm ra đi,
họ để lại cho gia đình một nỗi khổ cực đến mức không chắc vợ con có chị đựng
nổi hay phải bỏ đi lấy chồng khác.
Tình trạng khổ cực đó là của nông dân cả nước, nhưng ở hầu hết các tỉnh
phong trào Cần Vương kéo dài không lâu. Nền hòa bình với cuộc sống làm ăn bình
thường, tuy cực khổ và nhục nhã, cũng vẫn là sớm được lập lại. Nhưng ở Nghệ
TĨnh chiến tranh kéo dài hơn 20 năm (từ khởi nghĩa Trần Tấn, Đỗ Như Mai đến
Phan Đình Phùng). Quân thứ khởi nghĩa tổ chức khắp các phủ huyện mà đồn bốt
giặc cũng đặt khắp nơi. Trong tình cảnh “ba mươi sáu tỉnh thành. Lựa (cồn),
Nghệ An, Hà Tĩnh” (98)[1]
nhân dân ở đây phải chịu đựng tất cả ngón đòn mà kẻ thù tập trung để giành
thắng lợi cuối cùng.
Sống lâu dưới chế độ phong kiến, người dân cũng đã quen với chuyện gánh
vác việc vua việc nước. Dầu chói chang thì cũng phải có mặt trời nhưng mặt trời
thì không thể có hai. Thế nhưng nhân dân ở đây phải chịu đựng cảnh hai chính
phủ. Thật là lúng túng
Một vai đôi gánh
Ta biết trở vai nào (59).
Tất nhiên họ sẵn sàng ủng hộ triều đình kháng chiến trong núi nhưng họ
cũng không thể trốn tránh được nghĩa vụ đối với triều đình tay sai hợp pháp.
Thế là:
Nơi phá nơi đốt
Nơi bái hạ mất tiền
Không chi cực chi phiền
Tài chi dân chịu được (91).
Giày xéo cuộc sống của họ không phải chỉ thực dân Pháp và triều đình Huế
mà cả bọn phản động trong công giáo được thực dân xui giục. “Thằng Tây”, “thằng
tập” và “tả đạo” thi nhau chém giết đốt phá liên miên. Vì chống Pháp, những
làng trù phú bị triệt hạ. Tài sản, cây cối, lợn gà bị thiêu hủy, nhân dân cõng
già ẵm trẻ “chạy như Hán như Hà”, “trốn đằng trong không khỏi, trốn đàng ngoài
không khỏi”. Làng xã bị đốt phá, người thì về chặt nạng cắm lều, tránh mưa
nắng, người thì vào núi cao rừng rậm, người thì bỏ làng bỏ nước sang Lào sang
Xiêm.
Đốt phá dầu sao cũng là chuyện nhất thời. Cái làm cho người dân đieu
đứng, sống không yên ổn được là tình trạng loạn lạc không đi lại làm ăn được,
là cảnh sưu cao thuế nặng, là cảnh đi phu nơi “ma thiêng nước độc”, là cảnh hương
lý quan lại lợi dụng quấy rối để bòn tiền.
Ở một nước phong kiến tô thuế hiện vật và lực dịch vốn là nguồn thu chính
của nhà nước. Người nông dân xưa kia cũng vẫn bị bóc lột nặng nề về hai khoản
ấy. Tuy nhiên dưới chế độ phong kiến, việc chi tiêu của triều đình chỉ là cấp
bổng lộc cho bộ máy quan liêu, cho đội quân thường trực, cung phụng cho việc tế
tự và ăn chơi của vua chúa và quý tộc. Quan lại, số lượng không nhiều mà lương
thưởng vốn chẳng được bao nhiêu, lính tráng tuy đông nhưng cấp phát trang bị
rất thấp. Vua là quý tộc xa xỉ, nhưng với cung cách thô lỗ, tiêu tốn không phải
thật nhiều. Đối với một nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, sự bóc lột tô thuế
phong kiến là nặng, nhưng thuế bổ theo xã chủ yếu là tô công điền. Nông dân
không có bao nhiêu ruộng nên sự bóc lột tô thuế đối với họ biến thành sự bóc
lột siêu kinh tế quanh năm của đám địa chủ hào cường thao túng ruộng đất công,
chịu thuế không phải là mối lo trực tiếp. Xâu là đi phục vụ chủ yếu cho việc
hầu hạ, rước xách, đưa đón các quan quanh quẩn trong vùng. Triều đình phong
kiến không mấy lúc xây dựng những công trình như Khiêm Lăng nên cũng không cần
nhiều nhân công. Cho nên người nông dân nếu chịu nhắm mắt làm ngơ cho các nhà
chức dịch trong làng xã xà xẻo của công cho vào túi riêng và biếu xén các quan
phụ mẫu cấp trên thì hương lý, các quan phủ huyện cũng có hàng trăm cách để man
khai, để xin miễn giảm, khoan huệ, ra ơn với dân. Kho tàng đời Tự Đức trống
rỗng đến mức mua súng, đóng tàu, lập công xưởng nhỏ cũng không có tiền, nhà vua
phải ra lệnh tiết kiệm, bớt tiền hương nến cả trong nhà Thái Miếu để cho dư dật
hơn! Triều đình ngày xưa không phải không tham tàn, nhưng vốn không thạo món
“đo đất đếm người” nên không có cách gì đối phó tệ ẩn lậu của cấp dưới.
Nhà nước thực dân cần nhiều tiền, vừa phải trả lương một bộ máy quan liêu
đông hơn, bổng lộc hậu hơn, một đội quân đông hơn cấp phát và trang bị tốt hơn,
vừa phải chi phí cho việc khai thác, xây dựng, đỡ đần cho ngân quỹ chính quốc.
Thực dân lại có kinh nghiệm bóc lột, bọn tay sai có nhiều nhu cầu ăn tiêu hơn
trước, tất cả đều đổ vào sưu thuế. Bọn thực dân không dễ để cho man khai ẩn lậu
mà bọn tay sai vừa sợ sệt, hết sức mẫn cán, vừa được dung túng đục khoét tha
tàn không kiêng nể.
Thực dân tăng thuế cũ, đặt ra nhiều thứ thuế mới. Thuế điền, thuế đình,
thế chợ, thuế đò, thuế rừng núi, trnah củi… Cả một màng lưới bao vây cuộc sống
người nông dân. Một mặt thì loạn lạc chiến tranh, cày bừa, buôn bán, thuyền thợ
đều khó làm ăn, mà mặt khác thuế cứ tăng lên mãi. Cái cảnh làm ăn tự do của nền
kinh tế tự nhiên đã bị chính sách thuế khóa ngăn chặn mà hương lý cứ ra sức
thúc giục nộp cho kỳ đủ. Thuế thành một nỗi lo trực tiếp của mọi người.
Đã thuế rồi lại sưu – “đo đất rồi lại đếm ngài (người)”. Thứ đảm phụ đánh
theo đầu người này còn làm nhức nhối hơn cả thuế. Nó là một hình thức vơ vét
mới, nặng nề và đụng chạm đến tất cả mọi người “từ mười bẩy đến bẩy mươi”, cả
những người đã đi lính cho Pháp “đã bỏ xứ đi hoang” mà đến khi về nhà cũng
“chịu ba đồng hai cắc cũng y như thường”. Không những thuế, sưu, tièn công ích
tăng lên một cách nặng nề quá sức chịu đựng mà sống trong một nền kinh tế tự
cấp tự túc người nông dân có thể có sản vật nhưng tiền thì rất thiếu. Phải nộp
tất cả bằng tiền và vào một lúc đối với họ thật là nguy khốn. Hương lý thu cho
đủ cũng chẳng dễ dàng. Muốn được khen là mẫn cán, hương lý thúc giục một cách
ráo riết. Cảnh trống mõ đánh vang lừng, cảnh chửi mắng nạt nộ, đánh đập, cảnh
“phòng lính đến nhà” bắt người, xiết đồ để ép dân nộp thuế khua động cả làng
xóm.
Đã phải nộp thêm “bốn hào công ích”, người nông dân cũng đã yên tâm
“tưởng ngỡ là miễn dịch. Cho dân đỡ đôi đường”, thế nhưng lực dịch vẫn không
được miễn. Họ vẫn “lo cơm gạo ăn đường. Phu năm ngày một chuyến. Phu mười ngày
một chuyến”.
Trước đây công việc lực dịch quanh quẩn tuy có quấy rầy, làm họ mất công
ăn việc làm, nhưng không có gì đáng sợ. Đến đây người nông dân xưa nay ít ra
khỏi làng, phải đến những nơi “ma thiêng nước độc” để đào sông, đào mỏ, làm
đường. Chỉ những cảnh xa lạ đó cũng đã đủ làm họ lo sợ đủ thứ. Họ “phải trèo
núi lặn non”
Thấy những đá với gỗ
Chộ (thấy) săng lẻ với
kiền kiền
Con chim hót, vượn rên
Con hùm kêu, mang toác
(104).
Họ cũng chẳng còn lòng nào mà thưởng thức cái hùng vĩ hay kỳ lạ vì để đến
đó khối người trong họ đã “lả lắt chết đường” và bị “khái” (hổ) bồng vô rú (vào
núi) (109).
Chỉ với nỗi lo sợ đó cũng đã đủ cho họ “có vàng ăn cũng nỏ (chẳng) biết
ngon”. Nói chi đến chuyện gian truân mà họ phải chịu. Họ vốn quen ngủ ở nhà,
nay phải sống cảnh “màn trời chiếu đất”, phải “ngủ đình ngủ quán”. Bữa ăn của
họ ở nhà cũng chẳng lấy đâu ra mà sang trọng, nhưng vẫn là ăn ở nhà. Họ không
thể quen được cảnh
Uống nước chè hâm
Ăn cơm không mâm
Uống nước chè không đọi
(bát).
Ăn cơm với muối ở chỗ đi lam, không những “cơm vắt vô khăn, nước đựng ống
luồng mà đỏ” (107) mà “hàng chợ cũng nỏ có”, họ muốn ăn trầu cũng không có vôi!
Chỉ riêng chuyện xa cuộc sống quen thuộc cũng đã làm cho người phải đi phu kinh
hoàng:
Sớm mong chóng trưa
Trưa mong chóng tối
Ban mai chiều
tối
Ngong ngóng mặt
trời
Trời ơi hỡi trời
Cóc kêu không
thấu
Tối về lo nấu
Rạng ngày lo đi
Gẫm lại lúc ni
Cao trời xa
nước! (105)
Ở vào thế bị
uy hiếp, họ “ra đi thì lo” mà “ở nhà thì hãi”. Họ biết “không cương cường mô
được” mà “ở nhà cũng không ngồi yên được”. Chồng ra đi thì vợ thương, cắp nón
đi đưa bỏ củ khoai vào bị cho chồng ăn đường. Còn chồng thì “tay xách cái nón,
vai mang cái bù (bầu đựng nước)” mà đi theo đoàn.
Đoàn phu ra đi với một quang cảnh:
Ông Tây áp trước
Cậu lính áp sau
Gậy đánh thì đau
Thân phu đài ta
cũng rẻ (106).
Đó không còn
là cảnh đi làm công dịch mà là cảnh áp giải tù khổ sai. Bị áp giải đi như thế
một tháng trời mới đến nơi làm việc. Họ lại phải nhận những đòn vọt “lút đầu”
để thúc giục làm việc. Họ sống cực khổ hết chỗ nói nên khi ra về
Áo mặc lưa (còn)
giẻ
Nón đội lưa mê (khung)
Mãn hạn ra về
Lưa hai trong
con mắt.
Trong đám phu phen như vậy có cả những người già cả
Chộ phu lão mà
thương
Đi đường xa chịu
nắng
Đi đường dài say nắng (104).
Trước lúc ra đi họ đã hoảng sợ tìm cách trốn tránh. Để đối phó, bọn quan
lại, hương lý bắt người giữa bữa cày, bắt ai là đi ngay, không cho về nhà sắm
sửa và người nào trốn thì “chồng yếu bắt vợ. Con yếu cha đi”, làm cho làng xóm
náo động “tiếng khóc như ri”. Người ra đi “nghĩ đến thân tình. Nhỉ (nhỏ) hai
hàng nước mắt”, mà người ở nhà “cha đi thì con nhớ, chồng đi thì vợ thương”,
“mẹ già lòng nặng. Đêm nằm nghĩ lại thương con”.
Đúng như họ nói:
Phải một lứa phu
Tai trời, ách nước.
Đi phu đã là cực khổ mà trong tâm hồn người nông dân của làng xã đóng kín
điều đó lại càng khủng khiếp. Trước một tình cảnh đe dọa như vậy, họ chỉ có
cách đút lót cho hương lý để mong thoát nạn, “bạc nén từng trăm, chạy lứa phu
này cho khỏi” (105). Thế là người nông dân thi nhau:
Kẻ bán ruộng bán nương
Kẻ bán cột bán giường
Đưa đứa con ra cầm cố
Cởi áo quần ra mà cầm cố.
Cuộc sống của người nông dân từ bao đời đã cực khổ nay vì sưu thuế phu
phen lại càng cực khổ hơn. “Muối hai tiền một bát. Gạo một quan một nồi”. Họ
phải ăn uống kham khổ, phải giảm bớt cưới xin, tế lễ là những việc xưa nay vì
lòng hiếu thảo, vì giữ tiếng với xung quanh họ tiêu không hề tiếc tiền, là
những việc sự tằn tiện làm họ sỉ nhục.
Chỉ qua một số bài và chỉ qua ở mộ địa phương quang cảnh phá sản của
người nông dân trong buổi đầu khai thác thuộc địa cũng đã hiện ra rõ mồn một.
Một nước độc lập chuyển thành một nước nô lệ, một nền kinh tế tự nhiên đang bị
phá sản chuyển thành kinh tế hàng hóa đang tác động đến đời sống của người nông
dân và để lại trong tâm tư họ biết bao đau khổ.
Nông dân Việt Nam
đã được lịch sử chống xâm lược của dân tộc tôi luyện vốn giàu tinh thần chiến
đấu, bất khuất. Họ không chịu cảnh “cúi trốc (đầu) gãi tai cực thân”, nhưng sau
nhiều năm chiến đấu thất bại họ cũng đâm ra muốn yên thân phận. Họ tự nguyện
làm “một khúc gỗ tròn” “lăn theo bề nào cũng được”. Họ chỉ còn mỗi một ước
vọng: yên ổn làm ăn.
Trên nhà nước vững bền
Dưới vạn dân khang thái
Thế nhưng trong cảnh chiến tranh thì
Giữa đạn lạc tên rơi
Chỉ thằng dân trương bụng
Mà trong cảnh hòa bình thì khúc gỗ tròn bị lăn mãi
Lăn mãi chi không mòn
Lăn nhiều thì phải giập
Trong cảnh tai trời ách nước, họ kêu van với quan phụ mẫu:
Dân mong quan thương lại
Gọi rằng con khổ có cha
Người khổ thiết tha
Người vui sao cho đáng. (115)
Nhưng quan phụ mẫu – những tên đã đầu hàng “trực thú làm việc cho Tây” –
“từ phủ huyện đến tỉnh thần” không những đều “từ bi từ tại” trước nỗi khổ ủa
dân mà chỉ lo “giăng cột thép cho ngay” “Giục phu làm cho kíp”. Họ chỉ biết
“võng giá vinh thân” chứ không biết thương dân.
