Hiển thị các bài đăng có nhãn nhà nho. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn nhà nho. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 1 tháng 10, 2024

VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN GIAO THỜI, 1900-1930- TRẦN ĐÌNH HƯỢU

 

LỜI MỞ ĐẦU

 

 Trong lịch sử văn học Việt Nam, Giai đoạn 1900-1930 là một giai đoạn có tính chất giao thời. Nếu từ thế kỷ XI đến cuối thế kỷ XIX văn học Việt Nam phát triển theo một hướng, xét về quan niệm văn học, tư tưởng mỹ học, hệ thống thể loại là cùng loại với văn học một số nước thuộc vùng Đông Á, chịu ảnh hưởng truyền thống văn học Trung Quốc, thì từ năm 1930 về sau văn học Việt Nam lại đã phát triển theo một hướng khác, cùng loại với văn học thế giới cận hiện đại, về nguồn gốc thuộc truyền thống văn học châu Âu. Trong quãng từ 1900 đến 1930 văn học Việt Nam chuyển từ loại hình này sang loại hình khác.

Với sự tiếp tục Âu - Á, với công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, nhiều thành phố tư bản chủ nghĩa xuất hiện, làm đổi thay cơ sở kinh tế và kết cấu xã hội của chế độ phong kiến phương Đông, tạo nên một cuộc sống khác trước, làm hình thành một công chúng văn học có thị hiếu khác trước. Phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp, giải phóng dân tộc cũng chuyển sang có nội dung  mới, có hình thức tổ chức khác trước. Trước tình hình đó, văn học đã thay đổi khá cơ bản, không những phản ánh phong trào đấu tranh cứu nước của dân tộc mà cả xu hướng duy tân hiện đại hóa đất nước của thời đại. Văn học đầu thế kỷ XX đã ra đời cách khác, truyền bá theo cách khác; tác giả, tác phẩm, công chúng văn học đều đã thuộc loại hình khác.

Theo xu hướng của thời đại, văn học đi vào quỹ đạo chung của thế giới hiện đại nhưng lúc đầu nhân vật chủ yếu, có văn hoá nhất, có ý thức nhất, tiêu biểu nhất cho dân tộc vẫn là nhà nho. Trong văn học, nhà nho vừa là người sáng tác, là công chúng vừa là hình tượng văn học chủ yếu. Đầu thế kỷ các nhà nho đã đi đầu cách tân văn học cổ truyền để thích ứng với thời đại mới sau đó mới đến các nhà trí thức tân học, học tập viết văn theo lối châu Âu. Việc đổi mới văn học hoặc là do nhà nho làm hoặc là lấy văn học nhà nho làm xuất phát điểm cách này hay cách khác vẫn không thể thoát ly hẳn ảnh hưởng của nền văn học cổ truyền, vốn gắn với thế giới quan, quan niệm văn học, tư tưởng mỹ học Nho giáo.

Nhằm làm nổi bật nhất và diễn tiến cụ thể của giai đoạn văn học giao thời như thế, chúng tôi quan tâm hàng đầu đến sự vận động, sự biến chuyển: vận động, biến chuyển trong ngôn ngữ, trong hình tượng, trong thể loại, trong từng tác phẩm ngôn ngữ, tác giả, từng dòng văn học, vận động biến chuyển theo từ văn học cổ truyền sang văn học hiện đại. Quá trình đổi mới ở đây không thông qua việc ra đời một tác phẩm loại chủ nghĩa văn học mới mà thông qua sự cải tiến dần dần, ở người này một ít ở người khác một ít, nhưng nhìn chung, về thời gian là khá nhanh. Và vì nhịp điệu là khá gấp rút. Sự đổi thay biểu hiện tập trung ở hai thời điểm: về phía trước xung quanh năm 1905 và về phía sau xung quanh năm 1925, cùng nhịp với phong trào ‘phương Đông thức tỉnh’ trước thế giới hiện đại.

Nhằm trình bày quá trình vận động phát triển như thế chúng tôi phân bố giáo trình thành năm chương:

Trong chương I chúng tôi trình bày bối cảnh lịch sử nhằm nêu bật những nét mới trong cuộc sống, những sự đổi thay trong đời sống văn học và các vấn đề trong phương hướng phát triển của nó.

Chương II và chương V trình bày những sự kiện văn học đánh dấu sự chuyển biến đầu và cuối giai đoạn.

Chương III và chương IV trình bày diện mạo nền văn học của cả giai đoạn thành hai tuyến:

Văn học truyền thống cách tân để thích ứng với thời đại mới, cuối cùng bất lực trong nhiệm vụ phản ánh cuộc sống mới, lạc lõng trước công chúng nên đi đến tiêu vong.

Văn học mới theo con đường bắt chước văn học châu Âu ra đời ở thành thị, lúc đầu khá xa lạ, nhưng không ngừng thâm nhập vào cuộc sống, dần dần thành dành được công chúng và trưởng thành.

Những sự kiện văn học, các tác giả, tác phẩm, các chi tiết về nội dung hay nghệ thuật đều lựa chọn và phân tích về mặt có ý nghĩa tiêu biểu cho từng chặng đường trên quá trình phát triển đó. Cho nên đọan cuối cùng trong sáng tác của một số tác giả thuộc giai đoạn trước như Nguyễn Khuyến, Nguyễn Thượng Hiền và bước đầu của một số tác giả thuộc giai đoạn sau như Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Ái Quốc cũng được nói đến, và nói ở những khía cạnh có ý nghĩa đối với quá trình biến chuyển đó. Phan Bội Châu và Tản Đà là hai nhà văn tiêu biểu cho giai đoạn 1900 - 1930. Cả hai người có sáng tác đến 1939 - 1940. Đoạn cuối trong sáng tác của họ đã là vào giai đoạn sau nhưng lại có ý nghĩa tiêu biểu cho bước kết thúc của giai đoạn 1900 - 1930. Vì ý nghĩa đó chúng tôi dành cho phần này một đoạn phân tích tỉ mỉ. Đặt vào quá trình phát triển chung chúng tôi nói đến các dòng văn học, các tác phẩm, tác giả và với phần đóng góp của nó vào sự nghiệp phát triển của nền văn học dân tộc ở giai đoạn mới, vừa là phát huy truyền thống, xây dựng văn học yêu nước ở bậc cao hơn, vừa là chuẩn bị cho sự ra đời của kịch nói, tiểu thuyết và thơ mới, cho một nền văn học mới có khả năng cao hơn để nói về một cuộc sống xã hội phong phú đa dạng. Về một con người phức tạp trong đời sống bình thường, phá bỏ thế giới của những quan niệm luân thường với cách nhìn theo lăng kính Đạo, Tâm, Chí là thế giới quan chật hẹp làm khuôn khổ cho cuộc sống và con người trong văn học cũ.

Vấn đề phân kỳ, phân loại và nhiều vấn đề cụ thể khác đề cập đến trong giáo trình đang ở giai đoạn chưa thành ý kiến ngã ngũ dứt khoát. Ý kiến của chúng tôi lại cũng chưa có thời gian cần thiết để khảo nghiệm. Tuy vậy, năm này sang năm khác sinh viên chính khóa và tại chức, học viên nhiều lớp ở các cơ quan ngoài trường cứ phải nghe giảng mà không có giáo trình để học, buộc chúng tôi phải cho in sớm. Chúng tôi rất mong được các nhà nghiên cứu, các bạn đồng nghiệp, các bạn sinh viên góp ý kiến giúp chúng tôi sửa chữa những chỗ sai sót, làm cho giáo trình phục vụ việc học tập của sinh viên được tốt hơn.

Trong khi trong khi biên soạn, chúng tôi được đồng chí Chương Thâu cho sử dụng toàn bộ tài liệu về Phan Bội Châu mà anh đã để công sưu tầm trong nhiều năm, đồng chí Tiên Sơn ( đã quá cố) giúp tài liệu về Tản Đà. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó. Chúng tôi cũng xin chân thành cảm ơn các bạn sinh viên các khóa, các bạn đồng nghiệp trong tổ văn học cổ đại, cận đại và dân gian Việt Nam trường Đại học Tổng hợp và các đồng chí ở nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp cổ vũ, thúc giục chúng tôi giúp rất nhiều cho việc hoàn thành bản thảo và xuất bản quyển sách.

 Hà Nội ngày 1 tháng 1 năm 1977   Trần Đình Hượu

Thứ Sáu, 22 tháng 7, 2016

Việt Nam từ nho giáo đến chủ nghĩa cộng sản( chương 2)- Trịnh Văn Thảo.


Việt Nam từ nho giáo đến chủ nghĩa cộng sản( chương 2)- Trịnh Văn Thảo.
Chương Hai
Biến số tiểu sử và hành trình xã hội
của trí thức ba thế hệ lịch sử
1.Thế hệ 1862
     1.1. Tuổi tác
Hậu quả ban đầu công cuộc chinh phục thuộc địa không có ảnh hưởng trực tiếp đến định mệnh của nhà nho vào thời buổi này. Thực vậy, thế hệ 62 “nhập cuộc” lúc đã đến tuổi trưởng thành : 48% có giữa 21 đến 40 tuổi và hơn… trong khi 22% còn đang thời thanh thiếu niên. So với thế hệ 1925 thì họ già giặn hơn nhiều.
Nó cũng không có ảnh hưởng đến việc học tập của họ như thế hệ 1907. Nói chung, họ đỗ đạt theo tuổi tác như thời bình : 40% đỗ Tú tài, Cử nhân hay Tiến sĩ vào tuổi 25 hay trẻ hơn, 50% giữa 26 và 40 tuổi, 10% sau 40 tuổi. Người lớn tuổi nhất có lẽ là Hoàng Văn Tuấn đỗ Cử nhân lúc 55 tuổi, sau có hai ông Nghè Nguyễn Xuân Ôn  (39 tuổi) và Nguyễn Văn Siêu (38). Trẻ nhất có Hoàng Cao Khải đỗ Cử nhân năm 18 tuổi trước Phan Văn Trị (19), Đào Tấn (20).
Ngược lại, dấu ấn của thời thế thấy rõ qua tuổi thọ của họ: 12% chết trước tuổi 39, 60% giữa 40 đến 69, chỉ 20% hưởng thọ thất tuần. Đó là hậu quả trực tiếp của cuộc kháng chiến Cần Vương : 10% chết trong lúc đang lưu vong xứ ngoài như Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn… bên Trung Quốc, Kỳ Đồng trên đảo Marquises…, 28% hy sinh lúc tham gia trận mạc hay bị hành hình, 8% tự vẫn vì lý do chính trị, 13% không biết rõ, chỉ có 41% chết vì tuổi già hay bệnh tật … Đó là chưa nói đến hoàn cảnh những người chết sớm vì chiến tranh hay loạn lạc như Đoàn Hữu Trừng (21 tuổi), Lê Khắc Tháo (29) và Lê Ninh (cũng thế).
1.2. Quê quán
Cả xứ đều có người đại diện : 36% miền Bắc, 45% miền Trung và 18% miền Nam. Sĩ phu cựu đô và chung quanh vùng chiếm phần đông : Nam Định (13%), cận Hà Nội và Hà Nội (15%). Miền Trung chia hai nhánh: Thanh Nghệ Tĩnh đứng đầu với 23% trước Bình Trị Thiên (13%). Gia Định đứng đầu trong Nam với 8%, 10% còn lại phân chia cho 5 tỉnh còn lại. Các tỉnh nổi bật trong phong trào kháng Pháp cũng là những “vùng văn vật”. Vị trí khiêm nhường của miền Nam đứng về mặt khoa bảng do hoàn cảnh lịch sử, sinh sau đẻ muộn vì chỉ bắt đầu Minh Mạng (1820-1840) nhà Nguyễn mới cho mở mang trường học, tổ chức thi Hương tại Gia Định dù sách vở thư viện chưa được phổ biến rộng rãi.
1.3. Gốc gác xã hội
Qui luật “tái tạo” giai cấp xã hội được cụ thể hóa với hơn 2/3 con cháu nhà nho, chỉ có 1/5 đại diện tầng lớp nông dân thôi qua tiểu sử  32 người trên 60. Tuy nhiên, nếu hiểu giai cấp xã hội truyền thống theo nghĩa rộng (phối hợp chiều dọc thông qua nhiều thế hệ với chiều ngang theo vai vế bà con dòng họ hay thông gia cùng một thế hệ), sĩ phu còn đông hơn nữa. Điều đó chứng tỏ rằng văn học thi cử ở Việt Nam  không những là nghề mà còn là nghiệp nữa.
-         Con cái nông dân
Theo Bố chính Nguyễn Thông, có thể xem Hồ Huấn Nghiệp xuất xứ từ thành phần nông dân mặc dù ông nội có lúc làm ký lục[1]. Mồ côi cha rất sớm, ông bỏ dở nghiệp văn để được gần với mẹ. Hoàn cảnh gia tư của ông không khỏi nhắc tới Đồ Chiểu cũng bỏ thi sau khi hay tin mẹ mất trên đường đi thi Hội. Cử nhân Bùi Hữu Nghĩa may mắn hơn đỗ Hương thí năm 1835. Theo Từ điển Văn học, gia đình cụ Bùi làm nghề chày lưới trong khi bố mẹ của Thượng thư Đào Tấn lại được xếp vào hàng “phú nông” (sđd)[2].
-         Con nhà nho
Trong ba người xuất thân nho học chỉ có Tú tài Nguyễn Đình Chiểu là con nhà thư lại phục vụ triều đình tại tỉnh Gia Định. Nguyễn Trường Tộ là con nhà nho theo Công giáo và nhờ thế mới có dịp đi ra xứ ngoài. Nguyễn Xuân Ôn lớn lên trong một gia đình nhà nho nghèo. Ông đỗ Tú tài năm 18 tuổi, Cử nhân 24 (!) năm sau và Tiến sĩ năm 1871. Ông tóm tắt trường hợp hiếm có của một đại khoa con nhà nghèo.


