TRUNG QUỐC VÀ CHÂU ÂU
Vladimir Soloviev
Phạm Vĩnh Cư dịch
Phạm Vĩnh Cư dịch
Trong khi ở
Paris người ta rầm rộ và có phần phô trương kỷ niệm một trăm năm “cuộc cách
mạng vĩ đại” thì ở đầu kia của Cụu Thế giới (1) đã xảy ra một sự
kiện ít được để ý đến, nhưng sẽ có những hậu quả quan trọng không kém việc
Louis XVI triệu tập Quốc hội Pháp(2). Chính phủ Trung Quốc bằng một
quyết định đặc biệt đã bày tỏ quyết tâm thu dụng lấy cho nước mình những công
cụ vật chất của văn minh phương Tây. Ngày 27 tháng Tám năm 1889 vừa qua, hoàng
đế Trung Hoa đã ban hành một chỉ dụ, mà trong đó, thừa nhận rằng đường sắt góp
phần quan trọng cho sự phồn thịnh và
hùng cường cần thiết của quốc gia, đã ra lệnh khởi công tuyến đường ray
giữa Bắc Kinh và Hán Khẩu (1500 dặm Nga(3) )*. Khi đọc tin này tôi sực
nhớ một cuộc họp của Hội địa lý Paris mà tôi ngẫu nhiên được tham dự một năm
rưỡi trước đây. Thành phần diễn giả trong cuộc họp ấy khá đa dạng: có cả các
nhà địa lý Pháp và các nhà Ai Cập học, các du khách Hà Lan và Bồ Đào Nha, một
người da đen Trung Phi thắt cà vát trắng toát của mục sư và một tu sĩ bác học
người ý trong bộ cánh trang nhã của giới thượng lưu xã hội. Những người Pháp xã
giao tán tụng những vị khách, không quên khen ngợi cả bản thân mình. Hai người
Hà Lan và Bồ Đào Nha cãi nhau gay gắt một lúc về việc dân tộc nào trong hai dân
tộc ấy vĩ đại nhất thế giới, vị mục sư da đen khả kính thì tuyên bố rằng chủng
tộc da đen là thành tố nữ tình giàu chất thơ trong nhân loại, cho nên khiêm tốn
nhường vị trí thứ nhất trong tiến bộ lịch sử cho những người da trắng. Nhưng
nhân vật thật sự chủ yếu trong cuộc họp hôm ấy không phải là người da trắng, mà
cũng không phải là người da đen, mà là một người da vàng: ngài tuỳ viên quân sự
của Trung Quốc ở Paris tướng Tcheng-ki-tong, một cộng tác viên khá nổi danh của
Revue des deux monde (4) . Trong toàn bộ đám đông với những
khuôn mặt khác màu, nhưng mặc Âu phục đồng màu ấy, chỉ có một mình ông ta xuất
hiện trong bộ quần áo dân tộc của mình. Cho nên càng đáng kinh ngạc hơn là ông
ta đã nói một bài diễn văn bằng thổ âm Paris một trăm phần trăm, không có tí lơ
lớ nào của người ngoại tộc. Bài diễn từ ấy, bên ngoài chỉ gồm rặt những chuyện
phiếm hóm hỉnh, được mọi người vui vẻ hưởng ứng và vỗ tay hoan nghênh nhiệt
liệt. Tôi, cũng như mọi người, không thể nhịn cười trước những câu pha trò của
vị tướng da vàng và ngạc nhiên nghe cái tiếng Pháp rất lưu loát, sành điệu của
ông ta. Nhưng đồng thời tôi bị kinh ngạc sâu sắc bởi những ý tứ đầy trọng lượng
ẩn giấu dưới câu chuyện bông lơn tưởng chừng bộc tuyệch bộc toạc ấy. Trước tôi
là một đại diện của một thế giới xa lạ, thù địch, đang mỗi ngày một tiến gần
hơn đến chúng ta. Trong những lời nói của ông tuỳ viên quân sự Trung Hoa vô
tình và có thể vô thức cả đối với ông ta đã bộc lộ cả một xác tín mà ông chia
sẻ hoàn toàn với bốn trăm triệu đồng bào của mình.
“Chúng tôi sẵn
sàng tiếp nhận từ các vị tất cả những gì cần thiết cho chúng tôi, toàn bộ kỹ
nghệ của nền văn hoá tinh thần và vật chất của các vị, nhưng dù chỉ một tín
ngưỡng, dù chỉ một tư tưởng, thậm chí dù chỉ một sở thích của các vị chúng tôi
cũng không tiếp thụ. Chúng tôi chỉ yêu quý bản thân mình và chỉ
tôn trọng sức mạnh. Về sức mạnh của bản thân, chúng tôi không nghi ngờ:
nó bền vững hơn sức mạnh của các vị. Các vị đang suy kiệt trong những thí
nghiệm liên tục của các vị, còn chúng tôi thì sẽ tận dụng kết quả của những thí
nghiệm ấy vì sự lớn mạnh của mình. Chúng tôi vui mừng trước những tiến bộ của
các vị, nhưng không thấy cần thiết và cũng không có hứng thú đóng góp tích cực
vào sự tiến bộ ấy: các vị đang tự chuẩn bị những phương tiện mà chúng tôi sẽ
lợi dụng để chinh phục các vị.” Ngụ ý của những gì mà người Tàu
ấy đã nói là
như thế, và những các thính giả châu Âu đã hoan nghênh ông ta với một niềm hân
hoan nhẹ dạ, chẳng khác nào người Judée thời Maccabés lần đầu tiên hoan nghênh
những người La Mã.(5) Tuy vậy ngay ở châu Âu cũng có những người
thông minh và hiểu biết, họ quan tâm và lo ngại nhìn đám mây đen đương kéo đến
từ Viễn Đông.
“Có thể nói
không cường điệu,- Albert Réville nổi tiếng, tác giả nhiều trước thuật có tài
về lịch sử các tôn giáo, viết trong chương đầu của công trình mới nhất của mình
La Religion Chinoise (Tôn giáo Trung Hoa) - có thể nói không cường điệu
rằng hiện nay trên thế giới chỉ tồn tại hai nền văn minh - nền văn minh của
chúng ta và của người Trung Hoa. Nền văn minh của ta là sự phát triển dưới
những hình thức mới văn hoá Hy-La cổ đại. Châu Mỹ và châu úc xét từ góc độ văn
minh chỉ là sự tiếp tục của châu Âu. Văn minh Hồi giáo, một thời huy hoàng đến
thế, đã mắc chứng bất lực không thể nào chữa trị và đang từng bước nhường cho
người Âu tất cả mọi lãnh địa của mình. Còn ấn Độ thì ngủ say, bất động trong
những chiêm mộng nhục cảm nặng nề của mình, và nó sẽ chỉ tỉnh giấc bởi những cú
hích từ phía những người họ hàng xa ở phương Tây của nó. Nhật Bản, nhờ Trung
Quốc mà có được nền văn minh của mình, đã cương quyết chuyển sang phía chúng
ta. Chỉ còn lại văn minh Trung Hoa với ba hoặc bốn trăm triệu đại diện của nó,
rất dồi dào sức sống, hoàn toàn tỉnh táo và bằng sự bành trướng của mình có khả
năng khiến ta phải lo ngại”.
“Tất nhiên,
chủng tộc ariêng phương Tây của chúng ta hiện nay có ưu thế nổi trội hơn Trung
Quốc bởi sức mạnh bành trướng và đồng hoá của mình. Những chủng tộc cấp thấp mà
nó chinh phục phải phục tùng nó hoặc tử vong. Đặc biệt trong ba thế kỷ trở lại
đây sự bành trướng của nó giống như một phép lạ nào đó, khoa học thượng đẳng
của nó, tinh thần dũng mãnh của thiên tài của nó, vũ khí không thể địch nổi của
nó xem ra đảm bảo cho một mình nó sự bá chủ toàn cầu trong tương lai khá gần. Sẽ
là thế đấy, nếu như không có Trung Quốc”*.
“Ngay hiện nay
ở Malaixia của Anh, ở ấn Độ của Hà Lan, ở úc số lượng Hoa kiều mỗi năm một
tăng... Phong trào tràn sang California, và ở tất cả các miền đất ấy người Tàu
bắt rễ bền chặt với tất cả chất Tàu của họ, với những kỹ năng lao động cần cù,
với sự tỉnh táo, tiết kiệm, nhẫn nại làm giàu, với tinh thần gia tộc của họ,
với sự thờ ơ kiên quyết đối với tất cả những gì khiến chúng ta xúc động, quan
tâm, lo lắng, và quan trọng nhất là với thái độ không tiếp thụ một cái gì hết
từ những tư tưởng, phong tục tập quán, lối sống của các tộc người bao quanh họ.
Chúng ta mới ở điểm khởi đầu của cuộc vận động, chứ ở Hoa Kỳ thì đã xuất hiện
câu hỏi: có thể cùng tồn tại hay không trên một vùng đất chủng tộc da trắng và
chủng tộc da vàng...”
“Người Tàu cảm
thụ, suy nghĩ, lập luận khác chúng ta. Anh ta có quan niệm rất cao về mình và
về nền văn minh của mình. ở điểm này, anh ta giống chúng ta. Nhưng mặc dù
thường nhã nhặn và lễ độ, dễ quy phục hơn chúng ta rất nhiều trước sức mạnh,
trong bụng anh ta khinh bỉ chúng ta sâu sắc và dưới con mắt của anh ta chúng ta
chỉ là những người mọi thô bạo.”** Tiếp theo Réville dẫn ra
một thực tại mà mọi người đều biết là những công nhân người Âu không cạnh tranh
nổi với công nhân Trung Hoa ít đòi hỏi hơn họ và có sức chịu đựng lớn hơn, cũng
như một thực tại khác là do thói quen ở bẩn cực kỳ và do những quan niệm rất
đặc thù của người Hoa về vệ sinh và y học cho nên những điểm quần cư của họ tất
yếu trở thành những ổ của các bệnh truyền nhiễm.
Nhưng tất cả
những nguy cơ của sự xâm lấn từ từ và hoà bình của chủng tộc da vàng này không
là cái gì cả so với sự phát triển sắp tới của sức mạnh nhà nước và sức
mạnh quân sự
của đế quốc Trung Hoa do việc người Hoa tiếp thụ tất cả những cải tiến mới nhất
của công nghệ châu Âu. Sự tiếp thụ ấy, bị kìm hãm khá lâu bởi óc bảo thủ của
dân tộc này, giờ đây trở nên bắt buộc do sắc lệnh đã được nói đến của thiên tử
Trung Hoa, coi không chỉ đường sắt, mà qua đó còn tất cả các sáng chế đồng chất
của văn hoá châu Âu là bổ ích và cần thiết cho sự củng cố và phát triển sức
mạnh của đế quốc này*. Trong lĩnh vực quân sự một số cải
cách theo kiểu châu Âu đã bắt đầu mấy năm trước đây, và Réville hoàn toàn không
có căn cứ coi thường quân đội Trung Quốc ngày nay. Rõ ràng, thuốc súng mà chính
người Hoa đã sáng chế ra, kém hiệu quả lắm, nhưng than ôi! họ đã bắt đầu dùng
thuốc súng châu Âu. Hồi ức về việc chỉ mấy tiểu đoàn Anh-Pháp đã chớp nhoáng
hoàn thành chiến dịch, chiếm được dinh của hoàng đế Tàu, đã thuộc về quá khứ
không bao giờ trở lại. Trong chiến tranh Bắc Bộ (6) gần đây nhất
không phải những tiểu đoàn, mà những sư đoàn lính Pháp đã không thể làm gì được
với những lực lượng Trung Quốc, chủ yếu là quân không chính quy. Người Pháp đã
tự an ủi bằng việc lật đổ ông Pherry với nội các của ông, còn người Tàu thì,
hình như hoảng sợ trước chiến thắng quân sự bất thường và bất ngờ của mình, đã
vội vã ký hoà ước có lợi cho những người chiến bại. Tuy vậy, vẫn còn lại một sự
thật là quân đội Trung Quốc, vừa mới được trang bị còn rất chưa đầy đủ và hoàn
chỉnh khí tài châu Âu đã trở nên có khả năng đọ sức với người Âu. Và nếu sự
thật ấy mặt khác chứng minh ưu thế của văn minh châu Âu đang cung cấp cho người
Hoa những phương tiện đấu tranh, thì nguy cơ thực tiễn không phải vì thế mà giảm
thiểu chút nào. Vả lại sau năm 1884, ngoài những cải cách trong lục quân, Trung
Quốc đã kịp xây dựng cho mình (như ông Veninkov thông báo theo những nguồn tin
Anh đáng tin cậy) một lực lượng hải quân khá hùng mạnh, có ở trong bốn hải đoàn
86 chiến thuyền (trong đó có 9 tàu chiến bọc thép) và trên chúng gần 500 đại
bác với 7000 binh sĩ*. Chính ông Réville, mặc dù không tin
vào những thắng lợi quân sự của Trung Quốc, tuy vậy vẫn không chờ đợi một cái
gì tốt lành từ cuộc đụng độ trong tương lai giữa hai nền văn hoá**.
Xét từ quan
điểm Kitô giáo, chúng ta không được phép nhìn thấy ở bất kỳ một dân tộc nào,
trong đó có cả người Hoa, những kẻ thù, mà đối với họ cần phải sử dụng chỉ
những phương tiện bạo lực. Những phản cảm và những lo ngại của chúng ta có thể
bị kích thích không bởi dân tộc Trung Hoa với tính cách đặc thù của nó, mà chỉ
bởi cái có thể chia rẽ dân tộc ấy với toàn thể nhân loại còn lại, bởi những yếu
tố biến thể chế đời sống Trung Hoa thành một cái gì đó ngoại biệt và sai trái
trong tính ngoại biệt ấy. Ưu thắng bên ngoài của văn hoá châu Âu đối với người
Tàu có thể là bền vững và đáng mong muốn chỉ với điều kiện khắc phục từ bên
trong cái gọi là chất Tàu (kitaitshina), tức là cái nguyên tắc lịch sử
đã và đang làm cơ sở cho cái thể chế hạn hẹp và ngoại biệt của đời sống Trung
Hoa. Mà để có được sự khắc phục nội tại ấy, trước hết cần hiểu biết Trung Quốc
không chỉ trong những chi tiết của quá khứ lịch sử và sinh hoạt hiện tại của
nó, mà trong cái cơ sở đạo đức-xã hội trường tồn vừa tạo ra sức mạnh vừa tạo ra
sự hạn chế của dân tộc ấy. Trong việc nghiên cứu Trung Quốc chính từ cái khía
cạnh quan trọng nhất ấy, chúng ta đã có một công trình thử nghiệm rất kỳ thú và
hiện đại, mới ấn hành của nhà Trung Hoa học người Nga ông Georgievsky: Những
nguyên tắc đời sống Trung Hoa.
Sự say mê với
lý tưởng, dù đó là lý tưởng của người Tàu, là một nét đẹp và hiếm hoi ở một nhà
khoa học thời nay. Còn với độc giả thì nhiệt tình của ông Georgievsky chỉ có
thể là nguy hiểm, nếu như nhà bác học khả kính này là người Âu duy nhất nắm
vững ngôn ngữ và chữ Hán và đã sống ở Trung Quốc. Nhưng khi có nhiều chuyên gia
bất đồng ý kiến với nhau thì xuất hiện đầy đủ khả năng tìm hiểu và xác định
chân lý khách quan. Hiện nay cả những nhà Trung Hoa học ở Nga, cả những đồng
nghiệp đông đảo hơn của họ ở Tây Âu phân chia thành hai phe gần như cân bằng
của những người hâm mộ và những người chống lại chất Tàu. Do đó người không
phải là chuyên gia trong lĩnh vực này buộc phải sử dụng nhiều hơn những dữ liệu
thực chứng của khoa Trung Hoa học, chứ không phải những kết luận và những đánh giá của các nhà Trung Hoa học.
Tư liệu cho bài khảo luận này là những tài liệu gốc của Trung Quốc khả thủ đối
với tôi (qua các bản dịch ra các Âu ngữ), và một số công trình nghiên cứu có uy
tín mới nhất về Trung Quốc.* Nhiệm vụ của tôi không phải là khảo
tả người Trung Quốc đã và đang sống như thế nào, mà là giải thích họ sống bằng
cái gì và vì cái gì, tóm lại giải thích lý tưởng Trung Hoa.
I
Nguyên tắc phụ quyền -
Nguồn gốc có lẽ là hiện
thực của dân tộc Hán -
Tục thờ cúng tổ tiên - Tổ
tiên như là những chủ sự của hôn nhân
Cả đời sống
riêng tư, cả thể chế nhà nước, cả tôn giáo, cả thế giới quan đạo đức-tinh thần
của người Hoa - tất cả đều mọc lên và phát triển từ một cội rễ chung, từ nguyên
tắc gia đình, hay nói đúng hơn từ tính tuyệt đối của quyền lực của người cha.
Nhờ sự trung thành bất di bất dịch với nguyên tắc ấy mà “bách tính” “lê dân”*, từ thời tiền sử di
chuyển từ Mông Cổ xuống dưới theo dòng Hoàng Hà đã có thể sinh sôi nảy nở thành
một dân tộc bốn trăm triệu dân mà vẫn không mất đi tính chất của một gia tộc
thống nhất, đoàn kết chặt chẽ và đồng chất. Toàn bộ tổ chức chính trị phức tạp
của nước Trung Hoa ngày nay được chính người Hoa xem chỉ như sự khai triển theo
những vòng đồng tâm một nguyên tắc phụ quyền: lý trưởng là cha của thôn xã của
mình, quan huyện là cha của huyện mình, quan tỉnh trưởng là cha của tỉnh mình
và cuối cùng hoàng đế là cha của toàn bộ đế quốc Trung Hoa, của vô số con cháu
của “trăm họ”.**
Có thể giả
định với xác suất cao, rằng cái nguyên tắc cho đến tận nay vẫn quy định toàn bộ
thể chế đời sống của người Hán, cũng nguyên tắc ấy đã là nguyên nhân khởi thủy
của sự hình thành Trung Quốc như là một dân tộc đặc biệt. Nhiều phần chắc, thủy
tổ của người
Hán hiện nay chính là những người Mông đầu tiên đã chuyển từ kiểu quan hệ tính
giao bừa bãi và chế độ mẫu hệ liên quan với nó sang chế độ hôn nhân cố
định với những nhóm gia đình xác định, nơi quyền thống trị đương nhiên thuộc về
người cha. Một sự đổi thay quan trọng như thế trong đời sống nhất thiết đã phải
dẫn đến sự tách rời “trăm họ” khỏi toàn bộ cư dân Mông còn lại, và sau đó là sự
di dời của họ. Mà đối với họ dễ dàng hơn cả là di dời theo thung lũng sông
Hoàng Hà về phía Đông- Nam, nơi mà nhà nước Trung Hoa đã được thành lập. Cho dù
là thế nào đi nữa, thì ngay từ thời thượng cổ nhất, mà về chúng còn lưu truyền
đến chúng ta những tư liệu lịch sử, cho đến hôm nay cơ sở không đổi thay của
thể chế đời sống Trung Hoa là chế độ phụ quyền.
“Mặc dù có chế
độ đa thê,- Réville nói - mặc dù có nhiều nguyên nhân phân rã, gia đình Trung
Quốc vẫn kết cấu rất bền vững. Có nghĩa là sự bền vững ở đây không chỉ dựa vào
sự liên minh gần như bình đẳng giữa người cha và người mẹ, như ta thấy ở các
nước khác. Nó trước hết dựa vào tính thiêng liêng của quyền lực của người cha.”
Người mẹ chỉ được sử dụng phản xạ của cái quyền lực ấy và vay mượn của chồng
mình quyền hành đối với con cái. “Nghĩa vụ của con cái phải phục tùng bề trên,
là đạo lý chung của loài người, ở Trung Quốc, trong quan hệ với người cha có
thể nói đã đạt ý nghĩa tuyệt đối.”*
Cái tôi
của người con dường như bị xoá bỏ bởi cái tôi của người cha, chừng nào
người cha còn sống. Nhưng ngay cả sau khi người cha đã chết, quan hệ vẫn không
thay đổi về nguyên tắc. Người cha của gia đình, có toàn quyền đối với con cái,
tự thừa nhận bên trên mình quyền lực tuyệt đối của thân phụ đã quá cố và thông
qua đó quyền lực của tất cả các vị tổ tiên theo phả hệ. Cơ sở của mọi đức hạnh
và mọi trật tự là chữ hiếu của người con, mà đức hiếu thực thụ là đức hiếu
không chỉ đối với cha ông đương sống, mà còn cả đối với cha ông đã mất. Như
vậy, một người Trung Quốc thực thụ không ở độ tuổi nào và không trong cương vị
nào có được tính độc lập cá nhân và tính chủ động cá thể, không bao giờ anh ta
có thể hành động xuất phát chỉ từ bản thân mình - anh ta chỉ thừa hành ý chí
của tổ tiên, anh ta luôn luôn và trong mọi sự phụ thuộc vào quá khứ gia
tộc của mình. Theo quan niệm của người Hoa, quá khứ ấy quyết định cả sự kiện
quan trọng nhất của đời người, điều kiện cho tương lai của nó. “Hôn nhân - sách
Lễ ký nói - được xắp đặt để cho con người có thể phụng sự tổ tiên đã qua
đời và tiếp tục dòng dõi của mình một cách phải đạo.”* Nếu mục đích của
hôn nhân nói chung có quan hệ khăng khít với tổ tiên, thì trong từng trường hợp
một vai trò chính yếu trong sự kết hôn phải thuộc về tổ tiên của vị hôn phu và
vị hôn thê. Tình hình cho đến nay vẫn là thế, và có thể thấy rõ điều này qua
nghi thức cưới xin của người Hoa.