Họ nói với bọn thông ngôn ký lục, họ nói với hương lý, họ nói cả với
trưởng thôn, trưởng xóm. Nhưng cả bọn người thì “chửi cha mắng mẹ”, người thì
“không mần (làm) roi song đập truốt da”, người thì “bắt hết cuốc hết cào. Bắt
hết rạ (rựa) hết dao”, không những thế họ lại vào hùa với nhau mà bớt xén của
phu.
Ông tham, ông phủ
Lĩnh bạc cho phu
Một người năm xu
Phát hai xu rưỡi
Ngài thương dân đói
Phát cho nửa tiền
Nếu có thiếu thì biên
Biên về cho tổng lý.
Còn tổng lý thì bán ruộng công, ruộng công quân cấp của mọi người, ruộng
thần ruộng thánh tiếng là để “một nửa cho dân”, một nửa “nộp phạt” nhưng chức
chắn có một nửa vào túi họ!
Dân tình khổ lắm trời ơi.
Họ kêu nhưng nào trời có nghe:
Trông mặt trời trời xế
Trông mặt trăng trăng mờ (34).
Hộ không “cương cường” gì nữa. Họ đã chịu nhục đến mức
Thấy các quan Tây
Một: bẩm quan con không
dám
Hai: bẩm quan
con không dám.
Họ đã tự phản bội mình đến mức tuyên bố:
Ai xướng nghĩa
Cần Vương dân không biết
Ai đạo đường đạo
quán mặc ai
Tây thuyền lanh
pháo lợi mặc Tây
Dân cũng chỉ
“các cần kỳ nghiệp”.
Họ cũng không kén chọn gì nữa. Trong cảnh đau khổ cùng
cực họ kêu cứu:
Ai thương được
dân tình
Dân kêu bằng cao
tổ
Dân gọi bằng cố
tổ. (169)
Nhưng những quan Đình quan Bảng Cần Vương chống Pháp
thì đã thất bại. Người “thánh chúa” thì cũng “chưa ra”. Không ai đáp lại lời
kêu van thiết tha của họ. Họ đã cầu khẩn “bản thổ thần vì” – đã cầu hết thánh
thần trời phật nhưng trong khói lửa chiến tranh
Cổ miếu đã hóa
rồi
Thần thánh rước
lên trời
Phật tổ về Tây
Trúc (93)
Họ đã thấy hết nỗi cực khổ của tình cảnh “từ ngày
mất nước cho Tây”, từ ngày “Tây tả cầm quyền”, họ than thở “chỉ loạn mãi loạn
hoài. Tài chi dân chịu được. Dân tài chi chịu được”. Nhưng họ cũng đã không chờ
mong gì ở ai được nữa. Người dân chỉ còn lại một mình để tự lo liệu cho mình.
Nỗi thống khổ của nhân dân cũng vọng vào trong thơ
các nhà khoa bảng. Nguyễn Khuyến nói đến cảnh mất mùa đói kém, đến cảnh ăn
không no, có cúc mà không có rượu, nói đến cái nhục mang thẻ thuế thân, đến cảnh chết chóc của phu
phen làm đường, làm sông:
Rừng xanh núi đỏ
hơn ngàn dặm
Nước độc ma
thiêng mấy vạn người
(Hoài cổ. 119)
Đến cảnh dân bị lụt lội đói kém mà vẫn phải nộp sưu
thuế:
Gạo dăm ba bát
cơ còn kém
Thuế một vài
nguyên dáng vẫn đòi.
(Nước
lụt Hà Nam. 121)
Nguyễn Thượng Hiền kể chuyện người dân quê sớm mai
gánh củi ra bán rong ở phố. Cả gánh không được một đồng. Ăn rau mà không được
ngày nào cũng no. Mệt nhọc hát mà ruột vẫn xót (Cổ phong XV). Ông nói đến
cảnh loạn lạc, đến cảnh đất đỏ vẫn phải nộp thuế (Cựu đô). Ông nói đến cảnh
mưa dầm liên miên ba mươi ngày:
… U khâm bất
thiệp hà túc than
Độc bi vạn chúng
đa thai sắc
Gia hòa bất thực tang giả
vu
Duy hữu lai cáo ý phản đắc
Sơn thạch bất tri cơ
Giang ngư bất tri hàn
Sinh hàm bát thức ninh
miễn thử
Cưu nhai đề khiết thanh
thê toạn
Hu ta hồ! Thùy năng miêu
tả thượng sinh nạn, ký dữ
Vũ sự phong bá thiên
thượng khan
(Tức sự . 86)
Dịch:
…Bực mình chẳng sá thở than
Chạnh thương dân chúng cơ hàn sắc ran
Hư hỏng cả lúa lẫn màu
Vênh vang chỉ có lách lau gặp thời
Đá trên núi, đói không hay
Cá kia dưới nước rét rày chẳng lo
Chúng sinh trời phú tính cho
Biết điều đói rét dày vò khổ thân
Bế bồng luống những gào thân
Đầy đường nheo nhóc từng đoàn thảm
thay
Bút nào tả đuợc cảnh này
Gửi thân mưa gió trên trời thấu cho
Vũ Đình Liên, Lê Thước dịch.
Cách nhìn, cảm xúc, cách nói có khác nhau nhưng đó cũng là những cảnh khổ
mà người nông dân nói đến trong các bài vè.
Tất nhiên ta không tìm thấy trong thơ của Nguyễn Khuyến, Nguyễn Thượng
Hiền và của các nhà khoa bảng khác cái nhức nhối của cảnh khủng bố, đàn áp bóc
lột, không tìm thấy cái quặn đau của cảnh đói khổ, cái nóng bỏng của tình thế
không chịu đựng nổi. Nguyễn Khuyến cũng phải lo lắng vì cảnh mất mùa, lụt lội,
đói kém, nhưng đó vẫn là cảnh đói kém của người thiếu rượu, thiếu cá, chứ chưa
phải là cảnh đói kém của người có nguy cơ chết đói; đó vẫn là cái lo của người
bối rối tính toán “nửa công đứa ở, nửa thuế bò”, chứ chưa phải là cái lo của
người bán con bán cái, bán áo quần để nộp thuế. Nguyễn Thượng Hiền xúc động sâu
sắc trước cảnh nhân dân thiếu thốn, mặt mũi xanh xao, nhưng đó vẫn là sự xúc
động của người “nhàn được bữa tạnh ráo đi tìm hoa mai”. Cũng có thể Nguyễn
Khuyến còn khổ hơn như thế, Nguyễn Thượng Hiền không được ung dung đến thế,
nhưng hoàn cảnh riêng của các nhà khoa bảng cũng không cho họ có cái nếm trải
như người nông dân. Một phần vì lẽ đó, một phần vì nếp tư tưởng, vì truyền
thống nghệ thuật, họ nói đến cảnh đau khổ của nhân dân với một thái độ “huệ
dân” trên lập trường nhân đạo chủ nghĩa và bằng những hình ảnh, những suy nghĩ
khá trừu tượng sách vở. Thé nhưng sự cảm thông, sự xúc động ở đây là chân thành
và sâu sắc. Hơn thế, sự thông cảm ở đây đã khác với sự thông cảm của các nhà
Nho nhân đạo thời trước. Cách khổ của người thiếu rượu có khác với cách khổ của
người phải ăn rau, phải ăn xin nhưng trong việc thay đổi của xã hội và xáo động
cả cơ sở kinh tế, Nguyễn Khuyến đã thấy cái nhục đeo thẻ thuế thân – tuy ông
không phải đeo – đã nói đếncảnh người ta đến mua chữ. Trong chế độ thực dân nửa
phong kiến lúc đó, có thể họ không thấy cái khổ vật chất bằng nông dân nhưng
không phải là họ không thấy cái khổ tinh thần bằng nông dân. Thực dân đang hạ
uy thế, thủ tiêu địa vị của tầng lớp thân sĩ trong xã hội. Chính việc đó làm
cho các nhà khoa bảng thấy mất nước thì mình cũng là dân. Với câu: “Cùng hộ
ngao thiên vong trạch nhạn” của Phan Đình Phùng trong hình tượng chim nhạn mất
tổ tượng trưng cho dân vì loạn lạc mà xiêu tán không có Phan Đình Phùng nhưng
với câu “Huyền điểu quy lai mê cựu kính” của Nguyễn Khuyến trong hình tượng con
cộc mất chỗ đỗ đậu trên cây ven hồ cũng tượng trưng cho dân xiêu tán thì có cả
Nguyễn Khuyến. Số phận của Nho sĩ đang xích gần lại nhân dân. Về mặt cương vị
Phan Đình Phùng không có chỗ nào chung với quan lại triều đình Huế nhưng ông
vẫn nói với Hoàng Cao Khải như với một người cùng đẳng cấp, nhưng đến Nguyễn
Khuyến thì sự gần gũi về mặt đẳng cấp như thế cũng đã trở thành mong manh. Từ
sự thông cảm với nhân dân từ bên trên, từng lớp Nho sĩ đang đi đến đồng cảm như
những người cùng cảnh ngộ.
Trước cùng một cảnh ngộ, trwocs cùng một kẻ thù, hai bên còn có những
phản ứng khác nhau. Cả hai bên đều hoài cổ, đều mơ ước một tương lai thái bình.
Người nông dân mơ ước một đời “thánh chúa trị vì” mà nhà Nho cũng mơ ước một
thời thịnh trị. Tương lai được xây dựng trên hình ảnh của quá khứ và mỗi bên
đều đưa vào trong đó những quyền lợi gần gũi với mình. Nhà Nho mong mỏi một
triều đại oanh liệt như các triều đại đã chiến thắng quân Nguyên, quân Minh mà
người nông dân cũng muốn
Những loài gian ác
Thì kiếm chốn lánh mình
Những lũ hôi tanh
Thì cong đuôi biệt tích.
Nhưng thêm vào đó họ còn mơ ước “gió hòa mưa thuận”, “bách cốc nở đua”,
“bách tính âu ca”, “mọi nơi hoan lạc”
Gạo một tiền mười bát
Khoai một trự (đồng tiền)
mười nồi
…Lương đong đổ đầy kho
Muối đong đổ đầy bồ
Chỉ hai đồng một bát
…Đàn bà đều vui hát
Đi chợ được yên ngồi
Khỏi kẻ kéo người lôi
Khỏi rày trưng mai thuế. (117)
Trong thời hồng hoang mà Nguyễn Khuyến thường nhắc đến không phải không
có những cái đó nhưng không chỉ những cái đó. Tuy không phải là hoàn toàn thống
nhất nhưng cả hai bên đều thấy hiện tại không thể chịu đựng được và muốn có một
tương lai như vậy thì những kẻ cầm quyền trước mắt – chế độ thực dân – phải
được tẩy trừ. Họ có chung một thái độ chính trị.
Lòng căm thù thực dân và bọn tay sai, sự khổ nhục làm cho họ gần nhau,
đồng cảm với nhau nhưng nhà Nho tìm khuây khỏa trong chén rượu, tìm hả căm thù
trong sự chế giễu chế độ mới của kẻ thù. Cũng không phải họ có thể quên được
thực tế. Đó cũng chỉ là một cách chờ đợi. Người nông dân cũng chờ đợi – chờ đợi
một cách sốt ruột nhưng họ không được rảnh rang như vậy. Thực tế dồn ép họ bằng
đủ ngón đòn vật chất. Họ chỉ có thể chịu đựng sự uất ức một cách thầm lặng hay
hành động phản ứng lại.Trong bước đường, cũng có lúc họ đã bày cỗ mời các cụ
phụ lão lại bàn định, đã đánh mõ rao cho trai làng, đầu mục tất cả mọi người
phải sẵn sàng.
Cứ nghe ba hồi mõ côộc tre
(gốc tre)
Gậy tày cho đầy đủ
Kháp (gặp) đâu đánh đó
Cứ phép thôn dân
Côộc tre bay dần (chúng
mày dùng gốc tre mà nện)
Tội đâu dân chịu
Tội làng làng chịu.
Và họ đã làm đúng như thế. Bọn “quan Tây” xưa nay vẫn hống hách khinh
người nhưng bị đánh đau cũng biết “chông cúi” (đầu gối)
Lạy dân nhà bay (chúng
mày)
Bắt đầu bữa nay
Quan Tây không dám đến nữa
Quan lớn không còn đến nữa.
Nó kêu van dọa nạt nhưng dân không hiểu tiếng Pháp. Dân cứ làm “theo phép
thôn dân”
Ra răng thì ra (như thế
nào thì như)
Bầy choa (chúng tao) cứ
trói.
Và họ gông giải Tây lên trình quan!
Hành động của họ làm rối loạn hết cả quan Thượng, quan Sứ nhưng kết cục
là cả làng phải đền và phải phạt bốn trăm bạc về tội “ương dở”. Cả làng phải
chia nhau mà nộp phạt, nhưng cầm đồng bạc nộp phạt họ vẫn hả hê
Đồng bạc trắng rờ rợ
Đã khốn chưa cha
Nghĩ đến bầy ta
Khi đập Tây cũng sướng
Lúc đóng tiền cũng sướng. (125)
Trong hoàn cảnh uất ức, bị o ép, đánh được quan Tây nghênh ngang hống
hách, bắt được nó quỳ lạy, hứa không dám về quấy rối là một việc sướng, dù có
mất 400 đồng – một món tiền lớn lúc đó – cũng đáng cho họ hả hê. Thế nhưng cái
sướng đó quá đắt và không dễ tái diễn. Với chính sách cảnh sát mật thám và luật
lệ nghiêm khắc, thực dân trừng phạt những hành động chống đối nặng nề.
Trong bài Thất tịch ô (365) Nguyễn Khuyến nhìn những con quạ khoang bị
trọc đầu mà nói
Tha xứ khởi vô cầm
Hà nhĩ thiên thu độc
Nãi tri thu phong nghiêm
Thiên thượng lệnh điệc
khắc.
Dịch:
Ở đâu chả có chim
Sao mày riêng chịu cực
Mới biết thu khe
Lệnh trời cũng tàn khốc
Đặng Đức
Tô dịch
Tưởng chỉ có luật của thực dân mới
chặt chẽ tàn khốc! Thế nhưng dầu chặt chẽ tàn khốc thì vẫn có khe hở:
Pháp mật vị văn oa cổ cấm
Phú phiên do hạnh túy
hương khoan (298)
Dịch:
Thuế nặng làng say còn
được miễn
Lệnh nghiên trống ếch vẫ
kêu vang
Đỗ Ngọc Toại dịch
Pháp luật có thể cấm được người đánh trống nhưng không cấm được ếch kêu.