-         Con cái đại quan tôn thất
Trong hệ thống quan quyền thời nhà Nguyễn phải lên hàng tứ phẩm mới được qui chế Đại quan và con trai (ấm sinh) học giỏi mới được nhận vào Quốc Tử Giám học chung với con cái tôn thất (tôn sinh). Đó là hoàn cảnh những người như Nguyễn Lộ Trạch, Trần Bích San, Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương[3] hay Tôn Thất Thuyết.
1.4. Con đường học vấn
Trong thời này, hầu hết trí thức đều đi theo hệ thống giáo dục truyền thống ngoại trừ vài ba nhân vật đã bắt đầu lệch hướng: Nguyễn Trường Tộ và Kỳ Đồng ngoài Bắc, Paulus Huỳnh Tịnh Của và Pétrus Trương Vĩnh Ký trong Nam. Nếu Nguyễn Trường Tộ đã học chữ Hán trước khi được Cha Gauthier mời đi chu du Âu - Á thì ba người sau phải mượn con đường Tây học qua giáo sứ và các trường Thầy Dòng. Không có gì làm lạ nếu sau này họ trở thành những nhà ngữ học đầu tiên của nước ta và tác giả những bộ từ điển lớn. Riêng Kỳ Đồng (Nguyễn Văn Cẩm) là nhân vật lịch sử có một không hai. Hồi nhỏ, ông đã nổi tiếng học giỏi (thần đồng) nhưng hơi “bướng bỉnh”, ưa khiêu khích hàng thôn hàng xã và chính quyền thuộc địa. Họ tìm cách mua chuộc ông bằng học bổng gửi đi du học bên An-giê-ri (Bắc Phi). Đỗ Tú tài xong, ông về nước lại tìm cách móc nối với Đề Thám nên bị Toàn quyền Paul Doumer đưa lưu đày vĩnh viễn bên Đảo Marquises. Tại đây, ông kết bạn với họa sĩ Paul Gauguin. Ông cưới vợ trên đảo và mất năm 59 tuổi.
Trong giới nho sĩ, gần 18% không chịu đi thi vì nhiều lý do khác nhau: gia cảnh như trường hợp Hồ Huấn Nghiệp hay Cao Bá Nhạ (vì ông chú Cao Bá Quát làm loạn bị giết) hay chính trị như việc Nguyễn Lộ Trạch, Lê Ninh, Vũ Công Tự… đề nghị công khai bỏ hẳn chế độ thi cử trong tinh thần “chính giáo” để thay thế một chính sách đào tạo nhân tài bắt đầu cũ kỹ. Tuy nhiên, tại Việt Nam khẩu hiệu “tẩy chay trường thí” không được sĩ phu hưởng ứng nồng nhiệt ngay sau khi Trung Quốc tuyên bố bãi bỏ chế độ thi cử năm 1905 dưới ảnh hưởng của lãnh tụ Tân nho Trương Chi Động!
1.5. Sự nghiệp sĩ phu 1862
Muốn có một cái nhìn tổng quát và chính xác về thân phận sự nghiệp tầng lớp quan lại nhà Nguyễn tại Bắc kỳ từ thời Minh Mạng đến Khải Định (1820-1920) nên tìm đọc luận án tiến sĩ của sử gia Pháp E.Poisson vì tác giả đã tham khảo khá đầy đủ hồ sơ hành chính của Khâm sai Bắc kỳ còn lưu trữ. Trong số tiểu sử những người thi đỗ ra làm quan trong thời loạn này số ngoại quan hành sự nơi quận huyện các tỉnh lớn nhỏ có hơn 38% trong khi nội quan phục vụ trong Triều hay các Bộ chỉ có 15%. Hiện tượng rạn nứt phát hiện dưới hình thức từ quan về nhà ẩn dật hay sự kiện một số người đỗ đạt mà không được bổ nhậm (23%); rút cục chỉ có 7% đi cộng tác với chế độ thuộc địa. Sự kiện những đại đăng khoa không ra làm quan như Bảng Nhãn Võ Duy Thanh tự nó đã nói lên thái độ chính trị của một số sĩ phu trong nước.
Như E.Poisson nhấn mạnh, nói chung sự nghiệp quan trường dưới thời Nguyễn - Pháp (1885-1945) diễn tiến một cách gần như bình thường với những định luật cố hữu về quan hệ giữa phẩm hàm và học hàm ( trường hợp các ông Ngụy Khắc Đãn, Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ…), yếu tố quê quán trong cơ chế thăng quan tiến chức, ảnh hưởng chính trị địa dư và lập trường cá nhân trước thời cuộc (Hòa hay Chiến, Duy Tân hay Bảo thủ…). Tuy nhiên, không ai phủ nhận thực tế dấn thân hành đạo của sĩ phu thời loạn qua thân phận thăng trầm của Phan Thanh Giản, Phan Đình Phùng, Nguyễn Quang Bích, Hoàng Diệu… nếu ta chỉ nói đến những lãnh tụ lớn. Nó làm nổi bật tình trạng phân hóa hàng ngũ giữa ba xu hướng quan lại đối với chế độ Bảo hộ: cộng tác mà Phụ chính đại thần Hoàng Cao Khải là nhân vật điển hình, cương quyết chống đối đến cùng với Hoàng Diệu hay  Phan Đình Phùng, xa lánh chính trường tìm nơi tỵ địa, ẩn dật như Nguyễn Khuyến hay Đồ Chiểu.
2. Thế hệ 1907
Trước khi giới thiệu sĩ phu Trung học và Tây học thời Duy Tân, thử phát họa chân dung nhân vật của hai thế giới qua vài đoạn trích trong Tự truyện của Huỳnh Thúc Kháng. Cũng như hai cụ Phan, tuy đỗ Tiến sĩ nhưng ông nhiều lần từ chối không ra làm quan; hơn nữa ông tham gia tích cực phong trào Duy Tân miền Trung bên cạnh Phan Châu Trinh, bị kết án 13 năm đày đi Côn đảo, về lục địa lại đứng ra sáng lập tại Huế nhà in và báo Tiếng Dân, đắc cử Đại biểu và được bầu làm Viện trưởng Viện Đại biểu Trung kỳ, nhận chức Bộ trưởng và Quyền Chủ tịch Chính phủ Liên Hiệp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong lúc Hồ Chủ tịch cùng phái đoàn sang Pháp tham dự cuộc đàm phán Fontainebleau (1946).
Đây là vài đoạn trích rút trong Huỳnh Thúc Kháng tự truyện: “Tôi sinh tháng mười năm Tự Đức 29 (Bính Tý 1876 quên ngày). Ông bà ở Bắc vào Nam (khoảng Trần, Lê) chuyên nghề nông… Ông tổ tôi (húy Văn Lập) kế theo thành nhà nông hào trong làng, vào hàng vọng tộc. Cha tôi húy Phương danh Tấn Hữu; mẹ huý Tình người làng Hội An, cư ngụ làng Phú Thị, em ông Tế Tửu Nguyễn Đình Tựu[4], sanh 5 trai, tôi thứ ba. Anh và em đều bất hạnh mất sớm, chỉ còn tôi và chị em gái trưởng thành, đều có gia thất. Nhà tôi là vọng tộc trong làng, trải mấy đời, nhưng thuần nhiên nhà nông khuôn mẫu (… kế sau đó có người Minh hương tên Lê Vĩnh Khanh di dân đến có một đời mà đỗ Phó bảng thời Thiệu Trị làm quan đến Tri phủ… ý chí theo đuổi khoa hoạn mới nhen nhún trong làng và người cha xin ông nội cho đi theo nghiệp cử dưới sự chỉ dạy của ông Cậu. Sau nhiều phen thất bại thì quay về cày ruộng làm dân biết chữ trong làng. Sau khi người anh cả qua đời vì bệnh đậu mùa hồi mới 19 tuổi thì) Từ ấy cái gánh cử nghiệp của nhà tôi, thêm nỗi thúc giục của cha tôi, đều trút vào tôi, trải trên hai mươi năm như một ngày, theo khuôn khổ nghiêm huấn không lúc nào sai[5]. Và, gánh cử nghiệp: “(…) thuở nhỏ theo đình huấn, ngoài việc đọc sách và du học các nơi xa, không ham muốn gì khác. Nhà nghèo không sách nhưng nhờ có tính hơi thông minh, đọc sách nào thì nhớ quyển ấy. Năm lên tám, bắt đầu đi học, 13 tuổi đã biết làm văn; 16 tuổi (Tân Mão) đi thi Hương vào trường B, tuổi nhỏ đầu còn chừa chóp, đến ngày yết bảng, người xem như hội. Trong học giới biết có Huỳnh Hanh và vì cái hư danh làm lụy tôi, thiệt khởi đầu từ đó. Năm 20 (khoa Canh Tý) đi Hương thí; năm 29 tuổi (Giáp Thìn) đỗ Tiến sĩ; 31 tuổi bắt đầu học Quốc ngữ[6].
Không cần dài dòng về cuộc đời chính trị của Huỳnh Thúc Kháng và qui chế người “bạn đồng hành” của Hồ Chí Minh trong Chính phủ Liên Hiệp cho đến ngày từ trần, đây là vài đoạn trích dẫn có liên hệ đến quá trình xã hội hóa qua những khúc quanh lịch sử: đột khởi phong trào Cần Vương tại kinh đô Huế, Duy Tân, Mặt trận Bình Dân và Đảng Cộng sản Việt Nam… “Mười tuổi (…) Hàm Nghi nguyên niên (Ất Dậu 1885) Ngày tháng sáu, Kinh Thành thất thủ, vua Hàm Nghi xuất giá. Lúc bấy giờ anh cả và anh chú bác của tôi theo cậu Nguyễn công tại Quốc Tử Giám đúng vào kỳ thi Hương (ngày thi vào tháng sáu), con em thí sinh xúm nhau đông vô số tại Kinh sư nhưng chưa kịp khai trường thì binh hỏa đã bùng phát (…) Cảnh Kinh Thành rối loạn không thể nói. Con em thí sinh ai nấy tự mình lo chạy nạn. Hai anh tôi từ Kinh Thành chạy về, bà con tới hỏi, bảo thuật lại cảnh ấy, tôi đứng gần nghe, trong lòng cảm động, in sâu vào não cho đến ngày nay không thể quên được (…)”[7].
2.1. Nhân vật chính của Duy Tân
Hai mươi chín tuổi (Thành Thái thứ 16-1904, năm Huỳnh Thúc Kháng đỗ Tiến sĩ cùng với 10 người khác): “Thời bây giờ tại Trung Quốc sau cuộc Mậu Tuất chính biến và Canh Tý liên binh, sĩ phu hơi tỉnh ngộ, có phong trào hoan nghinh Âu học chuyển động toàn quốc, sách báo của Khương Hữu Vi, Lương Khải Siêu (phái lãnh tụ Duy tân) dần dần du nhập vào nước ta, tin Nga - Nhật chiến tranh đến tận bên ta, không như thời bế tắc trước” (ông ghi chép lại những gặp gỡ và chân dung các người đồng thời đồng chí như Thân Trọng Huề, Đào Nguyên Phổ, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Tiểu La Nguyễn Thành và một năm sau với nhóm Quảng Nam, Phan Thiết)” (tr.29 và tiếp theo).
Và cái giá phải trả sau biến cố Mậu Thân (1908) : bị bắt vì chính quyền qui tội xúi dân biến, đi đày Côn Đảo cùng với nhiều người khác. Ông ghi chép cuộc đời tù tội vui có (thời O’Connel  hay “ông Ô” làm giám đốc), buồn có (sau khi Ô bị triệt về Sài Gòn) suốt 13 năm bị giam cầm cho đến ngày được tha về do lệnh của quan Bảo hộ Pháp (1921): “Mười ba năm cách biệt, nay đường đột bướt về, người nhà trông thấy, phát hoảng như nằm chiêm bao; kẻ nghe nói sững sờ! Bài thi của Đỗ Thiếu Lăng đến nhà, không ngờ đã tả rõ được cảnh tình của mình lúc nầy!”(tr.41) để chứng kiến cảnh Tây Hồ từ trần: “Bảo Đại nguyên niên (Bính Dần 1926). Tháng 2, được tin Tây Hồ bệnh nặng, thúc giục tôi vào Nam, nhưng vì phải làm thủ tục lấy căn cước dần diên mấy ngày, khi đến Saigon thì bệnh Tây Hồ đã trầm trọng, không ngồi dậy được, chỉ ngó nhau cười, nhưng nhân khi nói chuyện mà có lời vĩnh quyết: Hai ta được thấy nhau trên trần gian nầy một khoảng ngắn ngủi cũng đủ rồi; can trường bình sinh đã soi dọi nhau, không cần bàn nhiều!. Từ đêm ấy Tây Hồ qua đời” (tr.47).
Kinh nghiệm làm Dân biểu rất ngắn ngủi, chỉ trải qua hai hội đồng thường niên cũng đủ rõ chân tướng một phòng tư vấn không có thực quyền, ông bèn từ chức cùng với vài đồng chí. Ông giữ thái độ cương nghị bất khuất của nhà nho trước phong trào “xích hóa” đang lên của “lớp thiếu niên” Cộng sản: “Nhâm Thân 1932, Bảo Đại hồi loan. Trong mấy năm ấy, phong trào xích hóa của Nga ở ngoài tràn vào, ngày càng bành trướng, phái thiếu niên phù hiêu trong nước theo mù, sở tại lại trăm phương cổ xúy, nhưng Tiếng Dân một mực cự tuyệt. Vì thế từng lớp thiếu niên trách móc, lại gửi thư nặc danh chửi rủa hăm dọa, nhưng tôi không để ý. Có kẻ trực tiếp tôi, tôi khéo lời từ khước (…) Bảo Đại năm thứ 10 (Ất Hợi 1935 sic). Năm nầy, Chính phủ Bình Dân Pháp nắm chính quyền, các thuộc địa cũng bị ảnh hưởng ấy chi phối :công nhân đình công biểu tình kế tiếp xuất hiện. Tại Nam kỳ có Đông Dương Đại Hội, đa số thiếu niên hưởng ứng, riêng tôi giữ thái độ lãnh đạm” (tr.51).
Tuy nhiên, trước hiểm họa trở lại Đông Dương của quân đội Pháp năm 1945, ông đã gia nhập Chính phủ Liên hiệp và đảm nhận đến giờ phút chót trách nhiệm của một vị nguyên thủ dân tộc. Cái chết của Huỳnh Thúc Kháng không khỏi nhắc người ta nhớ đến giờ phút lâm chung của cụ Tây Hồ!
2.2. Số phận nhà nho những năm 1907
2.2.1. Tuổi
Các nhà nho thế hệ 1907 tương đối lớn tuổi so với thời Cần Vương. Quá trình xã hội hóa cũng phức tạp hơn về chuyện học vấn cũng như về đời sống sự nghiệp sau này. Đất nước bị người xứ ngoài cai trị đã thay đổi cơ chế, trở thành một thực tại chính trị địa dư hỗn hợp (thuộc địa, bảo hộ) xen lẫn cái mới với cái cũ khiến cho sự so sánh nhiều khi bất cập. Thời thế đảo lộn, thời cơ chính trị và nhu cầu thuộc địa đưa một số người xuất thân trường Thông Ngôn, trường Trung học phổ thông (hay Cao đẳng Tiểu học) lên hàng đầu chính sự. Ngược lại, một số không ít khoa bảng (Đào Nguyên Phổ,  Huỳnh Thúc Kháng, Dương Bá Trạc…) bị loại hay tự loại ra khỏi chính quyền. Ngày xưa, ít người đỗ Tiến sĩ hay Phó bảng trước tuổi 30, thế hệ 1907 thấy người ra trường Thông Ngôn lúc còn niên thiếu như Nguyễn Văn Vĩnh (14), Phạm Quỳnh (16), Nguyễn Văn Ngọc (17), Phạm Duy Tốn (18)…
So với thế hệ Cần Vương, họ sống lâu hơn (tuổi trung bình là 60) và lớp tuổi đông đảo nhất là giữa 40 đến 70, 40% thọ thất tuần trở lên so với 12% thế hệ 1862 ! Lý do hy sinh mất mát vì chính cuộc vẫn tồn tại với chính quyền Bảo hộ (35%) : lưu đài, tù tội, bị giết hại sau vụ khủng bố “trắng” ở miền Trung năm 1907-1908, … tuy đa số (60%) sinh tử bình thường ![8]
               2.2.2. Quê quán
Trên mặt địa dư, có thay đổi rõ rệt: miền Nam tụt hậu với 13% (so với 18% hồi 1862), hai tỉnh Gia Định và Biên Hòa nhường chỗ cho các tỉnh miền Hậu Giang (hậu quả của hiện tượng tỵ địa ?), miền Bắc tăng trưởng với 60% (Hà Nội và vùng lân cận 42%), miền Trung 27% (Thanh Nghệ Tĩnh chiếm 20%). Truyền thống làng văn vật vẫn còn với các huyện Hoan Long, Phương Vũ, (Bắc) hay Nam Đàn (Nghệ An)…
Gương mặt xã hội thật cũng không có gì thay đổi giữa thế hệ Cần Vương và Duy Tân. Tuy nhiên, nếu quan sát kỹ thấy xuất hiện một ít con cái tầng lớp điền chủ Nam Kỳ xuất thân nhà trường Pháp.
               2.2.3. Gốc gác xã hội
-         Gốc nông dân
Tình trạng chuyển tiếp của xã hội thể hiện trong lớp người nửa sĩ nửa nông như trường hợp nhà văn miền Nam Hồ Biểu Chánh. Ông sinh tại làng Tiên Hiền, tỉnh Gò Công, học trường Trung học Sài Gòn trước khi thi đỗ vào ngạch hành chính thuộc địa. Tuy nhiên, trước khi vào trường Pháp ông đã được người cha (một Hương chủ) khai tâm Hán học cẩn thận. Cùng với ông phải kể đến Cử nhân Lương Văn Can gốc Hà Đông (Nhị Khê) là người cầm đầu trường Đông Kinh Nghĩa Thục hay Tiến sĩ Trần Quí Cáp tại Quảng Nam.
-         Nhà nho
Con em nhà nho chiếm đa số tuyệt đối trong đó một ít là con cái khoa bảng như Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh), Lương Trúc Đàm hay Võ Liêm Sơn, phần đông là nho sĩ hay nửa nông nửa sĩ như Huỳnh Thúc Kháng. Một ít nữa là con cái quan lại.
Học trình các nhân sĩ 1907 càng làm lộ rõ sự hiện diện của hai chế độ nhà trường: 17% theo hệ thống trường Pháp, 8% nửa Pháp nửa Việt, 75% theo học chính Hán Việt pha lẫn một ít tiếng Pháp (cải lương 1906). So sánh học vị cũng vậy:  11% đỗ Tú tài Hán Việt, 19% Cử nhân, 26% Tiến sĩ  mà hầu hết (6/7 người) lãnh đạo phong trào Duy Tân. Còn phía Tây học có một người tốt nghiệp Trung học, 5 người  ra trường Thông ngôn, 5 người tốt nghiệp Cao đẳng Đại học bên Pháp.
2.2.4. Sự nghiệp  
Trong số nhà nho không khoa bảng có ba hình loại: nhóm Duy Tân, nhóm sáng lập Đảng Cọng sản Việt Nam và nhóm đứng đầu Tạp chí Nam Phong. Trong nhóm nho học đi theo phong trào Duy Tân phải kể Nguyễn Phan Lãng, tác giả bài thơ Thiết Tiền Ca và một trong những giáo viên của trường Đông Kinh Nghĩa Thục và Ký lục Hồ Tá Bang một trong những nhà nho đóng vai trò quan trọng trong việc sáng lập Công ty Nước Mắm Liên Thành tại Phan Thiết.
Trong nhóm sau có hai nhân vật trọng yếu trong phong trào Cộng sản Đông Dương : Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh và Hồ Tùng Mậu. Khác với Hồ Chí Minh, Hồ Tùng Mậu tượng trưng sự tiếp nối giữa Nho giáo châu Á và Chủ nghĩa Cộng sản trải qua các đoàn thể như Quang Phục Hội, Tâm Tâm Xã, Thanh niên Cách mạng Đồng chí (tiền thân của Đảng Cộng sản Đông Dương sau này)[9].
Đối với những nhà nho viết báo cho Tạp chí Nam Phong, chính sách bắt tay với trí thức nho học người Việt dưới chiêu bài “Đề huề hợp tác” sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất và Cách mạng Bôn sơ vích bên Nga là một cơ hội nối cầu liên lạc hai nền văn hóa Đông - Tây mà đồng thời tạo cho nhà nho ngày càng bấp bênh trong cuộc sống điều kiện vật chất để hội nhập chế độ thuộc địa. Qua tạp chí của Phạm Quỳnh (người duy nhất với Nguyễn Bá Trác dùng Nam Phong làm bàn đạp thăng quan tiến chức), họ lại được gặp gỡ với những nhà khoa bảng nhưng không phục vụ quan trường như Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục, Nguyễn Hữu Tiến… Bằng cách dịch thuật truyện cổ Hán văn (Tây Sương ký, Đông Châu Liệt Quốc…) sang Quốc ngữ, dùng lối hành văn trong sáng dù có lúc còn biền ngẫu, họ tiếp tục sự nghiệp phong trào Duy Tân trên phương diện văn học và ngôn ngữ.