Nghi thức kết hôn bao gồm hai phần chính: lễ dạm ngõ (na-tsai) và lễ ăn hỏi
(na-bi); cả lễ này lẫn lễ kia đều liên quan chủ yếu đến tổ tiên. Lễ dạm ngõ
được cử hành như thế này. Người cha của vị hôn phu với toàn bộ gia quyến đến
nhà thờ họ, mang trên một cái đĩa bức thư gửi người cha của vị hôn thê; bức thư
ấy được đặt lên bàn thờ. Sau khi đã làm lễ cúng tổ tiên với nhiều nghi thức
phức tạp, cầu xin anh linh của tổ tiên tiếp nhận những đồ cúng bằng một loạt
lời khấn và thần chú, một loạt động tác vái lạy, người cha của vị hôn phu đọc
một báo cáo như sau: “Ngày này thánh này năm này, con tên là thế này xin được
kính báo tất cả các vị tổ tiên (gọi tên tất cả các vị từ đời kỵ cho đến cha mẹ)
một việc như sau: con trai của con, tên là thế này, đã đến tuổi thành niên, và
chưa kết hôn với ai, muốn lấy con gái của ông bà này làm vợ; kính cẩn dâng rượu
và hoa quả, con xin kính báo các vị rằng hôm nay sẽ làm lễ na-tsai hỏi tên vị
hôn thê.” Sau lời khấn cuối cùng người ta cầm lá thư từ bàn thờ - như là đã
được tổ tiên
phê chuẩn - và giao cho sứ giả đem đến cho người cha của vị hôn thê. Ông
này cũng với những nghi thức như thế bẩm báo tổ tiên và sau đó gửi thư trả lời,
bức thư này lại được báo cáo cho tổ tiên của vị hôn phu, sau đó bằng cách bói
toán người ta hỏi ý kiến các vị ấy về ngày lành tháng tốt để làm lễ cưới. Trong
nghi lễ thứ hai, na-bi, những tặng phẩm mà ông bố của người chồng chưa
cưới gửi tới ông bố của người vợ chưa cưới, trước khi gửi đi được đệ trình cho
tổ tiên của người thứ nhất và sau khi nhận được trình cho tổ tiên của người thứ
hai với những bẩm báo và khấn bái tương ứng. Cũng những bẩm báo và khấn bái ấy
đi theo lời đồng ý cuối cùng của cha cô vợ chưa cưới cho việc tổ chức lễ cưới
trong ngày đã được chọn.
“Nếu nói về lễ na-tsai (dạm ngõ) - ông Georgievski viết - thì ý nghĩa của
nó hoàn toàn dễ hiểu: vì tổ tiên của vị hôn phu là phía vị lợi trong cuộc hôn
nhân,* cho nên chính
họ đàm phán, thương lượng với tổ tiên của vị hôn thê, mà ở đây song thân của
hai người kết hôn chỉ đóng vai trò trung gian, còn bản thân cặp vợ chồng tương
lai ấy lại chẳng có vai trò gì - việc của họ là kính cẩn thi hành mệnh lệnh của
tổ tiên. Thế nhưng lễ na-bi (ăn hỏi) có nghĩa gì? Vì sao những tặng phẩm lại
được gửi đi một cách long trọng đến thế và được tuyên bố ở nhà thờ họ? Và vì lẽ
gì mà người ta phải gửi tặng phẩm? Lời đáp cho những câu hỏi ấy sẽ tự hiện ra
trong ta, nếu ta lưu tâm đến mục đích của cuộc hôn phối cũng như thái độ đối
với nó từ phía hai gia đình. Tổ tiên của chú rể, nhằm bảo đảm phúc lợi sau khi
đã chết của chính mình, mong muốn cho dòng họ của mình không lụi tàn và những
hậu duệ của mình trên thế gian này có nhiều con cái, vì vậy, đối với các vị ấy
điều rất quan trọng là tìm được cho chú rể một cô dâu thuộc dòng họ khác.** Còn tổ tiên của cô dâu thì suy luận
một cách khác: họ được lợi gì, nếu một người chắt chút của họ trở thành vợ một
người ngoại tộc? Họ sẽ chỉ mất đi một người hầu hạ, một người lẽ ra sẽ phải
thường xuyên cúng tế họ, và như thế là cuộc sống sung mãn của họ ở thế giới bên
kia sẽ bị thiệt hại. Như vậy vận hội ở đây là không cân bằng: một bên tổ tiên
được, và được nhiều, còn bên khác thì mất. Để cho cái lợi cho một bên không kéo
theo cái thiệt cho bên khác, cần phải đền thưởng cho bên ấy một số lượng những
vật dụng hữu ích tương đương với cái phần mà bên ấy mất, khi họ để cho người
con gái rời khỏi nhà mình. Rõ ràng, vào thời thượng cổ, người ta kiếm vợ cho
con trai không phải bằng cách nào khác mà chính bằng cách mua, và vì chủ
nhân của mọi sở hữu trước hết là tổ tiên của các gia tộc, cho nên chính họ mặc
cả với nhau: tổ tiên của chú rể mua người thiếu nữ, tổ tiên của cô dâu nhận
được một số vật dụng hữu ích như là cái giá của cô ta. ý nghĩa nguyên thủy của
lễ gửi tặng phẩm chính là ở đấy.”*
Quan niệm ấy
được chứng thực bởi một nghi lễ nữa được cử hành vào ngày thứ ba sau hôn lễ:
bằng nghi lễ ấy người vợ tân hôn được chuyển giao cho sự cai quản của các vị tổ
tiên mới, tức là tổ tiên của nhà chồng. Toàn thể gia quyến tụ tập trong nhà thờ
họ, trước bài vị của tổ tiên, và sau những nghi thức cúng bái thường lệ gia chủ
nói lời báo cáo thỉnh cầu như sau: “Con trai tôi, tên là thế này, ngày này
tháng này đã kết hôn hợp pháp và giờ đây tôi xin được trình diện trước tổ tiên
người vợ tân hôn của nó. Kính mong các vị thi ân quan tâm đến nó, ban cho nó
cuộc sống hạnh phúc trường thọ, che chở nhà (mới) của nó và cho nó niềm vui
được sống giữa đàn con cháu đông đúc. Xin
kính cẩn khẩn cầu.”**
II
Cúng tế tổ tiên
Tục ăn thịt người và hiến
sinh người ở Trung Quốc
Quyền lực
tuyệt đối của quá khứ đối với hiện tại và tương lai, việc những người chết
thống trị những người sống được thể hiện rõ hơn cả trong những tế vật, mà bằng
chúng hậu thế mua của tổ tiên quyền sống. Tục thờ cúng tổ tiên, từ ngàn xưa là
thành tố cơ bản của tôn giáo và đời sống của tất cả các dân tộc, chỉ ở Trung
Quốc cho đến nay vẫn giữ nguyên vai trò,
ý nghĩa chủ đạo trong tôn giáo và đời sống hàng ngày. Tất nhiên, đối với những
người Trung Quốc hiện đại có học, mặc dù họ vẫn rất tôn trọng tục lệ này, nó
nói chung đã trở thành một tín ngưỡng ước lệ, một biểu hiện tượng trưng cho
những ý tưởng chung về sự lệ thuộc của hiện tại vào quá khứ, về bổn phận giữ
gìn chữ hiếu của con cái đối với cha ông mà cái chết cũng không xoá bỏ được, về
tính linh thiêng của truyền thống và của tất cả những gì là cổ xưa. Với một
quan niệm như thế, bản thân việc cúng tế tổ tiên là hành động kính cẩn nhớ đến
họ và đồng thời là sự thi hành một nghi lễ cổ linh thiêng hoá và tinh thần hoá
liên minh gia đình. Nhưng tính chất nguyên thủy của cái lệ thờ cúng ấy không
phải là như thế. ở Trung Quốc, cũng như ở mọi nơi, những tế vật nguyên thủy chủ
yếu là những con người: những người chết ăn thịt những người sống. “Cần
phải lưu ý - ông Georgievsky viết - rằng ở Trung Quốc cho đến bây giờ vẫn không
hiếm những trường hợp ăn thịt người: khi một người nào đó giết chết kẻ thù của
mình trên chiến trường hay trong một xích mích ẩu đả riêng tư, anh ta mổ xác kẻ
thù ra, cắt lấy tim gan và ăn; anh ta làm cái đó một mặt để có được dũng khí
lớn hơn, mặt khác, để thoả mãn lòng căm thù của mình. (Trong những bộ tiểu
thuyết trứ danh của Trung Hoa như Tam quốc chí và Thủy hử truyện
có không ít chỉ dẫn về việc ở Trung Quốc có những người thích ăn thịt đồng loại
không chỉ trong chiến tranh, mà ngay cả trong thời bình). Nếu những người sống
cư xử với những kẻ thù bị giết như thế, thì những người đã chết cũng không thể
xử sự một cách khác - họ cũng không từ chối ăn tim gan của kẻ thù. Không chỉ
thường dân, mà cả chính phủ đôi khi cũng thấy là hợp thức lấy tim của kẻ thù đã
bị giết đem cúng người quá cố ở mộ anh ta : dưới thời Gia Khánh, vào năm mười
tám của thế kỷ này, một ông quan bị ba tên đầy tớ của mình đầu độc; khi tội ác
bị phát giác, hoàng đế Trung Hoa đã ra lệnh đưa những kẻ sát nhân đến mộ của
người quá cố và chém thành từng khúc, còn tim chúng thì lấy ra và dâng người
quá cố như là một tế vật.”*
Song dâng hiến
người quá cố xác kẻ thù của anh ta hoặc người đã giết anh ta chỉ là trường hợp
ngoại biệt. Không thể hồ nghi, ở Trung Quốc cũng như ở mọi nơi, tục hiến sinh
người ngày xưa có tính phổ biến hơn và thường hằng hơn. Trước hết chủ nhân hiện
tại của gia đình, người tiếp tục được hưởng sự sống sau khi thân phụ của anh ta
đã chết, không thể thể hiện lòng thành kính đối với người đại diện của quá khứ
gia tộc bằng cách nào tốt hơn cách hiến sinh một đại diện của tương lai gia tộc
- người con trai cả của mình, nếu đã có một con trai khác sau này có thể kế
thừa bổn phận thờ phụng tổ tiên. Những chứng cứ lịch sử trực tiếp về sự tồn tại
ở Trung Quốc tục hiến sinh người con trai đầu lòng không lưu truyền đến ngày
nay, nhưng ngoài những nét tương đồng với tôn giáo của các dân tộc khác, trong
khoa Trung Hoa học có những dấu chỉ gián tiếp về tục lệ ấy. Thí dụ, người con
trai cả được người Hoa gọi là tchoung-tsy, có nghĩa là “người con của mồ
mả”.* Ông Georgievsky còn dẫn ra một chứng cứ gián tiếp rất kỳ thú
nữa về sự hiến sinh nếu không phải người con cả, thì một người nào đó thuộc thế
hệ trẻ trong gia đình, trong số những cháu chắt của người quá cố, mặc dù trong
trường hợp này nhà Trung Hoa học khả kính của chúng ta đã không chỉ ra và hình
như không nhận thấy ý nghĩa nguyên thủy của những tư liệu mà ông thông báo.
“Cho đến tận ngày nay - ông Georgievsky viết - ở Trung Quốc vẫn rất phổ biến
niềm tin cho rằng hồn người đã chết có thể nhập vào xác người đang sống. Niềm
tin ấy cắt nghĩa cho chúng ta cái hình thức thờ cúng tổ tiên được xem là cổ xưa
nhất trong lịch sử thực định của Trung Quốc. Mỗi lần phải làm lễ cúng một vị tổ
nào đó trong lăng của dòng họ, thì một người trong họ (thường là cháu, nhưng
nếu không có cháu thì một thành viên khác của gia tộc ) mặc lễ phục của người
quá cố và xuất hiện như là người đại diện hành động nhân danh người quá cố ấy.
Người đại diện ấy được gọi là shi (thi) có nghĩa là xác chết hay người
đã chết.”** “Không nên nghĩ rằng - ông Georgievsky nói thêm- nhân vật
thi mặc y phục người đã chết ấy chỉ làm nhiệm vụ nhắc nhở cho các thành
viên còn sống của gia tộc về người cha, người cụ... đã quá cố của họ - không:
khi anh ta ăn, uống, thưởng thức những bản nhạc hay những điệu múa, thì ai ai
cũng đinh ninh rằng không phải thi, mà chính hồn người quá cố nhập vào anh ta
đang làm những điều ấy - ở đây không có chỗ cho bất kỳ phép phúng dụ nào, mà
ngược lại, đây là hiện thực hiển nhiên nhất.”* Sau này, thay cho người
sống, người ta bắt đầu sử dụng những tượng gỗ, những hình người bằng lụa, những
hình nộm bằng giấy và rơm để cho hồn tổ tiên nhập vào đấy. Nhưng vì sao lại cần
có sự thay thế ấy, nếu mà việc hồn tổ tiên nhập vào hậu duệ, như ông
Georgievsky nghĩ, chỉ là việc nhất thời và hoàn toàn vô hại cho người hậu duệ
được gọi là thi ấy? Vì sao một dân tộc bảo thủ và sùng đạo như người
Trung Hoa lại từ bỏ một hình thức tế lễ vô hại nhưng có sức biểu đạt lớn như
thế và thay thế nó bằng những hình thức khác không nghiêm túc bằng? Nhưng nếu
chúng ta nhớ đến những tục lệ tôn giáo tương ứng ở những nước khác, thí dụ như
ở Mêhicô, thì ta sẽ thấy rõ rằng sự đồng nhất một sinh linh cấp cao với một
trong những người sùng bái sinh linh ấy tuyệt không chỉ là một sự hiện hồn vô
hại. Chắc chắn là vị tổ phụ nhập hồn vào người hậu duệ được sủng ái không phải
để sau đó buông tha anh ta, mà để mang anh ta đi với mình sang thế giới bên
kia; nói một cách khác, thi là tế vật cho linh hồn người tổ phụ mà anh
ta đại diện, vì vậy mà anh ta được gọi trước là “xác chết” hay “người chết”.
Sau này, khi cùng với sự phát triển của văn minh và nhờ tác động của một loạt
trường phái triết học luân lý, phong hoá đã trở nên bớt khắc nghiệt đến mức đã
không thể hiến sinh con người, như là một hình thức cúng tế thường hằng, thì
người Hoa tất yếu phải dùng đến những thế vật khác nhau và, thay vì những người
sống, bắt đầu hiến dâng tổ tiên những vật vô hồn.
Tuy vậy, tục
hiến sinh cho người quá cố những con người mà trong đời sống gia đình và xã hội
không có vị trí độc lập, thí dụ những quả phụ và đầy tớ, vẫn lưu hành ở Trung
Quốc cho những thời đại muộn mằn hơn rất nhiều, và về điều này có những sử liệu
trực tiếp và hoàn toàn xác thực. Tục chôn sống những người vợ cùng với người
chồng quá cố của họ, không thể hồ nghi, còn tồn tại cách đây không lâu lắm.
Cùng với
hoàng đế Tần
Thủy Hoàng thuộc triều đại thứ tư (năm 209 trước C.N.) tất cả những người vợ
không có con của ông ta đã bị chôn sống. Vị hoàng đế này đã xây cho mình một
cái lăng khổng lồ trong núi, 720000 công nhân đã lao động trong vòng 37 năm
trời; cái lăng ấy được chiếu sáng thường xuyên bằng những ngọn đèn mà nguồn ánh
sáng của chúng là mỡ người.* Nếu các hoàng đế triều
đại thứ năm (Tiền Hán, kết thúc vào đầu công nguyên) không noi gương Tần Thủy
Hoàng, thì họ vẫn, tuân theo tục lệ cổ xưa mặc dù đã được cải tiến cho bớt khắc
nghiệt, ban hành một quy tắc bắt buộc những người vợ không có con của người
đứng đầu nhà nước rời bỏ cấm thành ra sống bên trong bức tường bao quanh mộ chủ
nhân của họ. Còn những người vợ thường dân ở Trung Quốc, thì họ không ít khi,
không cần một sự cưỡng chế nào từ bên ngoài, tự nguyện đồng ý kết liễu cuộc đời
của mình để được chôn cất bên cạnh người chồng quá cố của họ. Tiểu sử những
người vợ như thế, được phong danh hiệu liệt phu, có khá nhiều trong văn
học Trung Hoa.** Chỉ trong thế kỷ trước,
vào năm 1729 mới được ban hành một chỉ dụ của thiên tử, quy định rằng từ nay
những người tình nguyện chết theo chồng như thế sẽ không được hưởng những vinh
dự gì đặc biệt.***
Nếu người quá
cố có tôi tớ thì, theo ý nghĩa của những quan niệm cổ xưa nhất, họ cũng phải đi
sang thế giới bên kia cùng với chủ nhân của họ. Cùng với Vũ Công nước Tần (năm
660 trước C.N.) 66 người hầu đã bị chôn sống, cùng với Mặc Công cũng của nước
ấy (năm 620 trước C.N.) đã bị chôn sống 177 người. Khi linh cữu của Tần Thủy
Hoàng (đã được nói đến) được đưa vào buồng an táng, thì người ta dồn vào đấy
tất những người thợ đương hoàn tất công trình và xây tường bít kín lại. Khi
hoàng đế nhà Đường Lý Chí Minh qua đời (năm 650 sau C.N) thì 14 bậc công hầu
gốc Tácta phục vụ trong triều đình đã bày tỏ nguyện vọng được chôn cùng với chủ
nhân của họ. Khi một quý phi của hoàng đế Thuận Trị (1644-1672) chết, thì ông
ta đã ra lệnh giết chết trên mộ bà ta 30 người.* Sự kiện cuối cùng cho
thấy rằng tục cưỡng bức hiến tế người, chính thức được bãi bỏ ở Trung Quốc vào
năm 972 sau C. N. ,** tuy vậy vẫn tiếp tục tồn
tại cho đến thế kỷ XVII, còn theo ý kiến một số người thì vẫn được lưu truyền
cho đến tận ngày nay. Thí dụ, de Groote, tác giả một trong những công trình
nghiên cứu mới nhất có uy tín về Trung Quốc khẳng định rằng triều đại đang trị
vì hiện nay ở Trung Quốc vẫn bảo lưu phong tục mỗi khi có ai trong hoàng gia
chết thì giết chết theo một số người nhất định để họ tiếp tục phục vụ người quá
cố. Cũng tác giả này thông báo một sự việc kỳ thú là trong chiến dịch Anh-Pháp
năm 1860, một quan võ người Mãn Châu bị trọng thương ở Palicao đã ra lệnh chém
đầu một giáo sĩ Pháp và một sĩ quan Anh bị bắt làm tù binh để họ phục vụ ông ta
trong thế giới bên kia.***
III
Tổ
tiên và “Trời”-
“Bách thần”- ý nghĩa và thành phần của “Trời” Trung
Hoa - Tục phong thần
Cái phong tục,
cho đến giờ vẫn chưa biến mất hẳn, hy sinh người đương sống cho những người đã
chết chỉ là một biểu hiện mãnh liệt nhất và cụ thể nhất của sự sùng bái
quá khứ là cơ
sở chung cho toàn bộ thể chế Trung Hoa. Chính sự sùng bái quá khứ ấy ấn định
trước hết tính thống nhất và bền chặt của gia đình Trung Quốc. Sự chuyên quyền
của người cha sẽ không giữ được ý nghĩa tuyệt đối, nếu mà nó không có hậu thuẫn
độc lập với cá nhân con người ấy và bất cập đối với cái chết. Với tư cách một
đại diện toàn quyền lâm thời của tổ tiên ở cõi vĩnh hằng, với tư cách một tư tế
của họ và một trung gian giữa họ với các thành viên gia tộc đang sống, người
cha là hiện thân của nguyên lý tôn giáo cao nhất, nguyên lý ấy truyền cho quyền
lực thực tế của ông ta uy tín thiêng liêng. Chuyển dịch trọng tâm của mình vào
quá khứ, vào lĩnh vực của thực tại tuyệt đối, bất biến và bất động, gia đình
Trung Quốc tự nó thu nhận được độ bền của một thực tại bất di bất dịch chiến
thắng sức mạnh của thời gian.
Có một thâm tính cực kỳ to lớn, yếu tố tôn giáo gia đình ở Trung Quốc cũng
bộc lộ cả một sức mạnh quảng tính vĩ đại, chiếm lĩnh và quy định bởi mình toàn
bộ chính thể của một quốc gia đông dân nhất và trường tồn nhất trên thế giới.