Người ta khó tìm được cái hả hê trong việc họp làng cùng nhau đánh Tây nhưng
vẫn dễ tìm được cái hả hê trong việc truyền đi những bài vè như bài vè trên,
những bài thơ như bài thơ trên. Văn chương vẫn là những thứ trống ếch ngoài
pháp luật. Vè của người nông dân và thơ trào phúng của người nhà Nho là chỗ
phát tiết nỗi uất ức trong tình hình đó.
Vè là một thứ thơ kể chuyện trước đây thường ghi lại những chuyện lạ
trong làng xóm, phản ánh những dư luận, nêu ra một công luận về những chuyện
đó. Nông dân là từng lớp đông đảo nhưng lại sống lẻ tẻ phân tán. Họ vốn sống xa
việc quan việc nước, của triều đình vua quan nên vè cũng ít nói đến chuyện
trọng đại xa xôi ấy. Nông dân tò mò thích biết chuyện ham nghe vè, những kẻ
“hiếu sự” hay đặt vè nhưng các nhà Nho nghiêm túc không thích nói những chuyện,
nhiều khi không tránh khỏi “con cà con kê”, “đôi lại đôi mách” ấy nên không
thích vè.
Đến đây lũy tre xanh đã không che kín, không bảo vệ được cuộc sống lặng
lẽ của người nông dân nữa. Họ bị xô vào cái bể khổ chung của toàn quốc, nên vè
được dùng để kể chuyện về đời sống khổ cực của nông dân cũng thành chuyện nước
chuyện dân, chuyện của mọi người. Vè tố cáo cảnh khổ cực của người dân mất nước
phổ biến, tố cáo bọn cướp nước và bọn quan lại là những người ai cũng căm ghét.
Nó phản ánh một công luận về tội ác của giặc, về nhiệm vụ cứu nước chung. Nó
trở thành một thứ văn học đấu tranh chính trị có ý nghĩa đối với cả nước chứ
không phải chỉ có tính chất địa phương lẻ tẻ của các làng xóm phân tán. Về nội
dung nó gặp thơ trào phúng của các nhà Nho là thứ văn chương mới phát triển từ
cuối thế kỷ XIX với Nguyễn Khuyến, Tú Xương, chế giễu đả kích những nhân vật,
những hiện tượng xã hội lố lăng xấu xa của chế độ thực dân nửa phong kiến. Một
mặt trong thơ trào phúng xuất hiện những bộ mặt hài hước, những lời chế giễu
không nghiêm trang trước đây chỉ có trong vè, mặt khác trong vè lúc đó lại thấy
nhiều chữ nghĩa chứng tỏ dấu vết của bàn tay Nho sĩ, bây giờ cảnh ngộ đã rất
gần với nông dân.
Sự đồng tình và đồng cảnh giữa hai từng lớp trước đây có phần xa cách làm
họ gặp nhau ở chỗ có nhu cầu chung kể lể mô tả nỗi cực khổ, cảnh trái ngược,
trong thực tế đã mở một cửa thông cho văn chương bác học và văn chương bình dân
gặp nhau trên mảnh đất tố cáo hiện thực đau khổ nhục nhã của cả dân tộc.
III. TỪ HOÀI CỔ ĐẾN DUY TÂN, NHÀ NHO LÊN ÁN VĂN CHƯƠNG CỬ TỬ, DÙNG VĂN
HỌC TUYÊN TRUYỀN CỔ ĐỘNG CỨU NƯỚC
1. Hoài cổ…
Nhà Nho cũng như nông dân đều thấy đau khổ nhục nhã bất lực. Họ không cam
chịu khuất phục, tàn lụi. Họ vẫn hy vọng, chờ đợi nhưng hy vọng ở ai? Chờ đợi
đến bao giờ? Thực tế thật bi đát. Tình thế thật bế tắc. Hiện tại và tương lai
làm lòng họ giá lạnh. Chỉ có quá khứ anh hùng của dân tộc, chiến công lừng lẫy
của cha ông còn an ủi được họ, còn đưa lại một chút hơi ấm, một tia hy vọng. Đó
là lý do xuất hiện nhiều bài thơ hoài cổ không chỉ khóc than quá khứ, mà còn
gửi gắm hy vọng vào những người hào kiệt sẽ xuất hiện cứu vớt non sông.
Thơ hoài cổ thường là bộc lộ sự đau đớn về sự đổi thay xúc cảm trước một
cảnh, một di tích có liên quan đến lịch sử. Không phải chỉ trong các bài thơ
hoài cổ mới có xúc cảm hoài cổ, và trong nhiều bài thơ của các nhà thơ khác có
nhiều xúc cảm hoài cổ. Nhiều bài thê lương vô vọng không khác gì thơ hoài cổ
của bà huyện Thanh quan hay Phạm Thấu. Nhưng khác với tâm trạng cô trung tiếc
thương một triều đại đã mất, sự đau khổ trước sự suy vong “một đi không trở
lại”. Trước cảnh mất nước người ta cũng nói đến sự hưng vong nhưng lại tìm
trong đó cái lẽ:
……………
Nhà thơ tìm trong cái hùng tráng của núi sông, trong tinh thần anh hùng
bất khuất của cha ông một tia hy vọng cho sự khôi phục.
Vào quãng năm 1902, thực dân Pháp tổ chức lễ khánh thành cầu Long Biên,
một công trình xây dựng đồ sộ nhất từ trước đến lúc đó. Chúng mời cả vua Thành
Thái ra dự lễ. Sẵn có tàu hỏa, nhiều người khắp nước cũng ra xem. Thực dân
thành công trong việc làm cầu và thành công cả trong việc phô trương sức mạnh
để uy hiếp. Trong dịp này, Phan Trọng Mưu làm bài Thăng Long thành hoài cổ được
truyền tụng rộng rãi một thời:
Thử địa phồn hoa kỷ độ
kinh
Nhất phiên hồi thủ bất
thăng tình
Ngưu hồ dĩ biến tam triều
cục
Long đỗ không dư nhất
phiến thành
Nùng lĩnh phù vân kim cổ
sắc
Nhị hà lưu thủy khấp ca
thanh
Cầm Hồ đoạt sáo nhân hà
tại
Ưng vị giang sơn tẩy bất
bình.
Cũng như trong nhiều bài thơ hoài cổ, tác giả nói đến sự đổi thay, nói
đến cảnh hoang lương của cố đô, cũng mây trôi nước khóc. Bài thơ không có một
câu tả thực nào sinh động, không có một hình tượng nào mới mẻ sâu sắc. Nó không
khác bài thơ sáo rỗng trừu tượng khác, thế nhưng bài thơ chan chứa một lòng
thương cảm, một nỗi lo lắng, một tâm trạng uất ức thúc giục người ta suy nghĩ
hành động.
Bài thơ cũng chưa nhắm kêu gọi hành động cụ thể. Cũng như Đặng Nguyên
Cấn, tác giả chỉ gợi dậy cái hùng khí “cầm Hồ đoạt sáo” để rửa giận cho giang
sơn.
Cái mới là ở thời điểm ra đời. Trước cái đòn uy hiếp về tâm lý của địch,
đây là một đòn trả lại và phản ứng ngay tức khắc gây cho người nghe một tâm
trạng hả hê. Thơ hoài cổ vốn chỉ là những lời tiếc thương dĩ vãng nhưng khi dĩ
vãng đó là quá khứ oanh liệt của cả dân tộc chứ không phải là thời huy hoàng
của một triều đại đã mất nào thì nó nối con chái với cha ông và làm sống lại
trong người chưa chết cái quật cường của người đã khuất. Nguy cơ gần hơn. Tình
thế thúc bách hơn. Lời kêu gọi đứng dậy bật thành tiếng đúng lúc. Lớp già đã
ngã xuống nhưng lớp trẻ đã trưởng thành. Một thế hệ nhà Nho mới vừa đến tuổi
tráng niên đang muốn hành động, sẵn sàng hưởng ứng lời kêu gọi.
Một bài thơ hoài cổ âm hưởng không phải không có chỗ rất thê lương đã phá
tung màn ảm đạm bao phủ văn học lúc đó.
2. …và duy tân
Trong tình trạng sôi sục của toàn quốc từ khi mất nước, Huế vẫn là nơi im
lìm nhất. Tôn Thất Thuyết tập kích Pháp thất bại, đem cả vua và quân đội bỏ
kinh thành ra đi, đã mang theo hết cả sinh khí còn sống sót của triều đình. Nhà
Nguyễn đầu hàng. Vua mới lên ngôi, các “mệ”, các “cụ lớn” lại đứng vào vị trí,
ung dung hưởng ơn trời, lộc nước và lương Tây. Cuộc sống trở lại lặng lẽ.
Tây lăng lão giám độc di
bi
Tùng vân yểm ảnh thân
vương trạch
Thủy trúc hoang lương liệt
soái từ.
Nguyễn Thượng Hiền.
Thu
hoài (80)
Dịch:
Tài nhân Nam nội trau ca
Pháp
Lão giám Tây lăng đọc bia
xưa
Vườn cũ thân vương tùng
phủ bóng
Đền xưa liệt soái trúc
hoang sơ.
Đây không phải là cái lặng lẽ của sự căm giận mà là cái lặng lẽ của sự
tàn tạ, của sự ngoan ngoãn phục tùng.
Đối với toàn quốc, Huế đã không còn ý nghĩa trung tâm chính trị, trung
tâm kinh tế, văn hóa nữa. Thế nhưng Nam triều còn thì Huế vẫn được coi
là kinh đô. Cứ ba năm sau các kỳ thi hương, các ông cử tân khoa từ các tỉnh lại
vào kinh đọc sách làm bài ở Quốc tử giám để chờ khoa thi hội. Họ mang đến đây
tâm tư của nhiều địa phương, nhiều từng lớp, nhiều lứa tuổi. Bên cạnh những ông
già vội vã lập cho xong sự nghiệp, kiếm một chút công danh, giành thêm một ít
quyền lợi nơi làng xã, thêm vài chữ vào mộc chủ thì cũng có nhiều thanh niên vì
nghiệp nhà mà phải đi học, đi thi, vì cần danh tiếng để hoạt động cứu quốc mà
bất đắc dĩ theo đòi cử nghiệp. Trong số thanh niên trí thức ấy, nhiều người mang
theo mình lòng căm thù của nhân dân những vùng kháng chiến, tâm trạng kích động
vì phong trào duy tân ở Trung Quốc, Nhật Bản mà họ được đọc qua sách báo mới.
Họ đang muốn hành động. những con người ấy làm cho Quốc tử giám, nơi tụ tập
những kẻ cầu công danh, trở thành điểm gặp gỡ bàn luận quốc sự, nơi trao đổi
các chủ trương cứu nước.
a) Lưu cầu huyết lệ tân thư
Năm 1897 một nhà yêu nước trẻ tuổi đã mấy lần mưu việc chống Pháp nhưng
thất bại, nổi tiếng hay chữ nhưng vì phạm trường quy nên không được đi thi là Phan
Bội Châu từ Nghệ an cũng lần mò vào kinh tìm nơi dạy học. Mục đích vào kinh của
Phan là tìm kiếm thêm đồng chí để hoạt động cứu nước. Việc vận động để được ra
thi lại cũng chỉ nhằm có chút danh tiếng để dễ bề hoạt động. Tài năng văn
chương của Phan Bội Châu đã giới thiệu ông với Khiếu Năng Tĩnh - Tế tửu Quốc tử
giám, Nguyễn Thượng Hiền – nhà khoa bảng trẻ tuổi nổi danh ở kinh đô và nhiều
nhân vật có thế lực, nhiều ông cử tân khoa lúc đó. Khiếu Năng Tĩnh đã vận động
cho Phan Bội Châu được ân xá để đi thi lại. Năm 1900, ông thi đậu giải nguyên ở
trường Nghệ và sau đó lại tiếp tục vào kinh lấy cớ tọa giám để hoạt động cách
mạng.
Năm 1903, Phan Bội Châu viết Lưu cầu huyết lệ tân thư mong vận
động quan trường đứng lên chống Pháp.
Tác phẩm ấy đến nay chưa tìm lại được. Trong Phan Bội Châu niên biểu, tác
giả có tóm tắt: “Cuốn sách này chia ra ba đoạn: đoạn thứ nhất nói thống thiết
về việc mất nước, mất quyền, đoán định trước những thảm họa sau này sẽ phát
sinh. Đoạn giữa nói về chính sách cứu nguy cấp, lo toan lấy sinh tồn. Cần phải:
1) mở mang dân trí, 2) chấn hưng dân khí, 3) bồi dưỡng nhân tài. Đoạn cuối cùng
là tỏ lòng mong những người tại chức và khuyến khích họ làm sự nghiệp bất hủ”
(PBCNB, trang 38).
Đây là một văn kiện chính trị, một thứ chính cương cứu nước nhằm thực
hiện những chủ trương mà Phan đã bàn với các đồng chí ở Nghệ Tĩnh năm 1900. Ở
đây ta không bàn nhiều về chủ trương chính trị của Phan Bội Châu lúc đó. Chỉ
cần nói rằng con đường cứu vong của Phan chưa có gì thật mới mẻ. Phương thức
nội ứng của quan trường cũng là phương thức cũ.
Về mặt văn học ta không còn tác phẩm nên không thể đánh giá. Tuy vậy đây
là một tác phẩm văn học đầu tiên làm nhiệm vụ tuyền truyền cổ động cách mạng,
không phải là hịch, là biểu, là điều trần, là thư cho người cầm quyền như trong
văn học trước đó. Nó là một thứ truyền đơn, là lời hiệu triệu của một cá nhân,
không có danh nghĩa gì khác ngoài cá nhân mình kêu gọi cả một từng lớp. Kết quả
của nó không có gì: giới quan trường sợ sệt lảng tránh, nhưng như Phan nói,
“nhằm con nai mà lại bắt được hổ”.
Huyết lệ tân thư không dựng nổi cái thây ma là giới quan trường nhưng lại
làm cho những người trẻ tuổi chán ghét thêm mùi thối rữa của thây ma mà tập hợp
theo hướng khác. Những chí sĩ như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý
Cáp, Ngũ Lang, Ấu Triệu đều nhờ đọc tác phẩm đó mà quen biết mà trở thành đồng
chí của Phan Bội Châu.
Huyết lệ tân thư chưa phải là tác phẩm in để truỳen bá như thơ ca Đông
kinh nghĩa thục sau này, nhưng vì nội dung yêu nước và vì nghệ thuật văn chương
nó được sao chép truyền cho nhau xem, gửi về các địa phương có tác dụng cổ động
và tổ chức cách mạng rất rộng rãi.