Sau khi Duy tân bị chính quyền dập tắc, chỉ có một ít nhà nho khoa bảng đi làm quan trong triều trong đó Cao Xuân Dục hay Thân Trọng Huề… là những người có công cải tạo chế độ thi cử năm 1906. Xuất thân từ hai nền giáo dục Âu - Á, Bùi Kỷ và Nguyễn Văn Ngọc là gương mặt tượng trưng buổi giao thời, Âu - Á lưỡng toàn. Trong khi Phó bảng Nguyễn Can Mộng đi cộng tác với chính quyền Thuộc địa Bắc Kỳ thì Đốc phủ (hàm) dân Tây Gilbert Trần Chánh Chiếu ủng hộ ra mặt phong trào Duy Tân trong Nam, trong lúc kỹ sư Bùi Quang Chiêu và Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh “chơi” lá bài Lập Hiến với người Pháp thì Đốc phủ sứ Hồ Văn Trung (tức Hồ Biểu Chánh) giành ít thời giờ rảnh rổi ngồi viết gần 60 chuyện dài xã hội, lấy miền Nam làm bối cảnh, người dân Việt muôn hình muôn sắc làm diễn viên.
Như vậy làm sao dám quả quyết “luật tiền định” giai cấp ?
3. Thế hệ 1925
3.1. Sống và chết của người trí thức mới
So sánh với hai thế hệ trước, thế hệ 1925 chịu ảnh hưởng trực tiếp của thời cuộc vì lớn lên trong  cao trào đấu tranh thành thị năm 1925 - 1926 và “trưởng thành trong chiến đấu” sau Cách mạng tháng Tám 1945.
Phần đông lớp trí thức Tây học - sản phẩm của chế độ học chính Nhà trường Pháp ở Đông Dương (1917-1918) - lao mình vào hành động rất sớm : hơn 70% chưa đến tuổi 21 so với 17% năm 1907 và 22% năm 1862 và số người bị tử vong lúc còn trẻ cũng không ít : 16% mất trước[10] tuổi 40 so với 6% năm 1907 và 12% năm 1862 ! Trừ một ít người chết sớm vì bệnh hoạn hay nghèo khó (Vũ Trọng Phụng, Hàn Mạc Tử, Thạch Lam, Bích Khê, Nguyễn Nhược Pháp…), một số khác làm nạn nhân cuộc chiến và thanh toán nội bộ giữa người Việt trong việc tranh chấp chính quyền (1940-1946).
Thật là một nghịch lý khi chứng kiến hiện tượng lưu vong vì lý do chính trị (16%) đã không bớt đi mà lại còn gia tăng dưới thời “tự chủ” ! Nó có bốn hình loại : trốn sang Thái Lan hay sang Tàu còn nằm dưới quyền kiểm soát của Tưởng Giới Thạch (1945-1949), di tản trong xứ theo con đường Bắc - Nam sau khi Hiệp định Giơ neo cắt đôi xứ sở và hành trình ngược lại (1954-1955), bỏ ra xứ ngoài khi miền Nam thua trận (1975). Nạn nhân chiến tranh Pháp - Việt cũng có nhiều hoàn cảnh, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp. Hơn nửa thế kỷ sau, sử gia cũng chưa nắm rõ lý do, bối cảnh và đoàn thể mang trách nhiệm tiêu diệt hàng loạt lãnh đạo các tổ chức Quốc Gia (nhóm La Lutte, Đại Việt, các giáo phái) chống Pháp những năm 1945-1946. Đó là chưa nói đến những người bị bắt nhốt và chết oan trong tù trước và sau năm 1975.
3.2. Miền Bắc đóng vai trò chủ đạo trong hàng ngũ trí thức 1925
Với 28%, Hà Nội và vùng lân cận xứng đáng là thủ đô chính trị Liên Bang Đông Dương. Theo sau có vùng Bắc Hưng Hải (19%) và tỉnh Nam Định (8%). Tuy Thanh Nghệ Tĩnh (7%) còn giữ phong độ ngày xưa, miền Nam với 21% vượt qua Trung Kỳ (20%) nhờ lớp thanh niên Tây học. Thành phố Sài Gòn (8%) trở thành một trong những đô thị văn hóa quan trọng chỉ đứng sau Hà Nội. Không khí chính trị khá tự do và tình trạng kinh tế khá phồn thịnh giải thích hiện diện của sách vở báo chí trong Nam. Trái với thiên kiến vô căn cứ, phần đông trí thức thuộc địa Nam Kỳ không xuất thân từ giai cấp địa chủ Đồng bằng Sông Cửu Long mà từ tầng lớp trung lưu thành thị.
Cuối cùng hiện tượng tập trung trí thức vẫn tồn tại : làng Từ Sơn có bốn nhà văn Ngô Tất Tố, Hoàng Tích Chu, Nguyễn Huy Tưởng, Kim Lân, Hà Tĩnh có Trần Trọng Kim, Hoàng Ngọc Phách, Hoàng Xuân Hãn, Hoài Thanh và Cù Huy Cận…, vùng Sài Gòn - Chợ Lớn, Trần Văn Thạch, Phan Văn Hùm, Nguyễn An Ninh…, Hà Tiên, hai nhà thơ Đông Hồ, Mộng Tuyết. Riêng vùng Quảng Bình đã có ba nhân vật lớn : Võ Nguyên Giáp, Ngô Đình Diệm và Lưu Trọng Lư.
Nếu phối hợp tiêu chuẩn chức phận nghề nghiệp (catégorie socio-professionnelle) với thành phần xã hội, ta có thể đi đến kết luận là xã hội giai cấp không thay đổi căn bản. Ba giai cấp truyền thống vẫn còn đó : 62% trí thức 1925 xuất thân tầng lớp trung lưu trí thức (sĩ), 23% thượng lưu trong xứ, 15% gốc bình dân (nông - công). Chỉ có thay đổi về tương quan giữa nông thôn và thành thị và vị trí chính yếu của thành thị bắt đầu từ đây.
Tuy nhiên, yêu tố quan trọng nhất là học trình thế hệ gần như bị Tây hóa toàn bộ: 19% thuộc chế độ Đại học Cao đẳng Pháp (22 người trong đó có 4 người bị trục xuất vì hoạt động chính trị), 23% Cao đẳng Hà Nội (28 người trong đó có 5 bỏ học), 10% theo chế độ Hán học (12 trong đó có 7 dang dở), 43% trình độ Trung học và tương đương (20 chưa xong trong tổng số 43), v.v…
Nói chung, thế hệ này có hai đặc tính:
-         thắng thế của chế độ giáo dục hiện đại (Pháp và Pháp - Việt) trước giáo dục truyền thống dù ảnh hưởng Hán học vẫn tồn tại (phần đông trí thức Tây học vẫn còn nhiều người học chữ Hán)[11].
-         thắng thế của xu hướng học ngắn vì thực dụng hay vì lý do tài chính
Sự kiện học chăm và học giỏi của sinh viên du học bên  Pháp “hiển nhiên” - số học sinh thi đỗ vào các trường nổi tiếng của “mẫu quốc” như Sư phạm, Bách khoa, Công nghệ Paris, Mỹ nghệ, Nội trú Y khoa Paris, v.v… nhưng không có thống kê đầy đủ để xác nhận. So với sinh viên tốt nghiệp bên Pháp về, các đồng môn học trường Đại học Hà Nội không được hưởng qui chế thuận lợi bằng trong sự lựa chọn môn học và uy tín bằng cấp tốt nghiệp (trừ ngành Y Dược). Sự kiện bỏ học nhất là cấp Trung học chứng tỏ ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng kinh tế và chính trị giữa năm 1930 và năm 1945. Nói chung, chế độ giáo dục thuộc địa kích thích tinh thần hiếu học của người dân Việt hơn là tìm cách thỏa mãn nhân  sinh cụ thể ! Cuộc diện chỉ thay chiều đổi hướng bắt đầu khi Mặt Trận Bình Dân lên nắm chính quyền ở Pháp và nới rộng chính sách đối với các thuộc địa (1936).
Trong số sĩ phu Hán học còn hoạt động trên chính trường văn hóa, giờ chỉ còn vài người như hai ông Cử Nguyễn Bá Trác (Nam Phong) và Trịnh Đình Rư (Hữu Thanh) và ông Tú Phan Khôi (Phụ Nữ Tân Văn).
Sự nghiệp “trí thức” trước Cách mạng tháng Tám rất phức tạp: 30%  làm công chức cho Nhà nước thuộc địa đủ nghành (giáo dục, hành chính, công sự… trung cấp trừ những người có quốc tịch Pháp), 23% viết báo, 20% dạy tư, 7% sống nghề viết văn, vài người (5%) hành nghề tự do (bác sĩ, luật sư..), 7% trở thành “cách mạng chuyên nghiệp” theo định nghĩa của Lê Nin (9 đảng viên trọng yếu trong Đảng Cộng sản Đông Dương). Trong số 122 nhân vật thế hệ chỉ có ông Nguyễn Minh Duệ, con trai của Nguyễn Quý Anh và hậu duệ của Bố chính Nguyễn Thông là người duy nhất tiếp tục kinh doanh xí nghiệp sản xuất nước mắm Phan Thiết - Liên Thành sau khi đỗ ra trường Cao đẳng Thương mại Paris.
Nói chung, hoàn cảnh trí thức sau năm 1930 gặp nhiều khó khăn trên mọi mặt: học vấn, nghề nghiệp và tinh thần. Hiện tượng thất nghiệp thấy rõ với 50% người đi tìm sinh kế trong nghề làm báo, viết văn và dạy tư. Không ít người phải phối hợp hai, ba nghề mới đủ sống. Tuy vậy, không có gì cho phép xem trí thức Việt Nam lúc đó như thành phần “phản thượng lưu” (D. Hemery) vì chính nhờ số đông làm nghề văn hóa tự do mà “xã hội dân sự” mới thành hình dưới dạng các nhà xuất bản, cơ quan ngôn luận có tính cách đại chúng, những văn đoàn nổi tiếng như Tự Lực, Hàn Thuyên, Thanh Nghị, Tri Tân, Tân Dân… Ngược lại, chính hoàn cảnh kinh tế xã hội khó khăn và hâm dọa “bần cùng hóa” thành phần trung lưu mới khiến cho người có ăn học thức tỉnh tìm về “cội rễ”  để chia xẻ đời sống  nông dân[12] nơi đồng quê bùn lầy, cảnh lầm than tối tâm của đám dân nghèo thành phố. Nó tạo điều kiện khách quan và chủ quan để liên hiệp dân tộc công, nông, trí thức trong một Mặt trận Việt Minh thống nhất.
4. Một biến số ít người để ý : hệ thống cấu kết dòng họ (gia phả các đại gia đình lãnh đạo Quốc gia và Cộng sản)
Bổ túc những biến số tiểu sử chỉ cho thấy “chiều ngang” thông qua vài nét chấm phá của thực tế xã hội nhất thời (réalité immédiate), nghiên cứu gia phả xuyên qua hai ba thế hệ mang lại cho sử gia một cái nhìn về “chiều dọc” lịch sử của từng gia đình trong quá trình tái tạo dòng họ và kết cấu thông gia giữa các đại gia như một chiến lược củng cố và chinh phục quyền lực theo nghĩa rộng (không chỉ giới hạn vào chính quyền).
4.1. Hệ 1 : Hành trình và gia thế cố Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm (nhóm quan lại Công giáo miền Trung, Huế)
Ngô Đình Diệm sinh ngày 3 tháng 1 năm 1901, tại Huế, trong một gia đình quan lại Công giáo. Ông lớn lên trong lúc người cha Ngô Đình Khả bị thất sủng và cho về hưu sớm sau khi người Pháp quyết định phế vua Thành Thái. Tổ tiên họ Ngô là một gia đình nghèo theo Thiên chúa giáo lâu đời tỉnh Quảng Binh (làng Xuân Dục, Quảng Ninh). Học chủng viện Penang (Malaysia) xong, ông đi làm thông ngôn cho Công sứ Pháp tại Huế trước khi thăng chức An Phủ Sứ. Bên cạnh Đại tá Duviller, ông đóng góp đắc lực vào công cuộc tiểu trừ quân đội Cần Vương. Với sự trợ đỡ của một người đồng đạo làm quan to trong triều (Nguyễn Hữu Bài), ông là gương mặt tượng trưng của nhóm áp lực đang lên vì phối hợp, dưới mắt người Pháp, hai lợi khí : theo đạo Thiên chúa và đấu tranh không nhân nhượng chống Nho giáo. Dưới ảnh hưởng của hai vị đại thần công giáo được người Pháp vị nễ, triều đình Huế bắt đầu cộng tác với chính quyền thuộc địa trong một chế độ Bảo hộ ngày càng giả tạo.
Học xong trường Thầy Dòng Pellerin với bằng Thành Chung, ông được vào Hậu Bổ để học ra làm quan theo chế độ giao thời. Được bổ nhậm Tri huyện Hương Trà vừa mới 23 tuổi, ông lên chức nhanh so với thời đó (Tri phủ Hải Lăng, Quản đạo Ninh Thuận, Tuần vũ Bình Thuận, chưa đầy 32 tuổi đã đứng đầu chính phủ Bảo Đại) một phần lớn nhờ uy tín cương nghị và trong sạch. Tuy nhiên, cũng như người cha, ông cảm thấy khá lạc lõng giữa những gia đình Đại thần cựu kinh trong một triều đại hoàng hôn vắng bóng Minh chủ (Xem Lược đồ thành phần lãnh đạo miền Nam (1954-1975) (phụ lục).
Theo Hồi ký của Tướng Đỗ Mậu, gia đình Ngô Đình Diệm có sáu trai hai gái. Ngô Đình Khôi là con trai cả cũng xuất thân Hậu Bổ như Ngô Đình Diệm đang làm Tổng đốc tỉnh Quảng Nam khi ông bị Phạm Quỳnh thải hồi vì tham nhũng (hay ganh ghét ?). Con ông (Ngô Đình Huân) sau này được bổ nhậm Thanh tra Lao động cho chính quyền Bảo hộ bị Việt Minh ám hại cùng với người cha năm 1945. Người anh kế là Hồng Y Giáo chủ Ngô Đình Thục là giám mục đầu tiên của Việt Nam tại Vĩnh Long. Ngô Đình Nhu là em kế của Ngô Đình Diệm và cũng là người Việt Nam đầu tiên thi đỗ vào Trường Chartres đào tạo chuyên viên cao cấp ngành Lưu trữ văn khố. Về nước, ông được đề bạt làm Giám đốc sở Lưu trữ  tại tòa Công sứ Huế. Với tư cách Cố vấn chính trị Ngô Đình Diệm, ông đóng vai trò chính yếu trong chế độ miền Nam. Vợ của ông là bà Trần Lệ Xuân (con gái của Luật sư Trần Văn Chương và cháu ngoại của Thượng thư Thân Trọng Huề). Ông Ngô Đình Cẩn tuy là người ít ăn học nhất trong gia đình sẽ thủ vai Đại thần khâm sai của chính quyền ở miền Trung. Cuối cùng trong sáu anh em trai, kỹ sư Ngô Đình Luyện là người có công đầu trong cuộc vận động đưa ông Diệm về nước làm Thủ tướng cho Bảo Đại. Hai người con gái trong gia đình họ Ngô, Ngô Thị Giao và Ngô Thị Hiệp cũng nổi tiếng có bản lĩnh kinh doanh to làm giàu lớn và kết thông gia với các đại gia miền Trung. Bà Giao là mẹ của Hồng Y giáo chủ Nguyễn Văn Thuận và con gái của bà Hiệp lấy chồng làm bộ trưởng Quốc phòng cho Tổng thống Diệm Trần Trung Dung.
4.2.         Hệ 2 : Hành trình Duy tân - Tả Đối lập nhóm Liên Thành (tài liệu tư nhân)
Nếu gia đình họ Ngô đại diện nhóm quan chức gần triều đình Huế thì những sáng lập viên Công ty Nước Mắm Phan Thiết Liên Thành là đồng chí và hậu duệ của phong trào Duy Tân theo Phan Châu Trinh ngay từ những ngày đầu của phong trào. Năm nhân vật cốt lõi của Liên Thành là cặp bài trùng Nguyễn Thông với Hồ Tá Hiếu (thế hệ 1862), bộ ba Nguyễn Trọng Lợi (hay Lỗi) - Nguyễn Quý Anh và Hồ Tá Bang (thế hệ 1907) và hai nhân vật hiện đại, Nguyễn Minh Duệ và Hồ Tá Khanh (thế hệ 1925).
Nguyễn Trọng Lợi là con trưởng của quan Bố chính Nguyễn Thông, mẹ của ông là cháu gái của Ngô Nhân Tịnh một trong nhóm Gia Định Tam Gia (cùng với Trịnh Hoài Đức và Lê Quang Định). Nhà nho không ra thi cử, ông là người quản lý đầu tiên của Liên Thành. Khi ông mất, người em kế tiếp Nguyễn Quý Anh giao trách nhiệm giám đốc cho người khác (Trần Lệ Chất) trước khi lên đường sang Pháp cho con đi du học. Con trai của ông (Minh Duệ) về nước sau khi học ra trường Cao Đẳng Thương Mại Paris, tiếp tục sự nghiệp quản lý Công ty của bác và cha cho đến ngày bị giặc Pháp giết chết. Một người con gái của Quý Anh tên Minh Nguyệt đỗ Cử nhân Luật lấy chồng là Bác sĩ Hồ Tá Khanh, con trai của ông Hồ Tá Bang, cháu nội của Hồ Tá Hiếu, anh em bạn rễ của quan Bố Nguyễn Thông, tóm tắt (xem lược đồ sau) hành trình phong trào nho giáo Trung Nam  từ  lúc kháng chiến Trương Công Định - Cần Vương (Trịnh Quang Nghị - Trà Quý Bình) đến Duy Tân và chặng đường cuối với nhóm Đối lập Tả phái (Bác sĩ Hồ Tá Khanh, bộ trưởng Kinh tế trong Chính phủ Trần Trọng Kim và bạn thân với nhóm La Lutte). (Xem lược đồ Hệ 2 phụ lục)
4.3.         Hệ 3 :Hành trình Tư sản Điền chủ miền Nam - Gia đình Trương Vĩnh Ký (tài liệu tư)
Trên một bình diện nào đó, có nhiều điểm tương đồng giữa hai người đương thời Trung Nam, giữa ông Ngô Đình Khả và Pétrus Trương Vĩnh Ký : theo đạo Công giáo lâu đời, gốc gác bình thường, vì thời cuộc mà trở thành nhân vật “chiến lược” cho công cuộc chinh phục thuộc địa, làm quan to trong triều rồi cùng bị cảnh thất sủng hiu quạnh. Tuy nhiên, Petrus Ký không được hưởng qui chế đại thần như ông Khả. Ông về Nam sau khi Paul Bert chết, đi dạy học, viết sách, làm báo, giáo dục gia đình, dâu rễ cũng có người làm dược sĩ, kiến trúc sư, viết văn như Nguyễn Trọng Quản. Sau này, người con thứ chín Nicolas Trương Vĩnh Tống làm bộ trưởng Ngoại giao dưới thời Bảo Đại. Khi ông cưới bà Elise Trần Thị Lộ, con gái Đốc phủ sứ Trần Bá Thọ và cháu nội của Tổng đốc Trần Bá Lộc thì hoàn tất sợi dây chuyền quyền lực trong Nam Kỳ kết hợp chính trị, tôn giáo với kinh tài vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Không có gì lấy làm lạ khi Tổng thống Diệm giao phó cho người cháu nội của Pétrus Ký, Trương Vĩnh Lễ, chức Chủ tịch Quốc Hội Việt Nam Cộng hòa đánh dấu liên hệ hữu cơ giữa hệ 1 (Huế) và hệ 3 (Hậu giang). (Xem lược đồ Hệ 3, phụ lục)
4.4.         Hệ 4 : Hành trình Nho giáo - Tây học - Cộng sản Trung Bắc thành phần lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam
Hai nhân vật chính của Hệ 4 là hai nhân vật lich sử miền Trung Bắc có liên hệ trực tiếp đến phong trào Cần Vương - Duy Tân - Đảng Cộng sản Việt Nam nghĩa là đại diện chính quyền Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa từ 1975 đến nay. Ai cũng biết tiểu sử và đại sử của tướng Võ Nguyên Giáp và vai trò của ông trong hai cuộc chiến nửa sau thế kỷ XX. Trong lược đồ 4 chỉ cần lưu ý sự gặp gỡ và quan hệ thông gia giữa hai trí thức Tây học cùng chia sẻ di sản Nho giáo qua thế hệ cha ông và quá khứ phong trào Cần Vương. Xuất thân Đại học Hà Nội, Đặng Thai Mai (Sư phạm) cùng Võ Nguyên Giáp (Luật) cùng đi dạy tư tại Trường Trung học tư thục Thăng Long. Cả hai đều gia nhập tiền thân đảng Cộng sản Đông Dương (Đảng Tân Việt) sau phong trào thanh niên năm 1925. Sau Cách mạng tháng Tám, cả hai được bổ nhậm làm Bộ trưởng trong chính phủ Liên Hiệp trước khi chia tay, kẻ trở về nghiên cứu văn học người chỉ huy quân đội. Quan hệ thông gia giữa họ Đặng và họ Võ tóm tắt hành trình của Hệ 4 và tượng trưng sự tiếp nối lịch sử cận đại Việt Nam từ Nho giáo đến Cộng sản. (Xem hệ 4, phụ lục).
4.5.         Hệ 5 : Hành trình Nho giáo - Cộng sản châu Á - Việt Minh theo gia phả họ Hồ Bá (Nghệ An)
Hệ 5 phản ánh con đường khác Hệ 4 (không thông qua Tây học) đi đến chủ nghĩa Cộng sản qua những chặng đường đấu tranh trong nước và ngoài nước chống thực dân : Cần Vương, Quang Phục, Tâm Tâm Xã, Thanh Niên, Đảng Cộng sản Đông Dương. (Xem hệ 5, phụ lục, tài liệu : Hồi ký Giọt nước trong biển cả của Hoàng Văn Hoan).