Cường quốc Trung Hoa, với tất cả bộ máy hành chính quan liêu phức tạp của nó,
kiên trì bảo tồn tính gia trưởng là thuộc tính của những quốc gia khác chỉ
trong những thời đại lịch sử nhất định - thực tại ấy ai ai cũng biết. Nhưng
thoạt nhìn có thể có cảm tưởng rằng cơ sở tôn giáo của cái chế độ nhà nước gia
trưởng ấy là khác hẳn so với gia đình cá thể. Người chủ gia đình là tư tế trong
công việc thờ cúng tổ tiên, với tư cách người con, người cháu của cha ông đã
mất, anh ta là người môi giới giữa họ và gia đình của mình; hoàng đế Trung Hoa
là vị tư tế trong việc thờ cúng Trời, với tư cách Con Trời (Thiên Tử)
trên mặt đất, anh ta làm trung gian giữa trời với đất, nhưng Trời là cái
gì theo quan niệm Trung Hoa? Trước tiên phải phân biệt ý tưởng trời trong các
hệ thống triết học Trung Hoa với quan niệm về trời trong tôn giáo thực chứng
của nước này. Theo học thuyết triết học Trung Hoa trong hai trường phái chính
của nó (đạo gia và nho gia) thì trời và đất là sự hiện thực hoá liên hỗ đầu
tiên của hai lực cơ bản, mà hai lực ấy lại là hệ quả của sự lưỡng phân của một tiềm
lực tự nhiên thống nhất tuyệt đối - đạo; trong hai lực ấy, như ta biết,
một lực là chủ động, nam tính- dương, còn lực khác là thụ động, nữ tính
- âm; trời là sự hiện thực hoá, hay là hiện thân khởi thủy của dương,
còn đất là sự hiện thực hoá cũng như thế của âm. Nếu khái niệm tiềm lực
tuyệt đối của sinh tồn trong sự hiển lộ vũ trụ của mình phân hoá thành hai cực
đối lập thuộc về lĩnh vực triết học tư biện, chứ không phải tín ngưỡng dân
gian, thì dĩ nhiên cả giới thuyết về trời như là sự hiện thực hoá đầu tiên của
một trong những cực siêu hình ấy của tất cả những gì tồn hữu cũng không thể
thêm thắt một cái gì cho ý thức tôn giáo thực chứng của nhân dân. Mặt khác,
tuyệt không có một căn cứ nào hết để đồng nhất “trời” của tôn giáo Trung Hoa
với "đấng sáng tạo" của thần luận phương Tây, như một số nhà Trung
Hoa học ngày nay noi theo các nhà truyền giáo cũ vẫn làm. Vấn đề về ý nghĩa
đích thực của tư tưởng tôn giáo cơ bản ấy của người Hoa có lẽ sẽ được giải
quyết rất dễ dàng, nếu mà những sách thánh của Trung Quốc được lưu truyền đến
chúng ta dưới dạng nguyên thủy của chúng, chứ không bị Khổng Tử cải biên nhằm
làm cho tín ngưỡng dân gian thích hợp với học thuyết chính trị-xã hội của ông.
Nhưng vì học thuyết ấy, như ta sẽ thấy, chỉ mang tính duy lý về hình thức, chứ
về bản chất thì vẫn theo đuổi những mục tiêu của chủ nghĩa bảo thủ quốc gia-dân
tộc, cho nên mặc dù nó lấy những quan niệm lý tưởng trừu tượng để che đậy một
phần ý nghĩa khởi thủy của tín ngưỡng dân gian, song vẫn không xoá bỏ được hoàn
toàn ý nghĩa ấy. Và quả thật, về cái ý nghĩa khởi thủy ấy chúng ta có thể tìm
thấy những chỉ dẫn không chỉ trong bộ Ngũ Kinh bảo tồn dưới dạng ít nhiều đổi
mới những trước tác cổ xưa nhất của thư tịch Trung Hoa, mà còn trong bộ Tứ Thư
cũng có giá trị kinh điển, chứa đựng học thuyết của bản thân Khổng Tử và môn đệ
chính của ông - Mạnh Tử. Những trước tác sau ấy đối với chúng ta quan trọng hơn
những trước tác đầu, bởi vì chúng có ý nghĩa cả cho nước Trung Hoa ngày nay.
Trong những đàm luận của Mạnh Tử (sách cuối cùng trong bộ Tứ Thư) có một chỗ
theo tôi có ý nghĩa quyết định. Để hiểu được rõ hơn, xin dẫn đoạn ấy trong quan
hệ với ngữ cảnh vừa đề cập.
“Vạn Chương* hỏi
rằng: “Vua Nghiêu đem thiên hạ mà cho ông Thuấn, có phải vậy không?”. Mạnh Tử
đáp: “Không, bậc Thiên tử chẳng được tự quyền đem thiên hạ mà cho kẻ khác.”
-
Nhưng ông Thuấn có thiên hạ. Vậy ai đã cho ngài?
-
Trời cho đó.
-
Nếu Trời đã đem thiên hạ mà cho ông
Thuấn, vậy Trời có đinh ninh căn dặn những gì không?
-
Không, Trời chẳng tỏ ra lời. Chẳng qua
vì ông Thuấn có đức hạnh và sự nghiệp, cho nên Trời ngấm ngầm mà cho vậy thôi.
Vạn Chương hỏi tiếp: “Nhờ đức hạnh và sự nghiệp nên Trời ngấm ngầm mà cho,
vậy cách cho như thế nào?” Mạnh Tử giải rằng: “Vua Thiên tử có thể tiến cử một
người với Trời, chứ chẳng có quyền khiến Trời phải đem thiên hạ mà cho người
ấy. Vua chư hầu có quyền tiến cử một người với vua Thiên tử, chứ chẳng có quyền
khiến vua Thiên tử phải đem ngôi chư hầu mà cho người ấy. Quan đại phu có thể
tiến cử một người với vua chư hầu, chứ chẳng có quyền khiến vua chư hầu phải
đem chức đại phu mà phong cho người ấy. Thuở xưa, vua Nghiêu tiến cử ông Thuấn
với Trời thì Trời nhận chịu; kế ngài tuyên bố ông Thuấn với dân thì dân cũng
chịu.Vì vậy nên ta đã nói: "Trời chẳng tỏ ra lời. Chẳng qua vì ông Thuấn
có đức hạnh và sự nghiệp, cho nên Trời ngấm ngầm mà cho vậy thôi."
Vạn Chương hỏi thêm: “Tôi dám hỏi thầy: Vua Nghiêu tiến cử ông Thuấn với
Trời thì Trời nhận chịu, kế ngài tuyên bố ông Thuấn với dân thì dân cũng
chịu. Thể cách hai việc ấy như thế nào?” Mạnh Tử giải rằng:
“Khi vua phái ông Thuấn thay mặt ngài mà làm chủ tế, thì bách thần đều được
hưởng lễ vật. Đó là Trời nhận chịu ông Thuấn vậy. Khi vua Nghiêu đưa ông
Thuấn ra thay mặt ngài mà cai quản việc nước, thì mọi việc đều được ổn trị, và
bách tính đều được an thuận. Đó là dân cũng chịu ông Thuấn nữa vậy.”*
Như vậy việc
Trời nhận chịu một ai đó có nghĩa là bách thần cũng nhận chịu anh ta, tiếp nhận
những lễ vật của anh ta. Trong đoạn văn vừa dẫn hai khái niệm ấy: trời và
bách thần được xem là đồng đẳng tuyệt đối, được đồng nhất hoá trực tiếp.
Giống như từ “trăm họ” (bách tính) chỉ là tên gọi khác của dân trộc
Trung Hoa, cũng đúng như thế “trăm thần”
(bách thần) chỉ là tên gọi khác của Trời. Nhưng từ đâu có từ ấy và phải
hiểu hàm nghĩa của nó như thế nào?
Như ta biết,
một số dân tộc ở trạng thái ấu thơ, cũng như trẻ nhỏ, không có khái niệm riêng
rẽ về những số lớn. Một số tộc người chỉ đếm được đến ba, một số sắc tộc khác
đếm được đến năm, mười v. v... ý nghĩa đặc biệt gắn liền với chữ bách
(một trăm) trong tiếng Hán chỉ có thể được giải thích bằng việc khi những thủy
tổ của người Hán hiện nay tách khỏi bộ tộc Mông và tự lập thành một dân tộc
riêng, họ mới chỉ đếm được đến một trăm. Một trăm đối với họ là con số giới
hạn, cuối cùng và hoàn hảo, nó đồng nghĩa với khái niệm hết thảy, tức là một
tập hợp đầy đủ của một loạt đối tượng nào đó. Cho nên thay vì nói dân tộc,
họ nói trăm họ, tức là tất cả các gia tộc hợp thành
dân tộc; với
lại, xem mình là một dân tộc ưu việt, họ ứng dụng từ ấy chỉ vào bản thân mình
và biến nó thành tên của dân tộc mình.* Hệt như “trăm họ” có
nghĩa là tất cả các họ, toàn thể dân tộc, cũng đúng như thế “trăm thần” có
nghĩa là tất cả các thần trong tổng thể, toàn bộ thế giới tâm linh. Và nếu từ
đoạn văn vừa dẫn ta đã thấy rõ rằng trời và bách thần là một, thì đằng sau chữ
trời của tôn giáo Trung Hoa cần phải hiểu không phải một cái gì khác, mà là
tổng thể đầy đủ của tất cả các sinh linh tinh thần siêu nhân.
Cũng trong
quyển sách Trung Hoa kinh điển ấy (nhưng tất nhiên không chỉ trong đó) chúng ta
tìm thấy một chỉ dẫn trực tiếp về việc dân tộc Trung Hoa quan niệm bản thân
mình trong quan hệ thực tế với trời như thế nào. “Trời sinh ra giống
người này trên mặt đất, muốn cho bậc tiên tri khai thông cho hạng hậu tri,
muốn cho bậc tiên giác khai ngộ cho hạng hậu giác”.*
Dân tộc Trung
Hoa là sản phẩm, là con của trời. “Bách tính” quan hệ với “bách thần” cũng như
các gia đình quan hệ với tổ tiên đã sản sinh ra họ. Bách thần là tổ tiên của
tất cả, cũng như thần của các gia đình là tổ tiên của họ. Và nếu mỗi một gia
đình gắn bó với khởi nguyên vô hình của mình thông qua một tâm điểm hữu hình -
thông qua người cha - gia chủ, người cha ấy là con, là cháu chính tông của cha
ông đã quá cố, là đại diện cho khối nhất thống gia tộc, là người chủ tế và
người phụng sự tổ tiên, thì cũng đúng như thế, cả “Bách tính”, tức là toàn bộ
dân tộc Trung Hoa, để bảo toàn quan hệ thường hằng và thấy được của mình (với
tư cách một chỉnh thể thống nhất) với nguyên căn của sự tồn tại của mình và cội
nguồn của cuộc sống đúng đắn của mình - toàn bộ dân tộc ấy tập trung hướng về
một chúa tể tối cao và một người cha chung, coi người ấy chính là con trời
(thiên tử), là chủ tế và là nhân vật chính phụng sự “bách thần”. Anh ta cũng
kết nối với trời toàn bộ chỉnh thể quốc gia-dân tộc, y như người gia chủ cá thể
kết nối gia đình mình với tổ tiên.
Sự tương ứng
giữa việc thờ cúng tổ tiên của các gia đình với việc người đứng đầu quốc gia
thờ cúng trời là toàn diện. Nhưng đó mới chỉ là sự tương ứng. Còn phải tìm hiểu: “bách thần” ấy hay là tất
cả các thần hợp thành “trời” Trung Hoa ấy tự họ là những ai? Họ có quan hệ thực
tế gì không, và nếu có thì như thế nào với những thủy tổ của các gia đình cá
thể, với vong linh của các tổ tiên đã qua đời?
Trước hết, sẽ
là sai lầm từ sự đồng nhất giữa quan niệm “trời” với quan niệm “bách thần” đi
đến kết luận rằng tôn giáo thờ cúng trời bao hàm chỉ những thần có quan hệ nào
đó với những hiện tượng thấy được của thiên giới như các hành tinh, các chòm
sao v. v... Nếu trời và đất khác biệt nhau rõ rệt trong trực quan của con người
và đối lập trực diện trong triết tố Trung Hoa về dương và âm, thì
tuyệt không được khai triển điều này sang lĩnh vực tôn giáo thực chứng của
người Hoa. ở đây trời bao hàm tất cả các thần, tức là không chỉ các thần tinh
tú và khí quyển, mà còn cả các thần của những hiện tượng tự nhiên trên mặt đất
như nước, núi, rừng, và cả các thần phù trợ cho các địa phương, các đô thành,
các nghề và các phẩm hạnh con người. Thần điện Trung Hoa, xét về tính phong phú
và toàn diện của nó, vị tất thua kém thần điện Hy Lạp - La Mã. Thế thì từ đâu
được tập hợp nên cái thành phần thực tế của toàn bộ thần điện ấy?
Có một thuyết
nổi tiếng, trong thời cổ đại được đại diện bởi Eugemère, còn thời nay thì được
Herbert Spenser phát triển trong xã hội học của mình - thuyết ấy nói rằng tất
cả các thần thực chất là những con người đã chết. Dưới hình thức tuyệt đối như
thế thuyết ấy không đứng vững được trước sự phê phán, nhưng cái phần chân lý
chứa đựng trong đó có thể được ứng dụng vào tôn giáo Trung Hoa nhiều hơn vào
bất kỳ tôn giáo nào khác. Thoạt nhìn có thể có cảm tưởng rằng trời Trung Hoa
không thể là một cái gì khác ngoài tập hợp của các tổ tiên người Hoa. Quả thật,
giống như toàn bộ dân tộc xét về thành phần thực tế chỉ là tập hợp của các gia
đình cá thể, thì tưởng chừng cũng như thế, người cha của dân tộc ấy - Trời -
trên thực tế cũng phải được hợp thành bởi tất cả các tổ phụ cá thể. Nhưng một
kết luận như thế sẽ là vội vã. Việc thờ cúng trời ở Trung Quốc hoàn toàn mang
tính quốc gia-dân tộc. Dân tộc Trung Hoa như một chỉnh thể văn hoá-chính trị
tôn thờ trời thông qua ông vua của mình, và chỉ theo nghĩa sau ấy trời mới là
cha của dân tộc Trung Hoa. Cho nên không có một sở cứ nào đưa vào đối tượng của
sự thờ cúng ấy những tổ tiên chỉ có ý nghĩa riêng tư đối các gia tộc của họ,
nhưng đã không làm nên một cái gì đặc biệt và không thể hiện mình trong lĩnh
vực đời sống chung của dân tộc hay quốc gia. Và quả thật, mặc dù bằng những sắc
lệnh của triều đình, gọi là sắc phong thần, thần điện Trung Hoa thường
xuyên được bổ sung bằng những người Trung Quốc đã qua đời, nhưng không phải
bằng bất kỳ ai, mà chỉ bằng những người được lựa chọn. Những người đã chết được
vinh dự kết nạp vào thành phần của trời-cha-của-tổ-quốc, hay là vào hợp quần
của các thần linh, thường thường nhờ những công trạng mẫu mực của họ trong đời
sống dân tộc, đặc biệt trong lĩnh vực nhà nước; trong một số trường hợp hãn hữu
hơn, sự phong thần có được nhờ những sự hiển linh sau khi chết khiến công chúng
để ý đến và bộc lộ ở người quá cố những phẩm giá đặc biệt.
Những thần hay
là thần linh được sắc phong từ những người trần có rất nhiều, và họ thuộc về
những thời đại rất khác nhau. Bạn đọc đã dể ý đến câu chuyện được dẫn giữa Mạnh
Tử và Vạn Chương có lẽ sẽ rất ngạc nhiên được biết rằng người đàm đạo khiêm
nhường với nhà triết học trứ danh ấy, sống khoảng 400 năm trước công nguyên và
suốt đời chỉ suy nghĩ và đàm luận, không phải là ai khác mà là Vạn Chương Đế,
thần của mọi khoa học, người phù trợ cho các học giả và học trò, được tất cả
mọi người Hoa rất mực tôn kính và có ở tỉnh Quảng Châu một trong những đền thờ
nổi tiếng nhất trong khắp Trung Quốc.
Tướng
Guan-goi, sống vào thế kỷ III trước C.N. được phong làm thần chiến tranh
Guan-di vào năm 1594 sau C.N. Hai vị tướng Tsin-Tsiun và Yui-Gshi-Gun, sống vào
thế kỷ VII trước C.N, được phong thần vì đã canh giữ cấm thành tốt không để yêu
ma quấy nhiễu. Quan thượng thư Kai Luseng (sống vào t. k. X tr. C. N.) vì đã
biểu lộ sự tháo vát khác thường trong tang lễ của hoàng hậu, sau khi chết được
phong danh hiệu “thần dọn đường” hay là “thần quét sạch mọi hiểm họa trên
đường”. Cuối cùng, một phụ nữ Trung Hoa đã trực tiếp trở thành nữ hoàng của
trời - “thiên hậu”. Bà là người tỉnh Phúc Kiến và sinh thời chẳng có gì khác
người . Nhưng sau khi bà chết họ hàng của bà loan báo cho hàng xóm láng giềng
rằng hồn bà thường xuyên lui tới nhà họ; từ đấy người ta cho rằng bà đã hoá
thần và đã xây đền thờ bà. Vị nữ thần mới này nhanh chóng trở nên nổi tiếng, và
biên niên sử tỉnh Phúc Kiến kể nhiều chuyện về việc bà cứu sống những người đắm
thuyền ngoài biển trong dông bão. Danh hiệu “Thiên hậu” được chính thức phong
cho vị nữ thần này bởi hoàng đế Đạo Quang.*
Đối với những
đối tượng như tôn giáo dân gian thật khó có thể đưa ra những yêu cầu về tính
nhất quán, tính hệ thống và tính xác định nghiêm ngặt. Với một đính chính như
thế có thể mạnh dạn khẳng định rằng trời của tôn giáo Trung Hoa về thành phần
thực tế của mình là hợp quần của những người Hoa đã quá cố - những người bằng
những đặc tính hay công trạng của mình đã góp phần cho sự hình thành và phát
triển Trung Quốc như là một chỉnh thể chính trị-dân tộc, đã sản sinh
ra nước Trung Quốc theo nghĩa ấy; chính vì thế mà trời là cha của dân tộc
Trung Hoa.
IV
Sự đồng
nhất của quyền lực tôn giáo và quyền lực thế tục ở Trung Quốc - Chế độ thần
quyền bất phân nguyên thủy - Quan lại
như là những tư tế, những người cai trị và thầy của dân
Vốn chỉ là sự
quảng hoá và khái quát quyền của người cha trong gia đình, quyền lực nhà nước
tối cao ở Trung Quốc về thực chất mang tính chủ tế, hay là giáo chủ. Giống như
người cha cá thể của gia đình trước hết là người chủ quản công việc thờ cúng tổ
tiên, cũng đúng như thế, vị chúa tể của gia đình toàn Trung Hoa trước hết là
một chủ tế tối cao và một giáo chủ trong công việc thờ cúng trời, hay là “bách
thần”. Hệt như quyền lực của người cha trong tín ngưỡng dân gian được xem như
là quyền lực của chính tổ tiên, mà sự giao tiếp với họ được duy trì bằng tế lễ
và bói toán, cũng đúng như thế quyền lực
nhà nước tối cao chỉ là hệ quả và thuộc tính của chức năng giáo chủ của ông vua
hoạt động cũng bằng những phương cách ấy - bằng tế lễ và bói toán, với tư cách
một công cụ của trời và trực tiếp hơn của những tổ tiên đã được thần thánh hoá,
tức là những bậc vương giả trứ danh thời cổ cũnh như thời mới đã được kết nạp
vào hàng ngũ “bách thần” - những đại diện của quá khứ toàn quốc gia Trung Hoa.
“Nước Trung Hoa luôn luôn được cai quản và bây giờ vẫn được cai quản bởi ý chí
tưởng tượng của các đế vương đã qua đời - điều này tuyệt đối không thể hồ
nghi.”* Dễ hiểu là các đế vương quá cố có được ý nghĩa như thế không
phải với tư cách những cá nhân riêng lẻ, mà với tư cách những thành viên trong
thành phần của “trời”, những đại diện chủ yếu của hợp quần “bách thần”.
Nếu chế độ
chính trị-xã hội của người Trung Hoa, được quy định toàn bộ bởi yếu tố tôn
giáo, rõ ràng là một chế độ thần quyền, thì tuy vậy sẽ là không chính xác gọi
nó - như Réville đã làm - là chế độ thần quyền thế tục, hay là chế độ thế tục
mang màu sắc thần quyền.** Sẽ là bất công trách cứ
nền quân chủ Trung Hoa mắc cái mà người ta gọi là chủ nghĩa hoàng đế-giáo hoàng
(césaropapisme). Những thuật ngữ như chủ nghĩa thần quyền thế tục hay chủ nghĩa
hoàng đế-giáo hoàng thể hiện sự kết hợp lệch chuẩn hai quyền lực khác nhau, với
sự phục tùng hay là hút thu ít nhiều triệt để một quyền lực bởi quyền lực khác.
Nhưng ngay khái niệm về hai lĩnh vực quyền lực khác nhau: tôn giáo và thế tục
luôn luôn xa lạ và bây giờ vẫn xa lạ với Trung Quốc. ở đây, giữa hai quyền lực
ấy không thể có quan hệ hợp chuẩn hay lệch chuẩn, bởi vì chúng không tồn tại
như là những quyền lực riêng biệt, theo bất kỳ một nghĩa nào và ở bất kỳ mức độ
nào. Theo quan niệm Trung Hoa, quyền lực của giáo chủ là cơ sở đích thực và duy
nhất của quyền lực nhà nước. Khổng Tử, mô tả hai minh quân đời xưa là Võ Vương
và Châu Công có nết cao hiếu rộng, hết lòng chăm lo thờ cúng trời và tổ tiên,
kết thúc câu chuyện của mình bằng ý khái quát sau đây: “Nếu ai biết rõ lễ Giao
(Trời) và lễ Xã (Đất), cũng hiểu nghĩa lễ Đế (năm năm một lần) và lễ Thường
(vào mỗi mùa thu) thì trị nước dễ như xem trong bàn tay.”*
Ông vua là rex
(chúa tể), chỉ vì ông ta là rex sacrorum (chúa tể của các tế lễ). ở đây,
chúng ta bắt gặp một chế độ nhất nguyên nguyên sơ - nền thần quyền bất phân
nguyên thủy. Vua là người trung gian duy nhất giữa trời và nhân quần, là
người cai quản duy nhất và đại diện toàn quyền của trời trên mặt đất.** “Bậc đế vương - sách
thánh Kinh Thư nói - thay thế trời để cai trị muôn dân, dạy bảo họ và
làm gương cho họ.”
Nếu giáo chủ
và đế vương đồng nhất tuyệt đối trong thân nhân thiên tử, thì ở tất cả các cơ
quan quyền lực cấp dưới những chức năng cai trị tôn giáo và thế tục cũng trùng
khít không có một sự phân chia nào. Nước Trung Hoa chính thống không bao giờ
biết và bây giờ vẫn không biết một giới tăng lữ nào khác, ngoài giới quan lại.