“Thú lưu cầu khơi mối đồng tâm, khắp Yên Triệu kết phường đồ cẩu” (Huỳnh
Thúc Kháng. Văn tế Phan Bội Châu)
Về mặt tập hợp “dư đảng Cần Vương và nhữgn người tráng kiện trong sơn lâm
để bạo động” thì đó là cố gắng cuối cùng và không có hiệu quả. Nhưng về mặt tập
hợp những người muốn khai dân trí, chấn dân khí, theo con đường duy tân thì đây
lại là thí nghiệm đầu tiên. Khuyên quan trường cứu nước, mong họ dựa vào dân,
tác giả đang đặt hy vọng vào một từng lớp trên nhỏ bé. Lời kêu gọi cứu nước của
ông không vọng vào được quan trường mà lại vọng vào dân. Tác dụng tập hợp về
mặt từng lớp xã hội khá hẹp, nhưng về mặt địa phương thì lại rộng rãi quá sự
mong ước.
Lưu cầu huyết lệ tân thư về nội dung đánh dấu bước chuyển từ
phong trào chống Pháp cũ sang phong trào chống Pháp mới, mà về mặt văn học, căn
cứ vào hình thức viết, truyền bá, cũng đánh dấu bước chuyển sang một giai đoạn
văn học khác của văn học yêu nước.
b) Bài phú Lương ngọc danh sơn và bài thơ Chí thành thông thánh
Việc triều đình đầu hàng làm tay sai cho Pháp chống lại phong trào yêu
nước của nhân dân đã bắt buộc người dân tự lo liệu và tự thấy mình là chủ đất
nước. Việc tiếp xúc với kinh tế và văn hóa phương Tây, việc du nhập tân thư làm
cho tư tưởng cứu nước dần dần theo hướng dân chủ tư sản. Sự đổi thay tư tưởng
như thế bắt đầu ở từng lớp Nho sĩ lớp trên sống gần các thành phố lớn truyền bá
theo quan hệ bè bạn và còn nặng tính chất địa phương. Ở Nam Ngãi lúc bấy giờ có
ba nhà yêu nước trẻ tuổi đậu đại khoa và là bạn thân với nhau: Phan Chu Trinh,
Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp. Cả ba đều đã ở Huế và quen biết Phan Bội Châu,
Nguyễn Thượng Hiền.
Mùa thu năm 1904, Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp vừa đậu tiến sĩ, Phan
Chu Trinh vừa cáo quan về nhà, Phan Bội Châu nhân dịp đó cũng vào Quảng Nam gặp
bạn và cũng bàn việc cứu nước. Đầu năm 1905, Phan Chu Trinh rủ Trần Quý Cáp và
huỳnh Thúc Kháng đi du lịch miền nam xem xét tình hình và cổ động phong trào
yêu nước. Đến Bình Định thì vừa gặp kỳ tiểu thí, hạch toàn tỉnh để chọn thí
sinh đi thi hương. Ba ông đội lốt một thí sinh giả Đào Mộng Giác (anh họ Đào
tỉnh mộng) vào dự hạch. Đầu đề trong cuộc hạch về thơ là “Chí thành thông
thánh”, về phú là “Cầu lương ngọc tất danh sơn”. Đầu đề sặc mùi đạo học, cử tử,
hoàn toàn xa lạ với tình hình thực tế của đất nước. Phan Châu Trinh làm thơ,
Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp chung nhau làm bài phú. Trong cả hai bài ba
ông không đả động gì đến nội dung của đầu đề mà chỉ nhằm khích lệ tư tưởng yêu
nước, bài xích lối học khoa cử, kêu gọi quan trường và sĩ tử bỏ lối học, lối
thi đó để làm nhiệm vụ cứu nước.
Nhằm mục đích vạch cho quan trường và sĩ tử thấy việc học hành thi cử như
vậy đối với nước ta là việc lỗi thời, tác giả bài phu đã so sánh với tình hình
các nước châu Á, nói đến các nhà “chí sĩ”, các “bậc anh hùng” Trung Quốc, Nhật
Bản đang sôi sục vận động duy tân. Trong lúc cả nước nhân dân đang khốn khổ vì
cảnh sưu thuế, đang bị bóc lột vơ vét “hết mỡ hết nạc chỉ còn lại xương với
da”, trong lúc quan lại “được ta coi như thần” thì bị Pháp “đối xử như súc
vật”. chúng muốn để, muốn bỏ tùy ý:
Dân đã nín
hơi, quan cũng uốn gối [2]
Cả nước đang khốn khổ nhục nhằn thì quan trường với sĩ tử vẫn nhởn nhơ
“cả năm lêu lổng, đau ngứa không hay”, vẫn làm cái việc vô vị vô ích:
Đại cổ tiểu cổ cả ngày
miệt mài
Ngũ ngôn thất ngôn cùng
năm gạn gục
Phí hết thì giờ vào chỗ “bút cùn đèn tối, để tâm hồn mê mẩn trong cõi dở
sống dở chết”. Nhà đang cháy mà tổ én trên rường vẫn ríu rít không biết nguy
hiểm. Tác giả trách mắng giận giữ:
Người đều biết xấu hổ
Ta sao không thẹn thò?
Các nước châu Á khác biết xấu hổ, biết hối ngộ, thấy nguy cơ, đã duy tân
tự cường, còn mình thì chỉ đua nhau làm nô lệ:
Lừ đừ như lũ con sen, mắng
sao chịu vậy
Lẩn thẩn như phường lính
lệ, mặt dạn mày dày.
Khoa cử không chỉ là việc làm lỗi thời mà còn là nguyên nhân dẫn tới cảnh
mất nước, còn là cái cản trở cho công việc cứu nước. Tác giả kể lại quá khứ
oanh liệt của dân tộc, đến lịch sử lâu dài, đến sự nghiệp bảo vệ độc lập, mở
rộng biên cương, và nói với một tấm lòng đầy tự hào:
Mạnh thay nước Việt. Ai dám coi thường?
Thế mà ngày nay cả nước khổ nhục như vậy chỉ là vì “tục chuộng văn chương
– sĩ đua khoa mục”. Tác giả thống thiết lên án lối học cử tử làm hỏng con người,
làm hại đất nước.
Đó là một thứ văn chương máy móc gọt rũa từng câu từng chữ, đó là một lối
học không cần thực tế, không cần chân lý.
Văn sách đánh hơi chủ khảo, Thuấn
Chích theo khen theo chê
Từ phú nhá đờm người Tàu, biền lệ
gieo tứ gieo lục.
Lối học nô lệ, bẩn thỉu như thế chỉ có thể đào tạo ra những người nô lệ,
bẩn thỉu, chỉ lo cho thân mình, lo cho nhà mình, biến người đi học thành
Lũ công danh lố nhố, chợ Tề trừng trộ
cướp vàng
Phường lợi lộc lau nhau, sân Sở lom
khom dâng ngọc.
Chính sách giáo dục sai lầm như vậy làm cho nhân tâm của ta xưa kia vốn
thuần phác, sĩ khí của ta xưa kia vốn quật cường, nay bỗng thành ra ươn hèn vô
dụng, “đưa nhau xuống mấy nghìn tầng âm ty địa ngục”. Với một chính sách giáo
dục như vậy thì “binh lấy đâu cho mạnh? Của lùng đâu cho giàu? Dân trí lấy đâu
cho mở mang? Nhân tài lấy đâu cho có?”
Chính sách giáo dục, chế độ khoa cử là nguyên nhân gây ra thảm họa đất
nước và không có dân trí, không có nhân tài, không có thực lực thì cũng không
lấy gì mà khôi phục đất nước.
Bài thơ Chí thành thông thánh cũng có những nội dung như bài phú. Phan
Chu Trinh nói cái cảnh
Vạn dân nô lệ cường quyền
hạ
Bát cổ ca ngâm tuý mộng
trung
Dịch:
Muôn dân nô lệ một đàn
Văn chương bánt cổ nồng
nàn giấc say.
Và kết thúc bài thơ bằng một lời kêu gọi:
Thí hướng tư văn thính
nhất thông.
Dịch:
Các anh tâm huyết nào
không
Bài này hãy thử xem cùng
đầu đuôi
Phan Võ dịch
Sau khi vạch rõ cái khổ của cả nước, cái nhục của quan trường, sĩ tử, ba
ông đã vạch ra tình thế và con đường trước mắt. Tình thế đã rất nguy cấp, “nhà
cháy” lửa sém lông mày, lo toan gì cũng đã chậm, “cầu an cũng không được mãi”.
Chi có cách quyết tâm và hy sinh.
Còn chút hơi tàn thì đập ấm đắm
thuyền còn đầy hứa hẹn
Vui gì sống sót, dẫu nát gan lầy óc
cũng cứ quang vinh.
Ba ông kêu gọi “trên từ quan lại, dưới đến thư sinh”, mọi người phải biết
“đau lòng xót dạ, theo nghĩa bỏ danh”, vứt bỏ khoa cử để đi làm nhiệm vụ cứu
nước. Kết thúc bài văn, “người dự thi” bộc bạch những lời tâm huyết về nỗi đau
xót dằn vặt và quyết tâm vĩnh biệt quá khứ của mình. Lời văn tràn đầy nước mắt.
Cảnh đoạt tuyệt với quá khứ mang hình ảnh “Kinh Kha trên sông Dịch” một đi
không trở về.
Bài văn của anh họ Đào Tỉnh Mộng làm nhiều người không còn ngủ được nữa.
Đấy là một lời kêu gọi thống thiết: vùng dậy cứu nước, hy sinh để cứu nước.
Tác giả vẫn hình dung trong xã hội có quan – sĩ và dân, nhưng không tính
toán quan lấy tư cách là kẻ cầm quyền có trách nhiệm, dựa vào dân để tiến hành
cải cách từ bên trên xuống. Tác giả kêu gọi:
Trên từ quan lại – dưới
đến thư sinh
Quẳng bút đứng dậy. Treo
mũ đi lanh.
Tuy không nói là đi với dân, nhưng quan hay sĩ phải vứt bỏ chỗ đứng của
mình để gia nhập vào khối chung nhân dân cả nước. Bài văn cũng chưa nói sẽ làm
gì nhưng là phải hành động – hành động quyết liệt, gấp rút chứ không phải là
chuẩn bị lâu dài.
Tư tưởng dân chủ, tư tưởng du tân đã rõ hơn và đang từ tưởng đi đến hành
động. Nội dung chủ yếu của bài văn và là cái mới trong đó là sự quyết tuyệt với
lối học khoa cử. Đây không phải là lời kêu gọi “xếp bút nghiên của trai thời
loạn” mà là một sự phê phán về tư tưởng, về học thuật để xóa bỏ hẳn cả lối học,
lối thi đó.
Bài văn vẫn viết theo thể phú nhưng yêu càu cổ động tuyên truyền chi phối
ngời viết rõ rệt: thực tế có tính chất thời sự, thay thế cho điển tích sách vở,
những chuyện dễ hiểu, dễ kích động tình cảm thay cho lối văn họa mỹ khoa
trương.
Lợi dụng dịp tập trung đông đảo sĩ tử cả tỉnh, ba ông đã làm một việc như
tuyền truyền xung phong rải truyền đơn để giải tán trường thi. Hai bài Lương
ngọc danh sơn và Chí thành thông thánh gây tác động
rất mạnh đến mức quan lại phải truy nã Đào Mộng Giác. Nó được truyền tụng, phổ
biến rất nhanh từ Bình Định ra các tỉnh Trung Bộ, Bắc Bộ. Nguyễn Thượng Hiền
lúc đó đang làm đốc học Nam Định đọc bài phú của Đào Mộng Giác xúc động ghi lại
cảm tưởng trong một bài thơ Độc danh sơn phú thư hậu. Không biết
bao nhiêu lần sau đó ông đã tự đốt thi tập của mình.
Phan Bội Châu đậu giải nguyên xấu hổ vì việc mình phải làm chàng Nam
Quách: “thổi sáo lẫn lộn giữa số ba trăm người”. Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc
Kháng vừa đậu đại khoa đã lên án khoa cử. Nguyễn Thượng Hiền, ông Hoàng giáp
nổi tiếng hay thơ đốt thi tập. Cách mạng từ thời kỳ giác ngộ tư tưởng mới đang
bước vào thời kỳ tổ chức, hành động. Văn cử tử bị chính những người tiêu biểu
nhất của nó lên án khai tử. Văn học phải được cách tân để làm nhiệm vụ mới.
c) Bài ca Á tế á
Gây được ảnh hưởng rộng rãi không những trong các đám Nho sĩ mà cả trong
nhân dân đông đải là bài ca Á tế á – cũng gọi là Đề tỉnh
quốc dân ca.
Tuy chưa ai xác minh được tên tác giả nhưng tác giả rõ ràng là nhân vật
loại mới:
Thân xiêu bạt đã thành vô
lại
Bấy nhiêu năm Thượng Hải
HoànhTân
Chinh Nga đương lúc hoàn
quân
Xót mình bô bá theo chân
khải hoàn.
Đây là một người lưu vong ở nước
ngoài, đã đi khắp Thượng Hải Hoành Tân là những nơi đối với mọi người trong
nước lúc đó đang rất xa lạ. Tác giả đã từng dự trận Nhật đánh Nga thắng lợi trở
về, không biết với cương vị nào nhưng “chinh Nga” lúc bấy giờ là một sự kiện
long trời chuyển đất. Mục đích viết bài ca cũng là chuyện mới. Tác giả kêu gọi
toàn dân cứu nước nhưng không phải lấy danh nghĩa cựu thần của triều đình hay
kẻ sĩ có trách nhiệm. Bài ca chỉ để lại điều mắt thấy tai nghe ở nước ngoài,
thấy cảnh cường thịnh của nước khác mà nghĩ đến nỗi tủi nhục mất nước, nỗi tủi
nhục và cảnh hèn kém của nước mình, mong muốn nước nhà tiến kịp người.
Trời Nam mù mịt ngàn
dâu!
Gió thu như thổi dạ sầu
năm canh
Biết bao nỗi bất bình khôn
giải
Mượn bút hoa mà gửi quốc
âm
Thân tàn bao quản cát lầm
Khuyên ai đúc chữ đồng tâm
sau này.
Về nội dung bài ca đã đưa ra nhiều vấn đề mới so với tư tưởng trước đó.
Tác giả hiểu vấn đề Pháp xâm lược nước ta một cách rộng rãi hơn trước, nhìn
tình hình trong nước ở những cạnh khía khác trước, theo quan điểm khác trước và
chỉ ra phương hướng cứu nước cũng có khuynh hướng rõ ràng hơn trước.