[1] Xem Thơ văn yêu nước, sđd, tr.127.
[2] Cách xếp đặt thành phần xã hội nhiều khi không có gì chắc chắn trong các Từ điển sau 1945 vì một người như Đào Tấn có khi làm “cố nông” lắm lúc được đề bạt “phú nông”!
[3] Theo gương Bắc triều, nhà Nguyễn rất trọng văn, xem văn học như mực thước hay dở của chế độ như qua  hai câu thơ của vua Tự Đức:
Văn như Siêu Quát vô tiền Hán,
Thi đáo Tùng Tuy nhất thịnh Đường”!
Nên nhắc lại vua Thiệu Trị chọn ông nối ngôi dù Tự Đức không phải là con cả cũng vì ông có tài văn học.
[4] Tức người đứng đầu trường Quốc Tử Giám.
[5] Huỳnh Thúc Kháng tự truyện (Hán văn), NXB Anh Minh dịch, Huế, 196, tr.10
[6] Huỳnh Thúc Kháng tự truyện, sđd, tr.10.
[7] Huỳnh Thúc Kháng tự truyện, sđd, tr.12.
[8] Sống lâu nhất có Nguyễn Đỗ Mục 82 tuổi, Cao Xuân Dục 81 và Hồ Chí Minh 79, còn hai ông Tú Xương và Trần Quý Cáp thì chết lúc 37 tuổi, người vì nghèo khó, kẻ bị quan ta giết hại!
[9] Xem G.Boudarel, “Nhóm Cực tả và chủ nghĩa dân tộc Việt Nam” trong Histoire de l’Asie du Sud Est, PUL, 1981.
[10] Do biến cố Yên Bái và thời cuộc trong nước từ năm 1940 đến năm 1946.
[11] Sư thực là vai trò Hán tự cũng chưa dứt hẳn nhất là vùng nông thôn Trung Bắc. Đến năm 1938, số người lớn tuổi theo Nho học còn biết đọc tiếng Hán vùng Thanh Hóa tương đối đông hơn lớp trai trẻ theo chế độ Pháp - Việt biết đọc Quốc ngữ ! (Xem Trịnh Văn Thảo, Nhà trường Pháp ở Đông Dương).
[12] Xem Ngô Tất Tố (Tắt đèn) hay Trần Tiêu (Con trâu), Khái Hưng và Nhất Linh (Bùn lầy nước đọng), Lan Khai (Lầm than)…