Bất kỳ một ông quan nào, cao nhất cũng như thấp nhất, đều đồng thời là thủ lĩnh
tôn giáo của dân trong khuôn khổ quyền hành của mình. Và nếu thiên tử, thâu tóm
vào trong tay mình toàn bộ quyền lực, không chỉ là chủ tế và người cai trị tối
cao, nhưng đồng thời cũng là người thầy của toàn dân, thì cũng đúng như
thế tất cả các quan lại, ngoài những bổn phận tư tế và hành chính-tư pháp của
mình, còn là những sư phụ và những nhà truyền giáo cho nhân dân. Ngay từ thời
thượng cổ những người đứng đầu các xã (mỗi xã gồm 100 hộ), các tổng (mỗi
tổng gồm 500 hộ) và châu (mỗi châu gồm 2500 hộ) đã phải vào những
ngày xác định tập hợp dân chúng dưới quyền của mình để, sau những tế lễ theo
đúng lề luật, thuyết giảng đạo đức cho dân và hỏi han họ về những nhu cầu bức
thiết của họ, bằng mọi cách thể hiện sự quan tâm chăm sóc của người cha đối với
dân. Cũng như thế, những quan lại cấp cao hơn giáo huấn quan chức cấp thấp hơn
và truyền đạt cho họ những chỉ huấn của chính quyền tối cao.
Nhờ nguyên tắc
phụ quyền tuyệt đối của chính thể Trung Hoa, mỗi một thủ lĩnh từ thiên tử cho
đến anh lý trưởng quèn đều có, trong những ranh giới xác định, toàn bộ quyền
lực không chia sẻ của người cha; là cha theo đầy đủ nghĩa của tất cả các
thuộc hạ của mình, họ phải vừa là người chủ tế, vừa là người cai trị, vừa là
người thầy.
V
Mấy nhận
xét bổ sung về sự sùng bái quá khứ như là một nguyên tắc chung của đời sống
Trung Hoa - Nguyên tắc ấy bị đẩy đến cái phi lý trong học thuyết siêu hình của
Lão Tử - Những luận điểm chính của Đạo đức kinh và những mâu thuẫn của
chúng
Chúng ta đã
thấy rằng cả đời sống gia đình lẫn chính thể nhà nước ở Trung Quốc chỉ tuân
theo một nguyên tắc tôn giáo - đó là sự sùng bái quá khứ, sự thần thánh hoá
những người đã chết. Nếu gia đình cá thể tôn thờ quá khứ của mình thông qua tổ
tiên gia tộc, thì cũng hệt như thế, đại gia đình toàn Trung Hoa tôn thờ quá khứ
quốc gia- dân tộc của mình thông qua việc thờ trời hay “bách thần”. Trung gian
liên kết tự nhiên giữa quá khứ được thần thánh hoá và cuộc sống hiện tại của
gia đình là người cha - con người gần gũi nhất với những người đã chết
trong số những người đương sống, ứng viên số một bổ sung cho hàng ngũ “tổ
tiên”; cũng tương tự như thế, trung gian liên kết giữa quá khứ và hiện tại quốc
gia-dân tộc đương nhiên là hoàng thượng - người cha chung của đại gia
đình toàn Trung Hoa, con người duy nhất có quan hệ thẳng và trực tiếp với trời
- con của trời về thực thể.
“Tựa như gia
chủ báo cáo với tổ tiên về những công việc trong gia đình mình, các bậc đế
vương báo cáo với tổ tiên của họ * không chỉ những việc xảy
ra trong hoàng gia,
mà còn về tình hình cai trị đất nước. Thời xưa các quân vương không làm một
việc gì quan trọng mà không bẩm báo trước tổ tiên: dù họ đi thị sát các miền,
hay triệu tập các chư hầu về triều kiến, hay chỉ đi săn, v.v... - bao giờ họ
cũng cho tổ tiên quá cố được tỏ tường trước.”
“Nếu bậc đế vương -Wu-tsy nói - cần phải làm một việc gì đó quan trọng, thì
trước đấy người đến tông miếu, báo cáo với tổ tiên việc mình định làm, rồi xem
xét các thiên triệu có thuận lợi hay không; nếu tất cả đều tiên báo kết
quả tốt lành, thì bậc vương giả mới mạnh dạn bắt tay vào việc.”*
“Việc báo cáo tổ tiên không phải là một thủ tục hình thức trống rỗng và
cũng tuyệt không mang tính phúng dụ: những con người sống, tường trình với những
người đã quá cố về việc này việc kia, muốn được biết chí nguyện của họ, muốn
nhận được từ họ một lời khuyến dụ, một chỉ huấn hướng đạo.”** Và người ta đạt được điều đó bằng bói
toán và bằng nhiều phương thuật khác nhau. Như vậy, được cho biết kịp thời về
hết thảy những gì xảy ra trong gia tộc và biểu lộ chí nguyện có tính bắt buộc
của mình, tổ tiên quá cố thật sự cai quản con cháu đương sống với toàn bộ dân
chúng trên mặt đất.
Nhưng nếu quá khứ thông qua tổ tiên đã qua đời và những đại diện của họ
trong hiện tại - những người cha của các gia đình và cha của quốc gia - thật sự
cai quản đời sống của muôn người; nếu tổ tiên bằng những hành vi cá biệt của
chí nguyện của mình giải quyết từng vấn đề cá biệt của đời sống gia tộc và quốc
gia, thì thể chế và phương hướng chung của đời sống ấy nhận được những chuẩn
mực và lý tưởng cho mình cũng từ quá khứ ấy, từ các vị tổ tiên ấy với tư cách
những hiện thân của minh triết cổ xưa, những người đặt nền móng cho truyền
thống. Người cha của quốc gia với những quan lại có học vấn của mình và
những người cha của các gia tộc không chỉ là những tư tế và những người cai trị, mà còn là những người
thầy truyền bá học thuyết; học thuyết của họ không phải là hư cấu của cá nhân
họ, mà là minh triết cổ truyền, phát xuất từ tổ tiên, từ những nhà hiền triết
đời xưa. Lý tưởng của người Hoa chính cống hoàn toàn nằm trong quá khứ, anh ta
nhìn về phía sau chứ không phải phía trước và nếu, giống như Khổng Tử, anh ta
lo toan thực hiện cải cách này cải cách kia, thì những cải cách ấy trong con
mắt của anh ta chỉ là sự xoá bỏ những cái mới nguy hại, là sự triệt để trở về
với cái cổ xưa.
Nhưng chính chủ nghĩa bảo thủ ấy, chính sự quyến luyến chỉ với những cơ sở
truyền thống của sự sống ấy ở Trung Quốc đã làm điểm phát xuất cho một tư tưởng
tư biện có bản chất thuần tuý trung Hoa, nhưng sự phát triển của nó lại khoét
sâu tinh thần dân tộc đến mức mà mọi động cơ của đời sống thực tiễn đều tiêu
biến, và tất cả các quan hệ con người đều bị hoà tan trong cái bất phân nguyên
thủy. Đạo Trung Hoa, cũng như mọi nguyên lý hữu hạn, nếu dành cho nó một ý
nghĩa tuyệt đối, thì sẽ đi đến cái phi lý và sẽ tự hủy hoại. Sự đưa đến cái phi
lý ấy đối với nguyên lý Trung hoa đã diễn ra trong học thuyết của nhà triết học
vĩ đại nhất và có lẽ là triết gia tư biện duy nhất của chủng tộc da vàng - Lão
Tử.
Với tư cách một triết gia tư biện, Lão Tử tìm kiếm một khởi nguyên tuyệt
đối; với tư cách một người Trung Quốc chính thực ông tìm nó chỉ trong quá khứ -
có nghĩa là ông tìm một quá khứ tuyệt đối, cái quá khứ có trước mọi thứ
trên đời. Cả đối tượng của sự sùng bái cá thể - tổ tiên đã quá cố của gia đình,
cả đối tượng của sự sùng bái của nhà nước - trời hay là bách thần, đều không
thể đáp ứng yêu cầu tuyệt đối: cả tổ tiên lẫn trời chỉ đại diện cho quá khứ tương
đối, bản thân họ đã xuất thân từ một cái gì đó, có ở đằng sau mình một cái
gì đó tồn tại trước họ. Mà cái đòi hỏi phải là cái tồn tại trước tất
cả mọi thứ và
không có gì tồn tại trước mình. Một sự giả định tuyệt đối như thế về tất
cả những gì hữu thực và xác định là sự tìm về cái khả năng thuần tuý,
hay là tiềm năng vô định của sinh tồn, cái tiềm năng vô định ấy tự nó
ngang bằng với hư vô.
“Vạn vật dưới
trời - Lão Tử nói- sinh nơi “có” (hữu), nhưng cái “có” thì sinh nơi “không”
(vô)” *(8) .
Cái sức mạnh
phủ định mọi thứ tồn tại ấy Lão Tử gọi là đạo, có nghĩa gần nhất là con
đường. Vì tất cả đều sinh ra từ hư vô và trở về hư vô, cho nên nó là con đường
chung cho tất cả những gì tồn hữu. “Trở lại là cái động của Đạo; yếu mềm là cái
dụng của Đạo”** Đạo là cái trống không.*** Nhìn nó mà không trông
thấy, nên người ta gọi nó là “Di” (vô sắc), lắng nghe nó mà không nghe thấy,
nên người ta gọi nó là “Hi” (vô âm), bắt nó mà không nắm được, nên người ta gọi
nó là “Vi” (vô hình).**** Khởi nguyên đầu tiên,
tuyệt đối của mọi thứ tồn tại tự nó không có một định tính thực chứng
hay là tính danh nào, nó là cái không thể nói ra hay không thể diễn
đạt. Với tư cách tiềm năng thuần tuý của sinh tồn, hay là con đường mà tất
cả phải đi theo, đạo là mẹ của mọi vật và mọi sinh linh, là “huyền tẫn” (mà
Stanislas Julien dịch là “la femelle mystesrieuse”(9) )*****
Khởi nguyên
tuyệt đối của tất cả là thế nào thì lý tưởng thực tiễn của con người cũng phải
là như thế. Hiểu đạo như là sự không có một cái gì tồn tại hữu thực, Lão
Tử nhất quán khẳng định rằng cả đối với chúng ta, hư vô rõ ràng đáng lựa chọn
hơn sinh tồn. “Kẻ nào không làm gì cả để sống - ông nói - khôn ngoan hơn kẻ cố
làm để sống”.* Nếu đạo là trống không và vô
vi, nếu nó, theo cách nói của Lão Tử, “thường vô vi”, thì lý tưởng của nhà hiền
triết cũng là ở đấy. “Cái duy nhất đáng sợ- Lão tử nói, - là hiếu vi”.** “Người biết đạo
thì không nói, người nói là người không biết đạo. Người biết đạo
thường ngậm miệng, bịt mắt tai, nhụt bén nhọn, bỏ phân chia, hoà ánh sáng, đồng
bụi bậm, ấy gọi là huyền đồng. Người đạt Đạo không thể lấy sự “thân”, sự “lợi”,
sự “quý” mà dỗ, cũng không thể lấy sự “sợ”, sự “hại”, sự “tiện” mà dọn. Vì vậy,
trong thiên hạ không có gì quý hơn con người ấy”*** “Kẻ giữ đạo không muốn
đầy, chỉ vì không muốn đầy, nên mới che lấp được”.**** Vì đạo là vô vi, cho nên
“thánh nhân dùng vô vi mà xử sự”, dùng bất ngôn mà dạy dỗ”*****. “ít nói, để cho tự
nhiên”******. Mà sự vô vi tự nhiên là mục đích chân chính của hiền
nhân hiểu biết rằng “không ham muốn thì lòng điềm tịnh”*******, còn mọi ham muốn và mọi
hành động đều đem lại khổ đau và thiệt hại********.
“Đạo sinh ra
Vật, thấp thoáng mập mờ”*********,vì thế cho nên cả hiền
nhân đắc đạo cũng không thể có những chủ kiến cố định và bất biến - anh ta “lấy
cái lòng của trăm họ làm lòng mình”**********. Anh ta không bước vào
cuộc đấu tranh nào hết*.
Mà việc gì anh ta phải đấu tranh chống lại ai đó hay cái gì đó, nếu mà
anh ta không được có bất cứ một ý kiến hoặc thậm chí một tình cảm xác định nào.
“Trời đất không có nhân, coi vạn vật như loài chó rơm"**. Thánh nhân cũng như thế,
coi trăm họ như loài chó rơm”.
Nhưng nếu,
theo Lão Tử, đối với nhà hiền triết thực thụ cuộc sống của trái tim cũng bị cấm
chỉ như hoạt động thực tiễn, và ở anh ta không thể có động cơ nội tại nào cho
những công việc ấy, thì cũng đúng như thế ở anh ta bị tước đi cả lĩnh vực lý
thuyết - hoạt động trí não. Nhà triết học Trung Hoa hoàn toàn nhất quán về mặt
này. Nếu khởi nguyên chân chính của hết thảy là cái bất phân tuyệt đối, thì để
tái hợp hoặc ứng hợp với khởi nguyên ấy con đường của tư duy và nhận thức là ít
hữu dụng nhất, bởi vì những hoạt động ấy chính là sự thoát ra khỏi trạng thái
bất phân nguyên thủy, sự khẳng định những định tính và khác biệt nhất định. Trí
tuệ tư duy và nhận thức là cực đối lập trực diện với trạng thái đắc đạo.
“Tri giả bất bác, bác giả bất tri”- Lão Tử nói. Nếu con người để cho lòng không
lo nghĩ gì cả, thì sinh lực của nó sẽ không hao mòn. “Tuyệt học vô ưu” (hãy bỏ
việc học, thì sẽ thoát khỏi mọi buồn phiền).
Thái độ thù
địch đối với trí tuệ và khoa học là thuộc tính của nhiều nhà tư tưởng thần bí.
Nhưng ở Lão Tử, một người Trung Quốc thực thụ, cái chủ nghĩa ngu dân có nguyên
tắc này mang tính đặc thù và có một ý nghĩa riêng biệt. Mặc dù say mê với những
suy luận trừu tượng nhất, ông tuy vậy vẫn luôn luôn cảm thấy mình là con của
“trăm họ” và không ngớt suy ngẫm về lợi ích của dân tộc mình. Phủ định trí tuệ
và khoa học, ông không chỉ theo đuổi mục tiêu hoà tan tinh thần cá thể vào cái
bất phân tuyệt đối của đạo, - không, ông còn khuyến nghị cho toàn thể
dân tộc mình một sự dốt nát đơn thuần như là một lý tưởng xã hội chân chính.
Ông khẳng định một cách hết sức cương quyết rằng học thức chỉ làm hại loài
người, và sự cai trị đất nước phải dựa trên sự vô học tuyệt đối của dân*. “Cái trị của thánh nhân
là làm cho dân hư lòng, no dạ, yếu chí, mạnh xương. Thường khiến cho dân không
biết, không ham, khiến cho kẻ tri không dám dùng đến cái khôn của mình. Nếu làm
theo vô vi, thì không có gì là không trị được”**.
“Nếu các vị -
Lão Tử nói với các chính khách - dứt Thánh bỏ Trí thì dân lợi trăm phần, dứt
Nhân bỏ Nghĩa thì dân lại thảo lành, dứt xảo bỏ lợi, thì trộm cắp sẽ không còn
nữa”***. “Nếu tôi cai trị dân thì tuy có giáp binh tôi cũng không
cho dùng đến, bắt dân dùng lại cách gút dây****. Nước gần trông thấy nhau
được, nghe thấy được tiếng gà chó của nhau, mà dân đến già chết vẫn không qua
lại nhau”*****.
ý chí hướng về
sự đơn sơ nguyên thủy ấy quan hệ khăng khít với óc sùng bái quá khứ của người
Trung Hoa nói chung, và sự sùng bái ấy được Lão Tử xác định trên tư tưởng về
cái bất phân nguyên thủy. “Giữ cái Đạo xưa để mà trị cái có của ngày nay. Biết
được cái đầu mối của xưa, ấy gọi là nắm được giềng mối của Đạo”******.
Mọi sự thoát
khỏi trạng thái đơn sơ và hư không nguyên thủy, mọi sự phức tạp hoá
các hình thức
và xác định các quan hệ đều là sự rời xa Đạo và chỉ có thể dẫn đến cái tồi tệ
hơn. Tư duy và nhận thức là cái ác, bởi vì chúng làm sinh sôi nảy nở những ham
muốn và buồn phiền. Luật pháp cũng là cái ác bởi vì càng nhiều luật thì càng
nhiều trộm cướp*. Cuối cùng ngay đạo đức cũng là cái
ác, bởi vì nó chỉ là sự chuyển di từ trạng thái bất phân chân phúc sang sự
cưỡng bức và hà hiếp nhau. “Mất Đạo rồi mới có Đức, mất Đức rồi mới có Nhân,
mất Nhân rồi mới có Nghĩa, mất Nghĩa rồi mới có Lễ. Lễ chỉ là cái vỏ mỏng của
lòng trung tín mà cũng là đầu mối của hỗn loạn”**.
Như vậy, bổ
sung bằng lý luận cho tục sùng bái quá khứ của người Trung Hoa, bằng sức mạnh
vĩ đại của trí tuệ cá nhân có thể nói đào đến nền móng sâu nhất của nhân sinh
quan dân tộc và tảo thanh cái nền móng ấy khỏi những thớ lớp ngoại lai và ngẫu
nhiên, Lão Tử bằng cách ấy đã bóc trần tính thiếu căn cứ cơ bản và hệ trọng của
chủ nghĩa bảo thủ và chủ nghĩa duy truyền thống Trung Hoa. Hư vô hay là bất
phân tuyệt đối với tư cách một nguyên tắc tư biện và phủ định sự sống, tri thức
và tiến bộ với tư cách một kết luận thực tiễn tất yếu - đấy là bản chất của đạo
Trung Hoa được nâng lên thành một hệ thống tuyệt đối và nhất quán. Trao tất cả
quyền hành cho quá khứ, đạo ấy hàm chứa một sự phủ định có nguyên tắc hiện tại
và tương lai của nhân loại.
Học thuyết của
Lão Tử, nâng đạo trung Hoa lên cấp độ một nguyên tắc tuyệt đối, không đòi hỏi
sự bác bỏ: nó tự hủy hoại mình một cách rõ ràng bằng sự bất khả thực hiện những
yêu cầu của chính mình. Trước hết, chính Lão Tử đã không đáp ứng những yêu cầu
ấy. Ông phủ định “ánh sáng của trí tuệ”, song chính ông lại là một nhà tư tưởng
sâu sắc và tinh tế. Ông coi mọi sự học là cội rễ của cái ác, nhưng bản thân ông
lại có nhiều môn sinh và ông đã sáng lập ra cả một trường phái triết học. Ông
ước mơ trở về thời “gút dây”, nhưng tuy vậy đã chăm lo để lại cho đời sau những
tư tưởng của mình bằng một quyển sách với hình thức văn tự đã được cải tiến rất
cơ bản. Sự mâu thuẫn giữa lời nói và việc làm của vị sư phụ này dĩ nhiên còn
chưa phải là lập luận có trọng lượng để phản bác học thuyết của ông. Nhưng
những đòi hỏi của sách Đạo đức kinh, mà Lão Tử đã không thực hiện được,
nói chung mang tính bất khả thi. Thứ nhất, nếu một dân tộc nào đó đã ra khỏi
trạng thái thô sơ nguyên thủy thì cái đó đã xảy ra do những nguyên nhân tự
nhiên nào đó, mà không thể hủy bỏ được chúng chỉ bằng sự truyền giảng chủ nghĩa
ngu dân: đòi dân chúng chối bỏ văn minh và trở về với trạng thái man sơ chẳng
khác nào đòi cây sồi trở lại thành quả sồi. Và thứ hai, ngoài tính bất khả thi
trong thực tế, đòi hỏi ấy cũng không có căn cứ lôgic. Ta cứ cho rằng dân tộc
nào đã đạt được trình độ văn minh nhất định - thì dân tộc ấy đã rời xa đạo
(tức là rời xa trạng thái bất phân tuyệt đối) hơn một dân tộc còn man sơ; nhưng
sự khác biệt ấy rõ ràng chỉ là tương đối. Không chỉ những người còn dùng gút
dây, mà cả những người mọi một trăm phần trăm vẫn cứ ở trong trạng thái không
tương ứng với đạo: họ cũng có tình cảm và ước vọng, họ cũng hành động và
đấu tranh. Lý tưởng bất phân tuyệt đối nhất quán đòi hỏi phủ định không chỉ
cuộc sống văn minh, mà còn mọi cuộc sống nói chung. Một dân tộc khôn
ngoan như người Trung Quốc không thể dừng lại ở một yêu cầu phi lý và hoang
tưởng đến thế. Sự thực hiện thẳng băng và nhất quán tuyệt đối một nguyên tắc
nào đó, dù là nguyên tắc của chính mình, tuyệt không thích hợp với tâm tính
người Hoa*. Nhưng cũng không thích hợp với tâm tính của họ chối từ cái
nguyên tắc cơ bản của mình - sùng bái quá khứ - vì tính phi chân lý nội tại của
nó. Khi triết học Lão Tử đã làm lộ cái mặt cực đoan nguy hại của đạo Trung Hoa,
thì thiên tài của dân tộc ấy đòi hỏi tìm kiếm một sự thoả hiệp giữa
nguyên tắc của chính mình với những điều kiện đời sống thực tiễn. Sự thoả hiệp
ấy đã xuất hiện trong học thuyết của Khổng Tử - người đại diện thực thụ của
minh triết và lý tưởng Trung Hoa.