Trước đây các nhà Nho cũng như triều đình Huế quan niệm Pháp xâm lược
Việt Nam
là một nước mạnh đi đánh một nước yếu. Mục đích của việc xâm lược là bắt nộp
bồi thường chiến phí, đòi thông thương, truyền giáo và chiếm đất. Đến đây tác
giả không bó hẹp việc xâm lược đó trong quan hệ chỉ giữa hai nước mà nhìn rộng
ra cả thời đại, cả thế giới, chỉ ra khung cảnh chung: châu Âu tìm đất, tìm thị
trường, chiếm thuộc địa ở châu Á. Không phải chỉ Pháp đi xâm lược; Anh, Đức,
Nga cũng đều làm như thế. Không phải chỉ Việt Nam mất nước. Chi - na, Triều Tiên,
Cao Miên, Miến Điện, Ai Lao, Ấn Độ cũng đều rơi vào tình cảnh như thế. Châu Á
đang đứng trước một nguy cơ ghê gớm
Thịt một miếng trăm đao
xâu xé
Chiếc kim âu chẳng mẻ cũng
khôn lành
Tôi con Pháp, tớ thầy Anh
Nín hơi đại Đức, nép mình
cường Nga.
Từ nhận thức đó mà tác giả không bàn vấn đề ở góc độ chống xâm lược ở
từng nước mà ở góc độ châu Á thoát nạn xâm lăng của châu Âu, giống với chống
lại giống trắng: các nước châu Âu hùng cường văn minh, châu á muốn thoát khỏi
cảnh mất nước, diệt chủng phải đi theo châu Âu, phải duy tân mới tự cường được.
“Nhật hoàng Minh Trị” là đấng “anh quân ai bì” là vì đã lãnh đạo Nhật Bản “đứng
đầu phất trước” lá cờ của “phương Đông”, đã “nổi hiệu duy tân”. Nhìn tình hình
theo lập trường màu da, chủng tộc, tác giả coi Nhật không những là nước đồng
văn mà còn là đội tiên phong đi đầu giải phóng chung cho cả châu Á khỏi ách áp
bức của châu Âu, coi mọi việc làm của Nhật Bản đều chính nghĩa, coi những nước
đối lập với Nhật Bản đều là thù địch. Mỗi một thắng lợi của sự nghiệp duy tân,
mỗi một thắng lợi về quân sự, ngoại giao của Nhật Bản đều được tác giả kể lại
với một giọng hào hứng nưh là thắng lợi của chính mình. Tác giả khuếch đại, ca
tụng Nhật Bản là “anh hùng”, là “ái quốc”, là “nghĩa khí”, thậm chí ca tụng cả
việc Nhật Bản xâm lược Triều Tiên, Mãn Châu giành quyền lợi đế quốc chủ nghĩa
với Nga, cả việc xâm lược Trung Quốc. Tác giả kể một cách say mê:
Năm Giáp Ngọ đùng đùng
sóng gió
Vượt quân sang thẳng trỏ
Đài Loan
Quân Lục Úc, tướng Đại San
Ra tay cho biết cái gan
anh hùng
Đông tam tỉnh đã thu trong
tay áo
Bọn trắng đa ngơ ngác giật
mình.
Tác giả hào hứng bao nhiêu khi nói
đến cảnh hưng thịnh của Nhật Bản thì lại càng chua xót bấy nhiêu khi nói
đến cảnh tối tăm của nước nhà
Tác giả nói đến nỗi khổ của người dân phải nộp thuế đến “xơ xác khốn cùng
chưa thôi”, nỗi khổ phải đi phu
Lại nghe nói Lào Cai Yên
Bái
Mấy muôn người xẻ núi đào
sông
Độc thay lam chướng ngàn
trùng
Khe sâu quẳng xác anh hùng
chất xương.
Trong 18 câu song thất lục bát liên tiếp, tác giả kể ra đến 38 thứ thuế,
phần lớn là thuế do thực dân Pháp mới đặt ra. Thuế đánh vào tất cả mọi tầng
lớp. Thuế đánh vào tất cả các nghề nghiệp, vào tất cả mọi phương tiện làm ăn,
mọi vật dụng sinh sống. Thuế đánh vào hạng người chức sắc là hạng người xưa nay
được kính trọng, thuế đánh vào “phấn son phương phố”, vào “con hát đàn” là
những ngừoi đã phải chịu nhục làm nghề xấu xa. Thuế là mối đe dọa đến tất cả
mọi người. Thuế đánh vào cồn bãi, chùa chiền. Thuế đánh vào cả chó lợn chim cá.
Quân thù tham lam vơ vét, vơ vét “thượng vàng hạ cám”, vơ vét một cách bẩn
thỉu, đến đi xia mà cũng phải đánh thuế. Khác với các bài dân ca khi tố cáo
cảnh thuế cao sưu nặng người ta chỉ kể được thuế ruộng, thuế thân, thuế chợ,
thuế đò, thuế muối, thuế tranh củi là những thứ thuế liên quan trực tiếp đến
đời sống nhân dân ở nông thôn. Ở đây tác giả nói nhiều đến thứ thuế ở thành
thị: thuế gián thu, thuế môn bài, thuế kinh doanh, thuế đánh vào người buôn bán
và sống ở thành phố. Dân thành phố cũng chẳng sung sướng gì, cũng chẳng phải
được Tây cưng chiều gì. Cảnh “cha con tủi nhục vợ chồng lìa tan” là cảnh chung
của cả nước.
Dưới ngòi bút của tác giả, ta thấy cả một dân tộc rộng lớn, thống nhất cả
nông thôn, cả thành thị “khắp trong lưỡng kỳ” đang bị bóc lột tàn nhẫn. Bộ mặt
của kẻ thù là hung ác, dơ bẩn và đó là kẻ thù của cả mọi người.
Tác giả cũng nói đến cái nhục mất nước nhưng không nói theo quan điểm
phong kiến thành cái nhục quốc thể của vua quan triều đình, không nói đến việc
vua phải chạy vạy long đong, phải đi đày là những điều còn làm xúc động mọi
người lúc đó. Tác giả nói đến cảnh
Non sông thẹn với nước nhà
Vua là tượng gỗ
dân là thân trâu.
Khi nói đến “vòng trói buộc”, tác giả đã chú ý đến
quyền làm chủ về chính trị và kinh tế, đến cảnh đối xử bất bình đẳng của kẻ
thù. Thực dân nắm hết mọi khâu quan trọng về kinh tế, mọi chức vụ quan rọng
trong chính quyền: việc dây thép, việc tầu, việc pháo, việc luyện binh, việc
giáo dục, việc kỹ nghệ, việc nông thương, việc khai mỏ, việc giao thông, còn
dân ta thì
Kẻ chức bồi
người tước cu ly
Cao sang nhất
cũng chỉ là nông thôn
(Ký
lục và lính tập I)
Cái nhìn của tác giả về thực tế đất nước rộng rãi bao quát hơn và với lập
trường người dân – người dân ở thành thị, hay hiểu biết thành thị, chứ không
còn ở tầm hẹp hòi như người nông dân và người nho sĩ trước nữa.
Nhìn vấn đề trong khung cảnh thế giới, nhìn thực trạng khổ nhục, mất chủ
quyền của đất nước, nhìn âm mưu nguy hiểm của các nước châu Âu, tác giả đau xót
lo lắng
Họa diệt chủng bề thương
bề sợ
Nòi giống ta biết có còn
không
Từ trước trong thơ và vè người ta nói đến cái khổ, cái nhục là nói đến
cái khổ cái nhục của từng người, của làng xóm, của từng lớp. Khi nói đến cái
khổ cái nhục chung là nói cái khổ cái nhục của nước của dân. Chưa ai nghĩ đến
cái thảm họa diệt chủng, chưa ai đặt ra vấn đề kinh khủng: liệu nòi giống Việt Nam rồi còn
tiếp tục tồn tại hay bị tuyệt diệt?
Trước cái thảm họa nòi giống bị tuyệt diệt, đe dọa cả mọi người thì thái
độ
Nghĩ lắm lúc bầm gan tím
ruột
Vạch trời kêu mà tuốt gươm
ra.
Không chỉ là một việc nghĩa nữa. Đây là hành động tự vệ tự cứu, không thể
tính toán đắn đo gì nữa.
Tác giả để hơn nửa bài kể tỉ mỉ công cuộc duy tân ở Nhật Bản. Kể cả lịch
sử, địa lý, kẻ cả công việc tổ chức lại đất nước, xây dựng công nghiệp, xây
dựng quân đội. Tác giả kể các công việc quan trọng và kết quả rực rỡ của sự
nghiệp duy tân, muốn nêu một tấm gương cụ thể hy vọng nước ta đi theo
Nhật Bản là bạn
Pháp là thù
Bạn không phải
học, thù sâu phải đền.
Tác giả chưa nói nhiều về kế hoạch cứu nước và duy
tân cụ thể, “bây giờ kể còn dài chưa hết”, nhưng hướng đi là
Gương Nhật Bản
đất Á Đông
Giòng tạ tú phải
soi chung kẻo lầm
Và để đi theo tấm gương Nhật Bản, việc trước tiên là
Việc tân học kíp
đem dựng trước
Hợp doanh đoàn
cả nước cùng nhau
Việc buôn ta lấy
làm đầu
Mọi nghề cùng
với địa cầu một vai
Đây là một sự nghiệp cải cách văn hóa, kinh tế xã
hội tự cường theo con đường ta bản chủ nghĩa của các nước châu Âu. Nó cũng nhằm
mục tiêu giải phóng dân tộc, làm cho nước nhà độc lập văn minh, kịp người,
nhưng không phải bằng biện pháp bạo động đánh đuổi giặc Pháp khôi phục nước nhà
– với cả ngôi vua như các nhà yêu nước lúc đó quan niệm, ngay cả Phan Bội Châu
lúc đó cũng đang quan niệm như thế. Con đường cứu vong của tác giả nhấn mạnh
vào duy tân tư sản hóa cho nên đối với những thay đổi của đất nước từ khi Pháp
sang, tác giả nhìn thấy có những nét tích cực:
Từ nước Pháp đem
tâm bảo hộ
Mở trí khôn mới
độ một và
Và kết quả cuối cùng sẽ là
Việc học thức
dân đà mở rộng
Thầy Lang sa rồi
cũng nể nang
Có khi đặt chữ
bằng hàng
Thay dân nô lệ
bằng phường văn minh
Tác giả rất căm thù chính sách cai trị của thực dân
đã uất ức “vạch trời cao mà tuốt gươm ra”, nhưng không phải kêu gọi bạo động. Chủ
trương cứu vong của tác giả mới hơn nhiều so với sự suy nghĩ của các nhà yêu
nước lớp trước mà khả năng thực hiện nó thì tác giả đem hết sức ra thuyết phục.
Trước hết là lòng tin vào dân tộc
Nước ta vốn
không phải là nước hèn kém
Than ôi! Bách Việt giang
sơn
Thông minh đã sẵn, không
ngoan có thừa
Vì nhằm vào mục đích duy tân, tác giả không nói đến quá khứ anh hùng mà
nói khả năng hiện tại của nòi giống: thông minh, không ngoan. “Dẫu ngày nay có
gặp buổi truân chiên”, “dã man quen thói ngu hèn” thì đó cũng như là tình hình
Nhật Bản trước khi duy tân mà thôi. Và ngay cả nước Thái Tây, ngày nay cường
thịnh văn minh nưh Anh, Pháp, Đức trướ khi cũng đã từng hèn kém khó khăn, đến
được cảnh thịnh vượng ngày nay chẳng qua cũng là “cùng cực tắc thông” mà thôi. Nước
ta ngày nay dẫu đang nhục nhã, nguy khốn, hèn yếu nhưng không phải không có cơ
sở để hy vọng trở nên hùng cường. Pháp mạnh thực nhưng là cô thế, dân ta tuy
yếu nhưng đông. Nếu đồng tâm nhất đức – đoàn kết – thì cái triển vọng
Dựng cờ độc lập tự cường
Đem đoàn nô lệ làm phường
văn minh
Và rồi đây giữa các nước trên thế giới “Việt Nam đứng lại phương đong có mình”
không phải là vô hy vọng.
Tác giả đã có cái nhìn sâu hơn, rộng hơn, biết nhiều điều mà vốn trí thức
của các nhà Nho lớp trước không thể cung cấp. Có thể đó là do sự từng trải như
truyền thuyết vẫn cho tác giả bài ca là Tăng Bạt Hổ, một người đã vì việc cứu
nước mà bôn ba ở Trung Quốc, ở Nga, ở Xiêm, ở Nhật. Nhưng cũng có thể cho rằng
sự thông hiểu thế giới như vậy là do ảnh hưởng của những quyển tân thư như Doanh
hoàn chí lược, Thái Tây sử, lúc bấy giờ đã được
nhiều nhà Nho đọc một cách say mê.
Trong tình hình phong trào yêu nước đang gặp bế tắc về đường lối, bài ca
đã chỉ ra một con đường vừa mới, vừa có sức thuyết phục, giải đáp được sự lo âu
của cả một thế hệ đang sốt ruột muốn hành động.
Toàn bài toát lên một tinh thần yêu nước thiết tha, một nỗi đau xót căm
thù đối với tình cảnh mất nước, lạc hậu, tăm tối, một tâm trạng sốt ruột muốn
hành động, một lòng tự hào và tin tưởng ở thắng lợi. Bài ca lại được viết bằng
văn nôm. Lời thơ song thất lục bát viết rất vững vàng, kể chuyện đạo tình đều
rất đạt. Lời lẽ ngắn gọn, rõ ràng, trau chuốt, có cái súc tích hoa mỹ của văn
chương bác học mà lại dễ hiểu, giàu tình cảm, dễ đi vào quần chúng.
Bài ca được truyền tụng, phổ biến nhanh chóng, đánh dấu sự thắng lợi rực
rỡ của việc dùng văn nôm làm công cụ tuyên truyền cổ động cách mạng.
Ba bài Lưu cầu huyết lệ tân thư, Lương ngọc danh sơn và Bài
ca Á tế á là ba bài văn cổ động cách mạng, cách này hay cách khác liên
tiếp gây ra những ảnh hưởng dây chuyền to lớn suốt từ Bắc chí Nam. Ba bài ra
đời ở ba địa phương khác nhau, tiêu biểu cho phong trào chính trị lúc đó: Hà
Nội, Nghệ Tĩnh, Nam Ngãi. Cả ba bài phản ánh một quá trình thay đổi của tư
tưởng nhà Nho, của khuynh hướng cách mạng, của khuynh hướng văn học. Sự gần gũi
giữa tư tưởng ba bài ấy chứng tỏ một xu hướng chung đang kích thích sự suy nghĩ
của cả thế giới sĩ phu và nhân dân Trung Bắc.
Ba bài đều nói đến cái nhục mất nước, cái khổ của dân mất nước đều kêu gọi
duy tân. Quan niệm người dân và vị trí người dân, quan niệm duy tân và mức độ
tư sản hóa, cách kết hợp khác nhau giữa hai nhiệm vụ duy tân và cứu nước, nói
lên mức độ khác nhau của một khuynh hướng chung của phong trào cách mạng. Dầu
có khác nhau và càng ngày xu hướng duy tân càng mạnh hơn, ba bài phản ánh một
xu thế sẵn sàng vứt bỏ cái cũ đi theo cái mới. Người Nho sĩ đã tự phủ định,
không bám lấy chế độ cux, học thuật cũ, tư tưởng cũ nữa.