Thứ Hai, 18 tháng 7, 2016

MỘT PHONG TRÀO VĂN HÓA DÂN TỘC NHẰM TỰ CƯỜNG, ĐỘC LẬP, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC CỦA CÁC NHÀ NHO YÊU NƯỚC

MỘT PHONG TRÀO VĂN HÓA DÂN TỘC
NHẰM TỰ CƯỜNG, ĐỘC LẬP, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
CỦA CÁC NHÀ NHO YÊU NƯỚC
             Trần Đình Hượu

Bước sang thế kỷ XX, đối với Việt Nam không chỉ bước qua một cột mốc thời gian, đi thêm một quãng đường lịch sử mà còn là rẽ sang một con đường khác trong lịch sử phát triển. Nếu từ thế kỷ XIX trở về trước, Việt Nam và các nước láng giềng Đông Á sống thành một vùng văn hóa độc lập, xa lạ với thế giới, thì từ đây, nhiều mối liên hệ thắt chặt nó với thế giới, bắt nó hòa vào cuộc sống chung, đưa nó ra nhập quĩ đạo chung của sự vận động lịch sử cả thế giới. Sự thay đổi từ trung cổ sang cận hiện đại, ở đây đồng thời có nội dung thay đổi từ truyền thống văn hóa này sang truyền thống văn hóa khác, từ nên văn hóa có vùng gốc Hán đến truyền thống văn hóa Châu Âu, có nguồn gốc Hy lạp, với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản chiếm  vị trí chi phối cả văn hóa thế giới cận hiện đại. Trong lịch sử Việt Nam, sự thay đổi lần này là sự thay đổi rất sâu sắc, có lẽ cũng tương đương với bước chuyển từ nền văn hóa bản địa mà tiếp nhận Phật giáo, từ nền văn hóa Phật giáo mà tiếp nhận Nho giáo xảy ra từ trước. Mỗi lần thay đổi như vậy, không phải cái mới thay thế cái cũ, không phải hai cái cộng lại, mà thực chất thực chất là một quá trình dài nhào nặn cái cũ với cái mới để thành một sản phẩm khác, thay đổi cốt cách của cái đã thành truyền thống dân tộc. Điiều kiện xảy ra sự thay đổi là việc nước ta mất độc lập, trở thành thuộc địa của thực dân Pháp. Mong muốn xúc tiến sự thay đổi là thực dân Pháp trong tay có chính quyền, nhà trường, báo chí,… và nhằm mục đích rõ ràng là làm cho thuộc quốc đoạn tuyệt với văn hóa dân tộc, ly khai với ảnh hưởng của Trung Quốc, trở thành nô lệ, sùng bái văn hóa Phương tây. Thế nhưng thay đổi như vậy cũng là một tất yếu trong hoàn cảnh thế giới cận đại. Bên cạnh con đường Âu hóa theo thực dân, còn có con đường Âu hóa của các nhà Nho yêu nước. Trong phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, chính các nhà Nho yêu nước cũng đã vận động cải cách văn hóa, chủ động giải quyết vấn đề tiếp nhận văn hóa Châu Âu để tự cường, giành độc lập và hiện đại hóa đất nước.
I

“Đông kinh nghĩa thục” là tên gọi một trường học tư nhân mở, một nghĩa thục lập ra không nhằm lợi. Nhà trường không thu học phí, mà quyên góp tiền giấy bút cung cấp cho học sinh. Mục đích của nghĩa thục là truyền bá tư tưởng mới, giáo dục tinh thần yêu nước, đào tạo lớp nhân tài mới cho đất nước. Hoạt động của nhà trường vượt xa phạm vi giảng dạy và học tập. Lợi dụng chính sách mở các trường kiểu mới, thay thế các lớp học của thầy đồ dạy chữ Hán và những cơ sở ban đầu của thể chế giáo dục thực dân, Đông Kinh Nghĩa Thục đã tập hợp được nhiều nhà yêu nước có tài viết văn, biên soạn và phát hành sách giáo khoa, tổ chức các buổi bình văn, diễn thuyết, mua sách báo nước ngoài về bán lại. Nhiều tỉnh Bắc Bộ và Trung Bộ theo gương Đông Kinh Nghĩa Thục rất lớn. Đối với các tỉnh quanh Hà Nội, nó mang cả hình thức câu lạc bộ; đối với toàn quốc, nó mang thêm hình thức là ban tu thư, là nhà xuất bản, cơ quan phát hành, một trung tâm tuyên truyền văn hóa, chính trị.
Cho đến lúc đó chưa bao giờ trong đời sống chính trị văn hóa nước ta  lại có nhiều sự kiện vang dội có không khí náo nhiệt như những năm đầu thế kỷ này. Phan Bội Châu bước vào hoạt động chính trị, ra Bắc vào Nam tập hợp đồng chí, viết Lưu cầu huyết lệ tân thư  vận động quan trường, thành lập Duy Tân hội, rồi xuất dương sang Nhật. Những nhà khoa bảng trẻ tuổi nổi tiếng đậu đại khoa mà khước từ không chịu ra lam quan ( Nguyễn Thượng Hiền, Huỳnh Thúc Kháng… ) hay bỏ quan ra về (Phan Châu Trinh), hạ quyết tâm đi theo con đường khác: đọc tân thư, đi du lịch, tìm hiểu tình hình, vận động quần chúng, kêu gọi sĩ tử bỏ học, cỏ thi đi cứu nước… Cường Để, Nguyễn Thượng Hiền nối gót nhau xuất dương theo Phan Bội Châu. Phan Châu Trinh trốn sang Nhật tranh luận chính kiến với Phan Bội Châu  rồi về viết thư cho toàn quyền Đông Dương (Beau) và vận động cải cách… Trào lưu tư tưởng  mới , thươ cách nói các cụ  là “ Mưa Âu, gió Mĩ”, theo tân thư tràn vào đã nổi lên thành bão tố. Cho đến khi Đông kinh nghĩa thục thành lập ( năm 1907) thi nó đã đi vào quần chúng, trước hết là quần chúng trí thức và thanh niên, tức là vào đám nhà Nho trẻ. Ở Nam Ngãi, quê hương của Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, phong trào phát triển rất bồng bột. Cả tỉnh có đến 40 trường kiểu nghĩa thục. Học trò lợi dụng tập thể dục, tập trung đi hạch ở huyện để tuần hành có gậy gộc; lợi dụng bình văn, tập diễn thuyết để tuyên truyền cổ động, gây thành phong trào cắt tóc ( cắt búi tó), vận động mặc Âu phục, bỏ quì lạy, cúng tế hủ tục…, và cuối cùng, kết hợp với quần chúng đông đảo thành phong trào xin xâu có hàng vạn người tham gia. Từ Nam Ngãi, phong trào lan rộng xuống phía Nam tận đến Phú Yên và ra phía Bắc đến tận Thanh Hóa.
Cả trào rầm rộ từ Nam Trung Bộ đến tận Bắc Bộ nói lên sự đối lập giữa hai xu hướng ôn hòa và kịch liệt, gọi theo người trong cuộc- các nhà Nho yêu nước lúc đó, là giữa Minh xã và Ám xã – tổ chức công khai và tổ chức bí mật – và theo cách gọi ngày nay là giữa phái bạo động và phái cải cách. Sự khác nhau giữa hai bên là chủ trương dành hàng đầu cho nhiệm vụ chống thực dân, giành độc lập bằng đấu tranh võ trang hay cho chống phong kiến, trước hết là Nam triều, bằng cải cách dân chủ, cải cách văn hóa, giáo dục. Cả hai phái tranh cãi nhau kịch liệt – nhất là từ khi Phan Chu Trinh ở Nhật về - đến mức có nguy cơ đảng tranh (1) .Giữa hai đường lối đối lập, có một chỗ cả hai bên đều thống nhất. Đó là khai dân trí, chấn dân khí và bồi dưỡng nhân tài. Độc lập trước hay dân chủ trước cũng phải trông cậy vào những con người mới, những người có tinh thần mới, yêu nước, yêu nòi giống, có tri thức mới, tri thức khoa học và thực nghiệp, và được đào tạo cách khác so với lối khoa học cử trước đó. Trường Đông kinh nghĩa thục được mở ra trên miếng đất chung đó, vì vậy nó thành nơi đi lại của cả hai phái, là cơ quan phát hành tài liệu của cả hai phái. Hải ngoại huyết thư của Phan Bội Châu Thư gửi toàn quyền Bô của Phan Chu Trinh đều do Đông kinh nghĩa thục in và lưu hành.
Những điều vừa trình bày cho phép ta lưu ý: đằng sau những hoạt động chính trị sôi nôi trái ngược nhau, khác nhau theo từng vùng (Bắc Bộ, Nghệ Tĩnh, Nam Ngãi, Nam Bộ…), với trình độ phát triển kinh tế khác nhau, truyền thống văn hóa, truyền thống đấu tranh khác nhau, với các lãnh tụ ở các địa phươngchịu ảnh hưởng tư tưởng mới khác nhau, có một phong trào văn hóa có tính toàn quốcva thống nhất hơn nhiều. Dầu đứng về phía bạo động hay cải cách, dầu có công kích nhau kịch liệt, các cụ cũng tương thân tương kính, coi nhau là người đồng đạo, thống nhất tư tưởng, có chỗ thống nhất về con đường duy tân, cải cách văn hóa. Thật là nghịch lí, nhưng là nghịch lí hiểu được. Các cụ đều nhiệt thành yêu nước, và hơn thế nữa, các cụ đều là nhà Nho, có cách nhìn, cách suy nghĩ giống nhau.
Trường Dông kinh nghĩa thục chỉ tồn tại được 9 tháng trong năm 1907. Nhưng phong trao duy tân của nhà Nho ra đời sớm hơn. Sau khi Đông kinh nghĩa thục bị đóng cửa, phong trào vẫn tồn tại dưới dạng văn học quốc cấm.. Để chống phong trào duy tân thực dân Pháp không những đóng cửa trường, bắt giam hàng loạt nhà Nho yêu nước, mà còn cung cấp các phương tiện cho những nhà Tây học ra chủ trương duy tân, Âu hóa, truyền bá tư tưởng Âu Tây theo hướng tuyên truyền cho thực dân. Từ đây phong trào duy tân không còn, nhưng tư tưởng duy tân thì vẫn có những nhà Nho kiên trì có dịp lại phát biều.
Tôi muốn nói đến Phan Chu Trinh, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng. Nội dung tư tưởng của các nhà yêu nước đó trong vấn đề chống sùng bái Truyện Kiều là tư tưởng duy tân đầu thế kỉ, nhưng lần này là chung quanh vấn đề văn hóa, học thuật, văn hóa nghệ thuật.
Cả phong trào duy tân, cải cách văn hóa đó có thể gọi chung là phong trào Đông kinh nghĩa thục.

II

Vào dịp đầu xuân năm 1905, ông Bàng Trinh và ông Huấn Quyền đều đưa nhau đi cắt tóc, và sau đó một bài ca lưu hành rất phổ biến:
Phen này cắt tóc đi tu,
Tụng kinh độc lập, ở chùa duy tân.
Đến ngày khấn vái ân cần,
Cầu cho ích quốc, lợi dân mới là,
Tu sao cho mở trí dân nhà,
Tu sao độ được nước ta phú cường.
Sự việc ấy được truyền tụng như một sự kiện cách mạng. Cách mạng? – không phải là truyện phóng đại. Vào thời đại mọi người còn thu nhặt từng sợi tóc đổ từng chiếc răng rụng, từng mẩu móng tay để lúc chết mang xuống tận mồ, làm đúng lời dạy thánh hiền “tóc, da, thân thể là của cha mẹ trao cho, điều đầu tiên của đạo hiếu là người con không để nó sứt mẻ, hủy hoại”, thì cắt cả cái búi tó phải là hành động trọng tội, dư luận không dễ tha thứ. Chừng là ý thức được sự khắc nghiệt của dư luận, tập quán, tác giả nói khá thách thức: “Phen này cắt tóc đi tu” và tuyên bố sẵn sàng phạm cái tội đại bất hiếu đó để đổi lấy một quả phúc: “độ được nước ta được phu cường”. Cắt tóc, đầu thế kỉ này chắc chắn đã thành chuyện không lạ lẫm gì trong đời sống đô thị. Việc làm của Phan Châu Trinh và Nguyễn Quyền chắc chỉ bị các nhà Nho, nhất là các nhà khoa bảng, dị nghị. Việc cắt tóc trở thành nổi tiếng phần lớn là do ảnh hưởng của bài ca. Sáu câu rất ngắn thực sự trở thành một bản tuyên ngôn đề ra các yêu cầu chủ yếu của phong trào duy tân lúc đó. Những yêu cầu nêu ra rất mới – mới không ở từng khẩu hiệu mà mới ở cách hiểu. ở cách liên kết các yêu cầu – chứng tỏ các cụ đã hiểu thực tế khác trước, hiểu kẻ thù khác trước. Hơn hai mươi năm mất nước, sống dưới sự thống trị của thực dân, họ đã đủ thời gian nếm trải, đủ thời gian nghiền ngẫm, so sánh và thấy thực dân Pháp mạnh hơn, giàu hơn, khôn hơn, vì khôn hơn nên giàu mạnh hơn và cũng vì vậy mà tàn ác, thâm hiểm hơn. Trong văn chương cuối thế kỉ thứ XIX, theo tinh thần truyền thống, người ta cũng lên án thực dân xâm lược, bóc lôt, đàn áp, nhưng trong cách nghĩ lúc đó, người ta chưa phân biệt được xâm lăng phong kiến với xâm lược thực dân, mới hiểu sự bóc lột cống nạp, sưu cao thuế nặng, sự đàn áp bằng võ lực, mà chưa hiểu áp bức về kinh tế, bóc lột bằng khai thác, bằng độc quyền kinh doanh… Khi thấy tận mắt công cuộc khai thác thuộc địa, thấy rõ vai trò của đồng tiền, của tổ chức, qui mô kinh doanh – nguồn gốc giàu mạnh của thực dân, các nhà Nho yêu nước mới càng thấm thía sự tàn ác thâm độc của giặc, càng xót xa cái khổ mất nước. Một mặt họ hiểu ra sự giàu có của đất nước. Giang sơn không chỉ là gấm vóc như trước kia thường nói, mà giàu có cũng không chỉ là “vật hoa thiên báu” hiểu theo cách ngày xưa, nghĩa là không chỉ có nhiều đặc sản: xà cừ, vân mẫu, hạt trai, san hô, tê giác, đồi mồi, tượng nha…, những thứ có sẵn trong thiên nhiên chỉ cần tốn công thu nhặt, và từ hàng ngàn năm về trước, phong kiến Trung Quốc đã biết rõ, đòi ta hằng năm cống nạp. Các nhà Nho yêu nước đầu thế kỉ mới biết đến nhiều của cải của đất nước, những thứ thiết thực, cần cho đời sống như tre mây trên rừng, cá muối dưới biển, nói đến gỗ quý, nhất là nói đến khoáng sản:
Các thứ mỏ kể sao cho xiết,
Vàng, bạc, đồng, kẽm, thiếc, sắt, chì.
Dầu trong, than chắc thiếu chi,
Chu sa, bạch thạch nữa thì thủy ngân.(3)
Chưa có điều tra cơ bản! Không sao, lúc đó chưa có gì nguy hại. Mặt khác, quan trọng hơn là từ cách nhìn mới, các cụ đã rút ra những nhận thức quí giá. Đất nước giàu có như vậy ma để cho quân thù mặc sức khai thác! Đất nước giàu có như vậy mà dân ta “lười nhác”, “ngẩn ngơ”, “không biết làm ăn”, ngồi trên núi vàng mà chết đói, giương mắt nhìn kể cướp khuân vàng đi! Có điều kiện mở tầm mắt ra thế giới, các cụ đã hình dung ra quang cảnh cạnh tranh quyền lợi giữa các cường quốc, tiếp nhận cái thực tế được coi là quy luật “ mạnh được, yếu thua”, “khôn sống, vống chết”, cho nên hiểu chủ quyền không chỉ là chủ quyền chính trị, mà cả chủ quyền kinh tế: giành độc lập không chỉ là đuổi được đội quân xâm lược, mà còn bảo vệ được quyền lợi kinh tế, vì lẽ đó, cứu nước không chỉ là đấu tranh võ trang, mà còn là “đua khôn”, “đua khéo”, giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh sinh tồn. chính nhận thức mới đó đã làm cho tác giả Bài ca Á Tế Á nói đếnmột ưu diểm khác của tính cách dân tộc:
Thương ôi! Bách Việt giang sơn,
Thông minh đã sẵn, khôn ngoan có thừa.
Trên cơ sở nhận thức mới, độc lập không phải chỉ gắn với thái bình, mà còn gắn với cả phú cường. Phú cường không chỉ hiểu như trước là phú quốc cường binh – kho lẫm đầy, binh hùng tướng mạnh – nhìn vào lực lượng vật chất của nhà nước, nhà nước phong kiến. Trong quan niệm phong kiến đó, nếu có tinh thần thân dân thì cũng chỉ là quan niệm đến thời vụ, lo cho dân an cư lạc nghiệp, làm việc cày cấy, trồng dâu nuôi tằm, ăn no thì vác nặng, “ trăm họ đủ thì ai để nhà vua không đủ”(2), cũng là kho lẫm đầy, binh hùng tướng mạnh, nhưng lấy dân làm gốc của nước. Các nhà Nho yêu nước đầu thế kỉ đã hình dung đất nước khác trước, giàu có khác trước, với một nền kinh tế sản xuất khá với nền kinh tế tự nhiên tự cấp, tự túc. Phú cường, theo họ là dân giàu, nước mạnh, dân no đủ sung túc và nước đủ sức cạnh tranh, chen vai thích cánh với liệt cường: phú cường cho cả xã hội và trên cơ sở một nền sản xuất xã hội. Đó là tiền đề để kêu gọi hợp đoàn doanh sinh, góp vốn cả nước, đầu tư kinh doanh nhiều ngành, cạnh tranh với tư bản nước ngoài. Ở một nước phong kiến lạc hậu, phân tán, hợp đoàn đã không dễ, kinh doanh càng khó, canh tranh với liệt cường càng khó hơn. Với tầm nhìn của nhà Nho chỉ mới biết đến quy mô buôn bán nhỏ, họ cũng chưa có tham vọng làm chủ ngân hàng, giao thông, ngoại thương,… mà chỉ tính đến chuyện giành lấy khách hàng trong buôn bán. Nhưng muốn thế thì hàng hóa mà mình sản xuất cũng phải nhiều, phải tốt mới cạnh tranh được với hàng Tây, hàng Tàu. Có hai cái khó đập ngay vào mắt: thiếu vốn và thiếu kĩ thuật, thiếu kinh nghiệm nên hàng xấu.
Không vốn thì không thể nói đến sản xuất. Nguyến Thượng Hiền đề nghị vận động cả nước mỗi người góp một hào cho công ti kinh doanh. Tổ chứccông ti kinh doanh vốn là chuyện còn rất xa lạ. Phan Chu Trinh nhận xét một cách chua xót: “Nước ta không nghèo nhưng không có một đoàn thể nào đông quá ba người. Không có một cái lợi xã, lợi ích nào vốn hơn trăm bạc”(3). Không phải hoàn toàn không có tiền, nhưng góp vốn cho công ti thì không mấy ai tin là tiện lợi. Hàng xầu mà người tiêu dùng thích dùng hàng Tây, đồ Tàu, sản xuất được cũng khó tiêu thụ. Nguyễn Thượng Hiền đề nghị dùng nội hóa. Muốn cạnh tranh được với hàng nước ngoài, trước hết người sản xuất phải “đua tài làm cho tốt”, người buôn bán không được trục lợi, nâng giá, lừa dối trao hang xấu; nhưng mặt khác, người tiêu dùng cũng đừng chuộng lạ. Mọi người có dùng nội hóa thì hàng nước mình mới tốt đẹp lên được. Nói tóm lại, mọi người phải lấy lòng yêu nước, ý chí tự cường mà có một ý thức chung:
Anh em một tụi cùng nhau,
Thóc mình chớ để ném cho gà người.(3)
Ai ai cũng nghĩ đến ích nước lợi dân mà cố gắng hi sinh dần dần “ thu được quyền lợi về ta”. Với tinh thần ấy, lợi ích kinh tế phải nhường chỗ cho tình đồng bào, đồng chủng:
Yêu nhau mua giúp nhau cùng,
Sẩy vai xuống cánh cũng không thiệt gì.
Còn hơn của để đi đàng khác,
Để hàng mình nhớn nhác kêu ca.
Tất cả các khó khăn chỉ có thể giải quyết bằng trách nhiệm quốc dân, bằng tình đồng bào, bằng tinh thần hi sinh, tự cường để làm người dân nước độc lập. Chưa bao giờ trong văn chươngcác nhà Nho lại nhắc nhiều đến chữ “dân” như vậy: khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh… Một tinh thần dân bản vị chi phốimọi suy nghĩ. Vua đã đầu hàng, ngôi vua thành công cụ trong tray giặc. Nước không còn là lãnh thổ Trời tao cho vua quản lí như Lí Thường Kiệt đã từng khẳng định: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư, Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.”. Người dân không còn là thần tử, Trời trao cho vua chăn dắt. Tháo gỡ được sự trói buộc giữa Trời và vua, người dân quan hệ trực tiếp với nước, là chủ của nước. Nhưng trong cái cộng đồng đó, mọi người dân gắn bó với nhau bằng cái gì? – Bằng một tình máu mủ cùng dòng, cùng giống. Chưa bao giờ sự tích con Rồng cháu Tiên lại được nhắc nhở nhiều và tha thiết như vậy. Đó là ngọn nguồn của tình đồng bào. Tình đông tông, đồng hương trước đây, của quan hệ họ hàng làng xóm được mở rộng đến phạm vi cả nước thành tình đồng bào: nước ta là một địa bàn quần tụ của một chủng tộc. Anh em cùng họ, bà con cùng quê có nhiệm vụ phải thương yêu đùm bọc lấy nhau thì đồng bào cả nước, tuy họ hàng có xa hơn, sao lại không thể thương nhau, giúp nhau như vậy? Thế nhưng mục tiêu của hợp đoàn doanh sinh còn đòi hỏi cao hơn tình thương yêu đùm bọc. Nó đòi hỏi những tổ chức có mục tiêu cụ thể, sự gắn bó tự nguyện, trách nhiệm lẫn nhau rõ ràng. Các cụ nói nhiều đến đoàn thể, và nói rất tha thiết:
Thể đoàn như đá chẳng mòn,
Như thành chằng lở, như non chẳng rời.
Đừng như đàn quạ giữa trời,
Gặp cơn mưa gió vội rời nhau ra.
Có đoàn thì mới có ta,
Đoàn là rất trọng, ta là rất khinh.
Dù cho sóng gió bất bình,
Lợi đoàn mà có thiệt mình cũng cam.
(Khuyên nhau hợp quần)
          Quan hệ dân và nước, chủng tộc, đoàn thể thay cho họ, làng, sự đối lập trong quê – ngoài tinh, chốn hương thôn – nơi triều đình, đó là cái mới trong cách hình dung cộng đồng của nhà Nho. Trong cách nhìn như vậy, phương diện kinh tế, phương diện xã hội được chú ý. Những điều đó đã giáo dục, cổ vũ, đã thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy thanh niên đi vào con đường cứu nước, đi vào con đường cách mạng. Giữa cuộc sống tối tăm bịt bùng của xã hội phong kiến, sự thống trị của Nho giáo, cái mới dầu chỉ như vậy cũng khó được chấp nhận. Không chỉ nông dân ít học, quen với cuộc sống chật hẹp ở làng xã không tiếp nhận được, mà nhiều nhà Nho còn mang kinh truyện thánh hiền, tập quán cha ông ra để dè bỉu và chống lại kịch liệt.
Không thể đối thoại với họ. Không thể không phê phán Nho giáo, nhà Nho và xã hội cũ.

III

Thực ra các nhà duy tân chưa nghĩ đến chuyện phê phán Nho giáo. Các cụ đau xót bộc lộ mọi mặt hen kém của nước ta, dân ta, nhìn trách nhiệm làm cho nước yếu, dân hèn là ở học thuật, các cụ phê phán lối học khoa cử, phê phán người hủ Nho, và vì vậy động chạm đến một số luận điểm cơ bản của Nho giáo.
Đọc địa lí và lịch sử các nước, họ thấy sâu sắc sự cách biệt một trời một vực giữa nước ta với các nước Âu Mĩ, đau xót thừa nhận cai thực tế cay đắng: “ Nước Đại Nam vốn là một nước lớn văn minh, trong ngoài đều khen là một nước thanh danh văn vật”(4), trong thế giới ngày nay chỉ là một nước bán khai, có hơn những nước còn ở trình độ dã man; còn so với các nước Âu Mĩ đã đạt tới tuyệt đỉnh văn minh thi mình hèn kém mọi mặt. Tuy lịch sử là tiến hóa, nhưng trong cuộc cạnh tranh sinh tồn, các nước hèn kém ấy không những mất nước mà còn có nguy cơ diệt chủng.
Các nước Âu Mĩ sở dĩ văn minh là vì, về tư tưởng quyền tự do và dân chủ của dân được tôn trọng, trong nước “có nghị viện để duy trì quốc thị, có báo quán để đạo đạt hạ tình”. Không những họ có “các đại trước tác của Vônte, Rútxô, Xpenxe” mà tất cả các hoạt động văn học văn hóa đều nhằm “phát huy chủ nghĩa yêu nước, yêu nòi giống”; vì họ có nền giáo dục hẳn hoi, “đào tạo có cấp, có chương trình, dạy theo năng khiếu, chuộng thực hành”, sử dụng theo kết quả đào tạo; học thành tài rồi sau mới dùng, dùng làm được việc rồi sau mới thăng chức”; vì chế độ chính trị của họ, lập hiến hay cộng hòa cũng vậy, đều bầu ra nghị viện “ bàn luận kĩ càng mọi việc cốt làm cho đúng chân lí”, hợp với tình hình; vì dân của họ gắn bó với nước, vì con người của họ xem thường hiểm trở gian nan, ham hiểu biết và biết rộng. Còn ở nước ta thì mọi mặt từ từ công thương nghiệp, đến chính trị, luật pháp, đến giáo dục, tư tưởng, đâu đâu nền nếp cổ hủ cũng ngự trị, đâu đâu cũng lạc hậu thảm hại: “ Ngoài văn chương, không có là quý, ngoài áp chế không có gì là tôn chỉ; ngoài phục tùng không có gì là nghĩ xa”. Bên trên thì cấm đoán, bưng bít, “dùng người quý im lìm lặng lẽ ”, “ làm việc chiếu theo lệ cũ, mà lệ cũ không nhất định, luật có ban bố nhưng dân không được đọc”. Bên dưới thì sợ hãi, “làm văn sách thì sợ phạm húy, dâng thư cho người trên thì e phạm tội vượt phận nói leo”. Đất nước giàu tài nguyên, khí hậu thuận lợi làm ăn dễ dàng, nhưng nguồn lợi đó dân ta không được hưởng. Đối với công thương nghiệp, việc phát triển kinh tế, “ triều đình thì lảng đi, sĩ phu thì khinh rẻ không chịu làm”, bao nhiêu vật dụng hằng ngày không mua của Tàu thì mua của Tây; gánh vàng đi đổ ra ngoài. Cả nước “sống lêu lổng, ham mê đàn sáo, đầu hồ, lá bài, cờ tướng, đố thơ, đánh chữ, số tướng, địa lí, phù thủy, ngày ngày dốc trí khôn vào những thứ vô dụng”, miệt mài theo đuổi kinh nghĩa, ngũ ngôn, biền ngẫu, “đỗ đạt lên được một tí cái tiếng quèn, đã vội khủng khinh ta đây là kẻ cả, tự xưng là bậc giữ gìn thế đạo, ngày ngày ngồi khoe câu văn hay, khư khư ngồi giữ những thuyết hủ lậu, khinh bỉ hết thảy những thứ học mới”. Hạng người tệ hơn nữa thì chỉ “ nghe có vấn đề thăng quan lên mấy bậc, cất nhắc được mấy người”, không biết “ năm châu là những châu nào, thế kỉ này là thế kỉ thứ mấy”. Trong cuộc sống bưng bít, mọi người ru rú giữ lây  “xóm cùng làng hẻm”, lìa nhà mười dặm đã bùi ngùi “mưa gió hoa vàng”, ở nơi đất khách vài năm đã than thở “quan hà đầu bạc”. Khắp nơi đầy rẫy hủ tục. Người ta phàn nàn nước nghèo không có vốn để kinh doanh, khó khăn cả trong việc mỗi người góp chỉ một hào, nhưng lại sẵn sàng dốc những số tiền lớn gấp trăm lần vào những việc vô ích. Quanh năm cưới hỏi, ma chay, cầu cúng, mượn tiếng lế nghĩa để xôi thịt. Đối với những khoản chi tiêu như vậy, người Việt Nam đã quen thà ngậm cháo ăn rau, chứ đâu dám tiếc tiền. Tục lệ, dư luận bắt họ phải thế. Người ta lại chuộng hư danh bỏ tiền đút lót để được tiềng học trò đi thi, được tiếng người chức việc trong làng để được tiếng làm anh. Vì danh, có tốn tiền đến bao nhiêu cũng mát mặt, không tiếc. Để chi tiêu vào những việc vô ích như vậy, nhiều người không ngần ngại bán cả nhà cửa, ruộng vườn, cả áo khăn, đồ đạc, đến nỗi như Nguyễn Thượng Hiền nói:
Qua đêm rã đám là ngày đi pheo,
Khổ đến thân thì liều chẳng kể,
Chốn hương quan mấy kẻ tìm về.
(Hợp đoàn doanh sinh huyết)
          Bao nhiêu hủ bại của đất nước đều tập trung ở kẻ sĩ, hay như các cụ hiểu bao nhiêu hủ bại đều là do kẻ sĩ, do cách học sai lầm của kẻ sĩ. Người hủ Nho là hình ảnh tập trung của nhiều cái lạc hậu, hèn kém của xã hội. Nhà Nho, kẻ sĩ trong xã hội trước đây là người “tiên giác” có trách nhiệm hướng dẫn nhân dân, vì họ biết hơn dân. Thế nhưng, cái biết của họ trước tình hình mới tỏ ra nghèo nàn, và sai lầm thảm hại:
Nhà Nho hủ vẫn cậy mình khôn khéo,
Đem văn chương mà vênh váo với đời.
Dăm ba câu bát cổ dông dài,
Trừ cử nghiệp, việc ngoài chi nỏ biết.
(Bài hát khuyên hủ Nho)
Quả là họ không biết gì thật:
Đọc câu “lịch tượng thụ thời”,
Hỏi giăng chẳng biết hỏi giời chẳng hay.
Hỏi địa lí đêm ngày mờ mịt;
Hỏi các nghề rối tịt trơ trơ.
Nghĩa đen lấn cấn lơ mơ,
Mắt nhìn thủng giấy, tay sơ đứt lề.
(Cáo hủ lậu văn)
Thật là khác cho các cụ! Từ thời Khổng Phu Tử nội dung của tri thức đã khuôn lại là biết Đạo, biết Lễ, biết Nghĩa, biết Mệnh chứ có đòi hỏi biết một cái cụ thể nào về thế giới khách quan đâu! Đức Thánh quả có nhấn mạnh học và tập, học và hành, nhưng như thế cũng chỉ là dùng văn chương để truyền bá đạo nghĩa thôi. Đến đây các nhà duy tân mới nói, biết như vậy cũng là không biết, mới đòi hỏi biết thêm bao nhiêu thứ, biết Âu, biết Mĩ, biết địa lí, biết các nghề… Đến như Khổng tẻ nổi tiếng uyên bác là vậy mà Phàn Trì hỏi nghề cày cấy, nghề làm vườn, ngài cũng có biết đâu! Các nhà Nho học để đi thi chỉ biết học theo, nhắc lại, chỉ cần nhớ đúng chứ không cần hiểu kỹ. Đọc một câu không cần suy nghĩ nhiều về ý nghĩa, nói đạo lý cũng không cần so với hoàn cảnh xung quanh. Không biết đã là nguy hại, nhưng “không biết mà tỏ ra không biết cũng là biết”(lời Khổng Tử). Đằng nay nhà Nho hủ đã không biết lại tự phụ là đã biết hết “ nhất nghệ bất tri Nho giả sở si”. Họ đem những người xưa, việc xưa, những tri thức cổ lỗ trời tròn, đất vuông, những điềm rủi, điềm mẩy giải thích vong mạng. Chỉ với lí thuyết Âm Dương, Ngũ Hành, chỉ với Đạo, Lí họ tin có thể suy ra mà hiểu hết mọi chuyện trong vũ trụ, “không ra khỏi màn mà đoán đinh được việc ngoài ngàn dặm”. Dầu có đem chuyện khoa học kĩ thuật Âu Mĩ ra hỏi, họ cũng không biết gì nhưng cũng không chịu im.
          Khí học làm sao? Hóa học làm sao? Cụ dẫn Dịch tượng,Thư trù chi cổ đế.
          Cơ khí là thế, điện khí là thế. Cụ rằng mộc ngưu, lưu mã chi Khổng Minh.
                                                                                      (Văn tế thầy đồ hủ)
          Họ bàn cả cơ học, lí học, hóa học, nhưng lại hiều lí học, cơ học ra chuyện lí, khí, chuyện cơ tâm, cơ trí trong Luận ngữ; ra chuyện mộc ngưu lưu mã thời Khổng Minh, thậm chí còn ra chuyện trong Kinh Thư, Kinh Dịch nữa. Với cái tri thức mơ hồ, lối phán đoán đại khái chủ nghĩa, họ vẫn tự cao tự đại, coi mình là người thức giả. Và họ cũng không dừng lại ở chỗ tự cao hợm hĩnh vô hại, đã bàn đủ mọi chuyện lại khích bác “những người nói khác mình”, tức là những nhà duy tân, vẫn mỉa mai, cự tuyệt mọi cái mới. Sự khích bác của họ không phải là không nguy hiểm. Với tư thế là “người bảo vệ Đạo Thánh”, “cầm chính đạo”, “chống dị đoan”(5), họ buộc tội cho những người đọc sách Tây cái tội bội đạo, tội li kinh, phản bội danh giáo, những tội danh này còn nhục nhã, nguy hiểm hơn cả bất hiếu, bất mục, làm phản triều đình. Thái độ của họ tạo ra dong nước ngược, gây trở ngại lớn cho công việc duy tân cứu nước.
          Người hủ Nho bị lên án gay gắt. Các nhà duy tân chì chiết, bêu riếu, mỉa mai họ, không ngại cả việc dùng những từ ngữ độc địa. Bài Văn tế thầy đồ hủ vẽ lên một bức biếm họa, chạm trổ chọn vẹn chân dung thể chất và tinh thần nhà Nho hủ, từ diện mạo củ rủ, quần áo bẩn thỉu, ăn uống bần tiện, cho đến cách nói năng, cách đi đứng, tính tình, nguyện vọng lí tưởng, thái độ đối với đất nước… Người ta không từ cả việc gọi cái học khoa cử của nhà Nho là học “nhai phân”, học “nhá đờm”, nhấm nháp những cặn bã người xưa bỏ lại. Có làm như thế các nhà duy tân mới làm cho thanh niênkinh tởm cái cũ, mới quyết tâm học khoa học và kĩ thuật Âu Mĩ. Có làm như vậy mới khẳng định được trí tuệ, tự do tư tưởng là những yêu cầu của cuộc vận động khải  mông mà họ đề xướng.
          Động đến khoa cử, động đến nhà Nho là động đến Nho giáo. Thế nhưng khi Phan Bội Châu kêu gọi mười hàng người trong nước đoàn kết cúu nước, còn nghĩ: “Đứng đầu tiên là bạn làng Nho”; Nguyễn Thượng Hiền kêu gọi họp đoàn doanh sinh còn mong dựa vào uy tín lớp thân sĩ vận động mọi người góp vốn, trông cậy ở đạo đức tài năng của họ để quản lí, thì việc phê phán Nho giáo cũng chỉ có thể dừng lại ở một số giới hạn. Tác giả Văn minh tân học sách say mê thuyết tiến hóa đã bác bỏ quan điểm tuần hoàn, xưa hơn nay, thịnh suy đắp đổi, coi động lực vận động của tiến hóa là trí tuệ, sáng tạo khoa học, là sự ứng dụng trí tuệ và sáng tạo khoa học vào sản xuất, kinh doanh chứ không phải là đạo đức, thì động lực của lịch sử vẫn là học vấn, trí thức. Ông công kích các nguyên tắc “hậu cổ bạc kim”, “trọng vương khinh bá”, “nộ hạ ngoại di”, “trọng quan khinh dân”, tức là những quan điểm rất cơ bản về lịch sử, chính trị, về xã hội của Nho giáo, thì vai trò tiền phong trong công cuộc vận động duy tân cũng vấn là giới trí thức, một thứ kẻ sĩ tiên giác. Các cụ kêu gọi bỏ lối học từ chương, bỏ khoa cử, nhưng vẫn còn chủ trương học chính văn của kinh truyện, nghĩa là chỉ bỏ những lời chú giải, những lời bàn suông, bỏ thơ phú, kinh nghĩa, mà vẫn giữ lại sách, luận, nghĩa là chỉ bỏ thứ văn chương phù hoa, thứ văn chương bát cổ, biền ngẫu mà thôi. Phương châm của họ là chống lại phù hoa, chuộng thực dụng, chứ “lời hay nết tốt của thánh hiền”, những “cái có quan hệ đến thế đạo nhân tâm” vẫn chưa phải là cái có thể bỏ. Vả lại với cách nhìn chủng tộc, các cụ cũng chưa thể bỏ lòng tự hào “Châu Á là ngọn nguồn của văn minh” được.
          Dầu các cụ đã thay đổi cách suy nghĩ, chú ý đến mặt kinh tế, mặt xã hội, thì cũng chưa phải là đã bỏ được cách hình dung thế giới theo mô hình gia đình, coi quan hệ xã hội giống quan hệ gia đình, làng xóm:
Hồn xưa dòng dõi Lạc Long,
Con nhà Nam Việt ở trong giống vàng,
Chi Na chung một họ hàng,
Xiêm la, Nhật Bản cùng làng Á Đông.
          Thế giới đã mở rổnga đến năm châu, nhưng vẫn mang hình ảnh gia đình mở rộng, mà xã hội tuy có dân làm chủ thì dân vẫn là người yếu kém, dốt nát, cần được che chở, giáo hóa.
          Năm 1905, tác giả Cáo hủ lậu văn mở đầu bài ca: “Muôn năm Ất Tị vua ta”… Năm 1940, ở trong câu đối tuyệt mệnh, Phan Bội Châu than thở “Khả tích hung trung mai Khổng Mạnh” ( Tiếc bấy trong lòng vùi Khổng Mạnh).
          Món nợ lâu đời với Nho giáo, không dễ gì một lúc đã thanh toán được!