VI
Khổng giáo
như là một thoả hiệp giữa nguyên tắc tối cao của đạo Trung Hoa và những đòi hỏi
thực tiễn của đời sống - Những đối thủ của Khổng giáo - Những cơ sở của luân lý
Khổng Tử - Câu chuyện giữa cha và con
Kết hợp trong
mình mọi ưu điểm của những hiền giả và thánh nhân đi trước, Khổng Tử, theo lời
Mạnh tử, hơn tất cả họ có khả năng thích nghi với mọi hoàn cảnh**. Chính một con người như
thế đã gánh vác sứ mệnh thực hiện một cuộc thoả hiệp thiết yếu giữa nguyên tắc
trừu tượng của đạo Trung Hoa và những nhu cầu thực tiễn của đời sống dân tộc.
Nhiệm vụ của ông là khôi phục cái cổ xưa dân tộc dưới hình thức mới, quảng đại
hơn, cân đối hơn và có văn hoá hơn. Tôn giáo cổ xưa và đời sống xã hội - nhà
nước mới đã được ông đưa vào một hệ thống mang tính đạo đức-thực tiễn, cổ
truyền và bảo thủ về bản chất, duy lý về hình thức. Ông đã truyền cho truyền
thống sùng bái quá khứ của người Trung Quốc tính luân lý và tính hợp lý cao
hơn, xác lập nó trên nguyên tắc chữ hiếu của người con và ông đã biến nguyên
tắc ấy thành hòn đá nền của toàn bộ chế
độ xã hội và chính trị của đế chế Trung Hoa.
Mặc dù Khổng
Tử là một người Trung Quốc hết mực điển hình và ông hoạt động theo đúng tinh
thần Trung Hoa, tuy vậy sự nghiệp của ông đã không thể không vấp phải sự chống
cự. Sự chống cự ấy xuất phát từ ba phía. Thứ nhất, trong số những người chống
lại sự thoả hiệp của Khổng Tử có những “tư tưởng gia” nghiêm ngặt của đạo Trung
Hoa, và trước tiên là Lão Tử vĩ đại. Khổng Tử là người cùng thời ít tuổi hơn
Lão Tử và có lần đã đến viếng thăm ông thầy già. Nhà hiền triết thần bí đã đối
xử khá khinh bỉ với nhà triết học thực tiễn và gọi toàn bộ hoạt động của ông là
vô bổ, còn Khổng Tử thì khiêm nhường thừa nhận rằng đối với ông nhà truyền
giảng thuyết bất phân tuyệt đối tựa hồ một con rồng không thể theo gót được.
Loại đối thủ khác mà Khổng Tử đã phải đương đầu là những thường dân, những
người ủng hộ tuyệt đối cái status quo (hiện trạng), trung thành với mọi truyền
thống, dù chúng có là ngẫu nhiên đến đâu đi nữa, và mọi mê tín dị đoan. Đối với
họ Khổng Tử, với tất cả óc bảo thủ và sùng cổ của mình, vẫn là một nhà cải
cách, một người cách tân, bởi vì xắp xếp lại những truyền thuyết cổ cho có trật
tự, biến chúng thành một hệ thống hợp lý, ông bằng cách ấy đã biến thái chúng.* Cuối cùng, những đại diện
của chủ nghĩa độc tài nhà nước cũng đứng dậy chống lại Khổng Tử, bởi vì họ
không muốn sự chuyên quyền của mình phải bị chi phối bởi những yêu cầu mang
tính luân lý. Sinh thời Khổng Tử đã phải lưu lạc từ triều đình nước chư hầu này
sang triều đình nước kia mà không tìm được sự ủng hộ ở đâu cả, hơn thế nữa 250
năm sau khi ông đã mất hoàng đế Tần Thủy Hoàng đã ra lệnh đốt hết tất cả các
kinh sách chính của đạo Khổng và xử tử gần 400 môn đệ của Khổng Tử. Sau thử
thách ấy, với sự lên ngôi của triều đại mới, Khổng giáo đã trở thành tôn giáo
và triết học nhà nước của Trung Hoa và vẫn giữ nguyên vị trí ấy cho đến ngày
nay.
Là một người
Trung Quốc điển hình, Khổng tử trước hết ái mộ cái cổ xưa. “Đức Khổng Tử nói
rằng: ta đem kinh sách của thánh hiền mà truyền lại cho đời sau, chứ ta chẳng
có làm ra. Ta tin tưởng và hâm mộ đạo lý người xưa”.* “Chẳng phải ta sinh ra tự nhiên hiểu
biết đạo lý. Thật ta là người hâm mộ kinh thư của thánh hiền đời xưa, cho nên
ta cố gắng mà tầm học đạo lý”** .“Đạo
lý của ta - Khổng Tử nói ở chỗ khác- chính là đạo lý mà người đời xưa đã dạy
bảo và để lại. Ta không thêm bớt một tí gì, mà truyền đạt nó trong dạng thuần
khiết nguyên thủy. Đạo lý ấy bất di bất dịch vì nó là của trời”. Một lần Khổng
Tử dạo chơi dọc bờ sông và chốc chốc dừng lại nhìn nước chảy. Khi người ta hỏi
ông nhìn thấy gì kỳ thú ở dòng nước, Khổng Tử đáp: “Dòng nước chảy ở con sông
thiên tạo hay nhân tạo là điều rất đơn giản ai ai cũng biết nguyên do, nhưng
cái không ai biết ấy là sự giống nhau giữa dòng nước với đạo lý người đời xưa.
Nước sông chảy không ngừng, chảy ngày đêm, cho đến khi đổ vào biển cả. Đạo lý
thánh hiền của Nghiêu-Thuấn cũng chảy không ngừng cho đến chúng ta; ta hãy tiếp
sức cho nó chảy tiếp đến con cháu chúng ta, rồi con cháu chúng ta lại tiếp sức
cho nó chảy tiếp đến con cháu của chúng, và cứ thế không bao giờ ngừng”.
Trong đạo lý của người đời xưa Khổng Tử không tìm thấy tư tưởng về cái bất
phân tuyệt đối, mà Lão Tử đã nghĩ đến và đã trầm tư mặc tưởng về nó. Xuất phát
điểm của thế giới quan Khổng Tử là sự “phân đôi” của Đạo - cái thuyết nhị
nguyên về hai sức mạnh chủ động và thụ động, Dương và Â m, đã
làm cơ sở cho cuốn sách bói linh thiêng của người Trung Hoa - Kinh Dịch.
Hai sức mạnh ấy, trong sự phân đôi cụ thể của chúng hiện ra như trời và
đất, liên kết lại cụ thể với nhau trong con người. Con người có
thể được hưởng sự sóng và hạnh phúc chỉ với tư cách một sinh thể xã hội. Hình
thức cơ bản của đời sống xã hội là gia đình, mà rường cột của gia đình
là đức hiếu của con cái. Trung thành với di huấn của người đời xưa, Khổng Tử
đòi hỏi đức hiếu ấy không được giới hạn bởi cha mẹ đương sống, mà phải bao hàm
cả tổ tiên đã mất. Tuy nhiên, đối với ông, cái mặt này của vấn đề không giữ nguyên
vẹn ý nghĩa xưa của nó. Niềm tin nguyên thủy vào tính hữu thực đầy đủ của thế
giới bên kia, mặc dù không bị Khổng Tử trực tiếp phủ định, nhưng tự nó không có
sức mạnh gì đối với trí tuệ của ông và ông chỉ quan tâm đến những hiệu quả đạo
đức-thực tiễn của nó. Khi những môn đệ hỏi ông, linh hồn những người đã chết có
sống hay không, ông trả lời: “... nếu nói vẫn sống thì không khéo những con
cháu có hiếu sẽ khuynh gia bại sản vì cúng tế tổ tiên, nhưng nếu nói không sống
thì không khéo bọn con cháu bất hiếu sẽ để cho cha mẹ chết mà không chôn cất”.
Từ đó mà có kết luận như thế này: “Khi
cúng tế tổ tiên thì phải rất mực cung kính, dường như có tổ tiên hiện về. Khi
cúng tế thần minh thì cũng rất mực cung kính, dường như có thần minh hiện về”.*
Vô luận thế nào đi nữa thì tổ tiên xa xôi không chiếm vị trí quan trọng
trong đạo đức học của Khổng Tử. Đạo hiếu của con cái ở đây được tập trung chủ
yếu vào cha mẹ trực tiếp. Khổng Phu-tử nói: “Khi cha mình còn sống, thì phải
noi theo chí hướng, ý tứ của cha mình. Khi cha mình mất đi rồi, thì nên để ý
đến những việc làm của người. Cha mình mất trong ba năm mà mình chẳng đổi đạo
nghệ của cha, đó mới gọi là con có hiếu”.*
Để bạn đọc hình dung được sống động hơn cái nhìn của người Trung Quốc về
nguyên tắc cơ bản ấy của tôn giáo và luân lý của họ, xin dẫn ra ở đây từ cuốn
sách của ông Georgievsky một đoạn đàm thoại giữa con và cha trong vở kịch Truyện
ống sáo của Pi Pa-tsi (người cha khuyên con trai lên kinh đô để học hành đỗ
đạt cao nhất; người con trai ái ngại từ giã bố mẹ già nua và người vợ trẻ của
mình).
Cha (nói với con):
- Con chỉ nghĩ
đến những thú vui của cuộc sống vợ chồng mà không sợ làm trái ý cha.
Con (quỳ gối và ngước mắt lên trời);
- Trời hỡi!
Con mà lại làm trái ý cha?! (Đứng dậy). Hỡi thân phụ thân mẫu của con,
làm sao con có thể trái ý thân phụ thân mẫu? Con xin nhắc lại: cái giữ con ở
lại nhà chỉ là tuổi cao của cha mẹ. Cha ơi, cha cứ thử tưởng tượng, mà cái đó
có thể xảy ra lắm, nếu quê ta bị lũ lụt, thì mọi người sẽ nói gì? Ban đầu họ sẽ
bảo rằng con trai của cha mẹ bất hiếu, bỏ cha già mẹ héo ở nhà để theo đuổi
công danh mà chẳng biết có được gì không. Sau đó người ta sẽ chê trách chính
cha mẹ đã bất cẩn, chỉ có một đứa con trai duy nhất mà lại không để ở nhà, bắt
đi lên kinh đô với biết bao rủi ro nơi viễn xứ! Càng nghĩ con càng thấy khó
thực hiện chí nguyện của cha.
C h a:
- Có thực hiện
chí nguyện của cha hay không - cái đó tuỳ thuộc vào con; nhưng con hãy nói vắn
tắt con hiểu đạo hiếu là cái gì?
M ẹ (giọng bực bội):
-Trời ơi! Ông
sống đã quá tám mươi tuổi mà còn chưa biết đạo hiếu là cái gì ư? Có nghĩa
là con phải dìu dắt cha già như dìu dắt trẻ nhỏ vậy!
Cha (giọng khiêm nhường):
- Mẹ nó muốn
nói cái gì thế?
Con:
- Cha ơi, con
xin trả lời câu hỏi của cha. Bổn phận của con cái đối với cha mẹ là như sau:
người con phải chăm lo sao cho cha mẹ mùa hè cũng như mùa đông có đầy đủ tiện
nghi trong cuộc sống hàng ngày; buổi tối nào cũng phải sửa gường cho cha mẹ;
mỗi sáng, hễ có tiếng gà gáy đầu tiên, là phải kính cẩn hỏi han tình hình sức
khoẻ của cha mẹ; ngày ngày phải nhiều lần hỏi cha mẹ có bị nóng hay lạnh; hễ
cha mẹ đi đâu thì phải đỡ đần. Cha mẹ kính trọng cái gì, con cái phải kính
trọng cái đó; cha mẹ yêu thích cái gì, con cái phải yêu thích cái đó, kể cả
ngựa và chó. Khi cha mẹ còn sống, người con trai không được rời khỏi nhà cha mẹ*. Người đời xưa nghĩ về
đạo hiếu của con cái như thế và đã làm như thế.
Cha:
- Con trai của ta ơi! Những bổn phận mà con vừa kể ra là những bổn phận sơ
đẳng nhất. Đạo hiếu có nhiều mức độ, và con còn chưa nói đến những yêu cầu cao
nhất, đến cốt lõi của chữ hiếu.
Mẹ: (giọng bực bội)
- Khổ thay! ông đã chết đâu; hãy chờ đã - chỉ khi chết rồi thì ông mới có
quyền đòi
con ông thực hiện những bổn phận cuối cùng, như sách Hiếu Kinh đòi
hỏi. Còn bây giờ chỉ là chuyện có lên kinh đô theo học hay không.
Cha:
- Con trai ơi, hãy nghe cha đây. Mức đầu tiên của đạo hiếu đòi hỏi phụng
dưỡng cha mẹ, mức thứ hai - phụng sự
quân vương, mức thứ ba - đoạt được quyền cao chức trọng. Giữ gìn thân thể được cha
mẹ cho, tránh tất cả những gì có thể phương
hại thân mình - đó là khởi đầu của đạo hiếu. Giành được quyền cao chức trọng,
hành động theo
đạo lý của
thánh hiền, để lại thanh danh muôn thuở làm hiển vinh cha mẹ của mình - đó mới
là điểm kết, là tuyệt đỉnh của đức hiếu. Ai vì cha già mẹ héo mà không dốc sức
đạt công thành danh toại, người ấy chưa thật là có hiếu. Nếu con làm nên công
trạng, được thăng quan tiến chức và biến túp lều cỏ này của cha mẹ thành dinh
thự lộng lẫy thì con mới làm tròn mọi bổn phận của mình. Đây là ý kiến cuối
cùng của cha.”*
VII
Vai trò chủ
đạo của lễ giáo trong luân lý nho gia - Sự thiếu vắng “những biểu hiện cực
đoan của chủ nghĩa vị tha” - Dụ ngôn về người rơi xuống giếng
Lan rộng bằng
những vòng đồng tâm từ bếp gia đình đến ngai vàng của người cha của cả nước,
chữ hiếu tạo thành nội dung cơ bản của đạo đức Khổng giáo, tức là đạo đức của
toàn Trung Quốc. Mà hình thức tất yếu của đạo đức ấy thì được trình bày trong
hệ thống các nghi lễ hay là lễ thức (lễ theo tiếng Trung). Nếu Khổng tử
nói: “Ta nhờ để tâm quan sát, bắt một mối mà thông suốt tất cả”*, ngụ ý cái đầu mối ấy là
chữ hiếu của con cái, thì cũng Khổng Tử ấy nói: “Ôi! Đạo của bậc thánh nhân lớn
thay! Đạo ấy mênh mông như biển cả, nó sinh hoá và dưỡng dục tất cả vạn vật
trong vũ trụ... Đạo ấy rộng lớn, đầy đủ thay! Nó bao gồm tất cả ba trăm điều lễ
nghi và ba ngàn điều uy nghi”**. Xa lạ với mọi yếu tố
huyền bí, mọi cảm hứng xuất thần, đạo Khổng đòi hỏi ở con người không phải sự
tái sinh tinh thần, không phải sự thay đổi nội tại toàn bộ tâm thức của mình,
mà chỉ sự tuân thủ một hệ thống nhất định và bất biến của những nguyên tắc quy
định những quan hệ bên ngoài của nó với tất cả các giới xã hội mà nó sống trong
đấy, bắt đầu từ gia đình. Bậc thánh hiền đã nói: “Chẳng biết lễ, thì không thể
đứng được với người” (Bất tri lễ, vô dã lập giã)***. Còn ngài muốn nói cụ thể
đến ý nghĩa của những nghi thức hay lễ thức nào, cái đó có thể thấy được từ
đoạn sau đây trong sách Lễ Ký, hay là Kinh Lễ mà ngài san định.
“Nếu không tuân thủ lễ tiết được thiết lập từ đời xưa, hoặc thậm chí huỷ bỏ
chúng, thì tất cả đều sẽ lẫn lộn và hỗn loạn.
Bỏ đi lễ cưới xin thì sẽ không còn vợ chồng, và thói trụy lạc với tất cả
các tội lỗi sẽ phát triển. Bỏ đi lễ uống rượu (sau khi cúng tế), thì sẽ không
còn phân biệt được lớn bé, trẻ già, mọi người sẽ cãi cọ, ẩu đả nhau. Bỏ đi lễ
an táng và cúng tế (trên mộ), thì con cái sẽ không còn chăm sóc cha mẹ đã mất
nữa, thậm chí không chịu phụng dưỡng cha mẹ còn sống. Huỷ bỏ lễ pin-tsin, thì
không còn phân biệt được vua với tôi, các chư hầu sẽ lộng hành, cưỡng bức và hà
hiếp lê dân”. Vì thế mà: “Cái gì không hợp lễ thì đừng ngó, cái gì chẳng hợp lễ
thì đừng nghe, cái gì không hợp lễ thì đừng nói, cái gì chẳng hợp lễ thì đừng
làm” (phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động)*.
Vai trò hệ
trọng quá mức của yếu tố lễ tiết truyền cho toàn bộ thể chế đạo đức của người
Trung Hoa tính máy móc và đồng thời để lại không giảm thiểu những dị tật tinh
thần chính của dân tộc ấy. Trong những lời dạy của Khổng Tử, bên cạnh sự đề cao
nhiều lần và quá mức tầm quan trọng của lễ tiết và nghi thức, chúng ta không
tìm thấy một lời nào lên án sự giả dối và sự nhẫn tâm. Tinh thần đề cao lễ tiết
một chiều luyện cho con người thói quen lấy vẻ bề ngoài thấy được thay thế thực
chất, thậm chí còn tạo điều kiện cho tính đạo đức giả, tính giối trá phát
triển. Còn nếu nói về sự nhẫn tâm thì không có một chỉ huấn có tính nguyên tắc
nào chống lại nó trong đạo lý Trung Hoa (Khổng giáo), đạo lý ấy chỉ thừa nhận
những nghĩa vụ xác định đối với loại người này hay loại người kia, chứ tuyệt
đối không phải đối với con người nói chung. Chính ông Georgievsky cũng phải
thừa nhận điều này, bất chấp sự say mê của mình với đạo Trung Hoa. Ông nhận
định như sau về nhân sinh quan đạo đức của dân tộc mà ông ái mộ: “Con người
phải nhìn thấy mục đích cao nhất của đời mình ở sự vinh hoa phú quý cá nhân
(chủ nghĩa ích kỷ lý thuyết tối cao); nhưng đích ấy chỉ có thể đạt được trong
trường hợp, nếu con người trong thực tế tỏ ra ít ích kỷ nhất trong quan hệ với
mọi người xung quanh, bắt đầu từ cha mẹ của mình. Con người phải thấm nhuần
tình yêu trước hết đối với cha mẹ mình**. Tự xác định vững vàng
trong tình yêu đối với cha mẹ, con người sẽ thấy cần thiết và sẽ biết yêu
thương cả những người xa lạ với mình. Đây chính là những cơ sở đạo đức được chỉ
ra trong triết học Khổng giáo. Theo triết học ấy con người không được là kẻ ích
kỷ thực tiễn hẹp hòi phiến diện mà cũng không được sa vào những biểu hiện
cực đoan của chủ nghĩa vị tha - con người phải luôn luôn nhớ rằng nó chỉ có
thể đạt được thể sung mãn của chủ nghĩa ích kỷ cao nhất, mang tính nguyên tắc,
bằng cách biết giới hạn mình vì người
khác. Người theo đạo Khổng xa lạ với đòi hỏi cơ bản của đạo Kitô - đòi hỏi đã
tin thì phải yêu Thượng Đế và đã yêu Ngài tức là yêu thương tất cả mọi người
như chính bản thân mình - đạo lý Khổng giáo về cơ bản mang tính triết học thực
dụng (sự bảo toàn tốt nhất tính chủ thể của con người chỉ hữu khả với điều kiện
giữ gìn quan hệ tốt nhất với tất cả các khách thể). Đạo lý ấy, ban đầu được lý
luận chỉ ra, dần dần thẩm thấu tinh thần nhân dân Trung Quốc, trở thành cái khả
thi trong thực tiễn, và trong cả một chuỗi dài thế kỷ càng ngày càng được khẳng
định vững chắc hơn, có thể nói từ lý thuyết đã biến thành một thực tại văn hoá
- bản năng. Đạo Khổng quy tất cả quan hệ của con người với những người khác về
năm loại: quan hệ với cha mẹ, với anh em (và những người thân khác), với vợ,
với bằng hữu (hiểu trước tiên là những thành viên của một hiệp hội, phường hội,
tập đoàn v. v..), với vua chúa (với tư
cách đại diện của quốc gia). Động cơ của những quan hệ thực chứng - thực dụng
ấy, theo bản chất của triết học Khổng giáo, là khát vọng vinh hoa phú quý của
con người. Pietas erga parentes (lòng tôn kính cha mẹ) khiến con người khẳng
định mình vững chắc trong tình yêu nguyên khởi, công lý nguyên khởi và tính chủ
động nguyên khởi và bằng cách ấy bảo đảm cho anh ta vị trí xã hôị xứng đáng
trong cuộc sống; ở anh em và họ hàng thân thuộc, con người một mặt có hòn đá
thử vàng cho những phẩm chất xã hội của mình, mặt khác, có chỗ dựa trong những
tai ương hay rủi ro của cuộc đời; tình yêu thủy chung giữa vợ chồng bảo đảm cho
con người sự thoả mãn tốt nhất bản năng tính dục; tình bạn chân thành với những
người mà anh ta có quan hệ công việc với họ làm cho những quan hệ ấy được vững
chắc và ổn định; lòng trung thành và sự phục vụ tận tụy vua chúa (đại diện cho
quốc gia) cần thiết cho con người (với tư cách một công dân và đặc biệt một
viên chức), bởi vì những đức tính ấy phục vụ cho sự thịnh vượng của đất nước mà
trong đó bản thân con người ấy sống với cha mẹ, vợ con và họ hàng của mình. Còn
nếu nói về tầm quan trọng tương quan giữa những phạm trù ấy thì người Trung
Quốc không biết đến sự quá độ từ cái chung sang cái riêng - anh ta xem phạm trù
thứ nhất (cái riêng) là quan trọng nhất, lấy nó làm cơ sở nguyên khởi và từ nó,
theo trật tự những vòng đồng tâm, phát triển những phạm trù khác, cho rằng con
người không yêu cha mẹ thì không thể yêu anh em của mình, không yêu cha mẹ và
anh em mình thì không thể yêu vợ, yêu bạn bè và tổ quốc. Khi người Trung Quốc
bước vào đời sống xã hội và thiết lập quan hệ với những người ngoài gia đình
mình, anh ta không phải do dự trong việc lựa chọn những nguyên tắc làm kim chỉ
nam cho hành động, bởi vì những nguyên tắc ấy đã có sẵn - con người phải tâm
tâm niệm niệm rằng những người thân thích, và trước hết cha mẹ của anh ta có
quyền được anh ta yêu chuộng và biểu hiện sự yêu chuộng ấy bằng mọi cách, - nếu
phải lựa chọn thì anh ta dứt khoát phải hy sinh lợi ích của bạn bè cho lợi ích
của họ hàng và đặc biệt của cha mẹ...Tình yêu phổ quát đối với nhân loại xa lạ
đối với người Trung Quốc - họ (trừ những ngoại lệ hãn hữu) không biết đến đạo
Kitô, không theo đạo Phật truyền bá tình thương đối với tất cả (chủ nghĩa vị
tha phổ quát) vì coi nhẹ sự sống, không đề cao học thuyết của Mặc Tử*, hiểu rằng học thuyết ấy
rất bấp bênh. Không nhìn thấy cơ sở cho tình yêu phổ quát, người Trung Quốc xem
nó là vô căn cứ về mặt lý thuyết, còn về mặt thực tiễn thì, theo trình tự những
vòng đồng tâm của các quan hệ (cha mẹ, gia tộc, xã hội, tổ quốc, nhân loại) -
là bất cập đối với con người; họ cho rằng con người cá thể chỉ có thể là người
vị tha phổ quát, khi mà anh ta xem nhẹ những bổn phận trước tiên của mình đối
với cha mẹ (gia tộc, xã hội, tổ quốc) và như thế là rơi vào chân không. Không
có cảm hứng yêu quý nhân loại và nhìn thấy mục đích cuộc đời ở vinh hoa phú quý của cá nhân, người Trung
Quốc cảm thấy được thoả mãn nội tại, bởi vì anh ta luôn luôn tâm niệm rằng chỉ
có thể đạt được hạnh phúc cá nhân ấy bằng sự kết hợp nó một cách cân đối với
hạnh phúc của các khách thể (cha mẹ, họ hàng, vợ con, bạn bè, đồng bào). Người
Trung Quốc không hiểu được ngay khả năng coi xem tất cả mọi người như là anh em
của mình và yêu thương họ như yêu thương bản thân mình, không hiểu được cả khả
năng thừa nhận ở tất cả mọi người phẩm giá con người; dưới từ “con người”
anh ta chỉ hiểu con người có văn hoá, biết sống trong xã hội, còn đối với những
cá nhân đã đánh mất nhân phẩm và đứng ra ngoài thể chế xã hội (những phạm nhân,
những người ăn xin, v. v...) thì anh ta đối xử không khác gì với những con vật,
mà lại những con vật độc hại”.*
“Mỗi một người
Trung Quốc đơn lẻ là con người như thế nào? - Ông Georgievsky hỏi tiếp - Đó là
một nho sĩ trong lý thuyết (thường hay bắt gặp nhất), còn trong thực tiễn thì
(hầu như luôn luôn) đó là con người xem phú quý vinh hoa cá nhân là mục đích
cuộc đời mình và để đạt được đích ấy dùng đạo hiếu như là phương tiện cơ bản,
quy định tất cả các phương tiện khác. Triết lý Khổng giáo chiếm lĩnh tâm
trí người Trung Quốc và họ hoàn toàn đồng tâm nhất trí với nhau trong những
quan niệm cơ bản về cuộc sống và nội dung của nó. Những đơn vị đồng nhất về bản
chất tinh thần là những thành tố hữu cơ của các nhóm xã hội hình thành trên
những cơ sở khác nhau. Mỗi một người Trung Quốc trước hết gắn bó với họ hàng
của mình (mức độ gần xa được quy định bởi mức độ để tang), thứ hai, với những
thành viên của các phường hiệp (tập đoàn, công ty, hiệp hội, v. v...) mà anh ta
thuộc về đấy theo nghề nghiệp và thứ ba, với những cư dân của làng, thị trấn,
thị xã, tổng của mình, v. v...”**
“Nếu người
Trung Quốc nào, do không biết tự quyết đầy đủ và không có năng lực là luật pháp
cho chính mình***, bắt đầu bộc lộ những
tính chất phản xã hội và hướng ý chí của mình vào hoạt động có thể xâm hại đời
sống hoà điệu của nhóm xã hội****, thì những thành viên của
nhóm ấy lập tức có những biện pháp để triệt tiêu cái hoạ ấy hay ít nhất để cho
nó không thoát ra khỏi tầm kiểm soát của họ. ở Trung Quốc cả chính phủ lẫn công
luận đều đối xử rất nghiêm khắc với những phạm nhân, và người ta không quan tâm
đặc biệt đến việc giữ gìn cuộc sống và sức khoẻ của chúng. - Người Trung Quốc
thủ tiêu những phần tử phản xã hội, thiếu nhân đạo(!) và văn hoá một cách hăng
hái chẳng khác nào nhổ cỏ dại trên đồng lúa”*.