Hai bài viết bằng chữ Hán, một bài viết bằng chữ Nôm nhưng cả ba đều biểu
hiện một xu hướng chung: dùng văn chương để tuyên truyền cổ động cách mạng. Văn
học đã mất tính chất “cao quý”, tính chất đóng kín. Nó phải làm nhiệm vụ thực
tế, nó phải có công chúng. Sự thay đổi quan niệm văn học đó làm cho văn chữ Hán
cũng như văn chữ Nôm được cách tân để có sức tuyên truyền cổ động để có sức đi
vào quần chúng.
Không những phong trào cách mạng từ các địa phương lẻ tẻ đang có xu hướng
thống nhất trong phạm vi toàn quốc mà văn học cả về nội dung cả về nghệ thuật,
do điều kiện truyền bá mới, cũng đi đến thống nhất trong phạm vi toàn quốc.
So với thơ văn yêu nước trước đó là thơ văn bộc bạch tâm sự của con người
trung nghĩa, huệ dân, thì đây là văn chương của nhân dân cứu nước, mà so với
văn chương yêu nước sau đó là văn chương của các tổ chức chính trị theo xu
hướng khác nhau gắn chặt với chủ trương, tổ chức nhất định, thì đây là những
bài văn cổ động cách mạng có tính chất cá nhân lẻ tẻ, tự phát. Đằng sau những
bài văn ấy, ta thấy hình thành những chủ trương cách mạng, tập hợp những lực
lượng cách mạng, liên kết các nhóm cách mạng, các địa phương cách mạng, thai
nghén những tổ chức cách mạng.
Đây là thời kỳ chuyển tiếp, nhen nhóm phong trào cách mạng mà cũng là
thời kỳ chuyển tiếp xuất hiện văn học cách mạng.
IV. NGUYỄN THƯỢNG HIỀN GIỮA HAI THẾ HỆ NHÀ NHO, GIỮA HAI GIAI ĐOẠN VĂN
HỌC
1. Nguyễn Thượng Hiền, con
người và nhà thơ có vị trí đặc biệt
Trước cảnh đổi thay lớn lao của đất nước từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế
kỷ XX ít ai có hoàn cảnh, ở vào vị trí để thấy nhiều, biết nhiều, nếm trải
nhiều như Nguyễn Thượng Hiền. Và cũng ít ai có tài năng văn học để ghi lại xúc
cảm của mình, nếm trải của mình trung thực, đầy đủ như Nguyễn Thượng Hiền. Ông
viết từ khi kinh thành chưa thất thủ cho đến khi phong trào yêu nước do Phan
Bội Châu lãnh đạo đã tàn cuộc để lại cho đời sau tâm tư của một nhà Nho yêu
nước trong nhiều hoàn cảnh, nhiều địa điểm. Tập thơ tuy đến nay đã mất mát
nhiều, phần thì do ông tự đốt đi, phần thì do sinh hoạt bất hợp pháp của ông
làm cho nó thất tán, nhưng phần còn lại cũng mở ra trước mắt chúng ta như cả
một quyển nhật ký.
Nguyễn Thượng Hiền sinh ra trong một gia đình khoa hoạn lớp trên. Cha là
Nguyễn Thượng Phiên, đậu hoàng giáp, làm quan đến Tham tri bộ Công, được cử làm
phó sứ đi cầu viện nhà Thanh. Khi ông trở về thì vua Tự Đức đã chết, nước đã
mất.
Cuối đời Tự Đức, triều đình chia ra hai phe chủ chiến và chủ hòa mâu
thuẫn gay gắt, Nguyễn Thượng Hiền vừa là rể Tôn Thất Thuyết, chủ não phái chủ
chiến, vừa là bạn Nguyễn Lộ Trạch, người đã hai lần dâng thư đòi cải cách và là
rể Trần Tiễn Thành, chủ não phái chủ hòa.
Bản Thân ông năm 17 tuổi đã đỗ Đình Nguyên, đang chờ xướng bảng thì kinh
đô thất thủ, gia đình ông ở Huế đã chứng kiến tận mắt bao cảnh Pháp đánh kinh
thành, vua bỏ chạy, triều đình tan tác và cả thời cuộc sau khi Đồng Khánh lên
ngôi và đầu hàng. Sau khi Huế thất thủ, phong trào Cần Vương sôi nổi bùng lên
khắp nước. Gia đình ông lúc đó đã chạy về Na Sơn (Thanh Hóa). Văn thân Thanh
Hóa muốn mời Nguyễn Thượng Phiên làm quân sư cho phong trào Cần Vương nhưng ông
từ chói. Gia đình Nguyễn Thượng Hiền lại dời về quê ở Ứng Hòa – Hà Đông. Ông
nhận lời làm đốc học Hà Nội. Nguyễn Thượng Hiền đã sống ở Hà Nội một thời gian,
đi lại với các danh sĩ ở Thăng Long, chứng kiến hết sự đổi thay ở đó cả về phía
phong trào yêu nước, cả về phía bọn phản bội hoạnh phát. Năm 1889 Nguyễn Thượng
Phiên vào Huế làm quan. Nguyễn Thượng Hiền lại vào Huế, ông đi thi, lần này ông
đậu Hoàng giáp và mới 25 tuổi. Ở Huế, ông Hoàng giáp trẻ tuổi có cơ hội liên hệ
với nhiều từng lớp, không những các quan lại mà cả các danh sĩ ẩn dật như Trà
Quý Bình, Nguyễn Lộ Trạch, Nguyễn Khoa Luận và cả những nhà nho yêu nước trẻ
tuổi như Phan Bội Châu, Đặng Nguyên Cẩn, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng… nữa.
Ông đậu cao, nổi tiếng, nhưng lại còn trẻ, sớm dự vào loại được chú ý, phải có
trách nhiệm nhưng lại chưa đến tuổi được giao trách nhiệm để hành động trung
nhĩa nưh Phan Đình Phùng, mà cũng chưa đến tuổi được thoái thác trách nhiệm như
Nguyễn Khuyến. Ông ở vào vị trí được mọi bên tranh thủ, lôi kéo mà tự mình chưa
bị ràng buộc lắm nên phải tự do cân nhắc xử sự. Cả hai mươi năm từ khi ông đậu
Đình Nguyên (mà không được công nhận) cho đến khi xuất dương là hai mươi năm
ông bị giằng xé dằn vặt. Kết thúc cuộc đấu tranh dai dẳng ấy là việc ông bỏ
nước ra đi, tìm đường cứu nước và về văn học là trở thành một cây bút tuyên
truyền cách mạng chủ yếu bên cạnh Phan Bội Châu.
2. Nguyễn Thượng Hiền nếm
trải cuộc sống của một nhà Nho
Nguyễn Thượng Hiền là người thông minh, tài năng phát triển sớm, tâm hồn
phong phú đa dạng. Sống trong một hoàn cảnh rối ren phức tạp, ông lại là người
giàu tình cảm, sống sâu sắc, tinh tế, cho nên không bao giờ được có tâm trạng
yên ổn.
Thơ ca của ông thuộc loại trữ tình bộc bạch tâm sự. Nhiều bài cảm hoài,
ngôn chí, tức sự… của ông họp lại cho ta một tấm gương phản ánh tâm trạng của
một nhà Nho giữa hai thời đại.
a) Người trung nghĩa
Ở vào hoàn cảnh gia đình, học vấn như ông, trước cảnh nước nhà tan tác
loạn ly, ông đã xúc động rất mạnh và phản ứng theo tâm trạng kích động của một
người trung nghĩa. Ngay khi kinh thành thất thủ, gia đình ở trong đám người
chạy loạn, ông đã tận mắt thấy cảnh
Phi tinh tẩu hỏa loạn như
vị
Thiên môn nhất dạ đông nam
băng
Tình kỳ lạc lạc ủy nhai lộ
Lộ bàng chiến cột, ô tranh
tụ
Hương giang nhật tà thủy
thao thao
Huyết tinh huân nhân bất
khả độ
Dịch:
Đạn bắn như sao bay tán
loạn
Một hôm nghe vỡ cửa Đông Nam
Cờ quạt rải rác bỏ khắp
đường
Bên đường xương chất quạ
bâu đặc
Dông Hương bóng xế nước ùn
ùn
Mùi máu xông người không
qua được.
Triều đình khi thua trận, khi mặt trời lặn, tiếng kèn tây thổi vang cung
khuyết. Bụi vàng bốc mù, lầu long môn bị phủ mờ. Ông để cho ông già trên sông
Hương than thở:
Châu xa bảo cái bất túc
tuất
Khả tích Cao Hoàgn chưởng
trung vật
Đồng ca, lão nhượng bất
thập niên
Thùy tử an tri hữu kim
nhật
(Hương giang lão nhân từ 43)[3]
Dịch:
Xe ngọc tàn vàng có kể chi
Của quý Cao Hoàng đáng
tiếc thay
Thái bình ca hát tám mươi
tuổi
Gần chết ngờ đâu có ngày
ngay
(Bản dịch của Lê Thước – Vũ Đình
Liên)
Cảnh đất nước đổi chủ, cảnh vua và triều đình bỏ kinh đô chạy, cảnh quân
giặc đóng đồn khắp nước, cảnh ruộng vườn hoang tàn, mọc đầy gai góc làm ông căm
giận. Thời cuộc biến chuyển ngày càng xấu:
Hán sứ đông phi vạn lý sà
(Văn đạo)
Vua Chu cưỡi xe tám ngựa ruổi sang tây
Sứ Hán chèo bè muôn dặm đi qua đông.
Vua phải đi đày. Tôn Thất Thuyết đi cầu viện mất hút tin tức, nhưng kẻ
muốn Cần Vương phục quốc quẩn quanh không làm nên công trạng gì… và đay đớn hơn
là bản thân mình đã thề nguyền, dã ôm ấp bao nhiêu mộng ước “phù vạc Hán”, “trả
thù Hàn”, “bôn Ngô”, “tồn Triệu” mà cuối cùng chẳng làm được gì, không phải
không có quyết tâm, nhưng cơ hội cứ trôi qua.
Dịch thủy ca chung hoán
nại hà
(Cảm hoài 49)
Dịch:
Hát xong bài ca Dịch thủy biết tính làm sao.
Là một nhà Nho chân chính, ông sẵn sàng hành động trung nghĩa nhưng lại
cũng không thể tự quyết định mà phải chờ đợi ở kẻ khác (lệnh vua, ý cha, sự sai
phải của người trên) và bản thân, thực tế cứ bị động đi ngược nguyện vọng theo
gia đình chạy loạn hoài từ Huế ra đến Thanh Hóa, rồi lại từ Thanh Hóa ra Hà
Đông. Ông gửi gắm nhiều hy vọng ở đội quân triều đình của Tôn Thất Thuyết, Tôn
Thất Đạm, nhưng tin tức cứ vắng tanh. Khi được thư từ Cam Lộ a, ông phấn chấn
hẳn lên
Tám ngựa giong cương ruổi
ngút trời
Phong trần thư hạc báo xa
xôi
Tấm lòng hăng hái chưa
tiêu hết
Trong núi mang gươm dựa
đỉnh đài
(Đắc Cam Lộ lại thư hỷ phú, 57)
Khí phách anh hùng “làm trai vì nước quyết thề. Rồi đây phá được nhục chi
mới về” (Tòng quân hành I) được lúc sống lại. Nhưng những phút chiến đấu
như vậy không nhiều. Ông cứ phải sống trong cảnh phấp phỏng chờ đợi, tìm thỏa
mãn tâm trạng trung nghĩa trong mộng ảo. Ông tự hình dung mình đã từ giã cung
vua nhẹ nhàng, dứt khoát, không bịn rịn, đi ra ngoài một chiến địa tưởng tượng.
Trăng mờ, sương nặng. Bụi bốc mù. Thảo nguyên một màu. Ông tưởng tượng cảnh cầm
quân đánh giặc, ngồi trên tuyết bàn việc quân, bí mật lách đường cướp trước Âm
sơn “ban đêm kéo quân ra Thanh hải” mùa thu bày trận trên Hắc sơn… Cảnh chiến
trường
Doanh môn động khí gươm
đao
Tiếng cung bên ngựa ào ào
vượt mau
(Tòng quân trang I, 11)
Có khi còn mộng ảo hơn, ông tưởng tượng làm người hiệp khách:
Gươm báo đêm khuya ra khỏi
nắp
Tung nhà bay lấy đầu quân
thù
… Đuổi gió ruổi mây trong
nháy mắt
Áo giáp như non tìm thấy
đâu.
Gặp thời loạn, muốn làm anh hùng, muốn trung nghĩa, nhưng ông không sống
trong một phong trào nhân dân tự nổi dậy cứu nước như ở Nghệ Tĩnh, bản tính ông
cũng không phải ngang tàn tự nhiệm tự mình tập hợp thí sinh quân chống Pháp như
Phan Bội Châu. Ông là người trung nghĩa đúng kiểu nhà Nho thuần túy, không chủ
động được. Sự chờ đợi làm cho ông bất lực, xấu hổ, đau xót.
Từ khi rơi vào tay giặc, tình cảm nước nhà càng ngày càng ảm đạm.
Hoan Ái thiên dinh nhất tiệm
sơ
Long xà biến hóa dãi hà
như
Thu cao đại thụ tam biên
lạc
Nguyệt hắc đề quyen vạn
lĩnh hư
Sóc phương thủy lão một hà
cừ
(Thu hoài II)
Dịch:
Hoan Ái nghìn doanh lúc
một thưa
Rắn rồng biến hóa đợi bao
giờ
Cây cao ba phía màu thu
đậm
Quyên gọi nghìn non bóng
nguyệt ờ
Sóng bể Nam ngăn đường
tiến công
Lụt sông Bắc ngập nước
tung bờ.
Cái buồn thấm sâu vào tâm hồn. Trên bước đường đi lại nhiều lần từ Huế ra
Hà Nội, những tiếng vượn tiếng cuốc luôn luôn khêu gợi nỗi sầu thảm mất nước và
tiếng kèn đồng của nhạc binh Pháp được nhắc đi nhắclại nhoềi lần trong nhiều
bài thơ. Ở một thời đại trong quân đội ta chỉcó tiếng trống, tiếng chiêng,
tiếng mõ, tiếng tù và, thì tiếng kèn đồng của quân đội chiếm đóng gây ra cảm
giác man rợ nhức nhối.
Tráng khí tiêu ma, lòng trung nghĩa thổ lộ thành những tiếng thở dài,
những tiếng khóc than. Ông than với người xưa, cảnh xưa trong nhiều bài thưo
hoài cổ, dằn vặt mình trướ những tấm gương trung nhĩa và đổ nhiều nước mắt thực
sự giữa bạn bè. Ông muốn ngoảnh mặt để khỏi phải nhìn, muốn quên thực tế.
