MỘT PHONG TRÀO VĂN HÓA DÂN TỘC
NHẰM TỰ CƯỜNG, ĐỘC LẬP, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT
NƯỚC
CỦA CÁC NHÀ NHO YÊU NƯỚC
Trần Đình Hượu
Bước sang thế kỷ XX, đối với Việt Nam không chỉ bước
qua một cột mốc thời gian, đi thêm một quãng đường lịch sử mà còn là rẽ sang một
con đường khác trong lịch sử phát triển. Nếu từ thế kỷ XIX
trở về trước, Việt Nam và các nước láng giềng Đông Á sống thành một vùng văn hóa
độc lập, xa lạ với thế giới, thì từ đây, nhiều mối liên hệ thắt chặt nó với thế
giới, bắt nó hòa vào cuộc sống chung, đưa nó ra nhập quĩ đạo chung của sự vận động
lịch sử cả thế giới. Sự thay đổi từ trung cổ sang cận hiện đại, ở đây đồng thời
có nội dung thay đổi từ truyền thống văn hóa này sang truyền thống văn hóa
khác, từ nên văn hóa có vùng gốc Hán đến truyền thống văn hóa Châu Âu, có nguồn
gốc Hy lạp, với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản chiếm vị trí chi phối cả văn hóa thế giới cận hiện
đại. Trong lịch sử Việt Nam, sự thay đổi lần này là sự thay đổi rất sâu sắc, có
lẽ cũng tương đương với bước chuyển từ nền văn hóa bản địa mà tiếp nhận Phật
giáo, từ nền văn hóa Phật giáo mà tiếp nhận Nho giáo xảy ra từ trước. Mỗi lần
thay đổi như vậy, không phải cái mới thay thế cái cũ, không phải hai cái cộng lại,
mà thực chất thực chất là một quá trình dài nhào nặn cái cũ với cái mới để
thành một sản phẩm khác, thay đổi cốt cách của cái đã thành truyền thống dân tộc.
Điiều kiện xảy ra sự thay đổi là việc nước ta mất độc lập, trở thành thuộc địa
của thực dân Pháp. Mong muốn xúc tiến sự thay đổi là thực dân Pháp trong tay có
chính quyền, nhà trường, báo chí,… và nhằm mục đích rõ ràng là làm cho thuộc quốc
đoạn tuyệt với văn hóa dân tộc, ly khai với ảnh hưởng của
Trung Quốc, trở thành nô lệ, sùng bái văn hóa Phương tây. Thế nhưng thay đổi
như vậy cũng là một tất yếu trong hoàn cảnh thế giới cận đại. Bên cạnh con đường
Âu hóa theo thực dân, còn có con đường Âu hóa của các nhà Nho yêu nước. Trong
phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, chính các nhà Nho yêu nước cũng đã vận động cải
cách văn hóa, chủ động giải quyết vấn đề tiếp nhận văn hóa Châu Âu để tự cường,
giành độc lập và hiện đại hóa đất nước.
I
“Đông kinh nghĩa thục” là tên gọi một trường học tư nhân mở, một nghĩa
thục lập ra không nhằm lợi. Nhà trường không thu học phí, mà quyên góp tiền giấy
bút cung cấp cho học sinh. Mục đích của nghĩa thục là truyền bá tư tưởng mới,
giáo dục tinh thần yêu nước, đào tạo lớp nhân tài mới cho đất nước. Hoạt động của
nhà trường vượt xa phạm vi giảng dạy và học tập. Lợi dụng
chính sách mở các trường kiểu mới, thay thế các lớp học của
thầy đồ dạy chữ Hán và những cơ sở ban đầu của thể chế giáo dục thực dân, Đông
Kinh Nghĩa Thục đã tập hợp được nhiều nhà yêu nước có tài viết văn, biên soạn và
phát hành sách giáo khoa, tổ chức các buổi bình văn, diễn thuyết, mua sách báo
nước ngoài về bán lại. Nhiều tỉnh Bắc Bộ và Trung Bộ theo gương Đông Kinh Nghĩa
Thục rất lớn. Đối với các tỉnh quanh Hà Nội, nó mang cả hình thức câu lạc bộ; đối
với toàn quốc, nó mang thêm hình thức là ban tu thư, là nhà xuất bản, cơ quan
phát hành, một trung tâm tuyên truyền văn hóa, chính trị.
Cho đến lúc đó chưa bao giờ trong đời sống chính trị
văn hóa nước ta lại có nhiều sự kiện
vang dội có không khí náo nhiệt như những năm đầu thế kỷ này. Phan Bội Châu bước vào hoạt động chính trị, ra Bắc
vào Nam tập hợp đồng chí, viết Lưu cầu huyết lệ tân thư vận động quan trường, thành lập Duy Tân hội,
rồi xuất dương sang Nhật. Những nhà khoa bảng trẻ tuổi nổi tiếng đậu đại khoa
mà khước từ không chịu ra lam quan ( Nguyễn Thượng Hiền, Huỳnh Thúc Kháng… )
hay bỏ quan ra về (Phan Châu Trinh), hạ quyết tâm đi theo con đường khác: đọc
tân thư, đi du lịch, tìm hiểu tình hình, vận động quần chúng, kêu gọi sĩ tử bỏ
học, cỏ thi đi cứu nước… Cường Để, Nguyễn Thượng Hiền nối gót nhau xuất dương
theo Phan Bội Châu. Phan Châu Trinh trốn sang Nhật tranh luận chính kiến với
Phan Bội Châu rồi về viết thư cho toàn
quyền Đông Dương (Beau) và vận động cải cách… Trào lưu tư tưởng mới , thươ cách nói các cụ là “ Mưa Âu, gió Mĩ”, theo tân thư tràn vào
đã nổi lên thành bão tố. Cho đến khi Đông kinh nghĩa thục thành lập ( năm 1907)
thi nó đã đi vào quần chúng, trước hết là quần chúng trí thức và thanh niên, tức
là vào đám nhà Nho trẻ. Ở Nam Ngãi, quê hương của Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc
Kháng, Trần Quý Cáp, phong trào phát triển rất bồng bột. Cả tỉnh có đến 40 trường
kiểu nghĩa thục. Học trò lợi dụng tập thể dục, tập trung đi hạch ở huyện để tuần
hành có gậy gộc; lợi dụng bình văn, tập diễn thuyết để tuyên truyền cổ động,
gây thành phong trào cắt tóc ( cắt búi tó), vận động mặc Âu phục, bỏ quì lạy,
cúng tế hủ tục…, và cuối cùng, kết hợp với quần chúng đông đảo thành phong trào
xin xâu có hàng vạn người tham gia. Từ Nam Ngãi, phong trào lan rộng xuống phía Nam tận đến Phú Yên và ra phía Bắc đến tận Thanh Hóa.