Đối xử với
những tội nhân và những người ăn xin như với cỏ dại, người Trung Quốc được
Khổng Tử giáo dục cũng xa lạ với “những biểu hiện cực đoan của chủ nghĩa vị
tha” (theo cách nói tuyệt hay của ông Georgievsky) cả trong cách ứng xử với
những người không mâu thuẫn với thể chế xã hội, mà chỉ lâm vào hoạn nạn ngẫu
nhiên. Họ thấy trái lẽ thường không chỉ ý tưởng về tình yêu phổ quát đối với
nhân loại, mà ngay cả ý tưởng tự hy sinh nói chung. Đạo đức của họ hữu hạn
không chỉ về thể tích của đối tượng, mà còn cả về mức độ những yêu cầu của nó.
Liều thân hòng cứu sống một đồng loại của mình, theo học thuyết của Khổng Tử,
là sự điên rồ.
“Ông Tể Ngã
hỏi đức Khổng Tử: “Nếu có người đến báo với nhà nhân đức rằng có kẻ ngã xuống
giếng, nhà nhân đức có nhảy xuống giếng mà cứu chăng?” Đức Khổng Tử đáp: “Sao
lại vậy? Người quân tử đứng xa mà tìm cách cứu, chứ chẳng nên nhảy xuống giếng
mà hại thân mạng mình. Người quân tử có thể bị can ngăn bởi những lời có lý,
chứ không thể bị mê hoặc bởi những điều vô lý”**.
Chủ nghĩa vị
kỷ, được điều tiết bởi óc khôn ngoan, được hạn chế (một phần bằng bản năng, một
phần bằng cưỡng chế) bởi sự cấu kết với những nhóm xã hội, mà số phận của từng
cá nhân con người phụ thuộc vào những tập thể ấy - đó là nhân sinh quan đạo đức
của người Trung Hoa. ở điểm này, họ trung thành với nguyên lý chung của mình.
Thừa nhận chân lý tuyệt đối chỉ ở trong quá khứ, ở cái đã được cho, họ tất yếu
phải bác bỏ những yêu cầu của tình yêu và tình đoàn kết phổ quát - chúng là lý
tưởng của tương lai.
VIII
Đánh giá lý
tưởng Trung Hoa - Chân lý cơ bản của nó - Tính hạn hẹp của văn hoá trung Hoa -
Chính người Trung Quốc không thoả mãn với tôn giáo chính thống của họ - Đạo
giáo và Phật giáo Trung Hoa
Người Trung
Quốc không chỉ mơ tưởng, giống như các dân tộc khác, về thế kỷ hoàng kim rực
sáng trong quá khứ xa xăm, mà họ còn
bằng mọi cách gắng sức kéo dài vô tận cái thế kỷ hoàng kim ấy. Thừa nhận ở bên
trên mình quyền lực của chỉ một quá khứ, họ chối từ tư duy sáng tạo, chối từ
sáng kiến chủ động, đè nén trong mình mọi ước mơ về một tương lai khác, tốt đẹp
hơn. Giữ nguyên vẹn bất biến cái thể chế đời sống mà cha ông để lại và chuyển
giao nó cho các thế hệ mai sau, không thêm bớt một tí gì - đó là thực chất
của minh triết Trung Hoa, cái minh triết rõ ràng bảo thủ và sùng cổ, có thể nói
nệ cổ. Người Trung Quốc thừa nhận tính hoàn hảo chỉ ở cái đã qua, tôn giáo và
đạo đức đối với họ hoà làm một trong sự sùng bái cái trật tự đã có, đã được
thiết lập một lần và vĩnh viễn. Những người quá cố - từ cha ông đã mất cho đến
bách thần trên trời - đó là đối tượng thực thụ của tôn giáo công cũng như tôn
giáo tư; tôn kính bề trên, tuân phục những người đại diện cho trật tự truyền
thống - từ người cha của gia đình cho đến hoàng đế của thiên hạ - đấy là nền
móng của đạo đức cá nhân cũng như đạo đức xã hội. Trên cái nền móng bất di bất
dịch ấy từ ngàn xưa đã được thiết lập một trật tự tôn ti cân đối, bao trùm tất
cả các quan hệ trong cuộc sống và được gia cố bằng một hệ thống nghi lễ phức
tạp. Thừa nhận trên thực tế cái trật tự ấy, tuân thủ một cách chuẩn xác những
lễ tiết ấy - đấy là tất cả những gì mà người Trung Quốc đòi hỏi ở mình để có
được sự an khang thịnh vượng cá nhân và quốc gia. Vì lẽ công bằng cần phải nói
thêm rằng, mặc dù triết học Khổng giáo (ít nhất những kiến giải mới nhất về
nó), như chúng ta đã thấy, quy lý tưởng bảo thủ Trung Hoa về nguyên tắc chủ
nghĩa vị kỷ lý thuyết, nhưng trong quần chúng nhân dân sự thực hiện lý
tưởng ấy tất yếu đòi hỏi những bản năng và tình cảm đạo đức-xã hội (vị tha chủ
nghĩa), tồn tại không phụ thuộc vào những suy tính duy lợi. Sự phụng dưỡng tổ
tiên và bề trên sẽ không thể được mọi người thực hiện như là một bổn phận, nếu
không có sự gắn bó với những tổ tiên và những người bề trên ấy. ở Trung
Quốc có vô số tác phẩm văn học ca ngợi lòng hiếu thảo của con cháu và lưu
truyền cho muôn đời những tấm gương lịch sử về lòng hiếu thảo tận tụy nhều khi
đi đến mức tự hy sinh ấy. Cả sự cúng tế tổ tiên đối với một người Trung Quốc
mẫu mực không chỉ là việc cử hành một nghi lễ bắt buộc, mà còn kết hợp với
những cảm xúc nội tâm tương ứng, mà cường độ của chúng nhiều khi đạt tới mức họ
cảm thấy (hay là có ảo giác) tiếp xúc trực tiếp với cha ông đã quá cố. Về điều
này, chúng ta có thể đọc trong sách Lễ Ký một đoạn như sau: “Người con
có hiếu (trước khi làm lễ cúng tế tổ tiên) tập luyện trai giới, bên ngoài cũng
như bên trong. Trong những ngày trai giới ấy anh ta nhớ lại cuộc đời của tổ
tiên quá cố, ánh mắt và nụ cười của họ, vẻ mặt và những lời nói của họ, suy
nghĩ về những dự kiến và hoạch định của họ, hồi tưởng lại tất cả những gì họ ưa
thích và làm cho họ vui lòng. Trai giới như vậy ba ngày, anh ta nhìn thấy tận
mắt những người mà anh ta sẽ tế lễ. Trong ngày tế lễ, khi anh ta bước vào nhà
thờ tổ tiên, anh ta trông thấy cha mẹ đã quá cố mỗi người ngồi ở chỗ của mình.
Ngoảnh lại và tiến đến cửa, anh ta kính cẩn lắng nghe tiếng nói của họ, bước ra
ngoài cửa nghe thấy những tiếng thở dài, anh ta nhận ra tiếng thở dài của cha
mẹ mình. Vì vậy mà đức hiếu của các bậc vương giả đời xưa thể hiện ở việc họ
luôn luôn nhìn thấy trước mắt mình hình ảnh song thân quá cố, lắng nghe tiếng
nói của họ, không bao giờ sao lãng những chí nguyện và dự kiến của họ. Được yêu
kính hết mực như vậy, tổ tiên hiển hiện trước con cháu... Khi Văn Vương làm lễ
cúng tổ tiên, ông phụng sự người đã mất như họ đương sống, ông suy nghĩ về
những người quá cố y như ông không muốn sống trên đời này nữa”.*
Nếu một mặt lý
tưởng Trung Hoa, toàn bộ hướng về quá khứ, tự nói lên rằng ở trong nhân dân
Trung Quốc có một tình cảm gắn bó đặc biệt với tổ tiên, thì mặt khác, bản thân
tình cảm ấy được phát triển và củng cố nhờ sự khẳng định một cách có ý thức và
bằng luật pháp cái lý tưởng sùng cổ ấy: nó giáo dưỡng ở người Trung Quốc cái
chủ nghĩa vị tha đặc thù của họ. Thành công của sự giáo dưỡng ấy tất nhiên
không nên khuyếch đại. Hoàng đế Văn Vương cũng như những người con kiểu mẫu mà
tấm gương được kể lại trong các sách giáo huấn chuyên nói về đạo hiếu của con
cái, xưa kia cũng như ngày nay vẫn là những ngoại lệ hiếm hoi (nếu không thì họ
đã không được tôn vinh đến thế, không được phong thánh phong thần như thế).
Trong đa số trường hợp trật tự gia trưởng được bảo tồn bằng những tình cảm trìu
mến thì ít ơn, mà bằng những hình phạt tàn nhẫn thì nhiều hơn. Chính ông
Georgievsky thành thật liệt kê những hình thức hành hạ và các kiểu tử hình đa
dạng mà những người Trung Quốc nam và nữ đã vi phạm nghĩa vụ gia đình của mình
phải chịu đựng. Nhưng để đánh giá lý tưởng Trung Hoa chúng ta sẽ không dừng lại
ở cái thực tại cục bộ không tương hợp với nó; ta hãy xét thực chất của cái lý
tưởng ấy và những kết quả chung mà dưới sự tác động nhiều thế kỷ của nó dân tộc
Trung Hoa đã đạt được.
Lý tưởng sùng
cổ Trung Hoa tự nó chứa đựng cơ sở của mọi chân lý và mọi đạo lý.
Quá khứ trước
hết có quyền được ta tôn kính. Chúng ta không tự mình bắt đầu cuộc sống của
mình, chúng ta nhận được nó từ cái tồn tại trước chúng ta, nhờ ơn quá
khứ, nhờ ơn tổ tiên mà chúng ta có được sự sống. Không công nhận sự lệ thuộc ấy
và không hoàn trả món nợ ấy của chúng ta đối với quá khứ thì chúng ta, theo
phán xét của lương tri, không có quyền sống. Gìn giữ quan hệ với tổ tiên đã quá
cố và thờ phụng họ, không thể hồ nghi, là bổn phận đầu tiên của tất cả
những người đương sống. Chỉ phải hỏi, bằng cách nào thực hiện được tốt
nhất bổn phận ấy? Để làm tròn bổn phận đã đủ hay chưa giữ nguyên không đổi thay
tất cả những gì tồn tại ở thời tổ tiên, đã đủ hay chưa bằng tế lễ đạt tới sự
giao tiếp cảm tính ít nhiều hư ảo với tổ tiên và bằng bói toán đoán biết về ý
nguyện ít nhiều hư tưởng của họ? Và trước hết, có thể và có đáng giữ nguyên không
đổi thay cái mà tất yếu đã phải chịu một sự đổi thay khủng khiếp mà tên gọi là
cái chết? Nhưng, không quyết đoán trước một vấn đề mang tính nguyên tắc, chúng
ta hãy đánh giá tín ngưỡng Trung Hoa bằng phương pháp lịch sử, theo những thành
quả của nó.
Những thành
quả lịch sử của nhân sinh quan Trung Hoa mà chúng tôi đã cố gắng phác hoạ có
thể được quy về ba thực tại. Thực tại thứ nhất bênh vực lý tưởng Trung Hoa,
thực tại thứ hai phản bác nó còn thực tại thứ ba, mặc dù còn không thuận lợi
hơn nữa cho lý tưởng Trung Hoa, đồng thời cung cấp cho chúng ta một quan niệm
tốt đẹp về người Trung Quốc, không cho phép nhìn thấy ở họ những con người đã
hoá đá hoàn toàn trong lễ giáo truyền thống. Thực tại thứ nhất - đó là sự bền
vững và chắc chắn có một không hai trong lịch sử của cơ thể quốc gia-dân tộc
Trung Hoa. Trong khi nhiều dân tộc khác sống biệt lập cũng như Trung Quốc hoặc
đã từ lâu đánh mất độc lập của mình, trở thành chiến phẩm dễ dàng cho người
nước ngoài, như ấn Độ, hoặc đã tử vong hoàn toàn theo nghĩa dân tộc học, như
những người Mêhicô và Pêru cổ, thì Trung Quốc không những vẫn giữ gìn không suy
suyển trong vòng ba hoặc bốn ngàn năm nền tự chủ dân tộc và chính trị của mình,
mà còn bành trướng ảnh hưởng của mình sang các dân tộc láng giềng, hút thu họ
vào cơ thể quốc gia của mình và giờ đây ngay cả những người ít thiện cảm nhất
với đế quốc Trung Hoa cũng phải so sánh văn hoá Trung Quốc và văn hoá châu Âu
như là hai nền văn hoá ngang sức, nếu không ngang giá trị*. Những người hâm mộ Trung
Quốc nói chính đáng về tính trường cửu của nó như là một nét ưu việt quan
trọng; họ đúng cả khi họ khẳng định rằng đây không phải là nét ưu việt ngẫu
nhiên, mà do người Trung Hoa đã dày công hun đúc nên. Đặt làm nền móng cho đời
sống dân tộc của mình giới luật: hãy thờ cha kính mẹ, họ xứng đáng được
hưởng phần thưởng hứa hẹn: và ngươi sẽ được sống lâu trên mặt đất (10).
Tôn kính những người đã chết hơn tất cả
mọi thứ, người Trung Quốc đã trở thành dân tộc có sức sống dẻo dai bền bỉ nhất;
bằng sự thực hiện bổn phận đầu tiên của con
người, Trung Quốc đã bảo đảm cho mình cái phúc lợi cơ bản đầu tiên -
cuộc sống trường cửu; thừa nhận sự lệ thuộc của mình vào quá khứ, nước Trung
Hoa đã gia cố nền độc lập của mình trong hiện tại.
Cái phúc của
sự trường tồn, không thể nghi ngờ, bằng thực tế thấy được của mình nói lên tính
ưu việt của nguyên tắc sống Trung Hoa. Nhưng bên cạnh cái đó còn lại một thực
tại khác, cũng không thể hồ nghi - đó là văn hoá Trung Hoa, với tất cả tính bền
vững và sung mãn vật chất của nó, lại nghèo nàn về tinh thần và ít bổ ích cho
nhân
loại. Nó tốt
đẹp với bản thân người Hoa, nhưng nó đã không cống hiến cho thế giới một tư
tưởng vĩ đại nào và một sản phẩm có giá trị tuyệt đối vĩnh hằng nào trong một
lĩnh vực nào. Người Trung Quốc là một dân tộc lớn, nhưng không vĩ đại, trong
dân tộc ấy đã không có những vĩ nhân. Một ngoại lệ duy nhất là Lão Tử. Nhưng
ngạc nhiên trước những bước ngoặt mạnh bạo và độc đáo của tư tưởng của ông,
không nên quên rằng tất cả những gì hệ trọng trong tư tưởng ấy đã được diễn đạt
một cách không kém phần mạnh bạo, nhưng lại rõ ràng hơn và đầy đủ hơn bởi các
nhà huyền học ấn Độ - các tác giả của các kinh Upanishad và Bhagavad-gita.
Văn học Trung Quốc rất đồ sộ, nhưng về tính chất và phẩm giá của nó có thể phán
xét căn cứ vào những mẫu mực được dịch ra các Âu ngữ: ngoài một số thi phẩm và
truyện cổ thực sự giàu chất thơ - mà những tác phẩm như thế có ở tất cả các dân
tộc, ngay cả những dân tộc còn tuyệt đối chưa được khai hoá, tất cả những thứ
khác đều không có giá trị thẩm mỹ và chỉ có thể có ý nghĩa lịch sử hoặc dân tộc
học. Kịch Trung Quốc thuộc về loại “kịch nói tự nhiên” được đưa vào văn học Nga
bởi Kuzma Prutkov và vào văn học Tây Âu bởi Ibsen. Cũng ít yếu tố sáng tạo nghệ
thuật trong tiểu thuyết Trung Hoa*; chất lượng không bảo
đảm, mà người ta giả định ở các bản dịch các tác phẩm văn chương, chỉ có thể
làm giảm nhẹ, chứ không thay đổi về cơ bản sự đánh giá của chúng tôi. Nhưng cả
cái hoàn cảnh khinh giảm ấy cũng không có nữa trong những lĩnh vực hoạt động
tinh thần, mà ở đấy vấn đề ngôn ngữ không đóng một vai trò gì. Thí dụ, không
thể tranh cãi, là trong âm nhạc, trong hội hoạ, và cả trong khoa học thực chứng
người Trung Quốc đã dừng lại ở những trình độ sơ đẳng, mặc dù trong một số
trường hợp họ biểu lộ năng lực tiểu xảo đáng phục. Còn nếu nói về triết học
riêng của Trung Hoa, triết học Khổng giáo, thì nó chỉ chứa đựng phép khôn ngoan
thực tiễn đời thường ad usum Sinensium (cho người Trung Hoa dùng), tức là thực
ra đó chỉ là sự rao giảng tính ôn hoà và cẩn thận, nhiều khi tiến sát tới những
chân lý theo kiểu của ông La Palice (11) .