Tương phùng mạc khuyết
Khai nguyên sự
(Tặng Nguyễn Kỳ Am, 74)
Dịch:
Gặp đừng kẻ chuyện Khai
nguyên nhé
Mối hận vườn nam ngọn gió
thu.
b) Người ẩn dật
Con đường dẫn ông đến tư tưởng trung nghĩa cũng là con đường dẫn ông đến
tư tưởng ẩn dật: không bảo vệ cương thường cứu vua giúp nước được bừng hành
động thực tế thì giữ lấy nhân cách, giữ lấy tiết tháo. Trong lúc nước nhà gặp
tai nạn, trong đám nhà Nho, biết bao người bỏ trốn, mở cửa thành hàng giặc, quỳ
lạy hèn hạ vì sợ chết, vì sợ mất danh lợi nhục nhã. Nước nhà như cây gỗ lớn gặp
bão đổ.
Dư hoa do mãn chi
Hương phấn ủy kinh cúc
Dịch
Hoa còn chi chít trên chồi
Nhị thơm vung vãi tơi bời
lùm gai.
Thế mà một bọn cũng là khoa bảng hẳn hoi đã không đoái hoài đến cây sống
chết lại còn bâu đến hút nhị, hút nhựa. Chúng chỉ biết kiếm lợi riêng, chỉ biết
chiếm chỗ để gây thế lực riêng, vênh vang đắc chí. Tất cả làm ông kinh tởm:
Tùng bách tự cô trực
Yên năng dữ trăm gian
(Quy na biệt thự 89)
Dịch:
Chênh vênh thằng tuột bách
tùng
Với hàng lau cỏ đứng cùng
được sao
Nguyễn Thượng Hiền không phải là người ôm sẵn túi kinh luân chờ vua biết
đến, không phải là người làm xong sự nghiệp công thành danh toại, về nghỉ ngơi,
đi ẩn dật một cách thanh thản ung dung. Nguyễn Thượng Hiền cũng không phải là
người vì phản kháng triều đình đổ nát, vua hèn quan xấu, mà lánh mình giữ lấy
thanh cao, ẩn dật một cách tự hào. Nguyễn Thượng Hiền vì mất nước mà phải chạy
loạn, vì chạy loạn mà phải ẩn dật, luôn luôn xấu hổ vì chưa làm tròn nhiệm vụ,
luôn luôn sốt ruột vì muốn ra lo việc đời, tâm sự trung nghĩa canh cánh bên
lòng. Cái đưa ông đến ẩn dật là lòng trung nghĩa không chịu hợp tác với kẻ thù,
là lòng trong sạch không muốn sống chung với bọn hèn hạ, tránh không muốn để
cái nhơ nhuốc dây bẩn đến mình. Ông tìm cách lặng lẽ vắng vẻ làm dịu nỗi đau
đớn. Ông tìm khuây khỏa mà có điều kiện thuận lợi để khuây khỏa.
Ông có biệt thự ở Na Sơn “ở phía tây nam Hạc thành có hòn núi đẹp cao tột
trời, ngôi nhà của tôi ở tại đó, cây cối rậm rạp, có thể làm nơi nghỉ ngơi để
xem văn của túc hạ (Nguyễn Lộ Trạch) và tập luyện điều huyền ảo của tôi thì dầu
không bổ ích lắm, chắc cũng đủ làm cho tôi khoan khoái mừng vui” (Thư gửi
Nguyễn Lộ Trạch).
Ở Thanh Hóa, ở Hà Đông, Nguyễn Thượng Hiền tuy là ẩn dật nhưng vẫn sống
cuộc đời phong lưu, không phải lo cái ăn cái mặc, lo hạn, lo lụt, lo giá gạo
lên xuống… như Nguyễn Khuyến. Ông có thể “thời du Mai tự cương. Thả phiếm liên
họa loan” (Quy Na Sơn biệt thự, 95), có thể tìm hoa, có thể uống rượu, có
thể đi chơi thung thăng trên núi, dưới khe, hoặc có thể yên hưởng sự lặng lẽ
một cách thần tiên:
Triêu khai tùng hạ song
Mộ ý hoa gian phi
(Hoan sơn, 67)
…Mộng tùy hoa dị tỉnh
Ngâm hướng nguyệt câu tân
Chỉ điểm tiều tiên kính
Yên hà mãn tứ lân
(Hoan sơn, 50)
Dịch:
Sáng mở mắt cửa dưới tùng
Tối dựa giàn hoa trông
(Hoàn sơn, 67)
Giấc mộng hoa tươi tỉnh
Thơ ngâm nguyệt não nùng
Tiên tiều tìm lối cũ
Bốn mặt khói mây lồng.
(Hoàn sơn, 50)
Có khi lại còn hào hoa hơn:
Đào hoa đạp biến thôn nam
bắc
Bát kiến phi tiên không
phục hồi
(Tự liên khê ty loan
quy Long thành khâu chiến, 10)
Dịch:
Thôn đào tạo khắp nam và
bắc
Chẳng thấy tiên bay luống
hỏi dò.
Trong hoàn cảnh thiên nhiên, tự do và nhàn rỗi như vậy, con người “làm
khách lo trời lại làm người lánh đời” tha hồ sống bằng tưởng tượng và mộng ảo.
c) Giằng xé giữa tư tưởng trung
nghĩa của Nho gia và tư tưởng huyền ảo của Đạo gia
Nguyễn Thượng Hiền là người
chịu ảnh hưởng tư tưởng Phật gia, Đạo gia khá sớm. Trong thư gửi cho Nguyễn Lộ
Trạch, ông viết: “…Phật là bạn quen của tôi”, “trước cửa thì xe ngựa ồn ào,
trong nhà thì vợ con bận bịu mà hằng ngày vẫ tụng Hoàng đình kinh”, “tôi tự
biết mình không thể làm cho túc hạ cởi được điều lo ấy, cũng như túc hạ không
thể làm cho tôi bỏ điều huyền ảo. Thôi thì chúng ta cứ phó mặc cho tự nhiên
thôi”. Khuynh hướng về Đạo giáo, Phật giáo cũng là nét chung của nhiều nhà Nho.
Nguyễn Thượng Hiền cũng ẩn dật, nhưng không muốn làm Đào Tiềm như Nguyễn
Khuyến. Ông có học “đám mây ung dung bay về núi” thì cũng là vì chưa làm đượ
“trận mưa rào cứu hạn cho dân”. Ông muốn làm Trương Lương theo Hoàng Thạch Công
học Tố thư để báo ơn năm đời chung đỉnh và Trương Lương cũng dẫn ông đến Đạo
giáo. Cuộc sống nhàn nhã trên núi cao, vết tích của Hoàng my tiên sinh đèu giúp
cho ông thoát ly, mơ mộng, tìm hòa mình vào thiên nhiên.
Hiểu khởi văn hoanh hoán
Xuân nhàn tọa thảo đường
Tình hà cách thủy đạm
Mai liễu nhập song hương
Bạch nhân thôi nhân sự
Thanh sơn khuyến khách
trường
Dạ lai hương quốc mộng
Thiên mẫu tận canh tang.
Dịch:
Sáng mai dậy nghe chim
oanh hót
Xuân lạnh ngồi trong nhà
tranh
Cách dòng sông Ngần hà ánh
nhạt
Cào cửa sổ, mai liễu đưa
mùi thơm
Mặt trời giục lo việc
người đời
Non xanh khuyên khách uống
rượu
Đêm mộng thấy làng nước
Nghìn mẫu đều cấy lúa trồng dâu
Ở đây chỉ có cái cửa sổ của thảo đường là con phân cách ông với thiên
nhiên. Bao nhiêu chim chóc, cây cối, núi non, mây, mặt trời đều gắn bó lôi kéo,
chi phối sinh hoạt. Con người hòa làm một với thiên nhiên. Ngay đến làng nước
“xa xa ngàn mẫu trồng đầy lúa dâu” cũng chỉ hiện lên trong giấc mộng.
Trước thiên nhiên, Nguyễn Thượng Hiền không chỉ là người chiêm ngưỡng
lặng lẽ. Trong cái thiên nhiên lặng lẽ khách quan, Nguyễn Thượng Hiền tìm thấy
một cuộc sống khác mà bản thân ông tìm cách tham dự vào:
Minh nguyệt vi vi ánh khê
vận
Ngã tâm hốt dữ thu không
viễn
Tây lai bạch hạc đông nam
phi
Nhất khúc giao sinh dĩ
vong phản
(Hoàn sơn, 67)
Dịch:
Bóng nguyệt lờ mờ làm nước
ánh
Nỗi lòng bát ngát cảnh thu
trong
Đông nam cánh hạc từ tây
lại
Nhịp sáo xa nghe đã thẳng
bong.
Đó không chỉ là lòng yêu thiên nhiên mà còn là cách cảm thụ thiên nhiên
kiểu Đạo gia. Trong thiên nhiên Nguyễn Thượng Hiền không có khuynh hướng tìm
cái đẹp tinh tế trong những vật gần gũi bình thường mà có khuynh hướng tìm cái
đẹp ở những cái to, rộng, cao xa. Con hạc, tiếng sáo thành ra vật nửa mộng nửa
thực, nửa là cuộc sống trần gian, nơi nhà thơ đang đứng, nửa là cuộc sống tiên
cảnh, nơi hồn nhà thơ bay lên cao ngất (câu 6).
Đã có biết bao nhà Nho ẩn dật và có biết bao nhiêu người ẩn dật nói đến
thien nhiên nhưng không phải ai cũng cảm thụ được cái đẹp thiên nhiên, ai cũng
nói được lòng yêu thiên nhiên chân thực. Ở Nguyễn Thượng Hiền ta bắt gặp cái
chân thực, cái tự nhiên. Ông không khiên cưỡng làm ra thanh cao, giả dối phô
bày cảnh ẩn dật. Ông yêu thiên nhiên một cách say đắm và ngòi bút tinh diệu của
ông truyền cho ta cái đẹp lung linh của thiên nhiên, làm cho ta thấy ông sống
lửng lơ giữa thực và mộng. Cho nên khi ông nói
Mộng lý liên hoa phù bích
hải
Nhã trung hạc ảnh hạ thanh
điền
(Tống văn phong đạo nhân bắc dụ, 88)
Hay
Ngã dục Bồng lai lãm
phương quế
(Cửu nhân đạo trung, 65)
Dịch:
Trong giấc mộng thấy hoa
sen nổi trên bể biếc
Trước con mắt, bóng hạc sà
xuống ruộng xanh.
Hay
Ta muốn tới Bồng Lai vin
cây quế thơm
Thì ta cũng thấy đó là tự
nhiên chân thật.
Cốt cách huyền ảo của ông làm ông
hòa được vào thien nhiên, nhưng thiên nhiên cũng không làm dịu được nỗi đau xót
không giữ mãi được ông. Thực tế mất nước quá lớn, vết thương quá sâu. Ông bị
giằng xé giữa con người Nho gia và con người thoát tục của Đạo gia. Ông có muốn
lên cung trăng, có muốn tìm phi tien, có muốn bay theo bông sen, cánh hạc thì
cũng không dứt được sầu.
d) Sự nếm trải nhiều làm cho Nguyễn Thượng Hiền trở thành tiêu biểu
Bản tính giàu tình cảm, khả năng tưởng tượng cao, sự lịch lãm, sự uyên
bác làm cho ông sống rất nhạy. Ông đã nếm trải một cách sâu sắc tâm hồn người
trung nghĩa, người ẩn dật, người hào hoa, nhà Nho, đạo sĩ… nghĩa là tất cả
những mẫu người trong xã hội trước đây người trí thức có thể trải qua.
Nếu như trong phong trào chống Pháp từ Nguyễn Tri Phương, Tôn Thất
Thuyết, Phan Đình Phùng đến Nguyễn Thiện Thuật, các ông Đề, ông Đốc đã vận dụng
hết mọi phương thức đấu tranh võ trang từ sử dụng quân đội và danh nghĩa của
triều đình đến tụ tập nông dân lên núi kháng chiến mà cuối cùng vẫn thất bại
không cứu được cục diện mất nước thì về mặt đời sống tinh thần, Nguyễn Thượng
Hiền cũng đã làm một thứ tổng thể nghiệm tấ cả các phương thức sống, nếm trải
hết các kinh nghiệm sống của một nhà Nho có thể có và cuối cùng cũng không tìm
được sự yên ổn cho tâm hồn.
Nguyễn Thượng Hiền sống rất day dứt nhưng lại không phải là người phải
vật lộn với cuộc sống thực, cụ thể như Nguyễn Khuyến hay nói đúng hơn, ông cũng
bị cuộc sống thực dồn bóp, o ép nhưng là trong một vấn đề chung hơn, gần với
đạo nghĩa hơn: làm quan hay không. Ông có thể soi mình vào gương xưa và sống
mộng ảo. Vì thế trong thơ Nguyễn Thượng Hiền thường nói đến thực té mất nước,
đến tâm trạng đau xót rất chân thành, nhưng hình tượng lại trừu tượng, điển
tích sách vở, ít có cái cụ thể, chi tiết sinh động của thực tế. Thế nhưng ông
vì sống trừu tượng nên lại trăn trở quanh đúng vấn đề lớn của thời đại và sự
chân thành ủa ông vẫn làm ta xúc động.
Nguyễn Thượng Hiền là địa diện cho thế hệ nhà Nho từ khi mất nước cho đến
khi duy tân. Nhưng không phải hoàn cảnh của ông cũng là hoàn cảnh của các nhà
Nho khác. Ngược lại, hoàn cảnh của ông là đặc biệt, ít giống ai khác. Thế nhưng
vì có hoàn cảnh đặc biệt được nếm trải nhiều, thơ ông phản ánh tổng số những
nếm trải của các nhà Nho lúc đó. Quá trình phát triển của ông phản ánh tình
trạng chung của các nàh Nho lúc đó, phản ánh quy luật của nhà Nho lúc đó.
Những người trung nghĩa Cần Vương đấu tranh anh dũng và hy sinh, những
người ẩn sĩ lui về sống tàn tạ và biến mất, nhưng Nguyễn Thượng Hiền còn trẻ.
Năm 1900 ông mới có 33 tuổi. Ông cứ phải sống, cứ phải đi lại. Thực tế khách
quan vốn mạnh hơn ý muốn con người. Ông không muốn sống với của quý, ông muốn
làm tiên, nhưng cái trần tục quý hóa trong ông – nỗi lòng băn khoăn của con
người yêu nước yêu dân, tinh thần trách nhiệm – không cho ông sống với tiên.