IV

          Cuộc cải cách văn hóa mà nhà Nho duy tân đề xướng chưa có những điều kiện thuận lợi. Nội dung yêu nước thương nòi của nó không che mắt được thức dân, mà nội dung tư sản của nó chưa có lực lượngthành thị lớn mạnh để hưởng ứng. Phong trào chưa kịp phát triển đã bị đàn áp, bị dập tắt nhanh chóng. Chỉ nhìn qua cũng thấy phong trào có chỗ nghịch lí, lạ lùng: lớn tiếng đòi tư sản hóa không phải là người dân đòi truyền bá học thuyết phương Tây mà trong hàng ngũ người chủ xướng không ai có Tây học. Trong nước nền kinh tế hàng hóa chưa kịp phát triển, thành thị còn nhỏ yếu, thị dân ít, lực lượng tư sản chưa thành lực lượng đáng kể. Các nhà Nho đề xướng Âu hóa chưa sống ở nước ngoài, không biết ngoại ngữ, không trực tiếp đọc được các tác phẩm mà họ đinh truyền bá. Là những nhà Nho, họ chỉ đọc được Hán văn, hiểu học thuật Phương Tây qua sự giới thiệu của sách báo Trung Quốc, mà qua dịch thuật, giới thiệu cảu Trung Quốc thì mọi thứ đã Trung Quốc hóa. Trong nước, lúc đó cũng có người biết tiếng Pháp, học tận bên Pháp, nhưng họ còn ít ỏi sống dính líu nhiều với thực dân; chính họ lại không nghĩ đến chuyện Âu hóa đất nước. Vào lúc đó nhà Nho vẫn là lực lượng trí thức dân tộc, là người mang văn hóa dân tộc, gắn bó với quần chúng đông đảo là nông dân. Vừa trải qua hai, ba chục năm chiến đấu với kẻ thù trong phong trào Văn thân, tiếng nói của họ vì thế có trọng lượng. Đó là chỗ thuận lợi. Nhưng đề xướng Âu hóa, nhà Nho làm công việc hoàn toàn trái với bản chất của mình.
          Nhà Nho vốn là người chỉ quen đọc sách ngâm thơ, coi thường việc sản xuất khinh bỉ việc làm giàu, căm ghét việc cạnh tranh . Họ ca tụng cuộc sống thanh thả, nhàn tản, vui với nước non, tiêu dao với ngày tháng, tự hào tay không có mùi tiền, óc không nghĩ đến sản nghiệp, họ là người ăn bám không lao động có triết  học. Ăn bám không lao động mà lại cần kiệm, liêm, chính. Trong cuộc sống họ là người siêng năng thức khuya dậy sớm, cầm sách liền tay, chăm chỉ trồng hoa tưới cây… Họ là người ăn bám, vì theo đúng thánh hiền sống trọng nghĩa, khinh lợi, coi trách nhiệm của kẻ sĩ là phù trì thế đạo nhân tâm, là giáo hóa dân, làm công việc lao tâm; còn việc cơm gạo, tiền nong, sản nghiệp là việc của vợ con, đàn bà, việc cày cấy là việc của nông phu, lao lực. Phải từ bỏ bao nhiêu tư tưởng, bao nhiêu nếp sống, học tập, bao nhiêu mánh khóe khôn ngoan, bao nhiêu tinh thần mạo hiểm, họ mới có thể mặc áo gấm, cầm quạt lông, bảo thằng nhỏ nách gói theo hầuđể xuống thuyền xem mặt hàng, mặc cả giá với thuyền buôn. Vốn là người sùng cổ, coi thời Tam Hoàng, Ngũ đế là tuyệt đỉnh văn minh, việc làm không bắt chước xưa thì hỏng, nói không đúng sách vở thánh hiền là sai, thế mà lại phải hi vọng, chờ đợi sự cứu vớt ơ tìm tòi, suy nghĩ, sáng tạo. Vốn là người cẩn thủ tuân theo nề nếp cha ông, tuân theo tục lệ hàng xóm kì thị, bài ngoại, mà lại phải học theo Âu mĩ, những nước ở tận đâu những phương trời xa xôi. Vốn là người suy nghĩ, phán đoán chỉ theo Lí, theo Đạo, theo những gương mẫu có sẵn, mà phải bàn chuyện thực tế, giải quyết chuyện thực tế. Nhà Nho không tự phủ định triệt để thì không thể đi theo cái mới, không thể hiện đại hóa được.
          Những điều trình bày ở các phần trên cho ta thấy, quả thật nhà Nho trong phong trào duy tân đã gột rửa được nhiều thành kiến, vứt bỏ được nhiều nề nếp, nhiều thói quen. Giúp họ vượt lên trên minh như vậylà tinh thần truyền thống yêu nước, kiên cường bất khuất của dân tộc, nhờ lòng căm thù chứa chất sau những thất bại nhục nhã, sau những nếm trải sự khổ nhục khi làm người dân mất nước, và đồng thời cũng là nhờ tư tưởng Nho giáo trong chính họ. Tư tưởng Nho giáo khuyến khích con người yêu quê cha đất tổ, yêu bà con làng xóm, sẵn sàng nhận trách nhiệm cứu nạn,phò nguy, “đối với việc hưng vong của đất nước, kẻ thất phu cũng có trách nhiệm”. Các nhà Văn thân của thế kỉ trước vì yêu nước đã tay không chống giặc, ngã xuống hàng loạt, đến lượt họ, các nhà Nho đầu thế kỉ lại vì yêu nước, lại dũng cảm từ bỏ nhiều cái quen thuộc, thân thiết của mình để làm việc nghĩa.
          Không phải họ có thể vượt quan tất cả. Không phải Nho giáo cho phép họ từ bỏ tất cả, nhìn ra được cái “chân lí”, cái mà đến đây họ hay nhắc đến một cách thiết tha. Chân lí quan trọng nhất đối với họ là độc lập. Cái làm họ chú ý trước hết trong các nước Âu Mĩ là tinh thần dân tộc, tinh thần yêu nước, tinh thần trách nhiệm của người dân đối với nước. Theo họ đó là đặc điểm của người dân Âu Mĩ, là động lực làm cho các nước đó trở nên văn minh, trở nên phú cường. Cái làm cho họ say mê nữa đó là chế độ dân chủ. Các nhà duy tân nhìn vào chế độ dân chủđại nghị với nhiều màu sắc ảo tưởng.Họ nghĩ rằng, dưới chế độ dân chủ tư sản, mọi cái đều tốt đẹp: tự do hạnh phúc của nhân dân được đảm bảo, trí tuệ, khoa học đều được tự do, phát triển thuận lợi. Thế nhưng, họ hiểu dân chủ - dầu chỉ ở mức dân chủ tư sản – còn khá sơ lược. Họ chưa hề nghĩ kĩ dân là ai? Là những người thế nào? Làm chủ cái gì? Bằng cách nào? Chưa trải qua một cuộc đấu tranh chống áp bức về mặt xã hộ, trên lãnh thổ gọi là đất nước, họ ý thức được chủ quyền dân tộc, mà không chú ý nhiều đến những vấn đề xã hội của cuộc sống trong cộng đồng. Tuy thích thú và bỏ nhiều tâm lực truyền bá, giảng giải, nhưng họ không hiểu sâu sắc những tư tưởng của Vônte, Rútxô – các nhà triết học phương Tây được các cụ đưa lên bậc thánh – nói về tự do, hạnh phúc, bình đẳng, công bằng, hữu ái. Chưa thấy ý nghĩa của những từ tưởng đơn giản, như cá nhân, công dân, luật pháp…, chưa thấm thía những vấn đề nhân quyền, dân quyền, chưa thấy sâu sắc ý nghĩa của đòi hỏi sự tương  ứng giữa quyền lợi và nghĩa vụ, cho nên cũng không ý thức đầy đủ chức năng Nhà nước, vai trò pháp luật. Nước và cả thế giới được hình dung theo mô hình gia đình, làng xã, trong đó mọi người quan hệ với nhautheo tình máu mủ, thân thuộc,thì nhà nước cũng là địa bàn quần tụ của giống nòi, là gia tài, sản nghiệp là tự điền hương hỏa cha ông để lại, không đòi hỏi giải quyết những vấn đề phức tạp giữa những con người ngẫu nhiên và bắt buộc phải cùng sống với nhau. Dân được tuyên bố là chủ nhân, gán cho nhiều mĩ tự của người làm chủ, nhưng như vậy cũng là để mang thêm nhiều trách nhiệm của người làm chủ; còn đối với lớp nguời tiên giác, dân vẫn là đối tượng che chở, nuôi dưỡng, giáo hóa. Đó là sự khác nhau giữa quốc dân trong tình chủng tộc, nghĩa đồng bào với người công dân tự do, bình đẳng, tự nguyện tham gia khế ước xã hội. Đó cũng là sự thu nhỏ chế độ dân chủ tư sảnvào khuôn khổ Nho giáo.
          Nhìn ra sự quan trọng của khoa học, học thuật, nhu cầu cải cách văn hóa đối với các nhà duy tân dường như có bớt khó khăn hơn. Nho giáo vốn là học thuyết đề cao văn hóa, học vấn, đề cao giáo dục. Thế nhưng, trong sự ngiệp văn hóa- giáo dụ, nhà Nho chú trọng chức năng “đạo giác tư dân”, tức là giáo dục, cải tạo tư tưởng của dân, nên đặc biệt chú ý nội dung tư tưởng, mà coi thường phần nghệ thuật. Không phải Nho giáo không thấy tác dụng to lớn của nghệ thuật đối với tình cảm, tư tưởng con người. Ngược lại chính vì vậy mà nó đòi nghệ thuật chỉ có một chức năng là mang tư tưởng phục vụ giáo dục. Chính quan niệm đó đã hạn chế phát triển của các nghệ thuật, đến nỗi ở các nước chịu nhiều ảnh hưởng của Nho giáo, văn minh, văn hóa hầu như rút gọn lại chỉ còn sự phát triển của văn chương, và là văn chương đạo lí. Các nhà duy tân đều là những nhà khoa bảng sành văn chương, khi tiếp thu tư tưởng duy tân, thấy cái nguy hại của một nước “ ngoài văn chương không có gì là quý”, ghét cái thứ nghệ thuật “rung đùi, lắc vế gò gẫmtìm một chữ cho kêu, chọn một điển tích cho đắt” (6), thứ nghệ thuật theo họ là phù hoa, vô ích, lại muốn đưa nội dung mới làm đạo lí và bắt văn chương làm nhiệm vụ giáo hóa mạnh hơn nữa. Trong cuộc vận động duy tân, các cụ đề cao trí tuệ, đề cao sáng tạo, nhưng là nói trong phạm vi khoa học, kĩ thuật, trong phạm vị học thuật, chứ không đả động gì đến sáng tác văn học - nghệ thuật. Dưới sự thống trị lâu dài của Nho giáo, trong truyền thống ít ai quan tâm nhiều đến lý luận nghệ thuật, các cụ dầu là duy tân, cũng không thấy giá trị chân chínhcủa nghệ thuật là cái thực, không phải hiểu đối lập với hư (trống rỗng, phù hoa), tức là có nội dung thiết thực, có ích cho giáo hóa, mà là mang bóng dáng của cuộc sống, hơi thở của cuộc sống, tức là phản ánh, tái tạo, xây dựng cuộc sống.
          Trước sự cường thịnh của Âu,Mĩ, các nhà Nho say mê muốn bắt chước. Các cụ kêu gọi học lịch sử, học địa lí, toán học, cơ học, điện học, mọi thứ học của phương Tây, các cụ hết lòng ca tụng khoa học kĩ thuật, đề cao tư tưởng, tự do tranh luận. Phương hướng chung của cuộc vân động là giải phóng tư tưởng, đề cao trí tuệ , đề cao sáng tạo, những nét chính của cuộc cách mạng văn hóa tư tưởng, những tai năng trí tuệ là để ổ sung cho đức chứ không phải là để thay thế nó. Để gìn giữ thế đạo nhân tâm thì làm sao nó có thể bỏ được “lời hay nết tốt của thánh hiền”? Tuy là thiết tha muốn tự cường, muốn duy tân, muốn hiện đại hóa đất nước, nhưng tư tưởng Nho giáo trong bản thân không cho phép các cụ bỏ cái khuôn khổ chuộng đức, cái thế giới quan gia đình mở rộng, cái quan niệm là người tiên tri tiên giác hướng đạo, giáo hóa, vỗ về nhân dân. Dầu cố gắng hết sức, các cụ cũng không hiểu được xã hội hiện đại, với quan niệm hiện đại về con người làm cơ sở cho cái xã hội đó.
          Lòng yêu nước đã mở mắt cho các nhà Nho lúc đó thấy được nhiều chuyện khó thấy. Trước đây , các nhà Nho thường có phân biệt minh và trí, sáng suốt và khôn ngoan, “biết người la khôn ngoan, biết mình mới là sáng suốt”. Các nhà Nho nhờ lòng yêu nước đã minh lại trí. Họ đã thấy ra nhiều nhược điểm tai hại của chính mình, lại nhìn ra con đường mới đầy hứa hẹn cho đất nước. Nhiệt tình, lòng dũng cảm, tinh thần hi sinh của họ không thiếu, nhưng hiểu biết, tiếc thay lại không đủ. Nhiều vấn đề, nhiều từ ngữ, các cụ thích thú nói đi nói lại nhiều lần, nhưng ngày nay có lần mò tìm ra cách hiểu đơn giản hóa của các cụ mới hiểu đúng.
          Đối với Nho giáo, các cụ phê phán tri thức mà chưa phê phán cách nhận thức, phê phán chính trị mà chưa phê phán triết học, phê phán từng điểm mà chưa phê phán cả hệ thống. Các cụ lên án những người hủ Nho gay gắt, nhưng lại không biết rằng đã là nhà Nho thì hủ như vậy. Không những thực tế lạc hậu che tầm mắt, Nho giáo buông bóng tối, mà nhìn ra cái xấu của dân tộc, của cha ông, của bản thân những cái quen thuộc, thân thương quả thật là khó.
          Vào những năm 20, 30, khi phong trào duy tân của các nhà Nho chấm dứt, đời sống đô thị phát triển, văn hóa tư sản đã hình thành, nhiều nhà chí sĩ, tức là các nhà Nho duy tân, trước đây còn sót lại, cảm thấy ngỡ ngàng trước thực tế hiện đại, điều mà chính họ mong sẽ tới. Tất nhiên, đối với xã hội và nền văn hóa hổ lốn, còn đầy rẫy những yêu tố phong kiến và thực dân lúc đó, các cụ có lí do để than thở “Á cũ qua rồi mới chửa Âu”(1). Cái Âu Mĩ mà các cụ mong muốn quả thật đã không đến. Nhưng cái Á cũng chưa qua, và trong cái hổ lốn như vậy, cũng không phải cũng không có cái Âu Mĩ thực, cái hiện đại thực. Điều tôi muốn lưu ý là các cụ cũng không thể thấy ra những cái đó. Vào những năm đó các nhà Nho duy tân còn lại có tâm trạng khá cô độc, bi quan và cũng khá bảo thủ. Nhiều người trở lại gìn giữ lối sống thanh cao, khí tiết, trở lại thói quen ngâm vịnh, tiêu sầu, có khi lên tiếng bênh vực cả luân lí triết lí Á Đông nữa.
          Không phải họ giảm sút lòng yêu nước, nhưng sự hiểu biết về thế giới hiện đại không đủ bảo hiểm cho họ tránh được một quá trình lại giống ( thoai hóa): trở lại là nhà Nho.
*
*       *
          Phong trào duy tân cải cách văn hóa đầu thế kỉ ở nước ta tiếp tục phong trào cứu nước của Văn thân cuối thế kỉ XIX, nhưng lại tiến hành trong hoàn cảnh khác: châu  thức tỉnh trước thế giới hiện đại. Chủ nghĩa đế quốc, rồi cách mạng Vô sản, lần lượt xúc tiến quá trình nhất thể hóa thế giới, hiện đại hóa ở từng khu vực, ở từng nước. Giao lưu văn hóa, duyệt lại truyền thống, hướng về nền văn hóa hiện đại phương Tây thành xu hướng tất yếu của lịch sử. Với tư cách là người mang văn hóa của dân tộc, các nhà Nho yêu nước đã lãnh trách nhiệm đi bước đầu giải quyết vấn đề lịch sử đó. Họ đã cố gắng hết sức minh, đã nêu những tấm gương cao cả về lòng yêu nước, về lòng dũng cảm, về sự sáng suốt, hi sinh. thế nhưng cơ sở kinh tế - xã hội ý thức hệ Nho giáo ở phương Đông thật bền vững, không dễ phá vỡ. Dầu là với một tinh thần quả quyết: “ Dây đàn cầm không hài hòa thì phải tháo ra mà sửa lại, nhà ở đã cũ hàng ngàn nămthì phải dỡ đi mà làm lại”(4), các nhà Nho duy tân cũng không đủ sức mạnh thực tế lay chuyển nó đến tận nền tảng, để có một chủ nghĩa nhân đạo thực sự, một quan niệm dân chủ thực sự, một tư tưởng dân tộc chân chính làm cơ sở xây dựng đất nước hiên đại, nên văn hóa hiện đại. Trước bước ngoặt lịch sử, Nho giáo, hệ tư tưởng chịu trách nhiệm về tình trạng tối tăm, bưng bít, được miễn nghị. Người hủ Nho lần đầu tiên bị lột khăn áo lôi ra vành móng ngựa của lịch sử. Sự thất bại của Đông kinh nghĩa thục đã giải thoát nó. Vế sau Phong hóa, Ngày nay có đưa Lý Toét, Bang Bạnh, Xã Xệ ra chế giễu, nhưng nhà Nho hủ bại vẫn không bị đem ra sân khấu để chuốc cười.
          Nhiều khi, trong bộ mặt người làm cha, làm chú, làm thầy, có khi cả làm quan nữa, ông đồ già lại còn giành được thương tiếc, cảm phục.
          Trước tòa án lịch sử, hồ sơ vụ án đã được xếp lại, ghi thêm hai chữ “Miễn tố”?
Tháng 3 năm 1982
Nhân dịp kỉ niệm 75 năm
 Trường Đông Kinh nghĩa thục.

CHÚ THÍCH:
          (1): Phan Bội Châu. Thư gửi Phan Chu Trinh.
          (2): Luận ngữ.
          (3): Phan Chu Trinh. Tựa Hợp đoàn doanh sinh huyết.
(4): Văn minh tân học sách.
(5): Mạnh Tử.
(6): Ngô Đức Kế: Bàn về chính học cùng tà thuyết.
(7):  Huỳnh Thúc Kháng vịnh Kiều.