Song vị tất
chúng ta phải xuất phát từ quan điểm châu Âu, quan điểm Kitô giáo để tố cáo
tính hạn hẹp của lối sống và tư tưởng Trung Hoa và chứng minh rằng tinh thần
con người không thể tìm được sự thoả mãn đến cùng trong những giới tuyến khép
kín của lý tưởng khôn ngoan điều độ của người Trung Quốc. Tính thiếu cơ sở của
những giới tuyến ấy bị tố giác bởi chính người Trung Quốc; hàng vạn, hàng triệu
những con người ấy, ít nhất trong đời tư, gắng sức bằng cách này hay cách khác
vượt ra ngoài ranh giới của cái trật tự đạo đức nặng tính lý trí và nếp sống
cân bằng phẳng lặng ấy. Có những người “vượt rào” bằng thân thể, đắm đuối với
thuốc phiện mang lại cho họ một cuộc sống kỳ ảo bất tận thay vì cái thực tại
điều độ tẻ ngắt vây hãm họ khi họ tỉnh. Những người khác thì cầu viện đến những
phương tiện mang tính tinh thần hơn, mà hai tôn giáo huyền bí - Đạo giáo và
Phật giáo - xa lạ với lý tưởng Trung Hoa, tức là lý tưởng Khổng giáo, cung ứng
cho họ. Việc người Trung Quốc tìm kiếm những đường sống khác, bên ngoài tôn
giáo quốc gia-dân tộc chính thống của họ, chính là cái thực tại thứ ba, trung
gian, nó làm chứng không có lợi cho lý tưởng Trung Hoa, nhưng lại có lợi cho
chính người Hoa.
Những tín đồ
của Đạo giáo trong ý thức gắn bó với Lão Tử và học thuyết của ông về đạo.
Và quả thật, tôn giáo này thoát thai từ trường phái đạo gia đã vật chất hoá
những tư tưởng huyền bí của vị sư phụ già của mình. Lão Tử, như chúng ta biết,
quan niệm đạo như là trạng thái bất phân tuyệt đối, hay là như khởi
nguyên tuyệt đối của tất cả trong trạng thái tiềm năng thuần tuý, không hiển lộ
và không hoạt động. Những tín đồ của Đạo giáo tìm kiếm trong đạo bí mật
của sự sống vĩnh hằng và cực lạc, bất biến và phổ quát - một cái gì đó na ná
như thuật luyện đan hay thuốc trường sinh bất tử. Nhưng có lẽ vì không bao giờ
có thể khám phá và làm chủ được đến cùng cái bí mật vĩ đại ấy cho nên các tu sĩ
của Đạo giáo đã khôn ngoan đổi đồng tiền cực to ấy thành vô số tiền lẻ - họ
sống bằng pháp thuật, bói toán và buôn bán những “thuốc thần”. Đồng thời họ
cũng thờ phụng cơ man những thần-nhân và nhân-thần mà về chúng tác giả Đạo
đức kinh dĩ nhiên không hề nghĩ đến. Đạo giáo ngày nay thực ra chỉ là sự
phục hồi dưới hình thức phức tạp hơn cái tôn giáo nguyên thủy của các dân tộc
chưa khai hoá (chủ yếu thuộc chủng tộc Mông) mà trong khoa học được biết đến
dưới tên chung đạo saman. Người Trung Quốc, cũng như tất cả những người
đồng tộc cổ xưa của họ, ban đầu theo đạo saman, sau khi họ đã tách thành một
quốc gia và một dân tộc riêng thì đạo ấy vẫn còn lại như là “tầng đất dưới”
trong đời sống và ý thức của những người dân thường. Tục thờ cúng tổ tiên gia
đình, chưa nói đến tổ tiên quốc gia, không thể nào là tôn giáo nguyên thủy của
người Hoa. Trong trạng thái nguyên thủy, bừa bãi và lẫn lộn của các quan hệ hữu
tính, khi mà không ai có thể biết được ai trong số những người đương sống là
cha của mình, thì cũng không ai có thể thờ phụng tổ tiên đã quá cố; sự thờ cúng
họ rõ ràng đòi hỏi sự tồn tại của gia đình phụ quyền có tổ chức. Đối tượng thực
sự của sự tế tự phù thủy saman cũng là các vong linh, nhưng không phải là vong
linh tổ tiên, mà là những vong linh có tính danh không xác định, mà ở chúng
tính chất của những người đã chết hoà lẫn và hoà đồng với tính chất của những sức
mạnh tự phát của thiên nhiên, những sức mạnh ấy lại nhiều khi hiện diện những
dưới hình dạng thú vật (tính hình thú). Mà cái đó là tự nhiên, bởi vì trong đời
sống của con người man rợ những bản năng bán hữu thức, tâm-thân thể ưu trội hơn
nhiều so với hoạt động trí não và sự tồn tại của con người ấy hoà đồng với
những hiện tượng tự nhiên bao quanh đến mức ở nó chưa thể phát triển sự tự ý
thức cá nhân, cho nên nó tuyệt đối không thể phân biệt rõ ràng giữa hồn thiêng
con người và hồn thiêng thiên nhiên, và nó nhìn thấy biểu hiện mãnh liệt nhất
của đời sống tự nhiên không phải ở con người mà ở con vật.
Những thần
thánh của Đạo giáo vẫn là những tự nhiên thần tù mù của đạo saman xưa kia, có
điều chúng được cố định hơn dưới hình dáng con người. Tính chất của các tế lễ
về cơ bản vẫn như trong đạo saman, tức là phù phép và ma thuật. Nhiều nhà trung
Hoa học lấy làm ngạc nhiên rằng những tư tưởng tư biện tinh tế của Lão Tử ở
những hậu sinh của ông đã biến chất thành phép phù thủy thô lậu đến thế. Nhưng
ở đây có một lôgic nội tại, mặc dù thấm đượm tính mỉa mai. Chúng ta biết rằng
Lão Tử rao giảng sự trở lại với tự nhiên và kiên quyết chống lại tiến bộ văn
hoá dựa trên quan điểm có nguyên tắc nói rằng đạo, hay là con đường sống
chân chính, là sự hư không và bất phân tuyệt đối, trong khi ấy thì mọi tiến bộ
văn hoá được quyết định bởi sự phân định và phức tạp hoá sự sống. Ông rao giảng
cái đó bằng lời là chính, vì bản thân ông là một nhà tư tưởng tinh thông và một
người có văn hoá. Nhưng những tư tưởng có lôgic thực tại của nó, và do cái
lôgic ấy mà những tông đồ của Đạo giáo đã thực hiện bằng thực tiễn lời của ông
thầy già, trở về với tôn giáo tự phát đơn sơ nhất của các dân tộc chưa có văn
hoá, nơi mà tinh thần con người còn chưa được phân biệt với những sức mạnh vật
chất của thiên nhiên, và hoạt động hữu thức được thay thế bằng sự tiếp xúc ma
thuật thụ động với những sinh linh cấp thấp hơn.
Quần chúng
Trung Hoa, thỉnh thoảng lại cầu viện đến Đạo giáo, tìm kiếm ở đấy cái mà tôn
giáo nghi lễ quan phương không thể đem lại cho họ - sự cứu giúp thần kỳ trong
những tai ương của cuộc sống và sự giao tiếp tự do với những sức mạnh không
thuộc thế giới này. Những tu sĩ Đạo giáo, bị giới quan lại có học khinh bỉ như
là những kẻ mê tín dị đoan và những kẻ lừa bịp, không có một vị trí chính thức
nào trong nhà nước, được dân chúng quý mến chính bởi tính phi chính thống ấy
của họ; trong con mắt nhân dân họ là những người đã nghe theo tiếng gọi mà hiến
mình cho sự nghiệp tôn giáo, chứ không thi hành nó như một trong những nhiệm vụ
của viên chức nhà nước. Nhưng nhu cầu tôn giáo của nhân dân Trung Quốc đã không
thoả mãn cả với Đạo giáo, vì đạo này bằng những phù phép của mình chỉ cứu giúp
trong những hoạn nạn của cuộc sống hiện tại, nhưng lại, cũng như tôn giáo chính
thống, hiểu biết rất ít về sự sống tương lai. Với lời giải đáp cho những thắc
mắc tôn giáo cao nhất ấy, mà Khổng giáo và Đạo giáo đã gác sang một bên, đạo
Phật đã xuất hiện ở Trung Quốc từ ấn Độ vào thế kỷ đầu của kỷ nguyên của chúng
ta và đã chiếm được một vị trí chắc chắn, tuy không thống trị. Tất nhiên, đạo
Phật Trung Hoa không phải là cái đạo mà Phật Thích Ca Mầu Ni rao giảng và đã
được ghi lại trong Tripitaka (Tam Tạng)*, giữa chúng cũng có quan
hệ na ná như quan hệ mà ta thấy giữa Đạo giáo ngày nay và học thuyết của Lão Tử
được trình bày trong Đạo đức kinh.
Đạo Phật
nguyên thủy có thể được quy về ba tư tưởng cơ bản: nó nâng cao lên bên trên tất
cả các thần linh ấn Độ, mà số lượng không thể đếm được, một con người tự hoá
thần, một con người bằng kỳ công cá nhân đã dành lấy cho mình vị trí của
một sinh linh tuyệt đối và tối thượng; nó đã đặt giới hạn cho những cuộc phiêu
diêu bất tận của linh hồn trong thế giới bên kia bằng lý tưởng về sự yên bình
tuyệt đối - Niết bàn; cuối cùng, chỉ ra cho tất cả mọi người con đường cứu độ
chung bằng sự dập tắt ý chí và bằng thái độ từ bi đối với mọi chúng sinh, đạo
Phật cùng một lúc giáng đòn xuống cả tính duy nghi lễ của đạo Bà la môn với hệ
thống cúng tế và cầu nguyện phức tạp của nó, cả chủ nghĩa khổ hạnh thân xác bên
ngoài của các thánh nhân ấn Độ và cả tình trạng vô quyền mang tính nguyên tắc
của các đẳng cấp xã hội hạ lưu. Nhưng, nâng mình lên bên trên tôn giáo dân tộc
của ấn Độ, đạo Phật tuy vậy không phủ định những cơ sở thực định của nó. Đặt
Phật cao hơn tất cả các thần, nó bằng cách ấy thừa nhận sự tồn tại của chư
thần, xác nhận tính hữu thực của họ, có điều chỉ dành cho họ một vị trí thứ
yếu. Kiếm tìm phương cách chấm dứt sự phiêu diêu của linh hồn trong thế giới
bên kia, đạo Phật bằng cách ấy chứng tỏ niềm tin của mình vào thế giới ấy, với
muôn vàn sự khác biệt của nó*. Cuối cùng, coi trọng đặc
biệt việc thực hiện luật đạo đức, đạo Phật đồng thời không phủ định sự thờ
phụng thánh thần bằng vật chất, nó thậm chí đã tặng cho thế giới á Đông một
hình thức thờ bái mới - thờ bái các thánh tích, với quy mô chưa rừng thấy trước
đó. Như ta biết, tín ngưỡng của người phật tử chính thống từ thời sơ kỳ đã được
thể hiện bằng định thức ngắn gọn: tôi tin vào Phật, tin vào lề luật tôn giáo
(Pháp) và tin vào giáo hội Phật giáo (Tăng). Như vậy, tôn giáo mới không tự hạn
chế bởi sự rao giảng đạo lý, mà còn hàm chứa trong mình những hạt giống của
những tín ngưỡng tôn giáo chính thực, những hạt giống ấy đã mau chóng đâm chồi
nảy lộc. Người Trung Quốc đã tìm thấy ở đạo Phật một tôn giáo chính thực có nội
dung huyền bí phong phú hơn, đồng thời lại lý tưởng hơn và hữu luân hữu đức hơn
Khổng giáo và Đạo giáo. Trong đạo Phật Trung Quốc ngày nay ta thấy được đặc
biệt phát triển niềm tin vào mấy sinh linh thần thánh cá thể thuộc cả hai giới
(họ là những biến tướng của Phật, với sự sao lãng ý tưởng nguyên thủy) và vào
thế giới bên kia với địa ngục, luyện ngục và thiên đường, mỗi xứ có vô số phân
nhánh. Giới tăng lữ Phật giáo được tôn trọng hơn những tu sĩ Đạo giáo. Nguyên
tắc khổ hạnh tinh thần và tình thương đối với mọi chúng sinh mà họ rao giảng
(mặc dù trong thực tế ít được thực hiện), có thể phần nào đã làm giảm bớt những
khuyết điểm chính của tính cách dân tộc Trung Hoa: chủ nghĩa duy vật thực tiễn
và tính nhẫn tâm.
IX
Sự “Trung Quốc hoá”
Đạo giáo và Khổng giáo - Mâu thuẫn nội tại trong lý tưởng Trung Hoa: nó không
thể thực hiện được chân lý của mình - Sứ mệnh chân chính của châu Âu ở Viễn
Đông
Những người
Trung Quốc cầu viện đến sự cứu giúp ma thuật của Đạo giáo và sự an ủi tinh thần
của Phật giáo chỉ như là những tư nhân, để thoả mãn những nhu cầu tôn giáo cá
nhân của mình. Song với tư cách một thành viên của dân tộc Trung Hoa, một bộ
phận của cái tổng thể tôn giáo-chính trị lớn ấy, người Trung Quốc nào cũng
tuyên xưng tôn giáo chính thống của nhà nước và nghiêm chỉnh thực hiện những
nghĩa vụ lễ thức của nó. Giới tăng lữ Đạo giáo và Phật giáo chỉ là những hiệp
đoàn tư nhân được nhà nước công nhận nhưng không có quyền hành gì đối với dân
chúng. ở Trung Quốc không có những cộng đồng hay là hội thánh Đạo
giáo và Phật giáo. Mọi người Trung Quốc, dù tín ngưỡng cá nhân của họ có là thế
nào đi nữa, đều thuộc về một cộng đồng vĩ đại và chỉ thừa nhận bên trên mình
một quyền lực tối cao - quyền lực của Thiên Tử, kết hợp khăng khít ở trong mình
cả quyền chuyên chế tôn giáo lẫn thế tục*.
Chính phủ
Trung Quốc đã tỏ ra sáng suốt đến mức, ý thức được rằng một tôn giáo của nhà
nước không thoả mãn được tất cả các nhu cầu tôn giáo chủ quan của các thần dân
của mình, nó không những đã cho phép Đạo giáo và Phật giáo tồn tại không gặp
trở ngại gì ở Trung Quốc mà còn dành cho chúng sự chuẩn nhận cao nhất: Thiên
Tử, là chủ tế tối cao của “bách thần”, đồng thời bằng những cúng tế công khai
trong các thánh đường của Đạo giáo và Phật giáo thừa nhận mình thuộc về cả hai
tôn giáo ấy. Vì vậy những định chế của nhà nước đối với việc tế tự của Đạo giáo
và Phật giáo không có sức cám dỗ gì ngay cả đối với những tín đồ cuồng nhiệt
nhất của hai đạo ấy. Nhờ sự định chế thường hằng ấy của nhà nước, và cũng nhờ
sự cùng tồn tại nhiều thế kỷ trong một tộc người với tính cách dân tộc xác định
như thế, ba tôn giáo Trung Hoa ấy đã xích lại rất gần nhau và trong nhiều điểm
đã hoà đồng làm một. ở Trung Quốc đã trở thành ngạn ngữ câu: tam giáo đồng
nguyên, tức là ba đạo là một**. Chỉ những nhà nho uyên
bác mới hiểu được sự khác biệt quan trọng giữa ba đạo, và họ trong những trước
thuật của mình vẫn tiếp tục tranh luận gay gắt với Đạo giáo và Phật giáo như là
những mê tín dị đoan ngoại lai và không cần thiết, phá vỡ thể thuần phác tỉnh
táo và tính thống nhất hình thức của tôn giáo nhà nước.
Vô luận thế
nào đi nữa thì sự phát triển của Đạo giáo và Phật giáo ở Trung Quốc, mặc dù nó
chứng tỏ về sự tồn tại trong nhân dân Trung Quốc những tình cảm tôn giáo không
được thoả mãn bởi lễ tiết nhà nước, tuy vậy vẫn không phải là một sự tiến bộ
nào cả trong nội bộ thể chế đời sống chung của Trung Hoa, thể chế này sẵn sàng
thu nạp vào mình mọi tín ngưỡng đơn lẻ, chỉ với điều kiện chúng không đụng chạm
đến nguyên tắc cơ bản của nó, không xâm hại đến lý tưởng cổ truyền toàn Trung
Hoa về chế độ thần quyền gia trưởng quốc gia-dân tộc, bất động và bất biến như
cái quá khứ, mà cả dân tộc Trung Hoa tin tưởng sắt đá chỉ vào một mình nó.
Đánh giá lý
tưởng Trung Hoa về bản chất, chúng ta nhận thấy nó có tính chân lý ở
điểm xuất phát của nó, cụ thể là ở sự thừa nhận những quyền của quá khứ (hay
nói cụ thể hơn - của tổ tiên) đối với hiện tại (đối với chúng ta), ở sự thừa
nhận nghĩa vụ của chúng ta phải thờ phụng tổ tiên, phải khẳng định và củng cố
trong mình sự gắn bó với họ. Nhưng tình yêu đối với tổ tiên, cũng như mọi thứ
tình yêu, chịu sự chi phối của một quy luật. Quy luật của tình yêu đòi hỏi
chúng ta làm những điều tốt lành cho đối tượng mến yêu. Thế thì chúng ta có thể
làm cái gì tốt lành cho tổ tiên, có thể phụng sự họ một cách hữu ích bằng cái
gì? Trong trạng thái ấu thơ tinh thần, con người trả lời rất đơn giản câu hỏi
ấy: người ta cho tổ tiên ăn uống, cố gắng tạo cho họ khả năng tiếp tục
cuộc sống vật chất như trước đây ở thế giới bên kia. Nhưng với sự phát triển
của ý thức tôn giáo, một quan hệ đơn giản như thế trở nên không thể có được
nữa. Xuất hiện sự hồ nghi về cái phúc của sự tồn tại thuần tuý vật chất, xuất
hiện câu hỏi về sự sống chân chính. Tổ tiên chúng ta chưa có sự sống
chân chính - điều này là rõ chỉ từ một việc là họ đã chết; bởi vì sự sống chân
chính phải là vĩnh hằng, phải tự mang trong mình sức mạnh cho sự tiếp tục bất
tận, chứ không phải định mệnh của sự chấm dứt tất yếu. Thế thì việc gì chúng ta
phải cố gắng đem lại cho vong linh của tổ tiên cái vẻ nhân tạo của cuộc sống
trần gian, khi mà ngay cả cuộc sống trần gian thực thụ và đầy đủ cũng chưa mang
trong mình chân lý và không thể được công nhận là cuộc sống xứng đáng? Ngay cả
giả sử nếu vẫn còn lại niềm tin rằng quả thật có thể duy trì cuộc sống của tổ
tiên ở thế giới bên kia bằng sự cúng tế vật chất thì dẫu sao vẫn phải thừa nhận
rằng một cái đó là không đủ cho sự đích thực phụng sự tổ tiên, cho sự dẫn
truyền cho họ cái phúc chân chính của sự sống. Cũng đúng như thế, mặc dù sự gắn
bó tự nhiên với tổ tiên khiến bảo ta giữ nguyên cái trật tự đời sống như lúc họ
còn sống, nhưng rõ ràng cả cái đó cũng chưa đủ để có thể làm tròn bổn phận của
chúng ta. Có lợi ích gì cho tổ tiên ở việc chúng ta cũng sống và chết như họ đã
sống và đã chết? Cái trật tự đời sống, cái chế độ xã hội mà đã không cứu sống
được họ khi họ còn sống, nó có thể cứu sống họ không sau khi họ đã chết? Mà vấn
đề chính là ở sự cứu sống họ, đem lại cho họ sự sống chân chính mà họ chưa có
được và chúng ta cũng không thể nào có được, nếu cứ lặp lại y nguyên cái cuộc
sống không chân chính và vì thế mà đã chết của họ.
Không ở trong
quá khứ và cũng không ở trong hiện tại, sự sống chân chính đứng trước chúng ta
như là tương lai, như là nhiệm vụ, mà chúng ta phải gắng sức giải quyết. Bởi vì
tương lai ấy không thể tự đến với chúng ta mà không cần đến ta - nếu thế thì
không có lý do, vì sao nó đã không đến từ lâu rồi, - tương lai ấy phải được thu
hoạch với sự hoạt động nỗ lực của bản thân loài người. Nếu sự gắn bó với
quá khứ, sự thờ phụng tổ tiên là chân lý của thế giới quan Trung Hoa, thì chân
lý ấy chỉ đạt được sự phát triển đầy đủ trong ý tưởng Kitô giáo, ý tưởng châu
Âu về sự tiến bộ toàn thế giới như là con đường đạt tới sự sống chân chính. Nếu
chúng ta quả thật gắn bó với quá khứ, nếu chúng ta yêu sâu sắc tổ tiên của
chúng ta, thì chúng ta phải cố gắng không gìn giữ bất biến những hình thức cũ
của cuộc sống, mà với chúng những gì chúng ta yêu quý đã tiêu vong, mà ngược
lại, hoàn thiện không ngừng cuộc sống của chúng ta, cho đến khi chúng ta đạt được thể viên
mãn của sinh tồn, mà nó sẽ kết hợp tất cả ở trong mình và sẽ phục sinh quá khứ
cho sự sống thực sự vĩnh hằng và bất biến.*
Chúng ta,
những người châu Âu, phải khuyến nghị cho người Trung Quốc không phải sự phủ
định, mà sự hoàn tất nguyên lý sống của họ. Sự tiến bộ không biết mệt
mỏi như là phương tiện hữu hiệu để phụng sự tổ tiên, sự không ngừng tiến tới
tương lai lý tưởng như là con đường chân chính để phục sinh quá khứ - đó là sự
hoà giải thực sự, nội tại của hai nền văn hoá đối cực. Nhưng để cho chúng ta có
thể đến với thế giới đa thần giáo Viễn Đông với tin mừng về sự thực hiện
những ý nguyện tha thiết của nó, giống như xưa kia những người đầu tiên truyền
giảng đạo Kitô đã đến với thế giới đa thần Hy Lạp-La Mã, bản thân chúng ta cần
phải trung thành với chân lý vẹn toàn mà đạo Kitô đã khai ngộ cho chúng
ta. Trong trường hợp ngược lại Trung Quốc sẽ không phải là một thu hoạch, mà là
một nguy cơ hãi hùng cho chúng ta - hệt như phương Đông Hồi giáo đã là một nguy
cơ như thế đối với châu Âu trung cổ.
X
Tư
tưởng sai trái về tiến bộ và đạo Trung Hoa sai trái ở châu Âu - Kết luận
Sự đối lập
giữa hai nền văn hoá - Trung Hoa và châu Âu - thực ra có thể quy về sự đối lập
giữa hai tư tưởng chung: trật tự, từ một phía, và tiến bộ từ phía
khác. Xét từ quan điểm trật tự, quan trọng hơn hết là sự vững bền của
các quan hệ xã hội, tư tưởng tiến bộ thì đòi hỏi sự hoàn hảo lý tưởng
của các quan hệ ấy. Trật tự bền vững là trạng thái được bảo trì bằng sức mạnh
của quá khứ, sự hoàn thiện tiến bộ là hoạt động được quyết định bởi lý tưởng
tương lai. Trung Quốc đã đạt được một trật tự bền vững - điều này là không thể
hồ nghi, song sự tiến bộ của châu Âu có thể dẫn đưa ở mức độ nào đến thể hoàn
hảo xã hội - đó còn là một câu hỏi.
Sự tiến bộ
chân chính không thể chỉ mang tính phê phán và phá hoại, không thể chỉ là cái
đối lập với trật tự; tiến bộ chân chính là tiến bộ của trật tự.
Từ thế kỷ
trước ở châu Âu được quảng bá một quan niệm về tiến bộ như là cái được kiến tạo
trên thái độ phủ định vô điều kiện đối với quá khứ, đối với trật tự truyền
thống. Quan niệm ấy không chỉ xa rời chân lý, mà ở nó bị trực tiếp xoá bỏ những
dấu hiệu cơ bản của chính tư tưởng về sự phát triển đi lên, hay là tiến bộ. Tư
tưởng ấy tất yếu đòi hỏi tính thống nhất hệ trọng và hữu thức của cái
đang phát triển hay đang tiến bộ, tức là trước hết sự cấu kết nội tại và hữu
thực giữa các thế hệ cũ và mới của một loài người tiến bộ. Nếu chân lý mới
không có những cội rễ sâu xa trong quá khứ, nếu chúng ta phải bắt đầu công việc
của ngày hôm nay chỉ bằng sự phá hủy đơn thuần cái đã có, thì tất nhiên, chân
lý mới của chúng ta sẽ nhanh chóng bị vứt bỏ như là một chân lý cũ kỹ và việc
làm hôm nay của chúng ta ngày mai sẽ bị bãi bỏ như là cái hoàn toàn vô ích. Cắt
đứt quan hệ với quá khứ, chối bỏ mối kết đoàn chân chính với tổ tiên, chúng ta
chuyển giao cho hậu thế quyền cắt đứt quan hệ với sự nghiệp của chúng ta, chối
bỏ tình đoàn kết với chúng ta. Mà trong trường hợp ấy thì sự tiến bộ hư ảo của
nhân loại sẽ
không những
đánh mất chỗ dựa quan trọng trong thực tế, mà còn để mất đi hoàn toàn mọi lý
tưởng xác định về tương lai. Nếu điểm xuất phát của quá trình lịch sử là sai
lầm và vô nghĩa, thì đích của quá trình ấy hoá ra là cái bất khả tri tuyệt đối,
có thể lại cũng là sai lầm và vô nghĩa, mà nếu thế thì động cơ lý tưởng nào có
thể quyết định hoạt động của chúng ta? Không phải tôi phản bác tư tưởng sai
trái về tiến bộ, đẩy nó đến sự phi lý; không, cái phi lý ấy được trực tiếp
khẳng định bởi chính những đại diện của tư tưởng ấy, họ lớn tiếng tuyên cáo tính
tương đối của chân lý, do tính tương đối ấy mà cái hôm nay được công nhận
là chân lý ngày mai sẽ trở thành sự sai lầm và sẽ được thay thế bằng một chân
lý hư ảo mà đến lượt mình sẽ lại hoá ra là sai lầm, và cứ thế cho đến bất tận.
Nhưng vì sao sự chuyển giao những sai lầm như thế, mà cái nào cũng hoá ra không
xấu hơn và không tốt hơn cái khác - vì sao “sự bất tận tồi tệ” như thế lại được
gọi là sự phát triển hay sự tiến bộ?
Sự phá sản lý
thuyết của cái tư tưởng sai trái ấy về tiến bộ là rõ ràng đối với tư tưởng
triết học. Những hậu quả thực tiễn của sự phá sản ấy, được bộc lộ trong cuộc
cách mạng Pháp và trong chủ nghĩa cấp tiến thẳng đuột một chiều mà nó để lại đã
làm hoảng sợ một bộ phận của xã hội châu Âu. Nhưng trào lưu phản động ở
châu Âu, đối mặt với tư tưởng sai trái về một sự tiến bộ hỗn loạn và vô nghĩa,
đã không biết đặt đối lập với nó tư tưởng về sự tiến bộ chân chính theo tinh
thần Kitô giáo - tư tưởng về một sự tiến bộ mang trong mình cả những nguyên tắc
chính diện của trật tự, tư tưởng về một thể chế đời sống vừa có những cội rễ
sâu xa và hiện thực trong thổ nhưỡng lịch sử vừa có cái ngọn vươn tới trời cao
- tóm lại, thay vì tìm kiếm chân lý vẹn toàn của đạo Kitô, trào lưu phản
động, tự mình không nhận ra điều ấy, bắt đầu tìm kiếm cho châu Âu một lối thoát
trong những nguyên tắc của đạo Trung Hoa, trong sự sùng bái tuyệt đối quá khứ,
trong sự chỉ biết lo lắng gìn giữ cái trật tự cổ truyền đã bị đào khoét từ tứ
phía, với những hình thức ngẫu nhiên của nó đã mất đi mọi sức mạnh nội tại. Sự
Trung Quốc hoá châu Âu, dù vô tình hay hữu ý, đều không thể thắng lợi, nhưng nó
có thể rất nguy hại. Những hậu quả nguy hại ấy đã bắt đầu bộc lộ. Vì một quan
điểm thuần tuý Trung Hoa là cần phải yêu chỉ cái của mình, quý chỉ cái của
mình, người ta đã bắt đầu phủ định lý tưởng toàn thế giới của đạo Kitô, xem nó
là một không tưởng nhàn tản. Vì một chủ nghĩa duy vật thực tiễn và một óc sùng
bái sức mạnh thực tại thuần tuý theo tinh thần Trung Hoa người ta trực tiếp bác
bỏ những tư tưởng Kitô giáo về công lý và tình yêu phổ quát đối với toàn nhân
loại. Cả hai tư tưởng cực đoan ấy bình đẳng với nhau cả về tính bất chính lý
thuyết cũng như về tính nguy hiểm thực tiễn của chúng. Cả tư tưởng này lẫn tư
tưởng kia đều tước đi như nhau của chúng ta sức mạnh nội tại trong cuộc đụng độ
trong tương lai giữa hai thế giới văn hoá - châu Âu và Trung Quốc.
Nếu trong thế
giới châu Âu tư tưởng sai trái về sự tiến bộ phá phách sẽ ưu thắng thì chúng ta
sẽ chỉ biết đặt đối lập với sức mạnh thống nhất, bền vững và tự tin của Trung
Quốc một khối hỗn mang của những chí hướng chủ quan và những lợi ích vị kỷ phân
tán, không có đức tin và lý tưởng. Sẽ không tốt hơn cả trong trường hợp nếu lý
tưởng Trung Hoa chiếm ưu thế ở chính chúng ta. Thứ nhất, lý tưởng ấy sẽ không
thể thắng lợi hoàn toàn, vô luận thế nào đi nữa thì chúng ta vẫn sẽ không thể
trở thành những người Tàu về tinh thần, và một sự lưỡng phân mới sẽ chỉ được
thêm vào cho những bất hoà đương có. Và thứ hai, thậm chí nếu giả dụ điều ấy là
hữu khả, thì kết quả sẽ còn tồi tệ hơn nữa. Lý tưởng Trung Hoa đối với người
Hoa là nguyên tắc của sức mạnh, đối với chúng ta nó sẽ là khởi nguyên của sự
suy nhược và lụy tàn. Sự hấp thụ lý tưởng ấy đối với chúng ta sẽ là sự tự phủ
định theo nghĩa tồi tệ của từ ấy, tức là sự chối từ cái tốt đẹp của mình
- chối từ đạo Kitô. Nhưng một sự chối từ như thế sẽ ngang bằng với sự đánh mất
hoàn toàn ngay cái tồn tại lịch sử của chúng ta. Bởi vì trong đạo Kitô hàm chứa
không chỉ lý tưởng tương lai của chúng ta, mà cả những cội rễ tinh thần của quá
khứ của chúng ta - đó là tín ngưỡng của tổ tiên chúng ta. Hấp thụ lý tưởng đa
thần giáo, chối bỏ đạo Kitô hoàn vũ, chúng ta trước hết hoá ra bất kính đối
với tổ tiên chúng ta, tức là phản bội chân lý vẹn toàn của đạo Kitô, chúng
ta sẽ không giữ được ngay cả một phần chân lý - cái phần làm nên sức mạnh của
thế giới đa thần giáo Trung Hoa. Chủ nghĩa bảo thủ sai trái của chúng ta cũng
sẽ tan vỡ bởi mâu thuẫn nội tại, như là chủ nghĩa tiến bộ sai trái. Trước cả
hai chủ nghĩa ấy, người Trung Quốc sẽ hoá ra không chỉ mạnh hơn, mà còn có lẽ
phải hơn chúng ta. Họ trung thành với chính mình. Nếu chúng ta, thế giới
Kitô giáo châu Âu, cũng sẽ trung thành với chính mình, tức là trung thành
với đạo Kitô toàn thế giới, thì Trung Quốc sẽ không đáng sợ đối với chúng
ta, chúng ta sẽ chinh phục được cả Viễn Đông
không bằng sức mạnh của vũ khí, mà bằng sức mạnh của lực hấp dẫn tinh thần là
thuộc tính của chân lý toàn vẹn, chân lý ấy đã và đang tác động đến
những linh hồn con người, bất cứ họ thuộc về dân tộc nào.
1890
Phạm
Vĩnh Cư dịch
* Theo những tin tức giờ chót thì thay vì tuyến đường sắt ấy người ta
đương xây tuyến từ Bắc Kinh đến Hirip, tức là theo hướng tiến đến biên giới
Nga.
* Không nên nghĩ rằng sắc lệnh của thiên tử Trung Hoa chỉ
là một hành vi độc đoán của ông ta mà một người kế vị nào đó có thể bãi bỏ.
Trong thực tế quyết định của chính phủ Trung Quốc là kết quả của một niềm tin
được suy tính toàn diện và kiểm định vào sự cần thiết phải vay mượn nền văn hoá
bên ngoài của người Âu để bảo vệ mình tốt hơn khỏi họ và trong tương lai chinh
phục họ.
** “Sự hoà trộn hai chủng tộc có thể thâm nhập nhưng xem
ra không thể hoà đồng với nhau còn để dành cho tương lai nhiều phức tạp kỳ lạ”.
Sđd, p. 6
* Trong Ngũ Kinh của người Hán chúng ta sẽ chỉ phải sử dụng cuốn thánh
sử, hay là Kinh Thư. Tôi đọc Tứ Thư của Trung Quốc qua bản dịch pháp ngữ
của Pauthier (Confucius et Mencius, les quatre livres de philosophie morale et
politigue de la Chine, Paris, 1841), ngoài ra hai sách đầu tiên còn theo bản
dịch ra tiếng Đức của Planckner, với những chú giải cặn kẽ, nhưng đôi khi hoang
đường (Confucius, Ta -Hiô, Erhabene Wissenschaft, aus dem Chinesischen
ubersetzt und erklart von Reinhold von Planckner, Leipzig, 1875;
Confucius,Tchong - Yong, der unwandelbare Seelengrund, Leipzig, 1878). Để nghiên cứu Lão Tử, tôi
có bản dịch cho đến bây giờ vẫn là kiểu mẫu của Stanlislas Julien (Lao-Tseu,
Tao-te-king, Livre de la voie et de la
vertu, Paris, 1842). Trong những sách tham khảo xin kể đến Plath, Die Religion
der alten Chinesen, Munchen, 1862 và cũng của tác giả ấy: Der Cultus der alten
Chinesen, 1863; sau đó Annales du musée Guimet vls I, XI, XII; và chủ yếu là
công trình vừa được nói đến của ông Georgievsky, ở đấy được thu thập nhiều tư
liệu không chỉ xác nhận, mà còn giới hạn quan điểm của tác giả. Trong mọi
trường hợp, nhà Trung Hoa học của chúng ta đã thâm nhập sâu hơn các đồng nghiệp
của mình vào bản chất của tín ngưỡng và đời sống Trung Hoa.
* Bởi vì thông qua hôn lễ ấy họ sẽ
có được thêm hậu duệ, những người sẽ thờ phụng họ ở thế gian này.
** Những cuộc hôn nhân giữa những người thân thích và
thậm chí giữa những người cùng họ từ xưa bị luật pháp Trung Hoa nghiêm cấm.
* Georgievsky, sách
đã dẫn, tr.145. Danh từ này hiện nay hình như chỉ nhiệm vụ phục dịch bên cạnh
mồ mả của tổ tiên, nhưng chính vì thế mà không thể nghi ngờ cái nghĩa nguyên
thủy đáng sợ của từ ngữ này. Bởi vì ở mọi nơi và mọi thời đại, sự phục dịch
thường trực bên cạnh mồ mả hay đền thờ là hình thức thay thế cho việc hiến tế
người.
*** A. Réville, La Religion
Chinoise, p. 212
* Một trong những môn đệ của Mạnh Tử.
* Vả lại, người Hán ban đầu có thể gọi mình là tất cả các họ không
chỉ xuất phát từ lòng tự cao tự đại dân tộc, mà còn theo cả lẽ công bằng, nếu
giả định của chúng tôi, rằng lúc đó những tộc người Mông khác còn ở trong tình
trạng tính giao bừa bãi chưa đạt tới hình thức sinh hoạt gia đình, là đúng.
* Georgievsky, tr.179 -184
* Tổ tiên của cá nhân ông vua chắc chắn không đồng nhất với tổ tiên của
quốc gia, tức là “bách thần” hay “Trời”. Tuy nhiên có cơ sở để nghĩ rằng những
bậc đế vương xứng đáng với danh hiệu ấy được kết nạp vào thành phần của trời
với tư cách những thành viên không thể thiếu và ưu tú, cho nên việc các quân
chủ đương quyền thờ cúng tổ tên và những người tiền nhiệm của mình là một nội
dung của nhiệm vụ thờ bái “bách thần” của người đứng đầu nhà nước. Về việc này
xem ra có những chỉ dẫn trực tiếp trong sách lịch sử kinh điển Kinh Thư
(phần I, ch.2, $8 và ch.1, $3-8 và 11).
* Lao-Tseu. Tao-te-King, trad. de Stanislas Julien (Lão Tử, Đạo đức
kinh, bản dịch của Stanislas Julien),Paris.1842, p.150(chương XL)
*** Sách đã dẫn, chương IV. Về sự ưu việt của hư vô so với tồn tại xem lời
bình của học giả Trung quốc mà Julien dẫn ở tr.39
** Ở đây muốn nói đến
sự thay thế những tế vật thật (ban đầu là những con người) bằng những vật ước
lệ như, thí dụ, những con chó rơm mà tự chúng không có một ý nghĩa và giá trị
nào cả.
**** Tức là trở về với
trạng thái đơn sơ nguyên thủy và bán khai, khi mà để tính đếm thay vì những con
số người ta thắt những nút trên dây hay dải vải.
* Vì thế có những căn cứ nội tại để nghĩ rằng nhà siêu hình học vĩ đại
của đạo Trung Hoa đã chịu ảnh hưởng ngoại lai, cụ thể là ảnh hưởng của ấn độ.
Song những tư liệu lịch sử ngoại tại cho một giả định như thế không có.
* Một chuyện kể trong sách Luận ngữ, XVII, 6, hình như ám chỉ về
sự đụng độ giữa Khổng tử với những đối thủ loại ấy.
* Georgievsky, tr. 399-401
** Xin được nhận xét
rằng ở đây ông Georgievsky diễn đạt bằng lời của mình: Khổng Tử đòi hỏi
không phải tình yêu, mà chỉ sự tôn kính cha mẹ.
* Tên một trong những môn đệ của Lão tử, rao giảng, theo lời ông
Georgievsky, một chủ nghĩa vị tha phổ quát, hay là, nói đúng hơn, một thái độ
hữu luân hữu đức như nhau đối với những người thân và người dưng (kiêm ái).
**** Để không bộc lộ
những tính chất phản xã hội và không xâm hại “đời sống hoà điệu của nhóm”,
không cần thiết phải biết tự quyết đầy đủ và phải có “năng lực là luật pháp cho
chính mình”, mà chỉ cần là một con kiến trong tổ kiến. Còn khi tình kết đoàn
bản năng ấy cũng không hoạt động nữa thì, như chính ông Georgievsky đã chỉ ra,
những hình phạt sẽ đến trợ giúp, trong đó có một hình phạt khá thông dụng là
lăng trì (xẻo thân thể tội nhân ra từng mẩu nhỏ cho chết dần).
* Xem Plath, Der Cultus der alten Chinesen. Munchen, 1863,
tr.112-113 .
* Nhật Bản cũng giữ được nền tự chủ dân tộc và chính trị của mình; nhưng
thứ nhất, văn hoá Nhật Bản trẻ hơn văn hoá Trung Quốc và phát triển dưới sự tác
động của nó; thứ hai, vị trí địa lý của quốc đảo này là lá chắn bên ngoài cho
nó. Vả lại, hình như bản thân người Nhật cũng không đánh giá quá cao những đặc
điểm của văn hoá của mình, nếu căn cứ vào sự vội vã mà họ biểu hiện trong việc
vay mượn không chỉ mặt kỹ nghệ của văn minh châu Âu, mà cả những nguyên tắc
sống của nó.
* Người ta nói: không thể phán xét theo bản dịch. Tuy nhiên những phẩm
giá cơ bản của Homère và Shakespeare được bảo toàn cả trong các bản dịch. Không
cần biết tiếng Do Thái để cảm nhận được cái đẹp của Kinh Thánh hoặc biết tếng
Phạn để hiểu dược tư tưởng uyên thâm của các triết gia ấn Độ và nét duyên dáng
quyến rũ của thơ ca ấn.
* Tripitaka (nghĩa đen - “ba giỏ”) là ba phần của kinh điển Phật
giáo. Phần thứ nhất - các sutra (thuyết giảng) - là kinh Phúc âm của đạo
Phật, bao gồm những truyền thuyết về cuộc đời của Thích Ca Mầu Ni và những bài
giảng truyền đạo của ông. Phần thứ hai - vinâya (luật) chứa đựng những
điều lệ của giáo hội Phật giáo nguyên thủy; phần thứ ba - abhidharma (luận)
trình bày siêu hình học Phật giáo.
* Sự hoá kiếp vào các
thân thể trần gian tuyệt không phải là hình thức duy nhất của sự bất tử, theo
thế giới quan ấn Độ cả trong đạo Bà La Môn lẫn trong đạo Phật.
* Người đứng đầu đạo Phật Tây Tạng, gọi là Đại Lai Lạt Ma, không có quyền
lực được thừa nhận chính thức đối với giới tăng lữ Phật giáo trong nội địa
Trung Quốc; còn ảnh hưởng tinh thần không chính thức của hàng giáo phẩm Tây
Tạng thì bị kiểm soát kép bởi chính quyền Trung Quốc, chính quyền này vừa điều
hành những công việc của đạo Phật ở trong nước mình, vừa giám sát chính vị giáo
chủ ở Tây Tạng, ông này phải chịu sự bảo hộ thế tục của hoàng đế Trung Hoa .
** Plath, Der Cultus der alten Chinesen, 125-126. Nếu nói về đối
tượng thờ bái, thì quả là không phải lúc nào cũng có thể phân biệt rõ ràng giữa
một phía là “bách thần” của tôn giáo Trung Hoa chung, và phía khác là các thần
của Đạo giáo và Phật giáo đã biến chất.
* Ý tưởng về sự sống chân chính không xa lạ với đạo Phật (hậu kỳ) và thậm
chí với Đạo giáo. Nhưng sự sống chân chính được những hậu duệ tinh thần của
Phật và Lão Tử quan niệm như là trạng thái của những linh hồn đơn lẻ được giác
ngộ, chứ không phải như một nhiệm vụ tập thể của toàn nhân loại; tư tưởng về
tiến trình thế giới và Vương quốc của Chúa Trời chúng ta chỉ tìm thấy trên “thổ
nhưỡng” của đạo Do Thái và đạo Kitô.