Cả trào rầm rộ từ Nam Trung Bộ đến tận Bắc Bộ nói lên sự đối lập giữa
hai xu hướng ôn hòa và kịch liệt, gọi theo người trong cuộc- các nhà Nho yêu nước
lúc đó, là giữa Minh xã và Ám xã – tổ chức công khai và tổ chức bí mật – và
theo cách gọi ngày nay là giữa phái bạo động và phái cải cách. Sự khác nhau giữa
hai bên là chủ trương dành hàng đầu cho nhiệm vụ chống thực dân, giành độc lập
bằng đấu tranh võ trang hay cho chống phong kiến, trước hết là Nam triều, bằng
cải cách dân chủ, cải cách văn hóa, giáo dục. Cả hai phái tranh cãi nhau kịch
liệt – nhất là từ khi Phan Chu Trinh ở Nhật về - đến mức có nguy cơ đảng tranh (1)
.Giữa hai đường lối đối lập, có một chỗ cả hai bên đều thống nhất. Đó là khai
dân trí, chấn dân khí và bồi dưỡng nhân tài. Độc lập trước hay dân chủ trước
cũng phải trông cậy vào những con người mới, những người có tinh thần mới, yêu
nước, yêu nòi giống, có tri thức mới, tri thức khoa học và thực nghiệp, và được
đào tạo cách khác so với lối khoa học cử trước đó. Trường Đông kinh nghĩa thục
được mở ra trên miếng đất chung đó, vì vậy nó thành nơi đi lại của cả hai phái,
là cơ quan phát hành tài liệu của cả hai phái. Hải ngoại huyết thư của
Phan Bội Châu Thư gửi toàn quyền Bô của Phan Chu Trinh đều do Đông kinh
nghĩa thục in và lưu hành.
Những điều vừa trình bày cho phép ta lưu ý: đằng sau những hoạt động
chính trị sôi nôi trái ngược nhau, khác nhau theo từng vùng (Bắc Bộ, Nghệ Tĩnh,
Nam Ngãi, Nam Bộ…), với trình độ phát triển kinh tế khác nhau, truyền thống văn
hóa, truyền thống đấu tranh khác nhau, với các lãnh tụ ở các địa phươngchịu ảnh
hưởng tư tưởng mới khác nhau, có một phong trào văn hóa có tính toàn quốcva thống
nhất hơn nhiều. Dầu đứng về phía bạo động hay cải cách, dầu có công kích nhau kịch
liệt, các cụ cũng tương thân tương kính, coi nhau là người đồng đạo, thống nhất
tư tưởng, có chỗ thống nhất về con đường duy tân, cải cách văn hóa. Thật là nghịch
lí, nhưng là nghịch lí hiểu được. Các cụ đều nhiệt thành yêu nước, và hơn thế nữa,
các cụ đều là nhà Nho, có cách nhìn, cách suy nghĩ giống nhau.
Trường Dông kinh nghĩa thục chỉ tồn tại được 9 tháng trong năm 1907.
Nhưng phong trao duy tân của nhà Nho ra đời sớm hơn. Sau khi Đông kinh nghĩa thục
bị đóng cửa, phong trào vẫn tồn tại dưới dạng văn học quốc cấm.. Để chống phong
trào duy tân thực dân Pháp không những đóng cửa trường, bắt giam hàng loạt nhà
Nho yêu nước, mà còn cung cấp các phương tiện cho những nhà Tây học ra chủ
trương duy tân, Âu hóa, truyền bá tư tưởng Âu Tây theo hướng tuyên truyền cho
thực dân. Từ đây phong trào duy tân không còn, nhưng tư tưởng duy tân thì vẫn
có những nhà Nho kiên trì có dịp lại phát biều.
Tôi muốn nói đến Phan Chu Trinh, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng. Nội dung
tư tưởng của các nhà yêu nước đó trong vấn đề chống sùng bái Truyện
Kiều là tư tưởng duy tân đầu thế kỉ, nhưng lần này là chung quanh vấn đề
văn hóa, học thuật, văn hóa nghệ thuật.
Cả phong trào duy tân, cải cách văn hóa đó có thể gọi chung là phong
trào Đông kinh nghĩa thục.
II
Vào dịp đầu xuân năm 1905, ông Bàng Trinh và ông Huấn Quyền đều đưa nhau
đi cắt tóc, và sau đó một bài ca lưu hành rất phổ biến:
Phen này cắt tóc đi tu,
Tụng kinh độc lập, ở chùa duy tân.
Đến ngày khấn vái ân cần,
Cầu cho ích quốc, lợi dân mới là,
Tu sao cho mở trí dân nhà,
Tu sao độ được nước ta phú cường.
Sự việc ấy được truyền tụng như một sự kiện cách mạng. Cách mạng? – không
phải là truyện phóng đại. Vào thời đại mọi người còn thu nhặt từng sợi tóc đổ từng
chiếc răng rụng, từng mẩu móng tay để lúc chết mang xuống tận mồ, làm đúng lời
dạy thánh hiền “tóc, da, thân thể là của cha mẹ trao cho, điều đầu tiên của đạo
hiếu là người con không để nó sứt mẻ, hủy hoại”, thì cắt cả cái búi tó phải là
hành động trọng tội, dư luận không dễ tha thứ. Chừng là ý thức được sự khắc
nghiệt của dư luận, tập quán, tác giả nói khá thách thức: “Phen này cắt tóc đi
tu” và tuyên bố sẵn sàng phạm cái tội đại bất hiếu đó để đổi lấy một quả phúc:
“độ được nước ta được phu cường”. Cắt tóc, đầu thế kỉ này chắc chắn đã thành
chuyện không lạ lẫm gì trong đời sống đô thị. Việc làm của Phan Châu Trinh và
Nguyễn Quyền chắc chỉ bị các nhà Nho, nhất là các nhà khoa bảng, dị nghị. Việc
cắt tóc trở thành nổi tiếng phần lớn là do ảnh hưởng của bài ca. Sáu câu rất ngắn
thực sự trở thành một bản tuyên ngôn đề ra các yêu cầu chủ yếu của phong trào
duy tân lúc đó. Những yêu cầu nêu ra rất mới – mới không ở từng khẩu hiệu mà mới
ở cách hiểu. ở cách liên kết các yêu cầu – chứng tỏ các cụ đã hiểu thực tế khác
trước, hiểu kẻ thù khác trước. Hơn hai mươi năm mất nước, sống dưới sự thống trị
của thực dân, họ đã đủ thời gian nếm trải, đủ thời gian nghiền ngẫm, so sánh và
thấy thực dân Pháp mạnh hơn, giàu hơn, khôn hơn, vì khôn hơn nên giàu mạnh hơn
và cũng vì vậy mà tàn ác, thâm hiểm hơn. Trong văn chương cuối thế kỉ thứ XIX,
theo tinh thần truyền thống, người ta cũng lên án thực dân xâm lược, bóc lôt,
đàn áp, nhưng trong cách nghĩ lúc đó, người ta chưa phân biệt được xâm lăng
phong kiến với xâm lược thực dân, mới hiểu sự bóc lột cống nạp, sưu cao thuế nặng,
sự đàn áp bằng võ lực, mà chưa hiểu áp bức về kinh tế, bóc lột bằng khai thác,
bằng độc quyền kinh doanh… Khi thấy tận mắt công cuộc khai thác thuộc địa, thấy
rõ vai trò của đồng tiền, của tổ chức, qui mô kinh doanh – nguồn gốc giàu mạnh
của thực dân, các nhà Nho yêu nước mới càng thấm thía sự tàn ác thâm độc của giặc,
càng xót xa cái khổ mất nước. Một mặt họ hiểu ra sự giàu có của đất nước. Giang
sơn không chỉ là gấm vóc như trước kia thường nói, mà giàu có cũng không chỉ là
“vật hoa thiên báu” hiểu theo cách ngày xưa, nghĩa là không chỉ có nhiều đặc sản:
xà cừ, vân mẫu, hạt trai, san hô, tê giác, đồi mồi, tượng nha…, những thứ có sẵn
trong thiên nhiên chỉ cần tốn công thu nhặt, và từ hàng ngàn năm về trước,
phong kiến Trung Quốc đã biết rõ, đòi ta hằng năm cống nạp. Các nhà Nho yêu nước
đầu thế kỉ mới biết đến nhiều của cải của đất nước, những thứ thiết thực, cần
cho đời sống như tre mây trên rừng, cá muối dưới biển, nói đến gỗ quý, nhất là
nói đến khoáng sản:
Các thứ mỏ kể sao cho xiết,
Vàng, bạc, đồng, kẽm, thiếc, sắt, chì.
Dầu trong, than chắc thiếu chi,
Chu sa, bạch thạch nữa thì thủy ngân.(3)
Chưa có điều tra cơ bản! Không sao, lúc đó chưa có gì nguy hại. Mặt
khác, quan trọng hơn là từ cách nhìn mới, các cụ đã rút ra những nhận thức quí
giá. Đất nước giàu có như vậy ma để cho quân thù mặc sức khai thác! Đất nước
giàu có như vậy mà dân ta “lười nhác”, “ngẩn ngơ”, “không biết làm ăn”, ngồi
trên núi vàng mà chết đói, giương mắt nhìn kể cướp khuân vàng đi! Có điều kiện
mở tầm mắt ra thế giới, các cụ đã hình dung ra quang cảnh cạnh tranh quyền lợi
giữa các cường quốc, tiếp nhận cái thực tế được coi là quy luật “ mạnh được, yếu
thua”, “khôn sống, vống chết”, cho nên hiểu chủ quyền không chỉ là chủ quyền
chính trị, mà cả chủ quyền kinh tế: giành độc lập không chỉ là đuổi được đội
quân xâm lược, mà còn bảo vệ được quyền lợi kinh tế, vì lẽ đó, cứu nước không
chỉ là đấu tranh võ trang, mà còn là “đua khôn”, “đua khéo”, giành thắng lợi
trong cuộc đấu tranh sinh tồn. chính nhận thức mới đó đã làm cho tác giả Bài
ca Á Tế Á nói đếnmột ưu diểm khác của tính cách dân tộc:
Thương ôi! Bách Việt giang sơn,
Thông minh đã sẵn, khôn ngoan có thừa.
Trên cơ sở nhận thức mới, độc lập không phải chỉ gắn với thái bình, mà
còn gắn với cả phú cường. Phú cường không chỉ hiểu như trước là phú quốc cường
binh – kho lẫm đầy, binh hùng tướng mạnh – nhìn vào lực lượng vật chất của nhà
nước, nhà nước phong kiến. Trong quan niệm phong kiến đó, nếu có tinh thần thân
dân thì cũng chỉ là quan niệm đến thời vụ, lo cho dân an cư lạc nghiệp, làm việc
cày cấy, trồng dâu nuôi tằm, ăn no thì vác nặng, “ trăm họ đủ thì ai để nhà vua
không đủ”(2), cũng là kho lẫm đầy, binh hùng tướng mạnh, nhưng lấy
dân làm gốc của nước. Các nhà Nho yêu nước đầu thế kỉ đã hình dung đất nước
khác trước, giàu có khác trước, với một nền kinh tế sản xuất khá với nền kinh tế
tự nhiên tự cấp, tự túc. Phú cường, theo họ là dân giàu, nước mạnh, dân no đủ
sung túc và nước đủ sức cạnh tranh, chen vai thích cánh với liệt cường: phú cường
cho cả xã hội và trên cơ sở một nền sản xuất xã hội. Đó là tiền đề để kêu gọi hợp
đoàn doanh sinh, góp vốn cả nước, đầu tư kinh doanh nhiều ngành, cạnh tranh với
tư bản nước ngoài. Ở một nước phong kiến lạc hậu, phân tán, hợp đoàn đã không dễ,
kinh doanh càng khó, canh tranh với liệt cường càng khó hơn. Với tầm nhìn của
nhà Nho chỉ mới biết đến quy mô buôn bán nhỏ, họ cũng chưa có tham vọng làm chủ
ngân hàng, giao thông, ngoại thương,… mà chỉ tính đến chuyện giành lấy khách
hàng trong buôn bán. Nhưng muốn thế thì hàng hóa mà mình sản xuất cũng phải nhiều,
phải tốt mới cạnh tranh được với hàng Tây, hàng Tàu. Có hai cái khó đập ngay
vào mắt: thiếu vốn và thiếu kĩ thuật, thiếu kinh nghiệm nên hàng xấu.
Không vốn thì không thể nói đến sản xuất. Nguyến Thượng Hiền đề nghị vận
động cả nước mỗi người góp một hào cho công ti kinh doanh. Tổ chứccông ti kinh
doanh vốn là chuyện còn rất xa lạ. Phan Chu Trinh nhận xét một cách chua xót:
“Nước ta không nghèo nhưng không có một đoàn thể nào đông quá ba người. Không
có một cái lợi xã, lợi ích nào vốn hơn trăm bạc”(3). Không phải hoàn
toàn không có tiền, nhưng góp vốn cho công ti thì không mấy ai tin là tiện lợi.
Hàng xầu mà người tiêu dùng thích dùng hàng Tây, đồ Tàu, sản xuất được cũng khó
tiêu thụ. Nguyễn Thượng Hiền đề nghị dùng nội hóa. Muốn cạnh tranh được với
hàng nước ngoài, trước hết người sản xuất phải “đua tài làm cho tốt”, người
buôn bán không được trục lợi, nâng giá, lừa dối trao hang xấu; nhưng mặt khác,
người tiêu dùng cũng đừng chuộng lạ. Mọi người có dùng nội hóa thì hàng nước
mình mới tốt đẹp lên được. Nói tóm lại, mọi người phải lấy lòng yêu nước, ý chí
tự cường mà có một ý thức chung:
Anh em một tụi cùng nhau,
Thóc mình chớ để ném cho gà người.(3)
Ai ai cũng nghĩ đến ích nước lợi dân mà cố gắng hi sinh dần dần “ thu được
quyền lợi về ta”. Với tinh thần ấy, lợi ích kinh tế phải nhường chỗ cho tình đồng
bào, đồng chủng:
Yêu nhau mua giúp nhau cùng,
Sẩy vai xuống cánh cũng không thiệt gì.
Còn hơn của để đi đàng khác,
Để hàng mình nhớn nhác kêu ca.
Tất cả các khó khăn chỉ có thể giải quyết bằng trách nhiệm quốc dân, bằng
tình đồng bào, bằng tinh thần hi sinh, tự cường để làm người dân nước độc lập.
Chưa bao giờ trong văn chươngcác nhà Nho lại nhắc nhiều đến chữ “dân” như vậy:
khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh… Một tinh thần dân bản vị chi phốimọi
suy nghĩ. Vua đã đầu hàng, ngôi vua thành công cụ trong tray giặc. Nước không
còn là lãnh thổ Trời tao cho vua quản lí như Lí Thường Kiệt đã từng khẳng định:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư, Tiệt nhiên định
phận tại thiên thư.”. Người dân không còn là thần tử, Trời trao cho vua
chăn dắt. Tháo gỡ được sự trói buộc giữa Trời và vua, người dân quan hệ trực tiếp
với nước, là chủ của nước. Nhưng trong cái cộng đồng đó, mọi người dân gắn bó với
nhau bằng cái gì? – Bằng một tình máu mủ cùng dòng, cùng giống. Chưa bao giờ sự
tích con Rồng cháu Tiên lại được nhắc nhở nhiều và tha thiết như vậy. Đó là ngọn
nguồn của tình đồng bào. Tình đông tông, đồng hương trước đây, của quan hệ họ
hàng làng xóm được mở rộng đến phạm vi cả nước thành tình đồng bào: nước ta là
một địa bàn quần tụ của một chủng tộc. Anh em cùng họ, bà con cùng quê có nhiệm
vụ phải thương yêu đùm bọc lấy nhau thì đồng bào cả nước, tuy họ hàng có xa
hơn, sao lại không thể thương nhau, giúp nhau như vậy? Thế nhưng mục tiêu của hợp
đoàn doanh sinh còn đòi hỏi cao hơn tình thương yêu đùm bọc. Nó đòi hỏi những tổ
chức có mục tiêu cụ thể, sự gắn bó tự nguyện, trách nhiệm lẫn nhau rõ ràng. Các
cụ nói nhiều đến đoàn thể, và nói rất tha thiết:
Thể đoàn như đá chẳng mòn,
Như thành chằng lở, như non chẳng rời.
Đừng như đàn quạ giữa trời,
Gặp cơn mưa gió vội rời nhau ra.
Có đoàn thì mới có ta,
Đoàn là rất trọng, ta là rất khinh.
Dù cho sóng gió bất bình,
Lợi đoàn mà có thiệt mình cũng cam.
(Khuyên nhau
hợp quần)
Quan hệ dân và nước, chủng tộc,
đoàn thể thay cho họ, làng, sự đối lập trong quê – ngoài tinh, chốn hương thôn
– nơi triều đình, đó là cái mới trong cách hình dung cộng đồng của nhà Nho.
Trong cách nhìn như vậy, phương diện kinh tế, phương diện xã hội được chú ý. Những
điều đó đã giáo dục, cổ vũ, đã thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy thanh niên đi
vào con đường cứu nước, đi vào con đường cách mạng. Giữa cuộc sống tối tăm bịt
bùng của xã hội phong kiến, sự thống trị của Nho giáo, cái mới dầu chỉ như vậy
cũng khó được chấp nhận. Không chỉ nông dân ít học, quen với cuộc sống chật hẹp
ở làng xã không tiếp nhận được, mà nhiều nhà Nho còn mang kinh truyện thánh hiền,
tập quán cha ông ra để dè bỉu và chống lại kịch liệt.
Không thể đối thoại với họ. Không thể không phê phán Nho giáo, nhà Nho và
xã hội cũ.
III
Thực ra các nhà duy tân chưa nghĩ đến chuyện phê phán Nho giáo. Các cụ đau
xót bộc lộ mọi mặt hen kém của nước ta, dân ta, nhìn trách nhiệm làm cho nước yếu,
dân hèn là ở học thuật, các cụ phê phán lối học khoa cử, phê phán người hủ Nho,
và vì vậy động chạm đến một số luận điểm cơ bản của Nho giáo.
Đọc địa lí và lịch sử các nước, họ thấy sâu sắc sự cách biệt một trời một vực
giữa nước ta với các nước Âu Mĩ, đau xót thừa nhận cai thực tế cay đắng: “ Nước
Đại Nam vốn là một nước lớn văn minh, trong ngoài đều khen là một nước thanh
danh văn vật”(4), trong thế giới ngày nay chỉ là một nước bán khai,
có hơn những nước còn ở trình độ dã man; còn so với các nước Âu Mĩ đã đạt tới
tuyệt đỉnh văn minh thi mình hèn kém mọi mặt. Tuy lịch sử là tiến hóa, nhưng
trong cuộc cạnh tranh sinh tồn, các nước hèn kém ấy không những mất nước mà còn
có nguy cơ diệt chủng.
Các nước Âu Mĩ sở dĩ văn minh là vì, về tư tưởng quyền tự do và dân chủ của
dân được tôn trọng, trong nước “có nghị viện để duy trì quốc thị, có báo quán để
đạo đạt hạ tình”. Không những họ có “các đại trước tác của Vônte, Rútxô,
Xpenxe” mà tất cả các hoạt động văn học văn hóa đều nhằm “phát huy chủ nghĩa
yêu nước, yêu nòi giống”; vì họ có nền giáo dục hẳn hoi, “đào tạo có cấp, có
chương trình, dạy theo năng khiếu, chuộng thực hành”, sử dụng theo kết quả đào
tạo; học thành tài rồi sau mới dùng, dùng làm được việc rồi sau mới thăng chức”;
vì chế độ chính trị của họ, lập hiến hay cộng hòa cũng vậy, đều bầu ra nghị viện
“ bàn luận kĩ càng mọi việc cốt làm cho đúng chân lí”, hợp với tình hình; vì
dân của họ gắn bó với nước, vì con người của họ xem thường hiểm trở gian nan,
ham hiểu biết và biết rộng. Còn ở nước ta thì mọi mặt từ từ công thương nghiệp,
đến chính trị, luật pháp, đến giáo dục, tư tưởng, đâu đâu nền nếp cổ hủ cũng ngự
trị, đâu đâu cũng lạc hậu thảm hại: “ Ngoài văn chương, không có là quý, ngoài
áp chế không có gì là tôn chỉ; ngoài phục tùng không có gì là nghĩ xa”. Bên
trên thì cấm đoán, bưng bít, “dùng người quý im lìm lặng lẽ ”, “ làm việc chiếu
theo lệ cũ, mà lệ cũ không nhất định, luật có ban bố nhưng dân không được đọc”.
Bên dưới thì sợ hãi, “làm văn sách thì sợ phạm húy, dâng thư cho người trên thì
e phạm tội vượt phận nói leo”. Đất nước giàu tài nguyên, khí hậu thuận lợi làm
ăn dễ dàng, nhưng nguồn lợi đó dân ta không được hưởng. Đối với công thương
nghiệp, việc phát triển kinh tế, “ triều đình thì lảng đi, sĩ phu thì khinh rẻ
không chịu làm”, bao nhiêu vật dụng hằng ngày không mua của Tàu thì mua của
Tây; gánh vàng đi đổ ra ngoài. Cả nước “sống lêu lổng, ham mê đàn sáo, đầu hồ,
lá bài, cờ tướng, đố thơ, đánh chữ, số tướng, địa lí, phù thủy, ngày ngày dốc
trí khôn vào những thứ vô dụng”, miệt mài theo đuổi kinh nghĩa, ngũ ngôn, biền
ngẫu, “đỗ đạt lên được một tí cái tiếng quèn, đã vội khủng khinh ta đây là kẻ cả,
tự xưng là bậc giữ gìn thế đạo, ngày ngày ngồi khoe câu văn hay, khư khư ngồi
giữ những thuyết hủ lậu, khinh bỉ hết thảy những thứ học mới”. Hạng người tệ
hơn nữa thì chỉ “ nghe có vấn đề thăng quan lên mấy bậc, cất nhắc được mấy người”,
không biết “ năm châu là những châu nào, thế kỉ này là thế kỉ thứ mấy”. Trong
cuộc sống bưng bít, mọi người ru rú giữ lây
“xóm cùng làng hẻm”, lìa nhà mười dặm đã bùi ngùi “mưa gió hoa vàng”, ở
nơi đất khách vài năm đã than thở “quan hà đầu bạc”. Khắp nơi đầy rẫy hủ tục.
Người ta phàn nàn nước nghèo không có vốn để kinh doanh, khó khăn cả trong việc
mỗi người góp chỉ một hào, nhưng lại sẵn sàng dốc những số tiền lớn gấp trăm lần
vào những việc vô ích. Quanh năm cưới hỏi, ma chay, cầu cúng, mượn tiếng lế
nghĩa để xôi thịt. Đối với những khoản chi tiêu như vậy, người Việt Nam đã quen
thà ngậm cháo ăn rau, chứ đâu dám tiếc tiền. Tục lệ, dư luận bắt họ phải thế.
Người ta lại chuộng hư danh bỏ tiền đút lót để được tiềng học trò đi thi, được
tiếng người chức việc trong làng để được tiếng làm anh. Vì danh, có tốn tiền đến
bao nhiêu cũng mát mặt, không tiếc. Để chi tiêu vào những việc vô ích như vậy,
nhiều người không ngần ngại bán cả nhà cửa, ruộng vườn, cả áo khăn, đồ đạc, đến
nỗi như Nguyễn Thượng Hiền nói:
Qua đêm rã đám là ngày đi pheo,
Khổ đến thân thì liều chẳng kể,
Chốn hương quan mấy kẻ tìm về.
(Hợp đoàn
doanh sinh huyết)
Bao nhiêu hủ bại của đất nước
đều tập trung ở kẻ sĩ, hay như các cụ hiểu bao nhiêu hủ bại đều là do kẻ sĩ, do
cách học sai lầm của kẻ sĩ. Người hủ Nho là hình ảnh tập trung của nhiều cái lạc
hậu, hèn kém của xã hội. Nhà Nho, kẻ sĩ trong xã hội trước đây là người “tiên
giác” có trách nhiệm hướng dẫn nhân dân, vì họ biết hơn dân. Thế nhưng, cái biết
của họ trước tình hình mới tỏ ra nghèo nàn, và sai lầm thảm hại:
Nhà Nho hủ vẫn cậy mình khôn khéo,
Đem văn chương mà vênh váo với đời.
Dăm ba câu bát cổ dông dài,
Trừ cử nghiệp, việc ngoài chi nỏ biết.
(Bài hát
khuyên hủ Nho)
Quả là họ không biết gì thật:
Đọc câu “lịch tượng thụ thời”,
Hỏi giăng chẳng biết hỏi giời chẳng hay.
Hỏi địa lí đêm ngày mờ mịt;
Hỏi các nghề rối tịt trơ trơ.
Nghĩa đen lấn cấn lơ mơ,
Mắt nhìn thủng giấy, tay sơ đứt lề.
(Cáo hủ lậu
văn)
Thật là khác cho các cụ! Từ thời Khổng Phu Tử nội dung của tri thức đã
khuôn lại là biết Đạo, biết Lễ, biết Nghĩa, biết Mệnh chứ có đòi hỏi biết một
cái cụ thể nào về thế giới khách quan đâu! Đức Thánh quả có nhấn mạnh học và tập,
học và hành, nhưng như thế cũng chỉ là dùng văn chương để truyền bá đạo nghĩa
thôi. Đến đây các nhà duy tân mới nói, biết như vậy cũng là không biết, mới đòi
hỏi biết thêm bao nhiêu thứ, biết Âu, biết Mĩ, biết địa lí, biết các nghề… Đến
như Khổng tẻ nổi tiếng uyên bác là vậy mà Phàn Trì hỏi nghề cày cấy, nghề làm
vườn, ngài cũng có biết đâu! Các nhà Nho học để đi thi chỉ biết học theo, nhắc
lại, chỉ cần nhớ đúng chứ không cần hiểu kỹ. Đọc một câu không cần suy nghĩ nhiều
về ý nghĩa, nói đạo lý cũng không cần so với hoàn cảnh xung quanh. Không biết
đã là nguy hại, nhưng “không biết mà tỏ ra không biết cũng là biết”(lời Khổng Tử).
Đằng nay nhà Nho hủ đã không biết lại tự phụ là đã biết hết “ nhất nghệ bất tri
Nho giả sở si”. Họ đem những người xưa, việc xưa, những tri thức cổ lỗ trời
tròn, đất vuông, những điềm rủi, điềm mẩy giải thích vong mạng. Chỉ với lí thuyết
Âm Dương, Ngũ Hành, chỉ với Đạo, Lí họ tin có thể suy ra mà hiểu hết mọi chuyện
trong vũ trụ, “không ra khỏi màn mà đoán đinh được việc ngoài ngàn dặm”. Dầu có
đem chuyện khoa học kĩ thuật Âu Mĩ ra hỏi, họ cũng không biết gì nhưng cũng
không chịu im.
Khí
học làm sao? Hóa học làm sao? Cụ dẫn Dịch tượng,Thư trù chi cổ đế.
Cơ
khí là thế, điện khí là thế. Cụ rằng mộc ngưu, lưu mã chi Khổng Minh.
(Văn tế thầy đồ hủ)
Họ bàn cả cơ học, lí học,
hóa học, nhưng lại hiều lí học, cơ học ra chuyện lí, khí, chuyện cơ tâm, cơ trí
trong Luận ngữ; ra chuyện mộc ngưu lưu mã thời Khổng Minh, thậm chí còn ra chuyện
trong Kinh Thư, Kinh Dịch nữa. Với cái tri thức mơ hồ, lối phán đoán đại khái
chủ nghĩa, họ vẫn tự cao tự đại, coi mình là người thức giả. Và họ cũng không dừng
lại ở chỗ tự cao hợm hĩnh vô hại, đã bàn đủ mọi chuyện lại khích bác “những người
nói khác mình”, tức là những nhà duy tân, vẫn mỉa mai, cự tuyệt mọi cái mới. Sự
khích bác của họ không phải là không nguy hiểm. Với tư thế là “người bảo vệ Đạo
Thánh”, “cầm chính đạo”, “chống dị đoan”(5), họ buộc tội cho những
người đọc sách Tây cái tội bội đạo, tội li kinh, phản bội danh giáo, những tội
danh này còn nhục nhã, nguy hiểm hơn cả bất hiếu, bất mục, làm phản triều đình.
Thái độ của họ tạo ra dong nước ngược, gây trở ngại lớn cho công việc duy tân cứu
nước.
Người hủ Nho bị lên án gay gắt.
Các nhà duy tân chì chiết, bêu riếu, mỉa mai họ, không ngại cả việc dùng những
từ ngữ độc địa. Bài Văn tế thầy đồ hủ
vẽ lên một bức biếm họa, chạm trổ chọn vẹn chân dung thể chất và tinh thần nhà
Nho hủ, từ diện mạo củ rủ, quần áo bẩn thỉu, ăn uống bần tiện, cho đến cách nói
năng, cách đi đứng, tính tình, nguyện vọng lí tưởng, thái độ đối với đất nước…
Người ta không từ cả việc gọi cái học khoa cử của nhà Nho là học “nhai phân”, học
“nhá đờm”, nhấm nháp những cặn bã người xưa bỏ lại. Có làm như thế các nhà duy
tân mới làm cho thanh niênkinh tởm cái cũ, mới quyết tâm học khoa học và kĩ thuật
Âu Mĩ. Có làm như vậy mới khẳng định được trí tuệ, tự do tư tưởng là những yêu
cầu của cuộc vận động khải mông mà họ đề
xướng.
Động đến khoa cử, động đến
nhà Nho là động đến Nho giáo. Thế nhưng khi Phan Bội Châu kêu gọi mười hàng người
trong nước đoàn kết cúu nước, còn nghĩ: “Đứng đầu tiên là bạn làng Nho”; Nguyễn
Thượng Hiền kêu gọi họp đoàn doanh sinh còn mong dựa vào uy tín lớp thân sĩ vận
động mọi người góp vốn, trông cậy ở đạo đức tài năng của họ để quản lí, thì việc
phê phán Nho giáo cũng chỉ có thể dừng lại ở một số giới hạn. Tác giả Văn
minh tân học sách say mê thuyết tiến hóa đã bác bỏ quan điểm tuần hoàn,
xưa hơn nay, thịnh suy đắp đổi, coi động lực vận động của tiến hóa là trí tuệ,
sáng tạo khoa học, là sự ứng dụng trí tuệ và sáng tạo khoa học vào sản xuất,
kinh doanh chứ không phải là đạo đức, thì động lực của lịch sử vẫn là học vấn,
trí thức. Ông công kích các nguyên tắc “hậu cổ bạc kim”, “trọng vương khinh
bá”, “nộ hạ ngoại di”, “trọng quan khinh dân”, tức là những quan điểm rất cơ bản
về lịch sử, chính trị, về xã hội của Nho giáo, thì vai trò tiền phong trong
công cuộc vận động duy tân cũng vấn là giới trí thức, một thứ kẻ sĩ tiên giác.
Các cụ kêu gọi bỏ lối học từ chương, bỏ khoa cử, nhưng vẫn còn chủ trương học
chính văn của kinh truyện, nghĩa là chỉ bỏ những lời chú giải, những lời bàn
suông, bỏ thơ phú, kinh nghĩa, mà vẫn giữ lại sách, luận, nghĩa là chỉ bỏ thứ
văn chương phù hoa, thứ văn chương bát cổ, biền ngẫu mà thôi. Phương châm của họ
là chống lại phù hoa, chuộng thực dụng, chứ “lời hay nết tốt của thánh hiền”,
những “cái có quan hệ đến thế đạo nhân tâm” vẫn chưa phải là cái có thể bỏ. Vả
lại với cách nhìn chủng tộc, các cụ cũng chưa thể bỏ lòng tự hào “Châu Á là ngọn
nguồn của văn minh” được.
Dầu các cụ đã thay đổi
cách suy nghĩ, chú ý đến mặt kinh tế, mặt xã hội, thì cũng chưa phải là đã bỏ
được cách hình dung thế giới theo mô hình gia đình, coi quan hệ xã hội giống
quan hệ gia đình, làng xóm:
Hồn xưa dòng dõi Lạc Long,
Con nhà Nam Việt ở trong giống vàng,
Chi Na chung một họ hàng,
Xiêm la, Nhật Bản cùng làng Á Đông.
Thế giới đã mở rổnga đến
năm châu, nhưng vẫn mang hình ảnh gia đình mở rộng, mà xã hội tuy có dân làm chủ
thì dân vẫn là người yếu kém, dốt nát, cần được che chở, giáo hóa.
Năm 1905, tác giả Cáo hủ lậu văn mở đầu bài ca: “Muôn năm
Ất Tị vua ta”… Năm 1940, ở trong câu đối tuyệt mệnh, Phan Bội Châu than thở “Khả
tích hung trung mai Khổng Mạnh” ( Tiếc bấy trong lòng vùi Khổng Mạnh).
Món nợ lâu đời với Nho
giáo, không dễ gì một lúc đã thanh toán được!
IV
Cuộc cải cách văn hóa mà
nhà Nho duy tân đề xướng chưa có những điều kiện thuận lợi. Nội dung yêu nước
thương nòi của nó không che mắt được thức dân, mà nội dung tư sản của nó chưa
có lực lượngthành thị lớn mạnh để hưởng ứng. Phong trào chưa kịp phát triển đã
bị đàn áp, bị dập tắt nhanh chóng. Chỉ nhìn qua cũng thấy phong trào có chỗ nghịch
lí, lạ lùng: lớn tiếng đòi tư sản hóa không phải là người dân đòi truyền bá học
thuyết phương Tây mà trong hàng ngũ người chủ xướng không ai có Tây học. Trong
nước nền kinh tế hàng hóa chưa kịp phát triển, thành thị còn nhỏ yếu, thị dân
ít, lực lượng tư sản chưa thành lực lượng đáng kể. Các nhà Nho đề xướng Âu hóa
chưa sống ở nước ngoài, không biết ngoại ngữ, không trực tiếp đọc được các tác
phẩm mà họ đinh truyền bá. Là những nhà Nho, họ chỉ đọc được Hán văn, hiểu học
thuật Phương Tây qua sự giới thiệu của sách báo Trung Quốc, mà qua dịch thuật,
giới thiệu cảu Trung Quốc thì mọi thứ đã Trung Quốc hóa. Trong nước, lúc đó
cũng có người biết tiếng Pháp, học tận bên Pháp, nhưng họ còn ít ỏi sống dính
líu nhiều với thực dân; chính họ lại không nghĩ đến chuyện Âu hóa đất nước. Vào
lúc đó nhà Nho vẫn là lực lượng trí thức dân tộc, là người mang văn hóa dân tộc,
gắn bó với quần chúng đông đảo là nông dân. Vừa trải qua hai, ba chục năm chiến
đấu với kẻ thù trong phong trào Văn thân, tiếng nói của họ vì thế có trọng lượng.
Đó là chỗ thuận lợi. Nhưng đề xướng Âu hóa, nhà Nho làm công việc hoàn toàn
trái với bản chất của mình.
Nhà Nho vốn là người chỉ
quen đọc sách ngâm thơ, coi thường việc sản xuất khinh bỉ việc làm giàu, căm
ghét việc cạnh tranh . Họ ca tụng cuộc sống thanh thả, nhàn tản, vui với nước
non, tiêu dao với ngày tháng, tự hào tay không có mùi tiền, óc không nghĩ đến sản
nghiệp, họ là người ăn bám không lao động có triết học. Ăn bám không lao động mà lại cần kiệm,
liêm, chính. Trong cuộc sống họ là người siêng năng thức khuya dậy sớm, cầm
sách liền tay, chăm chỉ trồng hoa tưới cây… Họ là người ăn bám, vì theo đúng
thánh hiền sống trọng nghĩa, khinh lợi, coi trách nhiệm của kẻ sĩ là phù trì thế
đạo nhân tâm, là giáo hóa dân, làm công việc lao tâm; còn việc cơm gạo, tiền
nong, sản nghiệp là việc của vợ con, đàn bà, việc cày cấy là việc của nông phu,
lao lực. Phải từ bỏ bao nhiêu tư tưởng, bao nhiêu nếp sống, học tập, bao nhiêu
mánh khóe khôn ngoan, bao nhiêu tinh thần mạo hiểm, họ mới có thể mặc áo gấm, cầm
quạt lông, bảo thằng nhỏ nách gói theo hầuđể xuống thuyền xem mặt hàng, mặc cả
giá với thuyền buôn. Vốn là người sùng cổ, coi thời Tam Hoàng, Ngũ đế là tuyệt
đỉnh văn minh, việc làm không bắt chước xưa thì hỏng, nói không đúng sách vở
thánh hiền là sai, thế mà lại phải hi vọng, chờ đợi sự cứu vớt ơ tìm tòi, suy
nghĩ, sáng tạo. Vốn là người cẩn thủ tuân theo nề nếp cha ông, tuân theo tục lệ
hàng xóm kì thị, bài ngoại, mà lại phải học theo Âu mĩ, những nước ở tận đâu những
phương trời xa xôi. Vốn là người suy nghĩ, phán đoán chỉ theo Lí, theo Đạo,
theo những gương mẫu có sẵn, mà phải bàn chuyện thực tế, giải quyết chuyện thực
tế. Nhà Nho không tự phủ định triệt để thì không thể đi theo cái mới, không thể
hiện đại hóa được.
Những điều trình bày ở
các phần trên cho ta thấy, quả thật nhà Nho trong phong trào duy tân đã gột rửa
được nhiều thành kiến, vứt bỏ được nhiều nề nếp, nhiều thói quen. Giúp họ vượt
lên trên minh như vậylà tinh thần truyền thống yêu nước, kiên cường bất khuất của
dân tộc, nhờ lòng căm thù chứa chất sau những thất bại nhục nhã, sau những nếm
trải sự khổ nhục khi làm người dân mất nước, và đồng thời cũng là nhờ tư tưởng
Nho giáo trong chính họ. Tư tưởng Nho giáo khuyến khích con người yêu quê cha đất
tổ, yêu bà con làng xóm, sẵn sàng nhận trách nhiệm cứu nạn,phò nguy, “đối với
việc hưng vong của đất nước, kẻ thất phu cũng có trách nhiệm”. Các nhà Văn thân
của thế kỉ trước vì yêu nước đã tay không chống giặc, ngã xuống hàng loạt, đến
lượt họ, các nhà Nho đầu thế kỉ lại vì yêu nước, lại dũng cảm từ bỏ nhiều cái
quen thuộc, thân thiết của mình để làm việc nghĩa.
Không phải họ có thể vượt
quan tất cả. Không phải Nho giáo cho phép họ từ bỏ tất cả, nhìn ra được cái
“chân lí”, cái mà đến đây họ hay nhắc đến một cách thiết tha. Chân lí quan trọng
nhất đối với họ là độc lập. Cái làm họ chú ý trước hết trong các nước Âu Mĩ là
tinh thần dân tộc, tinh thần yêu nước, tinh thần trách nhiệm của người dân đối
với nước. Theo họ đó là đặc điểm của người dân Âu Mĩ, là động lực làm cho các
nước đó trở nên văn minh, trở nên phú cường. Cái làm cho họ say mê nữa đó là chế
độ dân chủ. Các nhà duy tân nhìn vào chế độ dân chủđại nghị với nhiều màu sắc ảo
tưởng.Họ nghĩ rằng, dưới chế độ dân chủ tư sản, mọi cái đều tốt đẹp: tự do hạnh
phúc của nhân dân được đảm bảo, trí tuệ, khoa học đều được tự do, phát triển
thuận lợi. Thế nhưng, họ hiểu dân chủ - dầu chỉ ở mức dân chủ tư sản – còn khá
sơ lược. Họ chưa hề nghĩ kĩ dân là ai? Là những người thế nào? Làm chủ cái gì?
Bằng cách nào? Chưa trải qua một cuộc đấu tranh chống áp bức về mặt xã hộ, trên
lãnh thổ gọi là đất nước, họ ý thức được chủ quyền dân tộc, mà không chú ý nhiều
đến những vấn đề xã hội của cuộc sống trong cộng đồng. Tuy thích thú và bỏ nhiều
tâm lực truyền bá, giảng giải, nhưng họ không hiểu sâu sắc những tư tưởng của
Vônte, Rútxô – các nhà triết học phương Tây được các cụ đưa lên bậc thánh – nói
về tự do, hạnh phúc, bình đẳng, công bằng, hữu ái. Chưa thấy ý nghĩa của những
từ tưởng đơn giản, như cá nhân, công dân, luật pháp…, chưa thấm thía những vấn
đề nhân quyền, dân quyền, chưa thấy sâu sắc ý nghĩa của đòi hỏi sự tương ứng giữa quyền lợi và nghĩa vụ, cho nên cũng
không ý thức đầy đủ chức năng Nhà nước, vai trò pháp luật. Nước và cả thế giới
được hình dung theo mô hình gia đình, làng xã, trong đó mọi người quan hệ với
nhautheo tình máu mủ, thân thuộc,thì nhà nước cũng là địa bàn quần tụ của giống
nòi, là gia tài, sản nghiệp là tự điền hương hỏa cha ông để lại, không đòi hỏi
giải quyết những vấn đề phức tạp giữa những con người ngẫu nhiên và bắt buộc phải
cùng sống với nhau. Dân được tuyên bố là chủ nhân, gán cho nhiều mĩ tự của người
làm chủ, nhưng như vậy cũng là để mang thêm nhiều trách nhiệm của người làm chủ;
còn đối với lớp nguời tiên giác, dân vẫn là đối tượng che chở, nuôi dưỡng, giáo
hóa. Đó là sự khác nhau giữa quốc dân trong tình chủng tộc, nghĩa đồng bào với
người công dân tự do, bình đẳng, tự nguyện tham gia khế ước xã hội. Đó cũng là
sự thu nhỏ chế độ dân chủ tư sảnvào khuôn khổ Nho giáo.
Nhìn ra sự quan trọng của
khoa học, học thuật, nhu cầu cải cách văn hóa đối với các nhà duy tân dường như
có bớt khó khăn hơn. Nho giáo vốn là học thuyết đề cao văn hóa, học vấn, đề cao
giáo dục. Thế nhưng, trong sự ngiệp văn hóa- giáo dụ, nhà Nho chú trọng chức
năng “đạo giác tư dân”, tức là giáo dục, cải tạo tư tưởng của dân, nên đặc biệt
chú ý nội dung tư tưởng, mà coi thường phần nghệ thuật. Không phải Nho giáo
không thấy tác dụng to lớn của nghệ thuật đối với tình cảm, tư tưởng con người.
Ngược lại chính vì vậy mà nó đòi nghệ thuật chỉ có một chức năng là mang tư tưởng
phục vụ giáo dục. Chính quan niệm đó đã hạn chế phát triển của các nghệ thuật,
đến nỗi ở các nước chịu nhiều ảnh hưởng của Nho giáo, văn minh, văn hóa hầu như
rút gọn lại chỉ còn sự phát triển của văn chương, và là văn chương đạo lí. Các
nhà duy tân đều là những nhà khoa bảng sành văn chương, khi tiếp thu tư tưởng
duy tân, thấy cái nguy hại của một nước “ ngoài văn chương không có gì là quý”,
ghét cái thứ nghệ thuật “rung đùi, lắc vế gò gẫmtìm một chữ cho kêu, chọn một
điển tích cho đắt” (6), thứ nghệ thuật theo họ là phù hoa, vô ích, lại
muốn đưa nội dung mới làm đạo lí và bắt văn chương làm nhiệm vụ giáo hóa mạnh
hơn nữa. Trong cuộc vận động duy tân, các cụ đề cao trí tuệ, đề cao sáng tạo,
nhưng là nói trong phạm vi khoa học, kĩ thuật, trong phạm vị học thuật, chứ
không đả động gì đến sáng tác văn học - nghệ thuật. Dưới sự thống trị lâu dài của
Nho giáo, trong truyền thống ít ai quan tâm nhiều đến lý luận nghệ thuật, các cụ
dầu là duy tân, cũng không thấy giá trị chân chínhcủa nghệ thuật là cái thực,
không phải hiểu đối lập với hư (trống rỗng, phù hoa), tức là có nội dung thiết
thực, có ích cho giáo hóa, mà là mang bóng dáng của cuộc sống, hơi thở của cuộc
sống, tức là phản ánh, tái tạo, xây dựng cuộc sống.
Trước sự cường thịnh của
Âu,Mĩ, các nhà Nho say mê muốn bắt chước. Các cụ kêu gọi học lịch sử, học địa
lí, toán học, cơ học, điện học, mọi thứ học của phương Tây, các cụ hết lòng ca
tụng khoa học kĩ thuật, đề cao tư tưởng, tự do tranh luận. Phương hướng chung của
cuộc vân động là giải phóng tư tưởng, đề cao trí tuệ , đề cao sáng tạo, những
nét chính của cuộc cách mạng văn hóa tư tưởng, những tai năng trí tuệ là để ổ
sung cho đức chứ không phải là để thay thế nó. Để gìn giữ thế đạo nhân tâm thì
làm sao nó có thể bỏ được “lời hay nết tốt của thánh hiền”? Tuy là thiết tha muốn
tự cường, muốn duy tân, muốn hiện đại hóa đất nước, nhưng tư tưởng Nho giáo
trong bản thân không cho phép các cụ bỏ cái khuôn khổ chuộng đức, cái thế giới
quan gia đình mở rộng, cái quan niệm là người tiên tri tiên giác hướng đạo,
giáo hóa, vỗ về nhân dân. Dầu cố gắng hết sức, các cụ cũng không hiểu được xã hội
hiện đại, với quan niệm hiện đại về con người làm cơ sở cho cái xã hội đó.
Lòng yêu nước đã mở mắt
cho các nhà Nho lúc đó thấy được nhiều chuyện khó thấy. Trước đây , các nhà Nho
thường có phân biệt minh và trí, sáng suốt và khôn ngoan, “biết người la khôn
ngoan, biết mình mới là sáng suốt”. Các nhà Nho nhờ lòng yêu nước đã minh lại
trí. Họ đã thấy ra nhiều nhược điểm tai hại của chính mình, lại nhìn ra con đường
mới đầy hứa hẹn cho đất nước. Nhiệt tình, lòng dũng cảm, tinh thần hi sinh của
họ không thiếu, nhưng hiểu biết, tiếc thay lại không đủ. Nhiều vấn đề, nhiều từ
ngữ, các cụ thích thú nói đi nói lại nhiều lần, nhưng ngày nay có lần mò tìm ra
cách hiểu đơn giản hóa của các cụ mới hiểu đúng.
Đối với Nho giáo, các cụ
phê phán tri thức mà chưa phê phán cách nhận thức, phê phán chính trị mà chưa
phê phán triết học, phê phán từng điểm mà chưa phê phán cả hệ thống. Các cụ lên
án những người hủ Nho gay gắt, nhưng lại không biết rằng đã là nhà Nho thì hủ
như vậy. Không những thực tế lạc hậu che tầm mắt, Nho giáo buông bóng tối, mà
nhìn ra cái xấu của dân tộc, của cha ông, của bản thân những cái quen thuộc,
thân thương quả thật là khó.
Vào những năm 20, 30, khi
phong trào duy tân của các nhà Nho chấm dứt, đời sống đô thị phát triển, văn
hóa tư sản đã hình thành, nhiều nhà chí sĩ, tức là các nhà Nho duy tân, trước
đây còn sót lại, cảm thấy ngỡ ngàng trước thực tế hiện đại, điều mà chính họ
mong sẽ tới. Tất nhiên, đối với xã hội và nền văn hóa hổ lốn, còn đầy rẫy những
yêu tố phong kiến và thực dân lúc đó, các cụ có lí do để than thở “Á cũ qua rồi
mới chửa Âu”(1). Cái Âu Mĩ mà các cụ mong muốn quả thật đã không đến.
Nhưng cái Á cũng chưa qua, và trong cái hổ lốn như vậy, cũng không phải cũng
không có cái Âu Mĩ thực, cái hiện đại thực. Điều tôi muốn lưu ý là các cụ cũng
không thể thấy ra những cái đó. Vào những năm đó các nhà Nho duy tân còn lại có
tâm trạng khá cô độc, bi quan và cũng khá bảo thủ. Nhiều người trở lại gìn giữ
lối sống thanh cao, khí tiết, trở lại thói quen ngâm vịnh, tiêu sầu, có khi lên
tiếng bênh vực cả luân lí triết lí Á Đông nữa.
Không phải họ giảm sút
lòng yêu nước, nhưng sự hiểu biết về thế giới hiện đại không đủ bảo hiểm cho họ
tránh được một quá trình lại giống ( thoai hóa): trở lại là nhà Nho.
*
* *
Phong trào duy tân cải
cách văn hóa đầu thế kỉ ở nước ta tiếp tục phong trào cứu nước của Văn thân cuối
thế kỉ XIX, nhưng lại tiến hành trong hoàn cảnh khác: châu  thức tỉnh trước thế
giới hiện đại. Chủ nghĩa đế quốc, rồi cách mạng Vô sản, lần lượt xúc tiến quá
trình nhất thể hóa thế giới, hiện đại hóa ở từng khu vực, ở từng nước. Giao lưu
văn hóa, duyệt lại truyền thống, hướng về nền văn hóa hiện đại phương Tây thành
xu hướng tất yếu của lịch sử. Với tư cách là người mang văn hóa của dân tộc,
các nhà Nho yêu nước đã lãnh trách nhiệm đi bước đầu giải quyết vấn đề lịch sử
đó. Họ đã cố gắng hết sức minh, đã nêu những tấm gương cao cả về lòng yêu nước,
về lòng dũng cảm, về sự sáng suốt, hi sinh. thế nhưng cơ sở kinh tế - xã hội ý
thức hệ Nho giáo ở phương Đông thật bền vững, không dễ phá vỡ. Dầu là với một
tinh thần quả quyết: “ Dây đàn cầm không hài hòa thì phải tháo ra mà sửa lại,
nhà ở đã cũ hàng ngàn nămthì phải dỡ đi mà làm lại”(4), các nhà Nho
duy tân cũng không đủ sức mạnh thực tế lay chuyển nó đến tận nền tảng, để có một
chủ nghĩa nhân đạo thực sự, một quan niệm dân chủ thực sự, một tư tưởng dân tộc
chân chính làm cơ sở xây dựng đất nước hiên đại, nên văn hóa hiện đại. Trước bước
ngoặt lịch sử, Nho giáo, hệ tư tưởng chịu trách nhiệm về tình trạng tối tăm,
bưng bít, được miễn nghị. Người hủ Nho lần đầu tiên bị lột khăn áo lôi ra vành
móng ngựa của lịch sử. Sự thất bại của Đông kinh nghĩa thục đã giải thoát nó. Vế
sau Phong
hóa, Ngày nay có đưa Lý Toét, Bang Bạnh, Xã Xệ ra chế giễu, nhưng nhà
Nho hủ bại vẫn không bị đem ra sân khấu để chuốc cười.
Nhiều khi, trong bộ mặt
người làm cha, làm chú, làm thầy, có khi cả làm quan nữa, ông đồ già lại còn
giành được thương tiếc, cảm phục.
Trước tòa án lịch sử, hồ
sơ vụ án đã được xếp lại, ghi thêm hai chữ “Miễn tố”?
Tháng 3 năm 1982
Nhân dịp kỉ niệm 75 năm
Trường
Đông Kinh nghĩa thục.
CHÚ THÍCH:
(1): Phan Bội Châu. Thư gửi Phan Chu Trinh.
(2): Luận
ngữ.
(3): Phan Chu Trinh. Tựa Hợp đoàn doanh sinh huyết.
(4): Văn minh tân học sách.
(5): Mạnh Tử.
(6): Ngô Đức Kế: Bàn về chính học
cùng tà thuyết.
(7): Huỳnh Thúc Kháng vịnh Kiều.