Ông day dứt “không quên được thương sinh”, không quên được cuộc sống. Cái không
quên được cuộc sống đó làm cho ông không chết. Đó là chỗ từ cây sồi già trơ
trụi đến khi gặp chính mùa xuân lại đâm chồi nẩy lộc xum xuê. Ông trở thành
người “vừa bạn vừa thầy” “đồng ưu đồng hoạn” (Phan Bội Châu. Văn
tế Nguyễn Thượng Hiền) – người tuy cùng tuổi nhưng lại thuộc thế hệ nhà
Nho trẻ hơn và ông trở thành cái cầu nối giữa hai thế hệ nhà Nho, giữa hai giai
đoạn văn học.
3. Từ thơ tâm sự đến văn
chương kêu gọi cứu nước và duy tân
Tuổi trẻ là một yếu tố quan trọng làm cho Nguyễn Thượng Hiền tiến them
một bước nữa trong vận mệnh nhà Nho ở VIệt Nam. Nhưng cũng không phải chỉ có
tuổi trẻ. Vị trí xã hội và học vấn cũng có vai trò rất quan trọng. Ở một giai
đoạn lịch sử mà những việc to lớn của quốc gia chỉ có thể chờ đợi ở những người
đậu đạt, có danh vọng trong xã hội như ông, mà tư tưởng mới của thời đại cũng
chỉ có thể gieo vào nhữgn người có học vấn như ông, phải do những người như ông
đề xướng mới có tác dụng, Nguyễn Thượng Hiền là con người mà lịch sử cần đến để
thực hiện những bước chuyển biến. Phan Bội Châu từ Nghệ An lặn lội tìm ông mà
Tăng Bạt Hổ từ nước ngoài về cũng lặn lội tìm ông.
Tân thư làm cho ông phục sinh, đưa ông ra khỏi ảo giác tiên cảnh, ra khỏi
cảnh khóc than, đưa ông vào cuộc đời hoạt động tích cực cứu nước. Điều quan
trọng là tư tưởng mới cũng đã biến đổi cả bản thân ông và sáng tác văn học của
ông. Ông trở thành xông xáo hơn, chịu được ồn ào hơn, có thể ngồi bốc thuốc ở
một hiệu thuốc bắc ở Hà Nội, có thể lợi dụng tu tiên để làm văn cổ động cách
mạng, có thể xông xáo đi đến gia đình học trò vận động xuất dương và cuối cùng
bản thân bỏ nhà, bỏ nước ra nước ngoài lo việc phục quốc.
Về mặt văn học ông đã xúc động mạnh khi được đọc bài phú Lương
ngọc danh sơn đả kích khoa cử và văn cử tử, ông đã dùng tiếng Việt để
viết văn cổ động duy tân, dùng tục ngữ, thành ngữ viết bài Phú cải lương, dùng lục bát
viết Hợp
đoàn doanh sinh thuyết. Và cuối cùng trở thành chỗ dựa cho Đông Kinh
nghĩa thục, thành một cây bút già dặn của văn học cách mạng lưu vong.
Việc ông đốt thi cảo có một ý nghĩa tượng trưng rất thú vị.
Một người “ham thơ”, một bậc thầy về thơ đốt thi tập, hối hận chỉ vì “ham
danh” mà để cho viẹc “kỹ xảo chạm sâu” làm hại cả đời. Không những đối với bản
thân, điều đó có ý nghĩa đoạn tuyệt với quá khứ, mà đối với cả lịch sử văn học
nó có ý nghĩa cách mạng, khai tử một thứ văn học đã tồn tại hàng mấy thế kỷ.
Đốt thi cảo, viết Phú cải lương và Hợp đoàn doanh sinh thuyết, Nguyễn
Thượng Hiền đã thực hiện bước quá độ giữa hai giai đoạn văn học. Để một nhà Nho
vào cỡ ông, vào loại ông kêu gọi duy tân tư sản hóa, lịch sử đã chọn được một
hình ảnh tượng trưng cực kỳ tiêu biểu cho một xã hội phương Đông bước vào quỹ
đạo của thế giới hiện đại.
Trường lộ dương tiên xuất
quốc môn
Mang mang đại hải giới càn
khôn
Hữu sinh chung tuyết sơn
hà sĩ
Vị tử nan vong quân phụ ân
Dịch:
Dặm thẳng vung roi thẳng
bước rong
Bao la trời đất, bể mênh
mông
Con thân, sông núi thề đều
có
Chưa chết vua cha dám phụ
lòng.
Nguyễn Thượng Hiền đã đi vào con đường chống Pháp cứu nước với một hùng
tâm tráng trí ít ai bì kịp. Sự hy sinh cá nhân của ông khó khăn hơn nhiều người
khác. Nhà Nho trung nghĩa trong ông cho phép ông vượt nhiều thử thách. “Thẹn
của núi sông” và “ơn của vua cha” thành động lực mạnh mẽ cổ vũ ông từ chức,
dũng cảm đến gặp toàn quyền phản đối việc bỏ vua Thành Thái, dũng cảm bỏ nhà ra
đi… Nó thắng cả tư tưởng cải cách hợp pháp, mặc dầu ông về tư tưởng dễ gần nhóm
nhà Nho yêu nước ở Đông Kinh nghĩa thục hơn là những nhà bạo động thiết huyết.
Thế nhưng cũng là người trung nghĩa trong ông làm cho ông vướng víu khi đi vào
sự nghiệp cứu nước theo đường lối mới. Tâm sự “cô thần”, giấc mộng “Trương
Lương báo Hàn” làm cho ông đi sang tư tưởng dân chủ một cách khó khăn, có lúc
đã thành điều lo ngại cho cả Phan Bội Châu (xem Phan Bội Châu niên biểu,
Tr. 141). Lòng yêu nước chân chính, sự trung thành với bè bạn đồng chí, sự giác
ngộ về trách nhiệm đoàn kết đã làm ông dẹp được tư tưởng riêng. Thế nhưng trong
thơ văn, là chỗ ông chỉ có thể chân thật với mình, con người của ông vẫn theo
quy luật của một nhà Nho từ hành đạo đến ẩn dật, thích sự huyền ảo cuối cùng là
đi tu. Ông lại quay về mảnh đất quen thộc của ông: thơ bảo vệ cương thường, bộc
bạch tâm sự và cái thê lương của sự bế tắc không rời bỏ ông. Những bài văn ông
viết để cổ động cứu nước đề tài rất giống Phan Bội Châu, kỹ thuật rất vững chắc
nhưng trong văn ông đau xót căm thù có nhiều nhưng vẫn thiếu cái hừng hực chiến
đấu của Phan Bội Châu. Ông không bao giờ lên án vua quan một cách căm giận như
Phan Bội Châu mà cũng không luôn luôn xét mình để lột xác dứt khoát, để tiến
lên nữa với tình thế, với thời đại như Phan Bội Châu. Ông vượt qua được sang
giai đoạn mới nhưng không đủ sinh lực của nhâ ndân cách mạng để đối mới luôn
theo sự tiến bộ của phong trào như Phan Bội Châu nữa.
Nguyễn Thượng Hiền là dấu nối giữa hai giai đoạn chứ không tiêu biểu cho
giai đoạn sau. Nhưng bên cạnh Phan Bội Châu cả ở giai đoạn trước và giai đoạn
sau, Nguyễn Thượng Hiền là một nét bổ sung, thiếu nét đó, ta không thấy thật
đúng thực tế lịch sử.
*
* *
Cho mãi đến hàng chục năm đầu thế
kỷ XX, trong xã hội Việt Nam ác nhà Nho vẫn giữ vai trò là những người có ý
thức nhất về dân tộc.
1885 – 1905. Chỉ 20 năm! Ở đầu là một loạt nhà khoa bảng tiêu biểu vì
lòng trung nghĩa dũng cảm đứng lên Cần Vương, trước sau đổ máu nhuộm đỏ lá cờ
vinh quang của Tổ quốc. Và sau lại là một loạt nhà khoa bảng tiêu biểu khác,
dũng cảm đứng lên vứt bỏ mọi cái vướng víu mà trước hết là tư tưởng trung
nghĩa, là lối sống nhà Nho, xông xáo hô hào duy tân để cứu nước. Họ cùng đem
máu mình tô thêm cho lá cờ vinh quang của Tổ quốc.
Việc triều đình đầu hàng “bán nước bỏ dân” làm cho người thần tử mất đối
tượng trung nghĩa, làm cho Nho sĩ và nhân dân thấy mình là chủ của nước. Sự thả
lỏng được tư tưởng mới của tân thư biến thành sự giải phóng mở đầu một thời đại
lấy dân làm bản vị. Người ta khẳng định dân là chủ của nước, kêu gọi dựa vào
dân, hô hào dân trí, dân khí, dân quyền, dân sinh… Người ta vẫn chú ý đến nhân
tài hơn là bản thân người dân nhưng nhân tài của dân chứ không phải của trièu
đình, không cần triều đình công nhận bằng một kỳ thi hay giao một chức vụ.
Người ta tự hào làm người dân, khối dân tộc chuyển trọng tâm xuống dưới. Từ đó
mà xuất hiện vận động chính trị kết đoàn, kết hội, lập đảng – xã hội đi vào
hướng tư sản hóa.
Để làm công việc tày trời và mới mẻ đó, vốn liếng nhà Nho chỉ có văn
chương. Họ phải dùng nó để thức tỉnh, để tập hợp quần chúng. Văn học mang nhiệm
vụ phổ biến, tuyên truyền, phải đi vào công chúng – phải nói cho dân nghe, phải
viết cho dân hiểu. Văn chương phải viết bằng tiếng nói, âm điệu mà nhân dân
quen thuộc, ưa thích. Viết để cổ động nê nvăn chương phải trình bày, phải mô tả
thực tế, phải kể lể, khêu gợi, phải lâm ly, giàu tình cảm, có sức kích động.
Một cuộc cách mạng thực sự về văn học của nhà Nho!
Phong trào văn học phát triển trên cơ sở phong trào chính trị: yêu nước
và duy tân. Chỉ có nơi nào kết hợp được hai xu hướng ấy thì văn học mới chuyển
biên. Nhưng yêu nước và tư sản hóa lại là hai chuyện khác nhau, lúc bấy giờ
không dễ kết hợp. Phong trào yêu nước kháng chiến phát triển dựa vào nông thôn,
rừng núi mà phong trào duy tân tư sản hóa lại dựa vào thành thị. Ở đâu có những
nhà Nho tiếng tăm, có uy tín yêu nước mà lại có điều kiện tiếp xúc với tư tưởng
mới, có thực tế tư sản hóa pư thành thị mà lại có điều kiện sống trong một
phong trào kháng chiến, lòng yêu nước đang bốc lên âm ỉ, tức là gần nông thôn,
thì ở đó duy tân mới kết hợp được với yêu nước. Đầu thế kỷ XX có 3 địa bàn có
điều kiện như vậy: Hà Nội hay đúng hơn là các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, Nghệ Tĩnh
và Nam Ngãi. Ở ba địa bàn ấy đều có những nhà Nho tiêu biểu, đứng ra vận động
phong trào yêu nước và duy tân, viết những tác phẩm tiêu biểu cho thời đại.
Nhưng theo quy luật chung các địa phương lẻ tẻ nhanh chóng thống nhất lại thành
phong trào toàn quốc. Văn chương địa phương cũng nhanh chóng thành văn học
chung của cả dân tộc. Nó không phụ thuộc vào một thiên tài nào mà trở thành có
xu hướng chung thành phong trào văn học có một công chúng nhất thể.
Gắn chặt với phong trào chính trị, mà thực chất là thức tỉnh về mặt dân
tộc và về mặt xã hội tất yếu phân hóa thành xu hướng cải cách văn hóa và bạo
động cứu nước. Nhìn chung thành một vận mệnh cổ động cứu nước, lưu vong hay vào
tù hô hào cải cách càng ngày càng ôn hòa, cuối cùng thành cải lương.
Gắn chặt với chủ thể sáng tác là nhà Nho nó cũng tùy thuộc vào sự biến
chuyển của tư tưởng nhà Nho và quy luật phát triển của nàh Nho: thức tỉnh, hăng
hái cải cách cứu nước, và cuối cùng, khi thất bại trở về bộc bạch tâm sự giữ
khí tiết đạo đức. Nhà Nho vốn không phải nhân vật của thời đại mới, không được
chuẩn bị để sống và hoạt động trong xã hội tư sản. Họ vốn quen với gia đình,
với trật tự trên dưới, với tâm, với đạo lý. Tuy vì yêu nước mà nhiệt thành muốn
duy tân nhưng khó quan niệm một cuộc cách mạng phản phong về kinh tế, xã hội,
tư tưởng để con người cá nhân - công dân trở thành xuất phát điểm trong mọi
quan hệ xã hội và nhà nước. Dân là chủ đất nước chưa đồng nghĩa với dân chủ.
Dân chủ là một thử thách về tư tưởng mà nhà Nho nào cũng phải trải qua mà hầu
như không ai vượt được. Duy tân không nằm trong bản chất của nhà Nho, khi sống
ngoài phong trào chung, họ quay lại như một hiện tượng lại giống. Nhận thức
khách quan, mô tả khách quan cũng không nằm trong bản chất văn học nàh Nho. Khi
không còn viết cho công chúng nữa, họ lại trở lại với tâm để ngôn chí, cảm
hoài. Đó cũng là một hiện tượng lại giống.
Nhưng yêu nước là truyền thống của văn học dân tộc mà nhà Nho nhiều thế
kỷ đã góp phần xây dựng. Yêu nước lại là vấn đề chủ yếu của thời đại. Văn học
yêu nước thành dòng văn học hùng hậu và là chủ lực văn học không những có tác
động mạnh đến tư tưởng nhân dân mà chi phối cả sự phát triển của các dòng khác:
văn học dân gian, văn học trào phúng và cả thơ, văn xuôi xuất bản công khai.
Thời đại đòi hỏi một cuộc cách mạng văn học nhưng nhà Nho lại chỉ có thể
cách tân nó. Họ không đủ sức tạo ra nền văn học mới của dân tộc. Nhưng bám được
vào truyền thống của dân tộc, nói được vấn đề chủ yếu của dân tộc, gắn với quần
chúng cơ bản của dân tộc, sự cách tân của họ có ý nghĩa lớn và chuẩn bị được cơ
sở cho văn học phát triển về sau.
Đó là ý nghĩa của sự chuyển biến trong văn học đầu thế kỷ XX.
[1] Dẫn chứng lấy trong quyển “Hát dặm Nghệ Tĩnh” của Nguyễn Đổng Chi,
Ninh Viết Giao. Nhà xuất bản Sử học, 1962.
[2] Nguyên văn chữ Hán. Ở đây trích dẫn theo bản dịch của Phan Võ trong
Thơ
văn Huỳnh Thúc Kháng. Nxb Văn học, 1965.
[3] Thơ văn Nguyễn Thượng Hiền trích trong Thơ văn Nguyễn Thượng Hiền
do Lê Thước, Vũ Đình Liên dịch, chú thích. Nxb Văn hóa, 1959. Con số đằng sau
chỉ số trang trong quyển đó.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét