Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900-1930( chương Phan Bội Châu)
Trần Đình Hượu
PHAN BỘI CHÂU
Đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước và
duy tân phát triển bồng bột khắp cả nước. Trong phong trào đó có người thiên về
củ trương bí mật chuẩn bị võ trang đánh Pháp, giành độc lập cho đất nước, có
người thiên về chủ trương công khai tuyên truyền chấn hưng công thương nghiệp,
lập đoàn hội, mở mang dân trí đòi dân chủ hóa chế độ chính trị; dần dần hình
thành hai phái ôn hòa và kịch liệt. Phan Bội Châu là lãnh tụ của phái kịch liệt
nhưng có ý thức sử dụng cả hai phương thức đấu tranh. Ông được cả hai phái tin
cậy, tôn trọng.
Các nhà hoạt động duy tân và cứu nước
lúc đó đều là những nhà Nho trẻ có nhiều người là khoa bảng, nổi tiếng hay chữ.
Phương tiện đấu tranh chủ yếu của họ là văn chương. Phan Bội Châu là người viết
nhiều nhất, bằng nhiều thể loại nhất. Tác phẩm của ông có tác động lớn nhất đến
phong trào cách mạng lúc bấy giờ. Phan Bội Châu là một nhà yêu nước lớn. Trong
một phần tư thế kỷ, ông là ngôi sao dẫn đường cho dân tộc chống thực dân Pháp
giành độc lập. Riêng về mặt văn học, Phan Bội Châu cũng là nhà văn tiêu biểu
nhất cho văn học yêu nước thời kỳ đó. So với văn thơ yêu nước trước đây, văn
thơ Phan Bội Châu đã thuộc một loại mới. Sáng tác của ông không những đứng đầu
về số lượng, chất lượng, tác dụng mà còn phản ánh xu thế, vận mệnh của văn học
yêu nước lúc đó rõ ràng nhất, đầy đủ nhất.
I. NHÀ NHO YÊU NƯỚC THÀNH NHÀ CHÍNH
TRỊ, NHÀ VĂN
1. Con người và cuộc đời
Phan Bội Châu lúc đầu tên là Phan Văn
San (ở Nghệ An nhiều người vẫn quen gọi là ông Giải San), hiệu là Hải Thụ. Khi
đi thi lại đổi tên là Phan Bội Châu. Lúc ra nước ngoài thường dùng tên hiệu Sào
Nam Tử, Thị Hán.
Ông sinh ngày 26 tháng 12 năm 1867
tại thôn Đan Nhiệm (Sào Nam), xã Đông Liệt, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Ông
sinh ra trong một gia dình nhà Nho nghèo. Cha làm thầy đồ dạy chữ Hán. Mẹ là
người biết chữ. Lúc Phan Bội Châu chưa đi học, bà đã dạy cho con học thuộc một
số bài trong Kinh Thi.
Lúc nhỏ, Phan Bội Châu nổi tiếng là
thần đồng. 6 tuổi theo cha đi học, 3 ngày thuộc hết Tam tự kinh, 7 tuổi đã hiểu nghĩa kinh truyện, đã có thể sử dụng
chữ Hán đùa nghịch viết Phan tiên sinh luận ngữ để chế giễu bạn bè. 8 tuổi đã
làm thông thạo các loại văn cử tử, đi hạch ở huyện, 13 tuổi đi hạch đứng đầu
huyện, làm được văn thơ theo lối cận cổ, các cụ đồ ít đọc scáh trong địa phương
không hiểu nổi. Nhiều lần đi hạch Phan đứng đầu xứ.
Phan Bội Châu có tư tưởng yêu nước
rất sớm. Lúc Pháp đánh chiếm các tỉnh đồng bằng Bắc bộ, ông mới có 17 tuổi, đã
viết bài hịch Bình Tây thu Bắc (dẹp
giặc Pháp, khôi phục đất Bắc) dán ở gốc đa đầu làng (PBCNB) để kêu gọi mọi
người hưởng ứng phong trào văn thân ở Bắc kỳ. 19 tuổi vào lúc kinh đô Huế thất
thủ, phong trào Cần Vương nổi lên sôi sục ở Nghệ Tĩnh, Phan đã tổ chức thí sinh
quân (đội nghĩa binh gồm những người học trò lớn tuổi đã đi thi) được 60 người
nghe theo, định hưởng ứng theo văn thân đánh Pháp. Đội thí sinh quân mới lập
danh sách, định quân hiệu, chưa có lương thực khí giới thì quân Pháp đã kéo
đến. Mọi người hoảng sợ, trách móc người chủ xướng. May việc chưa bị lộ, ông
kịp thời thủ tiêu tang chứng của cái công việc sau này trong Phan Bội Châu niên biểu ông gọi là “tập
làm trò ái quốc trẻ con” “đáng buồn cười” ấy.
Từ đó ông thay đổi, sống 10 năm ẩn
náu, viết Song tuất lục ca tụng những
người văn thân chống Pháp ở Nghệ Tĩnh trong hai năm Tuất 1874 và 1886, đi dạy
học, đọc binh thư, tìm kiếm bè bạn, chuẩn bị họat động với quy mô lớn về sau.
Ông đã tập hợp được quanh mình nhiều thanh niên ưu tú và nhiều người thuộc dư
đảng Cần Vương đang sống trốn tránh bất hợp pháp.
Năm 1897 Phan Bội Châu vì tội mang sách
vào trương thi, bị cấm đi thi suốt đời, ông vào Huế, dùng văn chương làm quen
với các nhà khoa bảng trẻ tuổi yêu nước lúc đó đang tụ tập quanh trường Quốc tử
giám như Nguyễn Thượng Hiền, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp,
Ngô Đức Kế… Ở Huế nhờ Nguyễn Thượng Hiền, Phan được đọc tân thư, dần dần hình
thành chủ trương cứu nước theo đường lối mới. Nhờ sự can thiẹp của Khiếu Năng
Tĩnh và nhiều người khác, năm 1900 Phan được đi thi lại, đậu giải nguyên trường
Nghệ. Trong dịp về Nghệ An này, ông đã cùng với các đồng chí bàn kế hoạch cứu
nước, âm mưu tập kích thành Nghệ An. Năm 1902 ông ra Hà Nội, liên lạc với Hoàng
Hoa Thám. Năm 1903 ông lạ vào Huế, rồi đi Nam Ngãi, Nam Kỳ, hết ra Bắc lại vào
Nam liên kết với các lực lượng chống Pháp. Năm 1904 ông cùgn Nguyền Hàm chọn
Cường Để làm minh chủ và thành lập tân đảng (sau gọi là Duy Tân hội). Tân đảng
giao co ông nhiệm vụ sang Nhật cầu viện, chuẩn bị khí giới để đánh Pháp.
Năm 1905 ông xuất dương sang Nhật. Từ
đó ông kêu gọi tahnh niên trốn ra nước ngoài học tập, tổ chức thành một trung
tâm hoạt động cứu nước ở Nhật. Vừa lo sắp đặt tổ chức cho du học sinh học, cho
những nhà cách mạng đi lại hoạt động, Phan Bội Châu vừa viết sách giới thiẹu
nước Việt Nam, cách mạng Việt Nam với nước ngoài (Việt Nam vong quốc sử - 1905, Việt
Nam quốc sử khảo - 1908), vừa viết những lời kêu gọi, những bức thư cổ động
và chỉ đạo phong trào trong nước (Hải
ngoại huyết thư – 190?, Kính cáo toàn
quốc phụ lão văn – 190?, Thư gửi Phan
Chu Trinh – 1907, Ai cáo Nam Kỳ phụ
lão thư – 1907…). Năm 1908, chính phủ Nhật bản theo yêu cầu của chính phủ
Pháp trục xuất các nhà cách mạng Việt Nam. Phan Bội Châu cùng với các đồng chí
phải chạy sang Trung Quốc. Từ 1905 đến 1925 ông sống cuộc đời nhà cách mạng lưu
vong ở Nhật Bản, ở Thái Lan và nhiều nấht là ở Trung Quốc, làm con chim Việt
đậu cành Nam trông về Tổ quốc. Vì vậy ông lấy biệt hiệu là Sào Nam tử và nhiều
người cũng quen gọi ông bằng biệt hiệu ấy.
Trong nước từ năm 1908 phong trào
cách mạng bị đàn áp dữ dội. Hầu hết các nhà Nho yêu nước đều bị bắt, bị đày ra
Côn Đảo. Nguyễn Hàm cũng bị bắt trong số đó. Năm 1910 Đặng Thái Thân bị vây
bắt, phải tự sát. Mất hai nhân vật lãnh đạo chủ yếu, phong trào tan vỡ.
Năm 1912, do ảnh hưởng của cách mạng
Tân Hợi, Phan Bội Châu thành lập Việt Nam Quang phục hội ở Trung Quốc. Phong
trào đang có cơ phát triển thì ông bị tên quân phiệt Quảng Đông là Long Tế
Quang bắt giam và nằm trong ngục cho đến năm 1917, bỏ lỡ cơ hội, Pháp đang bị
Đức đánh cho nguy khốn ở châu Âu. Được ra khỏi tù, ông lên đường về nước định
phát động phong trào chống Pháp thì vừa lúc Đại chiến thứ nhất kết thúc và Pháp
thắng lợi. Dự định không thực hiện được. Từ năm 1920 đến năm 1925 ông viết bài
cho mấy tạp chí Trung Quốc.
Sau Cách mạng tháng Mười năm 1920,
Phan Bội Châu lên Bắc Kinh tìm gặp đại sứ Liên Xô và năm 1924 ông có liên lạc
với Nguyễn Ái Quốc lúc đó vừa ở Liên Xô về Quảng Châu. Theo ý kiến của Nguyễn
Ái Quốc, ông đã dự định tổ chức lại đảng cách mạng Việt Nam theo phương hướng
mới. Nhưng tháng 6 năm 1925, ông bị Pháp lừa bắt ở Thượng Hải đưa về nước.
Chúng âm mưu bí mật thủ tiêu ông, nhưng việc bị lộ nên phải đưa ông ra xử ở tòa
Đề hình, tưởng có thể thanh toán một kẻ tử thù về chính trị. Tính mạng của “bậc
anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập, được 20 triệu con người trong
vògn nô lệ tôn sùng” (Nguyễn Ái Quốc, Những
trò lố hay là Varen và Phan Bội Châu. Người cùng khổ số 36 – 37) bị uy hiếp
gây ra một phong trào bãi khóa, bãi công, bãi thị rầm rộ khắp toàn quốc. Lần
đầu tiên công nhân, học sinh đứng lên hành động chính trị, cùgn với nhân dân
khắp nơi đòi trả tự do cho Phan Bội Châu. Có người ra trước tòa án tình nguyện
chết thay cho ông. Trước phong trào đấu tranh mạnh mẽ đó, thực dân Pháp bối rối
phải tuyên bố tha bổng nhưng bắt ông phải về sống ở Huế và không được về Nghệ
An, quê hương ông.
Từ nưm 1926 đến 1940 ông là người tù
gian lỏng ở Bến Ngự, sống dựa vào sự giúp đỡ của đồng bào và bạn bè, trong một
cảnh thê lương
Đêm nghe con Vá chào ông trộm
Ngày báo thằng Nghi kể chuyện tù.
Ông già Bến Ngự - người ta thường gọi
ông như thế - thường thả một chiếc thuyền trên sông Hương. Trong hoàn cảnh sống
bị giám sát nghiêm ngặt, ông dạy vài đứa học trò nhỏ, viết một số thơ phú,
truyện ngắn gửi đăng các báo, nhiều nhất là báo Tiếng dân. Ông cũng viết mấy quyển sách: Khổng học đăng, Dịch kinh chú giải, Phật học đăng và chép lịch sử
họat động của mình thành tập Phan Bội
Châu niên biểu.
Ông mất ngày 20 tháng 10 năm 1940, để
lại cho đồng bào toàn quốc một lời xin lỗi “Cứu nước, bảo toàn nòi giống (tôi)
có ché nhưng không có tài. Nay tôi từ biệt quốc dân mãi mãi. Tội (tôi) rất lớn,
xin (quốc dân) tha thứ cho”. Đám tang vắng vẻ. Báo chí không được phép đưa tin
ông mất. Mật thám đứng canh gác các ngả đường dày đặc, chỉ một số bạn bè già
trẻ đã từng bị tù đày, chống Pháp đã lộ mặt đến đưa tang. Sau khi ông mất, đồng
bào Bắc Trung Nam đwocj tin mới gửi tiền về xây nhà thờ bên cạnh mộ ông ở Bến
Ngự.
2. Phan Bội Châu là nhà Nho nghèo, là đứa con của phong trào chống
Pháp ở Nghệ Tĩnh
Phan Bội Châu là một nhà Nho nghèo
của đất Nghệ Tĩnh. Lúc ông lớn lên cũng là lúc văn thân Nghệ Tĩnh đang phản đối
triều đình đầu hàng, nổi lên “bình Tây sát tả”. Phong trào sôi sục, liên tiếp
không dứt.
Nghệ Tĩnh là một vùng địa thế rộng
nhưng đất xấu. Cho đến đầu thế kỷ này ruộng ít, phần lớn còn là công điền, là
vùng đất lắm đồi núi sông biển. Đời sống của nhân dân còn dựa nhiều vào nền
kinh tế tự nhiên: vườn tược, săn bắn, đánh cá, đốn gỗ, nhặt tranh củi, thu lâm
sản. Thủ công nghiệp và thương nghiệp phát triển kém hơn nhiều nơi khác. Dân
đông, nhiều người phải bỏ quê hương đi nơi khác kiếm ăn. Nét khá nổi bật là dân
Nghệ Tĩnh học tập rất cần cù: làm thầy đồ đi dạy học là một nghề nghiệp của
nhiều người. Nhiều người đi dạy ở cả các tỉnh xa.
Trong bản đồ ngày xưa Hoan Diễn (Nghệ
Tĩnh) là một góc rừng biển xa xôi đối với
kinh đô Thăng Long vì là đất hiểm yếu nó là tuyến phòng ngự chống quân
Nguyên, là căn cứ của Trần Quý Khoáng rồi của Lê Lợi chống quân Minh, là căn cứ
của Nguyễn Kim, Trịnh Kiểm chống quân Mạc. Từ thế kỷ XVII, việc Nguyễn Kim,
Trịnh Kiểm dựa vào đất Thanh Hóa, Nghệ An chống Mạc, khôi phục nhà Lê, rồi sau
đó việc Trịnh Nguyễn chia cắt đất nước đã để lại nhiều ảnh hưởng quan trọng
trong sự phát triển lịch sử vùng này. Một mặt, nhiều người theo Lê Trịnh chống
Mạc, theo Trịnh chống Nguyễn trở thành danh tướng danh thần, thành những dòng
họ quyền quý gần gũi vua chúa ở Thăng Long, mặt khác dân Nghệ Tĩnh được tin cậy
làm chỗ chọn lính Tam Phủ - thân binh của vua chúa. Trong cuộc chiến tranh giữa
chúa Trịnh và chúa Nguyễn, Nghệ Tĩnh là cửa ngõ đường ống đi lại giữa Nam Bắc
là vùng có tính chất biên giới. Vĩnh Doanh là đồn binh lớn, Nghệ Tĩnh là chiến
trường tranh chấp giữa hai bên. Những điều đó ảnh hưởng đến xã hội, đến văn hóa
của cả vùng. Sau khi Nguyễn Ánh thắng Tây Sơn, Nghệ Tĩnh ở vào một tình thế đặc
biệt. Nó là “đất căn bản” của vua Lê chúa Trịnh, lại là kinh đô của Nguyễn Huệ
nên đối với triều đại mới nó bị coi là đất phản nghịch không được tin cậy. Dưới
thời Tự Đức, trước đường lối đầu hàng của vua tôi nhà Nguyễn, văn thân Nghệ
Tĩnh đã dâng biểu cho nhà vua từng điểm một, bác bỏ những ý kiến trong thánh
chỉ (!) ngang nhiên chê triều đình “giá ngự không đúng đường” “không biết dựa
vào lợi đất”, “không biết dựa vào sức người”, đại thần thì gian nịnh bán nước
như Tân Cối, Giả Tự Đạo, vua thì “theo tà loạn chính” “quý rẻ âm dương”. Tự Đức
biện bạch “Người phá giặc Ân ở Vũ Ninh là Đổng Thiên Vương đến nay đã vắng;
Người bắt giặc Nguyên ở sông Bạch Đằng là Trần Hưng Đạo, bây giờ còn đâu. Thánh
Tản Vien không còn nữa, ai vì ta hát khúc khải hoàn; Nữ thần Cát bà cũng vắng
biệt, ai vì ta dâng cáo Bình Ngô. Ví
bằng đánh mà không thể thắng được, chẳng thà không đánh còn hơn” (Chiếu Tự Đức dụ văn thân Nghệ Tĩnh,
VNYN, 417).
Bài biểu của văn thân bốn tỉnh vùng
Nghệ An đáp lại: “Đổng Thiên Vương đã mất, nhưng trong thiên hạ thiếu gì người
như Đổng Thiên Vương; Trần Hưng Đạo đi đâu, chứ trong thiên hạ còn nhiều người
như Trần Hưng Đạo. Thánh Tản Viên không ở đây, nhưng sáu thao ba lược rất nhiều
bậc làm tướng có tài; Thần nữ Cát bà đã vắng rồi nhưng bốn chính tám kỳ, không
hiếm người cầm quân dũng cảm”. Không những họ đã vạch ra sai lầm của vua chúa
và triều đình mọt cách khá phạm thượng mà cuối cùng, bất chấp cả lệnh của triều
đình, họ đã nổi lên “bình Tây sát tả” gây thành phong trào hai năm Tuất mà Phan
Bội Châu không những nhiệt liệt ca tụng mà bản thân bằng cách của mình cũng đã
trực tiếp tham gia.
Sau khi nước mất, phong trào chống
Pháp ở Nghệ Tĩnh là phong trào sâu rộng và kéo dài lâu hơn cả. Dưới sự lãnh đạo
của Nguyễn Xuân Ôn rồi Phan Đình Phùng, huyện nào cũng lập quân thứ, có tổ chức
kháng chiến. Sau khi Phan Đình Phùng mất, phong trào chống Pháp vẫn dai dẳng.
Nhiều người bỏ vào núi hay đi sang địa phương khác, sống ngoài vòng pháp luật,
đi về bí mật như những kẻ du hiệp. Những người khác chống một cách tiêu cực:
không làm cho Pháp, không học chữ Pháp (đến cả chữ Quốc ngữ), không dùng đồ
Pháp (cho đến cả xà phòng). Tinh thần yêu nước và họat động chống Pháp vẫn phát
triển liên tục cho đến Cách mạng tháng Tám. Con đường rừng núi sang Lào sang Xiêm, mà sự ngheo đói và sự khủng bố
của quân thù vạch ra cho họ, trở thành con đường mòn, có sẵn nhà người đồng
hương làm chỗ tạm trú ngụ, không ngớt đưa nhiều người trẻ tuổi theo vết chân
Phan Bội Châu, rồi theo vết chân Hồ Chủ Tịch ra nước ngoài. Nghệ Tĩnh đã cung
cấp cho đất nước những đứa con ưu tú: lớp trước có Phan Bội Châu, Đặng Thái
Thân, Đặng Thúc Hứa, Hoàng Trọng Mậu, Trần Hữu Lực… mà lớp sau có Hồ Chí Minh,
Hồ Tùng Mậu, Trần Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Hà Huy Tập, Phan
Đăng Lưu… Do tinh thần đấu tranh dai dẳng như thế, chính quyền thực dân có lúc
đã phải cấm người Nghệ Tĩnh đi lại cư trú ở tỉnh khác, có tên tay sai đã đề
nghị triệt hạ, làm cỏ cả tỉnh với một lý do khét tiếng: “Có thêm hai tỉnh Nghệ
Tĩnh nhà nước cũng không giàu thêm, không có hai tỉnh Nghệ Tĩnh nhà nước cũng
không nghèo thêm” (Hữu Nghệ Tĩnh bất phú, vô Nghệ Tĩnh bất bần). Những điều ta
nói trên là chung cho nghẹ Tĩnh nhưng lại tập trung ở một vùng dưới chân núi
Hồng Lĩnh, hai bên bờ hạ lưu sông Lam – quê hương của Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Du,
Nguyễn Thiếp, Nguyễn Công Trứ, Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh và tất cả những người
ta đã kể tên. Đó cũng là những việc xảy ra về thời gian không cách xa Phan Bội
Châu bao nhiêu, ảnh hưởng đến Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng Phan Bội Châu.
Điều kiện tự nhiên lịch sử và xã hội
đó ảnh hưởng đến con người. Đặng Thai Mai nói: “Người Nghẹ Tĩnh can đảm đến sơ
suất, cần cù đến liều lĩnh, kiên quyết đến khó khăn, tằn tiện đến cá gỗ”. Tính
cách địa phương của con người chịu ảnh hưởng nhiều của điều kiện kinh tế, của
tình hình đấu tranh xã hội, của lịch sử. Trong lịch sử người Nghệ Tĩnh có những
người ngang tàn thị tài kiểu Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Công Trứ, có những người
coi thường công danh cả các triều vua như Nguyễn Thiếp, có người chống triều
đình như Hoàng Phan Thái, Trần Tấn, Đỗ Như mai… Ở đó có lính Tam phủ bỏ chúa
lập vua gây thành loạn kiêu binh, có đấu tranh hào hộ rất dai dẳng mà không có
nông dân khởi nghĩa. Tuy tác giả Hoa Tiên, Truyện Kiều, Mai đình mộng ký đều
quê ở Nghệ Tĩnh, Nghệ Tĩnh lại nổi tiếng là đất văn vật nhưng thanh lịch không
thuộc tính chất người Nghệ Tĩnh, Nghệ Tĩnh không phải là đất đẻ ra những nhà
Nho tài tử hào hoa phong nhã. Cái tiêu biểu của người Nghệ Tĩnh là chó khí,
nghị lực, gan góc, giỏi chịu đựng, ngang tàn không chịu ràng buộc đến ngang
bướng. Là dân xứ nghèo, họ phải sống rất tằn tiện, nhưng trọng danh dự, giàu
tín nghĩa, nên đối với bà con, làng xóm, khách khứa, bè bạn, nhất là đối với
việc nước việc dân họ lại trọng nghĩa, hào hiệp, rộng rãi dễ coi thường tài sản
tính mạng.
Phan Bội Châu là con đẻ của quê hương
ông, kết tinh nhiều đức tính mà cũng mang những nhược điểm, hạn chế của quê
hương ông.
Ông là một
nhà Nho nghèo. Cha ông là thầy đồ. Lúc nhỏ, mới 6 tuổi, ông đã theo cha đến ăn
ở và đi học tại nhà chủ, thiếu giấy ông phải dùng lá chuối để chép bài học. 18
tuổi thì bản thân ông cũng đi làm thầy đồ để tự nuôi thân; nhà nghèo có khi ông
phải giấu bớt cơm để đưa về cho em. Phan Bội Châu là nhà nho hay chữ, nổi tiếng
về văn chương cử tử, là một danh sĩ nhưng đồng thời cũng là người sống gần gũi
nông dân, xuề xòa, dễ dãi, hay đi hát phường vải, hát dặm. Ông có sẵn cơ sở
hiểu biết lời ăn tiếng nói, điệu hát câu ca của nhân dân để kết hợp với văn
chương bác học, dùng làm vũ khí tuyên truyền cổ động cách mạng. Do những hoạt
động yêu nước hồi còn rất trẻ, do nổi tiếng, do tính cách con người, Phan Bội
Châu từ rất sớm đã có quan hệ gần gũi với những người “lục lâm giang hồ”, những
người chống Pháp có võ nghệ, sống bí mật bất hợp pháp, hành động táo bạo, không
gò bó theo khuôn phép và rất thông thạo đường sá, rất thông thạo rừng núi.
Những người lục lâm giang hồ đó tập hợp dần quanh Phan Bội Châu ngay từ khi ông
chưa xuất dương, đã thành người bảo vệ và giúp đỡ ông rất đắc lực. Hoàn cảnh đó
làm cho Phan Bội Châu, tuy là nho sĩ, văn sĩ mà lại có khả năng hiểu biết và
tập hợp được các võ sĩ, hiệp sĩ để đi theo con đường đấu tranh võ trang, đấu
tranh bí mật, là điều mà những nhà nho trước ông hay đồng thời với ông ở các
nơi khác và ngay cả ở Nghệ Tĩnh khó làm nổi.
Màu sắc địa
phương và cả cá tính đó của Phan Bội Châu không những khá đậm trong nội dung và
nghệ thuật thơ phú của ông mà cả trong cảm hứng truyện ngắn, tiểu thuyết của
ông nữa.
3. Chịu ảnh hưởng thời đại: nhà nho thành nhà
chính trị, nhà văn
Chỉ có tính
địa phương và cá tính không giải thích được con người, cuộc đời và sáng tác văn
học của Phan Bội Châu. Phan Bội Châu sống trong một thời đại đang đổi thay
nhiều và vì vậy ông cũng đổi thay khá nhiều lần. Từ là một nhà nho chính thống,
ông đã trở thành một người hoạt động cứu nước, một nhà hoạt động chính trị, từ
là một nhà hoạt động chính trị ông thành một nhà văn. Nhà văn Phan Bội Châu đã
thuộc loại khác so với các nhà nho làm thơ, viết văn lớp trước. Hơn thế nữa,
trong thời gian Phan Bội Châu hoạt động chính trị và viết văn, nhiều nhà nho
khác cũng thành nhà yêu nước, nhiều nhà nho khác cũng trở thành nhà văn, nhưng
con đường thành nhà văn của Phan Bội Châu cũng đã không giống con đường của
nhiều nhà nho lúc đó. Thời đại, hoàn cảnh cụ thể khá độc đáo quy định, để lại
dấu vết sâu sắc trong những chặng đường viết văn của ông.
Từ là người
học trò hay chữ, đậu đầu xứ cho đến đậu giải nguyên và nếu không vì lợi dụng
thời gian thi để đi lại hoạt động chuẩn bị thành lập tân đảng, ông cũng có thể
đậu đại khoa, từ viết hịch, lập thí sinh quân đến âm mưu tập kích thành Nghệ
An, Phan Bội Châu tuy đã bộc lộ tư tưởng yêu nước, tính cách xông xáo khá cao
nhưng vẫn nằm trong khả năng phát triển của một nhà nho như những nhà nho yêu
nước cuói thế kỷ trước. Nhưng việc ông gặp Nguyễn Thượng Hiền, đọc Tân thư, mở
tầm mắt nhìn ra tư tưởng dân chủ của thời đại, rồi lại gặp Nguyễn Hàm nhìn ra
phương hướng ổ chức chống Pháp với quy mô toàn quốc đi đến viết Lưu cầu huyết lệ tân thư, dùng hình thức
tổ chức chính đảng, lập Duy tân hội, Phan Bội Châu đã đi vào con đường hoạt
động như một chính khách thuộc phạm trù tư sản. Đó là một đổi thay quan trọng
hoàn toàn nằm ngoài quy luật phát triển của nhà Nho.
Trên cương
vị lãnh tụ chính đảng, ông xuất dương, hoạt động về ngoại giao, về tuyên truyền
cổ động, về tổ chức… những công việc ngoài văn học của ông là hoàn toàn mới mẻ
và văn chương ông viết lúc đó: các thư ngoại giao, những lời kêu gọi, chính
cương, sách biên khảo tuy vẫn viết theo quan niệm văn học nhà nho và nghệ thuật
còn chịu ảnh hưởng văn xuôi cũ khá nặng nhưng thể loại đã ra ngoài khuôn khổ
văn chương nhà nho. Trong một giai đoạn đầu, hoạt động văn học của ông không
tách khỏi họat động chính trị của ông, người chính khách và nhà văn trong ông
chỉ là một, nói cách khác ông là nhà chính trị của thời đại mới, làm văn như
một nhà nho, chứ không phải là nhà chính trị viết như một văn nghệ sĩ.
Sau khi từ
nhà tù Long Tế Quang ra, sau một vài cố gắng nhen nhóm lại phong trào mà không
có kết quả, xung quanh ông vẫn có một số đồng chí, nhưng đảng cách mạng thực té
đã tan rã không họat động gì được. Phan Bội Châu phải kiếm kế sinh nhai bằng
nghề “bán chữ”, viết bài gửi đăng các báo Trung Quốc, Đông Á tân văn ở Bắc
Kinh, Binh sự tạp chí ở Hàng Châu và từ năm 1922 trong một thời gian dài 3 năm
4 tháng ông làm biên tập viên cho tạp chí đó. Trong Phan Bội Châu niên biểu, ông nói: “Hàng Châu đã thành cửa hiệu buôn
văn bán chữ của tôi, những cột “thời bình”, “xã luận”, “tiểu thuyết” trong tạp
chí này đều do tôi viết cả… Tôi lại thành ra một nhà tiểu thuyết” (trang 193).
Viết báo,
viết tiểu thuyết như thế, tuy ông cũng tự an ủi là “có thể” lợi dụng để “phát
huy được tinh thần cách mạng thế giới, có thể đem lý luận sắc bén để bóc trần
chính sách hại dân của bọn đế quốc” và viết được một số bài “cực lực công kích
chính sách giặc Pháp”, nhưng ông vẫn coi đó là chuyện “vì người ta may áo lấy
chồng vẫn không phải là ý muốn của mình (PBCNB, trang 193). Dầu sao trong việc
viết báo, viết tiểu thuyết đó, tự nhiên hoặc vì bắt buộc, ông phải tách người
vưan nghệ sĩ khỏi nhà chính khách, chú ý đến những điều mà nhà văn - chứ không
phải nhà chính trị - trong ông phải chú ý đến. Đây là văn nghệ của thời đại mới
chứ không phải là văn chương như trước. Cho đến khi bị giam lỏng ở Bến Ngự,
không có hoàn cảnh để hoạt động chính trị, dần dần xa lạ với phong trào cách
mạng đã đi theo hướng mới ở trong nước, ông vẫn làm nhiều thơ, phú, văn tế và
viết mấy truyện ngắn gửi đăng báo. Trong suy nghĩ của ông những cái ông viết đó
đều nhằm thức tỉnh nhân dân làm cho mọi người nghĩ đến nước, yêu nước, cứu nước,
nhưng ông không còn là nhà chính trị lãnh tụ của quần chúng, đại diện cho một
chính đảng mà chỉ là một văn nghệ sĩ yêu nước và tác phẩm của ông rõ ràng hướng
dần đến viết theo yêu cầu của cái đẹp nghệ thuật.
Phan Bội
Châu tiêu biểu cho phong trào và con người Nghệ Tĩnh, và vì là tiêu biểu cho
một địa phương có phong trào chống Pháp mạnh nhất cho nên có khả năng liên kết
các nhà nho nơi khác, nhân dân tỉnh khác, liên kết phong trào Nam Trung Bắc trở
thành “dấu hiệu cao cả tập hợp mọi lực lượng chống thực dân Pháp trong nước”
(Đặng Thai Mai, tr. 96) đối với lịch sử nước ta đầu thế kỷ này “trước Hồ Chí
Minh, Phan Bội Châu là nhân vật vĩ đại” (Tôn Quang Phiệt).
Về mặt văn
học, giáo sư Đặng Thai Mai nhận xét: “Có lẽ từ xưa đến nay trong văn học Việt
Nam chưa có nhà văn nào đã chịu khó và có gan đem ngòi bút ra thử thách trên
nhiều loại văn khác nhau như Sào Nam”. Đầu thế kỷ XX Phan Bội Châu cũng là nhà
văn lớn nhất.
Con đường
trở thành nhà văn của Phan Bội Châu là con đường đặc biệt do hoàn cảnh tạo ra.
Thời đại, cương vị hoạt động cách mạng và địa điểm có ý nghĩa rất lớn. Ông
không có ý thức làm một nhà văn như một số nhà nho khác. Vì cương vị, vì hoàn
cảnh, ông chuyển dần thành nhà văn của thời đại mới. Nhưng ông lại không biết
ngôn ngữ châu Âu, ngôn ngữ của những nền văn học hiện đại, không dọc được các
tác phẩm văn học hiện đại. Ông ở Trung Quốc chứ không ở Pháp hay Liên Xô, quê
hương của những nền văn học phát triển cao. Quan niệm văn học của ông vẫn là
quan niệm cũ của nhà nho: văn học truyền đạt giáo huấn ký ngụ chứ không phải
phản ánh, có ích chứ không phải đẹp. Nhưng cũng như Nguyễn Du khi viết Truyện
Kiều, dầu đã để hết tâm hồn viêt snên áng văn chương bất hủ, vẫn coi đó là văn
mua vui, Phan Bội Châu khi viết một số truyện ngắn, tiểu thuyết vẫn thanh minh
“mục đích cốt để kiếm ăn, chứ khong phải bài vở”, ông chỉ coi mọt số tài liệu
tuyên truyền viết lúc đó là “tác phẩm đáng kể”. Những tác phẩm không đáng kể
của ôn đã đưa ông sang hàng ngũ văn nghệ tuy không phải có điều đó mới làm ông
vinh quang.
Phan Bội
Châu là một nhân vật của giai đoạn giao thời và tiêu biểu nhất cho giai đoạn
giao thời ấy. Tư tưởng chính trị của ông thay đổi luôn luôn theo thời đại mà
sáng tác văn học của ông cũng thay đổi luôn theo thời đại. Chú ý đúng mức đến
tính chất giao thời, đến sự thay đổi liên tiếp như thế, không những làm cho ta
hiểu và đánh giá đúng Phan Bội Châu hơn mà hiểu đúng Phan Bội Châu trong sự đổi
thay lại giúp ta hiểu cả giai đoạn lịch sử đó ở Việt Nam hơn nữa.
II. NGƯỜI
HÀO KIỆT TỰ NHIỆM VÀ CÁI HÙNG TRÁNG TRONG VĂN CHƯƠNG CỬ TỬ
Phan Bội
Châu thử thách ngòi bút mình trên nhiều thể loại văn học nhưng tài năng của ông
bắt đầu, gắn bó, chịu ảnh hưởng nghệ thuật văn chương cử tử là thứ văn chương
ông rèn luyện rất công phu.
Phan Bội
Châu nổi tiếng là nhà nho hay chữ, tỏ ra có biệt tài làm văn chương cử tử,
nhưng đối với nó, thái độ của ông có mâu thuẫn. Từ trẻ ông đã không muốn làm
người tầm thường, lập thân bằng sự nghiệp văn chương. Ông thích ngâm hai câu
thơ của Viên Mai:
Túc dạ bất vong duy trúc bạch
Lập thân tối hạ thị văn chương
Mà ông tạm
dịch:
Khuya sớm nhưng mong ghi sử sách
Lập thân hèn nhất ấy vưn chương
Về sau khi
đọc Tân thư, thấy cái nguy hại của “nọc độc khoa cử”, ông càng chán ghét nó.
Thế nhưng vào thời đó không có chút danh vọng thì khó ăn nói với đời, khó làm
nên việc, nên ông phải cố công dùi mài kinh sử, chạy vạy, quyết thi đậu và đậu
Giải nguyên. Đậu Giải nguyên trường Nghệ là một vinh dự khá lớn, thế nhưng ông
lại coi đó là điều thẹn thùng xấu hổ (xem câu đối tự mừng khi thi đỗ). Là học
trò đi thi, ông cứ phải tập luyện làm văn, là thầy đồ dạy học cứ phải dạy dỗ
rèn luyện cho học trò làm văn. Đeo đuổi văn chương cử tử quá nửa đời người, nó
thành một cái tôi thứ hai của ông, cho nên về sau đầu là viêt sthơ văn tuyên
truyền cứu nước hay viết truyện ngắn, tiểu thuyết, ông cũng khó thoát khỏi ảnh
hưởng của nó.
Văn cử tử
gồm thơ, phú, kinh nghĩa, văn sách, tứ lục. Đó là thứ thơ và văn xuôi điển
phạm, chính thống. Triều đình dùng nó để lựa chọn nhân tài trong các khoa thi.
Người đi học ngày xưa phải học, phải tập, phải luyện nghề văn chương đó từ nhỏ
cho đến già. Văn cử tử là một thứ “văn chương nhai bã mía”, sáo rỗng, chỉ xào
xáo những lời cũ để nói những ý xưa. Người làm văn phải viết về những người,
những việc, những ý kiến có sẵn trong sử sách, phải theo luật lệ về vần, điệu,
bố cục, phải phô diễn bằng những điển tích. Đó là một thứ văn chương gò bó sự
sáng tạo, không những gò bó vì đề tài, lệ luật, điển tích đã có sẵn, mà còn vì
thái độ khen chê của người viết cũng đã có sắn: ý kiến phải theo đúng đạo lý
thánh hiền, theo đúng cương vị của lễ, theo đúng thái độ của triều đình và cả
của quan trường chấm bài. Người viết chỉ là người thợ chạm trổ đẽo gọt. Cái hay
của văn chương cử tử là ở kỹ xảo, chứ không phải ở cảm xúc, tư tưởng. Tư tưởng,
tình cảm của người viết chỉ có thẻ bộc lộ một cách rất khó khăn, gián tiếp, hạn
chế qua việc giải thích, phẩm bình và cũng chỉ ở trong một số thể loại nhất
định. Trong những điều kiện khắt khe như vậy không phải Phan Bội Châu không làm
cho văn cử tử của mình có sắc thái riêng. Nhiều bài phú của ông như bài Hồ thượng khóa lư (Cưỡi lừa chơi trên
hồ), Hiệp Thái sơn khiêu Bắc hải (Cắp
núi Thái sơn nhảy qua Bắc hải), Trương
Lương từ Hán quy Hàn (Trương Lương từ giã vua Hán để về Hàn)… không những
nổi tiếng về mặt kỹ xảo văn chương mà cũng có tác động kích thích lòng người
không nhỏ. Hiện nay ta chưa sưu tập được nhiều văn cử tử của ông. Những bài đó
có ý nghĩa về mặt vưn học sử không phải vì nội dung, không phải vì kỹ xảo “hay
chữ” mà vì nó liên quan đến sự hình thành tài năng văn chương của ông, vì nó là
khâu chuyển tiếp phản ánh quá trình văn học giai đoạn mới thoát thai từ nền văn
chương chính thống nhất của xã hội phong kiến, không những của riêng Phan Bội
Châu mà của nhiều nhà nho yêu nước khác.
Giữa hai
thế kỷ XIX và XX khi cả dân tộc thất bại đau đớn trước những kẻ “mọi rợ phương
Tây”, nhiều nhà nho đã bắt đầu nghi ngờ đạo lý thánh hiền. Tư tưởng khá phổ
biến trong các nhà Nho là thấy cần con người anh hùng có tài hơn người; thánh
hiền chỉ có đức, cần người tự nhiệm hành động hơn là những người khiêm cẩn phục
tùng. Lời than thở thẹn thùng của Phan Đình Phùng, lời tự trào đau xót của
Nguyễn Khuyến, dư luận đề cao Ông Ích Khiêm, Nguyễn Công Trứ đều là nói cái tâm
lý chung đó. Không phải người ra đưa một con người mới ra để đối lập, bài xích
con người cũ. Trong sự nhục nhã đau đớn của cảnh mát nước, để phê phán hành vi
ươn hèn, phản bội hay để bộc lộ ước mong cứu nước, giải phóng người ta vẫn còn
nghĩ đến con người có đức, con người chức năng. Văn chương vẫn nhắm treo gương,
phẩm bình. Chỉ chỗ nhấn mạnh là khác trước. Đây chưa phải là lúc vượt ra ngoài
ranh giới của Nho giáo, nhưng ta đã thấy một bước đi về phía ranh giới, tìm đến
ngả đường khác.
Văn chương
Phan Bội Châu - nhất là phúc và thơ - cuối thế kỷ trước phản ánh quá trình biển
chuyển từ nhà nho trung nghĩa sáng người hào hiệp anh hùng, vì đại nghĩa chuyển
dần thành người chí sĩ tự đảm đương lấy việc cứu dân, cứu nước, xa dần con
người thánh hiền.
Là một
người học đến thấm nhuần sâu sắc kinh truyện, sử sách, lại sống trong phong
trào cần vương ở Nghệ Tĩnh, Phan Bội Châu có hoài bão tha thiết làm người trung
nghĩa. Điều đó không những chỉ biểu lộ trong việc ông viết hịch Bình Tây thu Bắc và Song tuất lục mà ngay cả trong các bài phú làm trong nhà trường,
làm trong các kỳ thi, hễ có dịp là ông lại ca tụng những người trung nghĩa một
cách say sưa. Ông đặc biệt đề cao những người anh hùng hy sinh để cứu vua, cứu
nước trong những hoàn cảnh gian nguy. Đối với người ẩn dật ông cũng đề cao
nhưng thường khai thác khía cạnh kiên cường, vì chính nghĩa và tâm trạng bất
đắc dĩ phải ẩn dật. Theo cách nhìn truyền thống hai mẫu người trung nghĩa và ẩn
dật, hợp với đạo nghĩa như vậy, đều là những tấm gương cho kẻ sĩ quân tử, xưa
nay sử sách đều đề cao. Trong hoàn cảnh mất nước cuối thế kỷ trước, vì vua
chống Pháp mà hy sinh hay bỏ quan mà về đều là không chịu hàng giặc, đều là
hành động cao cả. Về sau, Phan Bội Châu đọc tân thư, có tư tưởng dân chủ. Ông
coi nước là của dân, kịch liệt lên án triều đình nhà Nguyễn đầu hàng, nhưng lúc
đầu vẫn chưa có sự phân biệt giữa người thần tử vì vua cứu nước với người dân
chủ vì nước mà chống vua quan. Sự lẫn lộn giữa yêu nước và trung nghĩa, vì đều
có hành động cứu nước và đều hy sinh như thế, còn tiếp tục ở ông trong một thời
gian khá dài. Ngay cả khi ông đã xuất dương năm 1907 viết Sùng bái giai nhân, không những ông ca tụng Tô Vũ, Trương Tuần,
Nhạc Phi, Văn Thiên Tường, Tô Dịch là những người anh hùng chống ngoại xâm mà
ông ca tụng cả Dự Nhượng, Ngũ Tử Tư, Trương Lương, Dịch Nhân Kiệt là những
người tôi trung chỉ của một dòng họ. Đối với ông trung với chúa, trung với nước
hay kiên trinh cao khiết đều là hào kiệt, đều là những người có tài, có chí, có
tâm vì đời và đều biết hy sinh mình vì đại nghĩa. Cũng có lúc người hào kiệt
gặp cảnh vua kém, triều đình đầy gian nịnh phải rút lui về ẩn dật; Phan Bội
Châu thường hình dung ở họ một tâm trạng đau xót, bất đắc dĩ phải xa lánh cuộc
đời.
Trong bài
phú Hồ thượng khóa lư (Cưỡi lừa chơi
trên hồ) nói về việc Hàn Thế Trung, một danh tướng cuối đời Tống, đánh Kim đang
thắng to mà phải theo chủ trương nghị hòa của Tần Cối rút quân về, để đất nước
rơi vào tay giặc và tự mình lui về sống cảnh ung dung cưỡi lừa dạo ben Tây Hồ ở
Hàng Châu.
“Giẫm tàn
lá súng hoa sen, tháng bảy Đông Pha chơi phiếm. Sẵn có hương mai bóng trúc, ba
đông Lý Tĩnh ngao du.
Mặc cho
tuyết phủ Bá Kiên, chỉ biết lòng ta như Trịnh Phổ.
Hãy cứ cưỡi
theo Mặc Thuật, yêu nó vì mặt tựa Tử Du”
(Hồ thượng khóa lư, Bản dịch của Đỗ Ngọc
Toại)
Tây Hồ là
cảnh đẹp nổi tiếng. Người cưỡi lừa được mô tả rất nhàn nhã ung dung. Nhưng
người anh hùng “đã từng phen trướng hổ đàm binh, trên yên rong ruổi; lại học
lối ông chài cao hứng, suốt buổi nghênh ngang” ấy khong tự hào về công trạng,
tài năng, không say mê gì cảnh đẹp. Tâm sự của ông là một tâm sự đau xót:
“Chí phục
thù canh cánh mang theo, phụ với mười năm tâm sự. Cơ trí chỉ mắn may biết sớm,
lưu làm muôn thuở kỳ quan”
Trong bải
phú Phù hải (Vượt biển) nói về việc
Khổng Tử bực mình vì đời không biết dùng mình nen than thở muốn cưỡi bè ra biển
ở. Phan Bội Châu hình dung “thánh nhân” lòng đã chán ngán
“Đạo không
dùng được, nước trôi xuôi, khó với Đường Ngu.
Lo thời
tránh xa, xe quanh quẩn, mê chi Vệ Tống”.
Đối với
việc đời, ngài cũng đã hết hy vọng, và thái độ cũng khá thây kệ buông xuôi.
“Khắc khoải
tự lòng ta tới biển thì dặm khỏi chi quản. Tênh tênh xa cõi tục, buông bè mà
cặp bến không lâu.
Không lo
lẫn sóng với bùn bàn chi khua khuấy; chẳng tính nên buông hay vén, mặc kệ nông
sâu”
Nhưng tấm
lòng của kẻ “những chắc tấm thân Giang Hán, có thể đem đạo để vớt đời không may
gặp buổi tối tăm, đời không ai biết trọng dụng” cũng không thể đành lòng ẩn
dật. Khổng Tử có an tâm vui vẻ đâu được trong cái cảnh “Tăng Sâm nằm già ở Tây
hà”, “Tăng Điểm tắm mát ở sông nghi”.
Trước hai
thái độ mà nhà nho chính thống đều coi là chính đáng thì Phan Bội Châu phát huy
tư tưởng nhập thế, vì đời. Ẩn dật dầu là cảnh của Khổng Tử, Trình Chu, Tư Mã
Quang hay Phạm Lãi, Hàn Thế Trung cũng đều là có chỗ bất đắc dĩ, có mang nỗi
đau xót. Ca tụng thú ẩn dật, nói cái say mê của cuộc sống nhàn tản, cuồng
phóng, ca tụng cái đẹp tinh tế của hoa cỏ, cảnh vật hay cái tươi tắn sinh động
tình tứ của thiên nhiên đều không phải là sở trường của Phan Bội Châu. Không
phải chỉ ở trong thể phú và văn trường ốc mà ngay cả trong thơ viết tự do, ta
cũng nhân ra điều đó.
Lên chơi
núi Đại Huệ, một hòn núi cao ở quê hương ông, Phan Bội Châu viết:
Ngã vị đăng sơn thì
Chúng sơn dữ ngã tề
Ngã ký đăng sơn thì
Ngã thị chúng sơn đê.
Dịch:
Ta chưa lên đỉnh núi kia
Núi non bao bọc tứ bè ngang vai
Ta lên trên đỉnh kia rồi
Non xanh trăm ngọn ngó xuôi lè tè.
Trong tâm
tư, Phan Bội Châu luôn bị ám ảnh bởi hình ảnh người hào kiệt. Hào kiệt là người
không tầm thường, hơn người, khác những người xung quanh có thể về đức, vì tài
hay vì công nghiệp. Hào kiệt bao gồm cả thánh hiền và anh hùng. Tùy theo sự đòi
hỏi của thời đại mà người hào kiệt được hình dung theo hướng người thánh hiền
có đức hay anh hùng có tài. Người hào kiệt mà Phan Bội Châu ấp ủ hồi trẻ còn
mang tư tưởng trung nghĩa nên chưa tìm phân biệt với người thánh hiền. Tuy
nhiên sắc thái đã khác trước. Thánh hiền, xét về mặt phẩm chất đạo đức hay
trung nghĩa, xét về mặt kết quả hành động là người, tuy cùng đem hết tâm trí
tài năng ra làm việc đời, nhưng họ hành động theo chức năng, cương vị, theo đạo
lý. Họ cũng cần tài trí, họ cũng tính toán, nhưng tài trí tính toán là để thực
hiện mệnh vua mệnh trời giữ đúng đạo lý. Họ vì nghĩa chứ không thị tài. Họ có
cá tính rõ rệt, rất tự hào về mình nhưng hành động không lấy bản thân làm xuất
phát điểm, không lấy cá nhân làm trung tâm. Trong xã hội phong kiến nó đối lập
với cái đa tình, cái thị tài của người tài tử. Người hào kiệt của Phan Bội Châu
đã có khác loại thành hiền như vậy. Người hào kiệt ở đây vì nghĩa mà cũng thị
tài. Nó cá nhân hơn, có ý thức về mình, tự hào về tài trí tuy rằng nó vẫn khác
hẳn người tài tử trong quan niệm về cuộc đời.
Phạm Lãi
trong bài phú: “Cộng biến chu du Ngũ hồ” (Cùng chiếc thuyền nhỏ chơi ở Ngũ hồ),
khi đã giúp Ngô phá Việt, làm xong sự nghiệp, cùng Tây Thi dong thuyền chơi
trên hồ.
Rỗi rãi
mà sông Ngô đưa mắt ngó, oán hờn êm bao lớp sóng cồn; mệt nhoài mà bến Việt
ngảnh đều trông, giận dữ sạch hai mươi năm nước cả.
… Sóng vỗ
mà tỉnh giấc được thua, chi bằng nằm khểnh;
Bến dốc
mà sạch lòng được mất, rót nữa kỳ say.
Không thể
nói với ai, cảnh ấy mà người chơi ấy;
Kể gì
sông nước nhỉ, người này mà ý tứ này”
Trương
Lương trong bài: “ Trương Lương từ Hán quy Hàn” (Trương Lương cáo từ vua Hán để
về Hàn) làm mưu thân giúp Lưu Bang đã dùng sức Hán diệt được Tần, trả xong thù nhà,
nợ nước nhân lúc nước Hàn vừa khôi phục, cháu vua Hàn mới lên ngôi, từ dã Lưu
Bang để trở về với chủ cũ đã suy nghĩ:
“Giận
oa sinh nay đã thỏa rồi
Lòng
tái tạo bắt đầu từ đây”
Đi một
bước tình sâu như bể, chàng Lưu Bang chưa hẳn biết ta; gẫm tương lai việc lớn
tày trời, khách Ba Thục sao ngăn được tớ.
Ví thử
giúp Hàn có lúc, lấy Trung Nguyên không phụ lòng xưa; Cần chi về Hán sau này,
sắp kế hoạch còn phiền bày vẽ (Tôn Quan Phiệt dịch).
Đối với
người hào kiệt như vậy, nước Ngô nước Việt, vua Hán vua Hàn tuy vẫn có những
quan hệ phải giải quyết theo đạo nghĩa nhưng đó cũng là những vật, những chỗ,
những tình huống cho họ trở tài thu xếp sắp đặt. Tài trí không chỉ là hiêu biết
mà là cơ mưu. Họ cũng còn hành động theo phận sự nhưng phận sự đó biến thành
suy nghĩ, tình cảm riêng, thành những nỗi giận lớn, mối thù lớn, tính toán lớn
của riêng họ, mà họ nung nấu nuôi dưỡng trong lòng hàng chục năm. Người hào
kiệt tự nhiệm, tự tin đứng trên cao, hành động theo chí lớn của mình. Nét đặc
sắc của họ không phải là những tim gan trung nghĩa vằng vặc như mặt trăng mặt
trời mà là những hoài bão lớn, mưu đồ sâu sắc ít người hiểu nổi. Họ là những cá
nhân – không phải cá nhân chủ nghĩa tư sản nhưng không còn chỉ là cha, là con,
là vua, là tôi nữa. Hình tượng người hào kiệt như vậy hình thành dần trong văn
chương cử tử của Phan Bội Châu. Về loại bài phú “Bái thạch vi huynh” có một ý
nghĩa đặc biệt. Không phải chỉ về nội dung , nghệ thuật mà cả về dụng ý, tác
động có ý nghĩa lịch sử đối với phong trào cách mạng lúc đó.
Năm 1897 Phan Bội Châu vào Huế, tìm nơi
dạy học, kiếm cớ làm quen để tổ chức thêm đồng chí. Nhân dịp Khiếu Năng Tĩnh,
lúc đó là Tế Tửu Quốc tử giám cho ra loại học trò làm bài phú với đầu đề là
“Bái thạch vi huynh” (Tôn đá làm anh). Phan Bội Châu không phải là cử nhân học
trường Giám nhưng cũng làm bài và nhờ Đặng Nguyên Cẩn nộp cho Khiếu Năng Tĩnh
chấm. Bài phú của Phan gây một tiếng vang rất lớn trong đám khoa bảng ở kinh đô
và có tác dụng tập hợp nhiều nhà Nho yêu nước lúc bấy giờ còn trẻ tuổi.
Chọn đề “Bái thạch vi huynh” là dựa vào
một tích cũ Mễ Phát (tức Nguyên Chương) thích đá lạ. Khi làm quan ở Nhu Tu,
nghe nói có đá lạ bên sông, ông sai người đem về lỵ sở, giải chiếu lạy và nói:
“Tôi mong gặp được gặp Thạch huynh đã 20 năm nay rồi!”.
Nội dung đề tài không thật điển hình
cho văn cử tử là thứ văn chương nặng mùi đạo học. Người làm bài phải mô tả,
giải thích việc người vái đá. Đá phải được nhân cách hóa, mang một tính cách và
sự việc vái đá, người vái đá phải giải thích tùy thuộc tính cách của đá. Có thể
có nhiều cách giải thích. Ví dụ: đá đi với suối là những nơi vắng vẻ thích hợp
với cảnh yên tĩnh nhàn tản. Đá đi với tùng là những vật cứng cỏi biểu tượng của
khí tiết. Đá là vật vô tình hình tượng của những đạo sĩ xuất thế. Nhưng Phan Bội Châu có dụng ý chọn
một hướng khác. Nhân đã mà nói chuyện Nữ Oa luyện đá vá trời, Tinh Vệ ngậm đã
lấp bể, lập những sự nghiệp vĩ đại vì dân vì đời. Để đạt dụng ý đó ông phải mô
tả hòn đá theo một tính khác, làm cho việc Mễ Nguyên Chương tôn đá làm anh có
liên quan đến chí vá trời lấp biển là điều không có sẵn trong ý Mễ Nguyên
Chương.
Phan Bội
Châu đã dùng được rất nhiều chữ nghĩa điển tích thật đắt, bám sát từng chữ
“bái”, “thạch”, “huynh”, đã mô tả phẩm chất siêu phàm của đá, mô tả cảnh đi
chơi gặp đá, cảnh vái đá, nỗi vui mừng quấn quít anh em, sự tương tác giữa đôi
bạn tri kỷ hết sức sinh động. Ông đã viết bằng lời văn mĩ lệ, bằng bút pháp
khoa trương, bằng âm điệu hùng tráng đặc biệt của thể phú. Theo tiêu chuẩn của
văn chương trường ốc nó thỏa mãn mọi tiêu chuẩn để ông nổi tiếng là “hay chữ
nhất nước” như dư luận lúc bấy giờ ca tụng ông. Ngày nay, quen với những tiêu
chuẩn thẩm mĩ mới, chúng ta khó thông cảm với cái kĩ xảo, gò gẫm điển tích để
thưởng thức cái hay của bài phú, nhưng vào thời gian 70 năm trước đây, lúc mọi
người rất quen thuộc với những cái đó thì bài phú đó là cả một bàn tiệc thịnh
soạn về ngôn ngữ. Vào thời đại người ta còn tin văn tức là người, còn tìm trong
văn chương khẩu khí của người viết, bài phú đó còn gây ảnh hưởng lớn ở một mặt
khác. Những điều đó có ý nghĩa lịch sử và tác động của bài phú làm cho nó đáng
chú ý trong văn học sử.
Khi mô tả
hòn đá để cho nó thành người (khả nhân) Phan Bội Châu viết:
Đá
là một vật, cao cao ngất ngất
Bậc
thái thượng vô tình; đấng trượng phu bất khuất,
Chống
trời làm trụ cương thường nêu suốt ngàn xưa
Ném
đất thành âm, văn bút vang lừng trời đất (1)
Đây là một nhân vật cứng rắn hiên
ngang, bất khuất vào cỡ người thái thượng nhân, đại trượng phu. Con người phi
thường nên cũng phải dùng những đơn vị phi thường về không gian, thời gian mà
hình dung nó.
Đoán xem bá thị ngày xưa, năm trăm năm
đâu là quê quán
Tính lại trường quân bao tuổi, mười hai
hội ấy là một nguyên.
Đây là hình ảnh một người hào kiệt phi
thường mà tâm lý chung lúc bấy giờ đang mong ước chờ đợi. Giữa cái cảnh thực tế
mọi người đang hoang mang, sống tủi nhục, trước áp lực, sự o ép của địch; cảnh
thất bại làm con người tự cảm thấy bé nhỏ, hèn kém, người ta cần đến con người
hào hùng, thèm khát cái kiên cường bất khuất. Trước âm hưởng thê lương của thơ
hoài cổ, người ta muốn nghe một giọng hùng tráng. Hình ảnh con người “đã bao
năm không uốn gối”, “thẳng vách trông cao muôn nhận” đáp ứng đúng đòi hỏi đó,
không những thế con người đó lại không phải là người kiêu ngạo vũ phu. Tuy là
cứng cỏi như vậy nhưng lại “há rằng không thể khom lưng” dầu là khom lưng trước
một vật bé nhỏ. Trước “cốt cách rắn rỏi”, trước “phong tư kỳ lạ” anh ta tỏ ra
biết người biết ta. Đó cũng là điều mà mọi người mong đợi. Thực tế chứng tỏ
không những con người văn nhược yếu đuối như vua tôi Tự Đức và cả các văn thần
đã thất bại mà con người chỉ có cái cứng cỏi vũ phu như loại Tôn Thất Thuyết,
Hoàng Kế Viêm cũng không làm được gì. Con người anh hùng đáp ứng được tình thế
phải là anh hùng thư kiếm, biết cứng, biết mềm, vừa dũng cảm, vừa cơ trí.
Bái
thạch vi huynh đưa ra một mẫu người như vậy. Đó
chính là giải đáp cho tâm sự “tướng môn những thẹn với anh hùng” của người
trung nghĩa thánh hiền.
Giữa cái cảnh tan tác rời rã, bước ra
khỏi nhà là thấy chuyện nhục nhã, hèn hạ, vì hèn nhát mà tráo trở, phản bội, vì
ích kỷ mà hết thủy chung, hết tình nghĩa thì sự đi lại, gặp gỡ giữa những người
“sương là lông, ngọc là tủy”, “tuyết là phách, băng là hồn” thật là đáng ao
ước. Đối với tình trạng tù túng bị o ép trong thực tế mà Nguyễn Thượng Hiền,
Nguyễn Khuyến đã nói đến thì cuộc sống tự do phóng khoáng thật có sức hấp dẫn.
Cho nên người ta say mê theo dõi cuộc đi chơi núi để tìm bè bạn.
Nguyệt lạc Thương giang
Vân đôi Hoàng thạch
…Tình lam phỏng, viễn trục đăng
Nhau sạ tiếp, thần hốt ngưng
Nham yêu tùng nhi tiệm khẩu
Sơn kiên tủng nhi vi lăng.
Trịch trượng thanh trung, hưởng minh
tuyền chi vạn điệp
Chỉnh y lậo xứ phi túc chướng chi thiên
tằng
Người ta say mê chia sẻ với Mễ Nguyên
Chương cái vui được gặp người tri kỷ. Tuy mới gặp hai bên đã rất thân thiết, ý
hợp tâm đầu:
Kéo áo dìu về, trước cửa bồi tọa
Đông hải ra vào. Bồng Lai hữu tả
Hoa mới phô màu năm sắc, người đã nên
người
Ngọc lành ngậm giá liên thành, giống ta
giống quá.
Cái vui mừng quấn quýt của hai anh em
lây sang mọi người, sự tin cậy, sự đầm ấm.
Bài phú chỉ ra một cái gì lớn lao đẹp
đẽ, lý tưởng đáng mơ ước, có sức an ủi, có sức lôi cuốn, có sức làm say mê.
Người nghe cảm thấy an tâm, tin tưởng, Phan chấn muốn sống một cuộc sống xứng
đáng. Nó làm nổi lên một âm điệu hùng tráng xua tan không khí bi lụy trong văn
chương lúc bấy giờ gây ra ấn tượng xuất hiện một thứ cột đá chống trời vững
chãi, thách thức.
Bài phú viết ra có mục đích tự giới
thiệu mà cũng có mục đích ướm hỏi, tìm bạn đồng tâm. Tác giả viết:
“Nay có kẻ: dọc ngang vũ trụ, chế nhạo
hồng trần.
Rửa bụng bằng tám chín đầm Vân mộng,
làm nhà dưới muôn vạn hác tùng quân”
Người đó ca tụng hòn đá, ca tụng hành
động vái đá là vì bản thân có tấm lòng “ba sinh lấp biển”, có sức “một mảnh vá
trời” và đã gặp ở đây một người đồng loại.
Bài phú hạn vận Thạch bất năng ngôn tín khả nhân, Phan Bội Châu bỏ vần “nhân” không
viết. Nhân là người. Bỏ vần nhân là nói không có người, thiếu người. Làm bài
phú, Phan Bội Châu có ý muốn khêu gợi, dò hỏi thái độ các nhà khoa bảng lúc ấy,
nhất là thái độ Nguyễn Thượng Hiền là nhà khoa giáp trẻ tuổi có tiếng tăm, nếu
tham gia cứu nước thì có ảnh hưởng rất lớn. Nguyễn Thượng Hiền lúc đó mới đỗ
Hoàng Giáp, đang ở Huế, thoái thác không chịu ra làm quan, nhưng vừa giao du
với những người có tâm huyết vừa say mê Đạo giáo, Phật giáo, thái độ có chỗ
chưa rõ rệt. Phan Bội Châu viết:
Chưa nhân trăng để cưỡi beo cọp, đầu
thuyền Xích Bích rong chơi
Hãy đón gió mát vái thần tiên, dưới núi
Cốc Thành nấn ná.
Tô Đông Pha say mê “kho gió giăng vô
tận” mà tìm đến ghềnh đá bên bờ sông Xích Bích mà Trương lương nuôi chí khôi
phục nước Hàn cũng bí mật học đạo thuật của Hoàng Thạch Công - thần đá. Cái bên
ngoài chưa rõ ràng hay là cái bên trong còn phân vân của Nguyễn Thượng Hiền
được đánh một dấu hỏi.
Phan Bội Châu nhờ Đặng Nguyên Cẩn đưa
bài phú cho Nguyễn Thượng Hiền. Đọc bài phú, Nguyễn Thượng Hiền trả lời bằng
một bài thơ:
Ông già Tương Đương tay thi bá,
Bình sinh có tính hay thích lạ,
Hai tay không vái cửa hầu môn,
Gò mình vào núi lạy viên đá.
Bài phú ai tiếng dậy lừng không,
Khâm hoài lỗi lạc cũng như ông;
Dời non lấp bể chí bình nhật,
Ngòi bút tuôn ra như cầu vồng.
Trời nghiêng, đất ngả dạ không đổi,
Ai cùng ông anh nằm trong núi?
Khí tiết cao thượng có thể vin
Duy cái ngoan ai học không nổi.
Ngậm mây, phun mù nhuận chín châu,
Ngọc ở trong đá ai biết đâu,
Người chẳng thấy: ba quyển Tố thư mở
Tiền Hán
Cốc thành đi về trời mù mù?
Nguyễn Thượng Hiền đã phải giải thích
thái độ, làm sáng tỏ chỗ còn khó hiểu, tuyên bố học cái ngoan si của đá, làm
Trương Lương bí mật chờ thời chứ không làm Tô Đông Pha chơi giăng gió.
Khiếu Năng Tĩnh phê một cách hóm hỉnh,
“ông trạng nguyên ngày xưa có bài phú vô tâm (bỏ vần tâm để càng làm rõ cái ý
không ước mong không tính toán). Nay quân hầu lại “mục hạ vô nhân (dưới mắt
không người: khinh người) đến thế ư? Đáng bật cười!”. Cả Nguyễn Thượng Hiền và
Khiếu Năng Tĩnh đều tán thưởng bái phục tác giả bài phú; người thì can thiệp,
vận động cho Phan đi thi lại, người thì “tôn Phan làm anh”, đưa tân thư cho
Phan đọc. Thế là Phan Bội Châu xếp mình sau người vái đá. Nguyễn Thượng Hiền
xếp mình sau Phan Bội Châu và nhiều nhà nho khác xếp hàng sau Nguyễn Thượng
Hiền. Vì bội phục tài văn chương, vì bội phục “cái khí lỗi lạc bay ra ở câu
văn” (lời Nguyễn Thượng Hiền), họ đi theo Phan Bội Châu vào con đường cứu nước.
Cái hùng tráng đã theo bài phú mà tập hợp những người bất khuất lại.
*
*
*
Trong truyền thống văn học của ta từ
lâu đã có sẵn hình ảnh người hào kiệt, người trượng phu. Đó là người “nam nhi”
trong bài Thuật hoài của Phạm Ngũ
Lão, người “anh hùng” trong bài Cảm hoài
của Đặng Dung, là hình ảnh con chim bị nhốt vào lồng mà muốn
Bay thẳng cánh muôn trùng Tiêu Hán
Phá vòng vây làm bạn với kim ô
Trong bài Chim trong lồng của Nguyễn Hữu Cầu, là Từ Hải trong Truyện Kiều, là người “trượng phu Kềnh” trong
thơ Nguyễn Công Trứ, người “tài tử” trong thơ văn Cao Bá Quát. Không phải bấy
nhiêu hình tượng người hào kiệt đều giống nhau, đều cùng loại. Nhưng tất cả đều
có một nét chung là đều có chí khí, tài năng, đều có tầm thước phi thường, đều
hào hùng khác đời, những hình tượng người phi thường như vậy đều xuất hiện trên
cơ sở của một giai đoạn đấu tranh xã hội lớn, phá vỡ kỷ cương, mang nguyện vọng
giải phóng của thời đại. Nó biểu lộ cái nguyện vọng sống tự do “dọc ngang nào
biết trên đầu có ai”, cái ước mong “thay con tạo rắp xoay cơn khí số”, nghĩa là
nhu cầu thay đổi, phá bỏ trật tự cũ để thực hiện một cuộc đời tốt đẹp hơn, công
bằng hơn.
Đầu thế kỷ XX, con người hào kiệt như
thế lại xuất hiện trong văn học, không phải chỉ trong văn chương Phan Bội Châu mà
cả trong văn chương nhiều nhà nho yêu nước: Phan Chu Trinh, Đặng Thái Thân,
Trần Hữu Lực, Hoàng Trọng Mậu… Đó là kết tinh của một phong trào đòi giải phóng
mới và báo hiệu một cuộc đấu tranh xã hội mới.
Người hào kiệt đầu thế kỷ XX ra đời
trong tình hình phải làm nhiệm vụ cứu nước, vừa phải chống thực dân, vừa phải
chống phong kiến. Mang cốt cách ngang tàn tự nhiệm, họ đã ý thức được trách
nhiệm làm chủ đất nước, nhưng ý thức được tinh thần làm người dân thì phải qua
một quá trình. Cốt cách bất khuất, đặt mình cao hơn xung quanh cho họ sức mạnh
cứng cỏi đến sắt đá trước kẻ thù, trước vua chúa nhưng lại làm cho họ xa quần
chúgn, khó đứng chung với người dân bình thường. Khi mới bước vào con đường vận
động cứu nước, Phan Bội Châu vẫn giữ tư thế người hào kiệt như vậy. Trong bài
“Tự ngữ” giữa ta và quốc dân rõ ràng có sự cách biệt lớn
Ôi! Dân nước ta thật lạ thay!
Nhìn anh tôi khóc, anh chẳng xót vay
Nhìn anh tôi cười, anh vẫn chẳng hay
Nhìn anh tôi giận, anh cười hề hề.
Nhìn anh tôi mắng, anh vẫn như ngây.
Anh có nghe
Ngoài cung Tràng An tiếng kèn Tây?
… Trên thành Thăng Long ngựa giặc xéo giày?
(Nguyễn Văn Bách dịch)
Thái độ nhìn từ bên trên như vậy làm
cho người hào kiệt không dễ dàng trở thành dân chủ nhưng giữa lúc thất bại,
chán nản rời rã hoang mang, công việc cứu nước đầy hiểm nghèo, thì người hào
kiệt “chí đã quyết thì Thái sơn cũng chỉ là gò là đống, Bắc hải cũng chỉ là ao
là chuôm” (Hiệp Thái Sơn khiêu Bắc hải)
là người đủ sức coi thường tính mạng, coi thường khó khăn, nguy hiểm. Chính họ
là gương sáng, là chỗ dựa tinh thần, nâng đỡ, lôi kéo những người yếu kém hơn
để tập hợp lực lượng. Phan Bội Châu đã bước vào đòi cách mạng với một thái độ
hiên ngang coi thường hiểm nguy như thế.
Dù gió ngược mà dòng xuôi, ta sẽ vén
xiêm mà sang này! Dô hò khoan.
Dù Pháp, dù Nhật, dù Nga này, có đón
dòng mà chặn ngang, ta cũng tìm hỏi bến mà chèo sang này! Dô hò khoan.
Gió to cuồn cuộn này, biển rộng mênh
mang, vừa hát vừa cười mà chèo sang này! Dô hò khoan
Biển lớn thênh thênh này, sóng cả mông
mênh, cùng lòng chung sức mà chèo sang này! Dô hò khoan.
Hải hồ khoan (Nguyễn Văn Bách dịch)
Người lái cứ chèo. Dầu là “giao long
vùng vẫy”, dầu là “đêm tối mịt mù”, dầu là “cả thuyền vô tâm ngủ yên”, “chán
nản ngồi nhìn”, dầu là “buồm tan cột gẫy” vẫn cứ “hò hát” lay tỉnh mọi người
cùng chèo. Không chỉ là chuyện không sợ sóng gió mà còn là say sưa thi với sóng
gió.
Cốt cách hào hùng như thế đã giáo dục
cả một thế hệ cách mạng. Nhiều người học trò gần gũi ông không những đã sốgn
hào kiệt như ông mà cũng viết như ông:
“Ta chả biết chết là cái gì vậy. Đọc
sách năm châu, kết giao vài chục bạn, hoặc đánh bằng lưỡi, hoặc đánh bằng bút,
hoặc đánh bằng não, không khăng chỉ độc đánh bằng sắt, thề quyết máu trôi đất
nóng, cờ đào rõ mặt giống da vàng”
Đặng Thái Thân. Cấu đối điếu Tăng Bạt Hổ
(Tôn
Quang Phiệt dịch)
Con người hào húng ấy vốn không thể
chứa đựng trong quan niệm làm người của Nho gia. Nho gia cũng đề cao một mẫu
người đại trượng phu “giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo hèn không làm thay
đổi, uy vũ không thể khuất phục”. Nguồn dũng khí của người trượng phu đó là sức
mạnh tinh thần của đạo nghĩa: “xét mình có nhân có nghĩa, không có tì vết thì
cứ xông thẳng lên”, không kể trước mặt là ai. Nhưng người trượng phu kiểu Nho
gia coi cung kính là đức, dám hy sinh để thành nhan, nhưng không tán thành
cương cường, vô lễ. Họ anh hùng khi bảo vệ cái cũ, nhưng rụt rè bảo thủ đến
ngoan cố khi phá bỏ cái cũ, xây dựng cái mới. Trong lịch sử trước đây vào những
lúc gay go, họ phải tiếp thu thêm hoặc là cái phóng khoáng của Đạo gia, hoặc là
cái nghĩa hiệp của Mặc gia hoặc là cái cơ trí của Pháp gia - đều là những yếu
tố trái với Nho gia - mới có thể thành người hành động mới làm được những công
việc táo bạo. Trước nhiệm vụ cứu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Nho giáo
đã không đủ sức giữ vai trò chỉ đạo hành động. Cho nên con người hào hùng trong
văn chương Phan Bội Châu, Đặng Thái Thân tuy sinh ra trong cửa Khổng sân Trình,
căn bản ở những điểm khác vẫn là nhà nho nhưng đã mang nhiều màu sắc phản
nghịch, hấp thụ nhiều yếu tố tích cực trong phong trào nông dân mà điển hình là
người hảo hán du hiệp, lúc đó có trong thực tế.
Chưa bao giờ Phan Bội Châu phải đoạn
tuyệt với Nho giáo cả. Nhưng hút thở không khí của thời đại, Phan Bội Châu đã
từ một nhà nho trở thành người hành động. Khi ông chỉ là một người có tư tưởng
yêu nước – và duy tân nữa – ông vẫn có thể chấp nhận cả hai mẫu người ẩn dật và
trung nghĩa; nhưng khi đã bước vào hành động thì ông thấy ngay chỉ có một thái
độ xứng đáng.
Hỏi anh đeo gươm đi đâu đây?
Làm Gia Cát ở Long trung nằm khểnh?
Làm Bá Di ở Bắc hải chờ ngày?
Thời nguy thay! Thế nguy thay!
Nằm khểnh? – Vô ích.
Chờ thời? – Bao ngày?
Trời nghiêng đất đổ.
Đổ lỗi cho ai?
Nước tan chúa mất.
Tránh tội khó thay.
Ca hát, khóc, cười, đều suông cả. Ích gì cho buổi này!
(Tự ngữ)
Trong bài Gửi các đồng chi khi Đông du (Cũng có tên là Xuất dương lưu biệt), Phan Bội Châu đã viết về thái độ của “người
nam nhi đội trời đạp đất”.
Giang sơn đã chết, sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài.
(Tôn
Quang Phiệt dịch)
Hình tượng con người hào kiệt lúc này
chưa thể hiện hết những nét mới mẻ trong tư tưởng, tình cảm đã đổi thay theo
thời đại. Trong cái vỏ sáo cũ của văn chương cử tử, nó không thể xuất hiện dưới
bộ mặt tươi tỉnh, với những nét cụ thể. Nhưng cái mới cũng chỉ có thể xuất hiện
trong hình thức sẵn có. Con người hào kiệt phát triển, xa dần tư tưởng Nho gia,
mang thêm những nét mới, lợi dụng bút pháp khoa trương, âm điệu hùng tráng của
thể phú để thể hiện. Nếu như tài năng chính của Nguyễn Thượng Hiền là thể thơ
thì tài năng chính của Phan Bội Châu là ở thể phú. Cái đẹp chính của văn chương
Nguyễn Thượng Hiền là tinh tế mỹ lệ, thì cái đẹp chính của văn chương Phan Bội
Châu là kỳ vĩ hùng tráng. Con người tinh tế giàu tình cảm của Nguyễn Thượng
Hiền thể hiện một cách thoải mái trong thơ cũ, nhưng con người hào hùng của
Phan Bội Châu thấy chật chội, phải cựa quậy, xô lệch bớt những chỗ gò bó của cả
thể phú làm cho nó có âm hưởng khác.
Con người hào kiệt hình thành ở quãng
đầu thế kỷ trong văn chương cử tử là cái lõi của những nhân vật anh hùng thư
kiém, lý tưởng của nhiều nhà nho yêu nước duy tân lúc ấy, là bản phác thảo cho
loại anh hùng thảo dã như ông Xí, ông Võ, ông Chán trong tiẻu thuyết Trùng Quang tâm sử sau này của ông.
III. NGÔI SAO DẪN ĐƯỜNG CỨU NƯỚC VÀ
ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
Thời kỳ lưu vong hoạt động cứu nước ở
Nhật Bản, Trung Quốc cũng là thời kỳ Phan Bội Châu viết nhiều nhất. Ông viết
những bức thư, những lời kêu gọi, những bài báo, những cuốn sách chính luận và
biên khảo. Hoạt động văn học đó làm cho Phan Bội Châu từ là một người yeu nước
nói tâm tình yêu nước của mình thành một nhà vận động cách mạng viết để tuyên
truyền cổ động cứu nước. Sáng tác văn học của ông gắn chặt với hoạt động chính
trị.
Phan Bội Châu viết trên cương vị lãnh
tụ chính đảng nhưng Duy tân hội lại là một đảng chưa có chủ nghĩa, chưa có
đường lối xác định. Chủ nghĩa, đường lối của nó tìu thuộc vào lãnh tụ là Phan
Bội Châu mà bản thân ông, sống trong hoàn cảnh bưng bít của chế độ phong kiến
trước đây, khi tiếp xúc với một châu Á đang sôi sục thay đổi, càng ngày càng
thấy nhiều điều mới mẻ cũng luôn luôn thay đỏi. Trong cả một thời gian 20 năm,
từ 1905 đến 1925, là một quá trình nhận thức, tìm đường, hình thành chủ trương
mà cũng là một quá trình thuyết phục, tuyên truyền cổ động cho những chủ trương
luôn luôn thay đổi. Văn chương Phan Bội Châu cũng là văn chương yêu nước, nhưng
khác với văn chương yêu nước trước kia vì nó gắn liền với một đường lối, một tổ
chức cách mạng, mà cũng khác với văn chương yêu nước về sau khi nó không gắn
với một chủ nghĩa, một đường lối cách mạng khoa học, xác định.
Đối với các nhà nho từ phong trào Cần
vương về trước hầu như không có vấn đề tìm đường lối chính trị. Để ứng phó với
hời trị hay loạn, kinh truyện sử sách đã để lại cho họ đủ lời giáo huấn để tuôn
theo. Gặp lúc biến loạn, cần hành động chính trị, họ chỉ cần tìm một danh nghĩa
đủ sức tập hợp, cần bày mưu tính kế chứ không phải tìm đường lối chính trị. Sự
thất bại của phong trào Càn vương, là phong trào có đầy đủ danh nghĩa, tập hợp
được lực lượng đông đảo, đặt ra vấn đề đường lối. Sự suy nghĩ của những người
yêu nước trẻ tuổi, đã nếm trải thất bại, muốn hành động như Nguyễn Hàm, Nguyễn
Thượng Hiền, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh… gặp nhau ở chỗ tìm con đường mới,
cứu nước có kết quả. Trước khi xuất dương, ở Phan Bội Châu cũng đã hình thành
một đường lối cứu nước: lập một người thuộc đích hệ Gia Long làm minh chủ, tổ
chức hội Duy tân, mở mang dân trí, chấn hưng dân khí, tổ chức hội cày, hội
buôn, tập hợp lực lượng cả Nam Trung Bắc, cầu viện Nhật Bản là nước đồng văn
đồng chủng để đào tạo nhân tài, sắm sửa khí giới, võ trang chống Pháp giành độc
lập. Ra nước ngoài, Phan Bội Châu trực tiếp thấy cả một châu Á đang sôi sục:
nhiều nước đã mất hoặc đang có nguy cơ sắp mất đấu tranh cho độc lập dân tộc,
các cường quốc cạnh tranh gay gắt, giành giật nhau quyền lợi, nhiều xu hướng tư
sản có, vô sản có, vô chính phủ có, đang từ châu Âu tràn vào. Ở Nhật Bản và
Trung Quốc là nơi có nhiều nhà yêu nứoc, nhiều nhà chính trị các nước châu Á đi
lại hoạt động, Phan Bội Châu có dịp đọc nhiều sách báo, tiếp xúc với nhiều
người đủ xu hướng từ Lương Khải Siêu, Tôn Văn đến những nhà xã hội chủ nghĩa ở
Nhật Bản. Phong trào cách mạng trong nước lại gặp nhiều khó khăn, thất bại đòi
hỏi luôn luôn pháiuy nghĩ lại về đường lối.
Những vấn đề mà Phan Bội Châu đã quan
tâm là: bạo động và cải cách, quân chủ và dân chủ, quốc gia và quốc tế, “cách
mạng dã man” và “cách mạng văn minh”. Các vấn đề đó lần lượt được ông đặt ra,
có khi do nhu cầu phải tranh luận, thuyết phục, giải quyết tình hình thực tế,
có khi chỉ là phát biểu một chủ trương mới hình thành, bộc lộ một mơ ước đang
ấp ủ. Suy nghĩ về các vấn đề đó, đối với
ông chứng tỏ một quá trình mày mò tìm đường không mỏi, một quá trình ý thức
đwocj càng ngày càng sâu về sự quan trọng của đường lối chính trị, một quá
trình tiến bộ về tư tưởng chính trị.
Ở đây ta không đi sâu phân tích về mặt
chính trị, về mặt lịch sử các chủ trương chính trị của Phan Bội Châu mà chỉ nói
sơ lược những điểm cần thiết giúp ta hiểu ông về mặt tư tưởn và hiểu những bài
văn, trong đó ông trình bày những chủ trương chính trị của mình, về mặt văn
học.
Từ một người sùng bái trung thần nghĩa
sĩ, chủ trương dùng máu và sắt, kịch liệt bạo động đến một người chủ trương mở
trường học, họi buôn, cải cách xã hội, coi đó là biện pháp quan trọng, hõ trợ
cho công cuộc vận động giành độc lập; từ tìm một người thuộc dích hệ Gia long
tôn làm minh chủ đến chủ trương thành lập chế độ dân chủ cộng hòa là mọt quá
trình dài trong ý thức phi phong kiến hóa đất nước. Cuối cùng, Phan Bội Châu đã
gột rửa được những vướng mắc của tư tưởng quân chủ. Không phải Phan Bội Châu có
trung thành gì với nhà Nguyễn, chủ trương quân chủ lập hiến ở ông nhiều khi chỉ
là một thủ đoạn chính trị, nhưng cái quan trọng là ông đã thanh toán dần nhiều
vướng mắc của tư tưởng nhà nho trong vấn đề dân, nước (ví dụ: nhân dân Nam Kỳ
không quên công ơn nhà Nguyễn, trật tự xã họi của chế độ phong kiến). Chủ
trương thành lập chế độ dân chủ cộng hòa cũng không phải là ông đã hiểu rõ chế
độ dân chủ tư sản. Tuy là người sống vào đầu thế kỷ XX nhưng ông không sống
trong những điều kiện thực tế cụ thể của xã hội tư sản như ở châu Âu mà cũng
không có điều kiện nghiên cứu sâu sắc về lý luận nên ông không am hiểu, không
thấy rõ chế độ dân chủ tư sản cả về mặt tích cực và về mặt tiêu cực.
Khi tiếp xúc với các nhà cách mạng
Trung Quốc, Triều Tiên, Phi Luật Tân… Phan Bội Châu đã tiến một bước từ chỗ chỉ
biết có “con Rồng cháu Tiên” đến chỗ thấy được cảnh ngộ chung của nhiều nước
châu Á mất độc lập; từ chỗ chỉ biết bọn “quỷ da trắng” châu Âu và nước đồng văn
đồng chủng Nhật Bản anh hùng đến chỗ thấy được dã tâm đế quốc chủ nghĩa của các
cường quốc, phương Đông hay phương Tây cũng vậy. Ông đã bớt được tư tưởng dân
tộc hẹp hòi, kỳ thị và bài ngoại, mở rộng từ đoàn kết dân tộc chống Pháp đều có
ý thức tranh thủ sự ủng hộ của phong trào yeu nước, chống đế quốc bên ngoài đến
chủ trương liên minh các nước châu Á chống đế quốc. Có thể nói đó là một bước
đi từ quốc gia đến quốc tế. Nhưng nhận thức của ông cũng chỉ hạn chế ở chỗ thấy
được cảnh ngộ chung của những người mất nước, thấy được khả năng liên minh,
giúp đỡ lẫn nhau giữa những nước gần gũi có quan hệ địa lý lịch sử với nhau chứ
chưa hiểu được quan hẹ phức tạp giữa các quốc gia, bản chất giai cấp của chủ
nghĩa đế quốc, tính chất toàn thế giới của chủ nghĩa thực dân, của áp bức dân
tộc.
Sau đại chiến thứ nhất, Phan Bội Châu
đã lần lượt chứng kiến cách mạng Tân Hợi thành công, phong trào Găng - đi ở Ấn
Độ phát triển rầm rộ, cách mạng tháng Mười Nga thành công mà trong nước bao
nhiêu cố gắng chuẩn bị bạo động đều thất bại. Sự khủng bố tàn khốc của thực dân
Pháp làm quá nhiều đồng chí và đồng bào hy sinh làm Phan Bội Châu đau xót về
nỗi “dân mình lại không được rơi trước bè bạn” (nguyên văn: Đầu hạn bất tiên
bằng bối đoạn. Trong bài thơ Được tin Đỗ
Cơ Quang, Nguyễn Đức Công, Nguyễn Thúc Đường hy sinh). Ông thấy mình có tội
với đồng bào đồng chí, thấy đường lối của mình không đúng nên nảy ra tư tưởng
chuyển từ “cách mạng dã man” sang “cách mạng văn minh”. Cách mạng dã man là để
chỉ chủ trương thiết huyết bao gồm cả đấu tranh võ trang và những hành động ám
sát, khủng bố cá nhân. Cách mạng văn minh là để chỉ đấu tranh chính trị, kể cả
cách bất hợp tác, tẩy chay kiểu Găng – đi, cả cách tổ chức quần chúgn đấu tranh
từ bãi công, biểu tình đến võ trang cướp chính quyền kiểu Lênin. Phan Bội Châu
chưa phân biệt được rõ ràng cải lương và cách mạng, chưa phân biệt phong trào ồ
ạt thiếu tổ chức của tư sản với phong trào quần chúng có tổ chức cao do Đảng
của giai cấp vô sản lãnh đạo. Muốn chuyển sang cách mạng văn minh, Phan Bội
Châu đã mắc sai lầm lớn: viết quyển Pháp
Việt đề huề chính kiến thư và Dư cửu
niên lai sở trì chi chủ nghĩa, phủ nhận đấu tranh vó trang đến mức tán
thành đề huề cả với chính quyền thực dân Pháp. Sự sai lầm của ông có nhiều lý
do, nhưng có một lý do là ông không thấy tầm quan trọng của tính chính xác khoa
học, tính nguyên tắc kiên định của đường lối chính trị. Ông coi chính trị chỉ
là một thủ đoạn, thay đổi thế nào cũng được, miễn là không bỏ mục đích. Sự thay
đổi của ông không biểu hiện sự biến tiết run sợ trước sự khủng bố của quân thù
mà biểu lộ một sự nông nỏi, thiếu nhận thức chính xác về chính trị. Đây là một
sai lầm về chính trị, có ảnh hưởng xấu, để lại một vết nhơ trên tấm gương trong
sáng là cuộc đời cách mạng của ông. Nhưng qua sai lầm đó ta lại cũng thấy ông
dần dần nhận ra cách mạng giải phóng dân tộc phải đi đôi với việc giải quyết
vấn đề dân quyền, dân sinh, tức là phải kết hợp với cách mạng xã hội, cách mạng
kinh tế.
Cuối cùng Phan Bội Châu đã say mê chủ
nghĩa xã hội, treo ảnh Lênin, ca ngợi Nguyễn Ái Quốc… tuy vậy thứ chủ nghĩa xa
hội mà ông tưởng là đúng với Mác – Lênin cũng không phải là chủ nghĩa xã hội khoa học. Tuy ông
cũng nói “người nứoc ta không nói cách mạng thì thôi, chứ nói cách mạng thì
phải bắt tay vào làm cách mạng xã hội” (Phạm Hồng Thái, trang 125). “Huấn luyện
cách mạng xã hội không thể thành công nếu không dựa vào số đông người thuộc giai
cấp dưới. Số đông của giai cấp dưới tức là
công nhân và nông dân” (Phạm Hồng Thái, trang 126). Ông hình dung chủ
nghĩa xã hội theo Mác – Lênin cũng chỉ giống như tư tưởng đại đồng trong Lễ ký.
Phan Bội Châu rất nhiều lần thay đổi
đường lối chính trị. Sự đổi thay đó một mặt phản ánh cục diện chính trị cả châu
Á đầu thế kỷ này, khi mới tham gia và cuộc sốngchung của thế giới hiện đại đang
biến dần thành vùng bão táp của phong trào cách mạng chống chủ nghĩa đế quốc,
mặt khác cũng phản ánh tinh thần luôn luôn vì sự nghiệp cứu nước, chỉ nghĩ “đứt
tay hay thuốc” “thất bại là mẹ thành công”, chứ không chán nản lùi bước của
ông. Phan Bội Châu là một người táo bạo, tìm đường không mỏi, nhưng công việc
tìm lý luận cách mạng của ông không bao giờ là một công trình nghiên cứu hẳn
hoi mà chỉ là một công việc đọc, nghe, thấy, lựa chọn, lấy bỏ một phương sách,
một thủ đoạn. Do đó ông sốt sắng biến những nhận thức mới, có khi chưa thuần
thục, chín mùi của mình thành những bài báo, những tập sách, những lời kêu gọi
tuyên truyền, cổ động nhằm thức tỉnh quần chúng.
Vì lòng nhiệt thành yêu nước, ông đã bỏ
qua được nhiều thành kiến, cố chấp, tự ái để đổi thay cái cũ, đi theo cái mới
và sự đổi thay ấy về đại thể theo hướng càng ngày càng tiến bộ hơn. Ông không
khó tiếp thu những yêu cầu cao của cách mạng (quyền sở hữu tập thể, vai trò
công nông…) nhưng cơ sở để tiếp thụ những vấn đề mới chỉ là nhiệt tình, chỉ là
đạo đức. Nhà nho trong ông không cho phép ông hiểu biết các vấn đề phức tạp của
chính trị tư sản, vô sản của thế giới hiện đại. Khối óc của nho gia làm ông
nghĩ hời hợt, có lúc nghĩ sai, nhưng trái tim của ông luôn luôn rực lửa làm bó
đuốc hướng dẫn hành động yêu nước. Về đường lối chính trị, Phan Bội Châu không
phải là người sắc sảo, kiên định, nhưng lòng yeu nước trong ông là kiên định,
tư tưởng vì nâhn dân của ông là kiên định, cho nên những bước đi lầm lạc, do
thiếu đường lối kiên định gây ra, thường được uốn nắn kịp thời để ông khỏi sa
ngã và giữ cho ông lòng tin tưởng quý mến của nhân dân. Tư tưởng yêu nước trong
truyền thống dân tộc đến Phan Bội Châu được phát triển lên một bước cao hơn.
Kết tinh tư tưởng của thời đại và mang sắc thái cá nhân của ông, tư tưởng yêu
nước đó thành ngọn đuốc soi đường cho cả dân tộc không chỉ trong thời gian ông
hoạt động mà còn có ảnh hưởng rất lớn về sau.
1.
Yêu nước và cứu nước
Phan Bội Châu cũng như các nhà nho yêu
nước trong Đông Kinh nghĩa thục đều dùng văn chương để tuyên truyền yêu nước và
duy tân. Nhưng ở Phan Bội Châu, vấn đề duy tân không được nhấn mạnh bằng yêu
nước. Trong những bài kêu gọi viết quãng những năm 1905 – 1907, những bài ca
giáo dục viết quãng 1910 – 1911, bên cạnh một ít đoạn nói về nhiệm vụ duy tân,
phần chủ yếu giành cho việc phát động giáo dục tinh thần yêu nước, kêu gọi đứng
dậy hành động cứu nước. Phan Bội Châu cũng tán thành duy tân, cũng thích dhế độ
dân chủ nhưng ông không tán thành chủ trương lợi dụng khẩu hiệu khai hóa, pháp
luật của chính quyền thực dân hy vọng dựa vào đó mở mang dân trí, chống quan
tham lại nhũng, lật đổ chế độ phong kiến Nam triều, đòi hỏi quyền dân chủ của
Phan Chu Trinh. Đoi với Phan Bội Châu, nói duy tân là để mở mang dân trí, nói
dân chủ là để chấn hưng dân khí, để có thêm sức mạnh mà đánh Pháp. Trước hết
phải đánh Pháp giành độc lập đã, còn việc duy tân, đề xướng chế độ dân chủ, nếu
chưa giành được độc lập thì chỉ là những “câu nói cho sướng miệng” thôi. Đó là
sự khác nhau về đường lối giữa Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh. Trong văn
chương của Phan Bội Châu và Đông kinh nghĩa thục ta cũng thấy có sự khác nhau
trong quan hệ giữa duy tân và yêu nước. Đông Kinh nghĩa thục thì khích lệ lòng
yêu nước mà Phan Bội Châu thì nhấn mạnh nhiệm vụ cứu nước. Không phải các nhà
nho trong Đông Kinh nghĩa thục tán thành Phan Chu Trinh mà không tán thành Phan
Bội Châu. Các nhà nho không có ý thức đầy đủ về sự quan trọng của đường lối
chính trị (có lẽ phải trừ trường hợp Phan Chu Trinh?) mà họ cũng không tranh
chấp với nhau trên cơ sở phân biệt đúgn sai. Họ xét nhau ở con người, ở cách
làm người; cho nên không những các nhà nho ở Đông Kinh nghĩa thục kính trọng cả
hai cụ Phan, mà cả hai cụ Phan cũng tin yêu nhau cho đến chết. Trong điều kiện
sống và hoạt động trong nước, ngòi bút các nhà nho ở Đông Kinh nghĩa thục khong
vùng vẫy tự do được như Phan Bội Châu. Nhiều nhận xét về văn chương Phan Bội
Châu thì không chỉ dừng lại ở mức Đông Kinh nghĩa thục.
Để phát động tinh thần yêu nước, tập
hợp lực lượng cứu nước, Phan Bội Châu cũng nói đến non sông ta gấm vóc, đất
nước ta giàu có, cha ông ta anh hùng, nói đến gia tài sản nghiệp cha ông để
lại… Khi nói đến đất nước, không những Phan Bọi Châu truyền cho ta lòng tự hào
mà đồng thời truyền cho ta lòng đau xót căm thù đối với quân xâm lược, lòng xôn
xang sốt ruột thôi thúc hành động. Ông viết:
Nay ta hát một thiên ái quốc,
Yêu gì hơn yêu nước nhà ta?
Trang nghiêm bốn mặt sơn hà,
Ông ta để lại cho ta lọ vàng.
Trải mấy lớp tiền vương dựng mở,
Bốn ngàn năm giãi gió dầm mưa
Biết bao công của người xưa
Giang sông tấc núi, dạ dưa ruột tằm.
Hào đại hải âm thầm trước mặt,
Giải Cửu Long quanh quất miền Tây,
Một tòa san sát xinh thay!
Bên kia Vân Quảng bên này Côn Lôn.
Cũng chỉ là những tri thức địa lý.
Nhưng sao đất nước lại đẹp đẽ, hùng vĩ và thân thương đến thế! Bài thơ gây cho
ta cảm giác được đứng ở một ví trí cực cao, nhìn được toàn cảnh của “bốn mặt
sơn hà” từ Vân Quảng đến Côn Lôn, từ sông Cửu Long đến biển Đông. “Hào đại
hải”, “giải Cửu Long”, “một tòa san sát”… nước non hiện len thành hình khói cụ
thể tưởng như có thể nhìn thấy, sờ được. Những chữ “âm thầm”, “quanh quất” nhắc
cho người nghe cảnh xót xa trước mắt.
Cũng là nói về cha ông, cũng nhắc đến
“mấy thuở tiền vương dựng mở” nghĩa là ông tổ Lạc Long và các bậc anh hùng:
Sông Đằng lớp sóng Trần vương,
Núi Lam rẽ khói, mở đường nhà Lê.
Quang Trung đế từ khi độc lập,
Khí anh hùng đầy lấp giang sơn.
Cũng là những bậc anh hùng quan vinh
nhiều người đã nhắc đến. Nhưng cái Phan Bội Châu làm cho ta xúc động không phải
là sự nghiệp lớn lao bắt ta chiêm ngưỡng mà là công trình “giãi gió dầm mưa”,
phí bao nhiêu tâm lực “dạ dưa ruột tằm” để có từng gang sông tấc núi ngày nay.
Nhưng người đó không vì công trạng quá to lớn khác thường mà trở thành những
bậc tiên vương xa cách mà vì sự lo lắng, gian nan gắn bó với sông núi mà thành
cha ông. Cha ông gần gũi đã mất nhiều tâm lực lập nên nước non cho con cháu,
gắn bó với công trình của mình và chăm chú theo dõi con cháu, lòng đầy xúc cảm:
“Vài mươi năm sau, con cháu chúng ta sẽ tuyệt diệt, mồ mả chúng ta sẽ hoang tàn
thì những cái tên trống không tiến sĩ, cử nhân, tú tài ấy sẽ gửi vào đâu? Cha
ông giận dưới suối vàng chắc là không nhận lấy cái sắc mệnh trống không của
quân giặc và không khỏi sụt sùi than khóc, nghẹn ngào mà mửa ra vậy (Hòa lệ công ngôn).
Làm cho đất nước hiện ra cụ thể, cha
ông trở nên gần gũi, Phan Bội Châu cũng làm cho những ý, những lời vốn đã sáo
cũ trở nên có sức sống, có sức xúc động. Nói đến đất nước, cha ông quá khứ anh
hùng, không phải ông chỉ tìm cho người ta một chút tự hào, tự an ủi bằng quá
khứ. Bao giờ ông cũng đưa được người đọc về với hiện tại, chia sẻ với ông cái
xốn xang uất ức, căm thù quân xâm lược và nung nấu ý chí tiêu diệt quân giặc.
Không những vạch mặt quân giặc là việc
văn học hợp pháp khó làm, mà sống trong xã hội đang được thực dân tư sản hóa,
bề ngoài hào nhoáng làm người ta rất dễ choáng ngợp, khó thấy bộ mặt kẻ thù.
Yêu nước và quả cảm như Phan Chu Trinh mà muốn công kích chính sách của Pháp
cũng chỉ nói bóng gió, đổ hết cho Nam triều chứ không nói trực diện. Phan Bội
Châu tố cáo tội ác của giặc một cách cụ thể sâu sắc và với thái độ căm thù,
không đội trời chung. “Người Pháp bóc lột Việt Nam khong cái gì là không đến
tuyệt mức” “ngày ngày mổ cắt như làm cá, làm thịt”. Ông phân tích cái thủ đoạn
“âm toan” “dương bác”, dấn đến nguy cơ diệt chủng. “Âm toan” là bóc lột vơ vét
làm cho chết dần chết mòn:
Trăm thứ thuế, thuế gì cũng ngặt,
Rút chặt dân như thắt chỉ xe;
Miền kẻ chợ, chốn nhà quê,
Của đi có lối, của về thì không.
Ví như giống hổ trùng, cổ hoặc
Làm cho người mặt quắt thịt rơi.
Ví như giống rắn nuốt voi
Máu kia đã hết, thịt rồi cũng tan.
“Dương bác” là lợi dụng cảnh nghèo đói
của dân, ném tiền ra bắt đi phu đi lính, bóc lột trắng trơn:
Việc đông bắc nay côn mai dịch
Khi lấp sông, xẻ lạch đào hào
Làm cho nhân dân “xương chật đường máu
mỡ đầy sông”.
Ông nói: “Cái dã tâm của giặc như hổ
ngoạm, tằm ăn không kể xiết, nhưng mối chính là cốt ở cướp cái mạch sống của
chúng ta. Chính phủ giặc đánh thuế chúng ta đến muôn ngàn thứ, quân buôn của
giặc cướp lợi quyền của chúng ta đến ức triệu đường, đến như cứt đái dơ bẩn
cũng vơ vét hết và càng năm càng thêm chứ không thôi”.
Phan Chu Trinh cũng nói: “ Bọn cùng dân
bị bóp nặn mãi mà máu mủ một ngày một khô, không còn đường sinh kế nữa” (Thư
gởi Toàn Quyền Bô), nhưng vẫn nghĩ rằng chính phủ bảo hộ có làm một số việc có
ích (mở mang giao thông, bưu điện…) nên còn mơ tưởng có thể lợi dụng cho đến cả
chính sách khai hóa, luật pháp dân chủ của nó để chống phong kiến, đề xướng dân
quyền. Còn Phan Bội Châu thì nhận thức dứt khoát giặc là giặc, nước đã mất thì
“dù có bầu máu nóng đến đâu đi nữa, cũng chả biết đem rưới vào đâu nữa đâu”
(Thư gửi Phan Chu Trinh). Ông thẳng tay vạch mặt kẻ thù, chỉ cho mọi người thấy
bộ mặt giả dối của cái gọi là văn minh, bên trong trống rỗng của cái gọi là sự
khai hóa. Ông mỉa mai cay độc cái thứ văn minh dùng hình phạt trung cổ đối xử
với những nhà yêu nước Việt Nam, cái chính sách khai hóa không để cho người
Việt Nam được học hành:
Trường
Quốc học đặt tên Pháp - Việt
Dạy
người Nam đủ biết tiếng Tây,
Đến
như trăm thứ nghề hay
Binh cơ, điện báo không thấy dạy khôn.
Lối nông học hãy còn ngơ ngẩn
Việc công trường thơ thẩn biết chi.
Trăm nghề Pháp học tinh vi,
Người mình, mình cứ ngu ai mặc mình.
Pháp có văn minh ở đâu khác chứ ở Việt
Nam chúng không văn minh gì cả. Chúng khai hóa ở đâu chứ ở Việt Nam chúng không
khai hóa gì cả. Tất cả những cái nó làm nên thuộc địa này là ở đất thuộc địa
này chỉ là:
Nó nuôi
mình như trâu như chó,
Nó coi
mình như cỏ như rơm;
Trâu
nuôi béo, cỏ coi rơm,
Cỏ moi
rễ cỏ, trâu làm thịt trâu.
Dưới cái
chế độ “chính không có phủ, giáo không có trường” ấy, không thể có hy vọng gì
tiến lên được. Nếu đất nước vẫn nằm trong tay thực dân Pháp thì tương lai chỉ
có thể là nguy khốn:
Sợ
rồi chẳng được bao lâu,
Của ăn
cũng hết, còn đâu giống người.
Ông báo
trước cho mọi người thấy rồi đây dân ta sẽ nghèo, sẽ hèn, sẽ yếu, sẽ ngu, dân
tộc sẽ tuyệt diệt. “Các anh hãy thử xem lối làm ăn của người nhà chúng ta,
đường sinh dục của con cái chúng ta ngày nay so với mười năm về trưócnhw thế
nào rồi. Không có giặc giã, lại không bị mất mùa mà khốn đốn đến nông nỗi
này là do ai gây ra sao?” (Hòa lệ cống
ngôn). Ông lo lắng thật sự và truyền lại được cho người nghe nỗi lo lắng ấy. Có
thể người ta cũng thấy chưa thật sâu sắc âm mưu quỷ quyệt của thực dân, nhưng
những hình tượng “thắt chỉ xe”, “hồ trùng cổ hoặc” , cái hình ảnh “nuôi trâu
nuôi cỏ” quen thuộc làm cho nhân dân hình dung không sai lạc những điều ông nói về thực chất, về hậu
quả của chính sách thực dân. Vạch mặt kẻ thù không những Phan Bội Châu không
băn khoăn chỗ Pháp là nước văn minh, giàu mạnh mà cũng không vướng mắc về ảo tưởng
lợi dụng kỹ thuật tiến bộ và pháp luật dân chủ. Ông đã làm cho mọi người thấy
yêu cầu hàng đầu là giành độc lập. Có chủ quyền rồi mới có tất cả những cái
khác.
Ông
chỉ ra khắp nơi nỗi nhục nhã mất nước. Ông chỉ cho mọi người thấy được sự thực
người Pháp khinh rẻ dân ta:
Xe đi lẫn một toa xú uế,
Tàu ngồi riêng một xó ti ô.
Làm gì có tự do, làm gì có bình đẳng,
làm gì có chủ nghĩa nhân đạo ở xứ thuộc địa này! Ông cũng nói cái nhục của cảnh
vua bị đày, cái nhục của hoàng thân xin giấy phép của Tòa khâm để đi thăm mộ
cha ông, nhưng ông chú ý nhiều nhất đến
cái nhục chung của người Việt Nam. Học tập nghệ thuật kể chuyện cười dân gian,
Phan Bội Châu đã kể chuyện một làng kia vì không còn gì để nộp sưu thuế, kéo cả
làng nên kêu với quan Pháp. Họ đã đồng ý bán trời cho Đại Pháp mong khỏi phải
bán ruộng đất vợ con! Họ không ngờ khi cả thôn đã ký văn tự thì họ “không được
đi lại dưới trời, không được phơi phóng ánh nắng mặt trời, đêm không được thấy
trăng sao”, họ đành phải bán vợ, bán con, bán ruộng, bán vườn để chuộc mảnh
trời về…” (Việt Nam vong quốc sử 59-60). Ông kể một giấc mơ bản thân được đến
dự một phiên tòa dưới âm ti. Khi cả Diêm vương và Pháp quan lúng túng chưa tìm
ra hình phạt gì đủ nặng để trừng trị bọn đại gian ác thì ông đề nghị cho tội
nhân đầu thai làm dân nước Việt Nam, vì “ở nhân gian không gì thê thảm, cực khổ
hơn là làm dân một nước không có chính trị, không có giáo dục, giết hại cướp
bóc lẫn nhau”. Diêm vương vỗ tay tán thưởng vì cho rằng làm dân nươc Việt Nam
quả thật là khổ hơn làm chó, làm voi và làm lợn, như pháp quan đã đề nghị! (Tái
sinh sinh 71-72).
Nước
đã mất thì chỉ có một con đường: “đem máu ra mua lấy quyền tự do thôi”. Cho nên
khi Phan Bội Châu nói: “Trước tình hình mất mà không đập bàn kêu thương, không
có tâm huyết, không phải là giống người nữa”. “Ai không mang nỗi đau mất nước,
dâng lòng trung để báo đền cho nước… đều là đại gian ác, thù địch của toàn
quốc”.
Lòng
yêu nước đến Phan Bội Châu được phát triển lên mức cao hơn. Đó không còn là thứ
tình cảm tốt đẹp cao quý của chỉ một số người hiểu biết mà là một phẩm chất phổ
biến của mọi người dân. Đó không còn là lòng yêu thương đất nước chung chung mà
phải biểu hiện thành hành động: hy sinh cứu nước.
Tinh
thân yêu nước ở Phan Bội Châu cũng là tinh thần quyết chiến chống xâm lược.
2.Từ nghĩa đồng bào đến đoàn kết dân tộc
Phan
Bội Châu cũng như Đông kinh nghĩa thục đều nói đến ông tổ Lạc Long, đến dòng
giống Tiên Rồng, đến gia tài sản nghiệp chung, đến đồng bào, đến nghĩa hợp
đoàn… chỗ khác nhau là trong văn chương Đông kinh nghĩa thục người ta kêu gọi
hợp đoàn nhưng mục đích thì vừa là để góp vốn kinh doanh cạnh tranh, vừa là để
cứu nước nhưng công việc lại chưa hình dung thật cụ thể. Phan Bội Châu trong
mấy chục năm trời nung nấu tư tưởng võ trang đánh Pháp, nên khi nói tình đồng
bào, nghĩa hợp quần, ông xuất phát từ việc tính toán tập hợp mọi khả năng của
từng bộ phận dân tộc để giết giặc cứu nước. Tính toán khả năng cứu nước của các
tầng lớp nhân dân nhưng ông lại chưa biết phân loại xã hội một cách khoa học mà
lại chỉ nhìn người Việt Nam đồng chủng đồng bào trong một xã hội như trước.
Làm
chủ đất nước là vua, quan và dân. Nhưng vua chỉ là kẻ
Nay thừa cơ giấc
ngủ ly long
Giang sơn mặc sức
vẫy vùng,
Muôn người luồn cúi
trong vòng phúc uy.
Vua chỉ “cậy quyền trên” để
áp chế, để bóc lột, vơ vét. Vua tuyên bố long trọng “vâng mệnh trời, chăn dắt
muôn dân” nhưng chỉ biết mọt mình hưởng sung sướng. Dân đói, cũng mặc; dân ốm
đau, không hỏi. Câu chuyện hưng lợi trừ tai cho dân đối với vua lạ lùng kỳ quái
như chuyện “mùa hè mưa tuyết, ban ngày mọc sao”. Quanh vua là một bọn bà con
tôn thất, dựa vào dòng họ.
Của ăn chơi cao huyết muôn người
Khi giặc đến chính bọn người trong ấy lại phản trước, lại lấy đất
nước của cải của dân mà “vạch chước hòa thân”. Quan lại là một bọn xu nịnh bợ
đỡ, chỉ biết “hại dân để lợi cho mình”, chỉ lo phú quý, chỉ lo hưởng lạc.
Ngày mong mỏi vài con ấm tử,
Tối vui chơi mấy đứa hầu non
Trang hoàng gác tía lầu son,
Đã hao mạch nước, lại mòn xương dân.
Sự đến lúc phong trần bién cố,
Thôi bây giờ mộ Á triều Âu,
Trời nghiêng đất lở mặc dầu,
Cốt thân phú quý là đầu sự lo.
Bài thiện sách sao cho khéo lạy,
Cửa cường quyền nhờ cậy kêu van,
Nay đắc tội mai cảm ơn,
Cái thân thôi thể là toàn một thân.
Cái tâm lý của bọn quan lại đốn mạt đó là
Dân mặc dân, chẳng dân thì chớ
Cứ của mình, mình giữ khư khư.
Phan Bội Châu kịch liệt đả kích vua quan và khẳng định dân là chủ
đất nước:
Nghìn muôn ức triệu người trong nước
Xây dựng nên cơ nghiệp nước nhà
Người, dân ta, của, dân ta
Dân là dân nước, nước là nước dân
…Sông phía Bắc, bể phương Đông
Nếu không dân cũng là không có gì.
Với nhận thức mới đó, Phan Bội Châu cho trách nhiệm làm mất nước chủ
yếu thuộc về vua quan nhưng người dân cũng không thể tự coi là thần tử bị động,
không có trách nhiệm
Để đến nỗi nên cơn cớ thế
Trách dân mình có lẽ trách ai
Trách nhiệm giữ nước, khôi phục đất nước không thể chờ gì ở vua quan
được mà chỉ thuộc về dân. Phan đặt cả hy vọng vào “năm mươi triệu số dân trong
nước”, họ đều là “cháu con một họ”, đều là “chú bác anh em”, đều có chung cái
tài sản là đất nước cha ông để lại. Cho nên cái mưu kế cứu nước “chỉ có một
câu”:
Cốt rằng người nước cùng nhau một lòng.
Để cho mất nước, dân có trách
nhiệm; khôi phục đất nước là trách nhiệm của dân, nhưng Phan Bội Châu không
quan niệm dân trong xã hội theo đẳng cấp như phong kiến, không chia theo nghề
nghiệp và thu nhập như kiểu tư sản mà cũng không phải chia theo giai cấp như
quan điểm vô sản.
Bốn phương nào sĩ nào nông
Nào công nào cố đều cùng anh em
Vẫn là quan niệm tứ dân. Trong lúc nền kinh tế phong kiến chưa có
thay đổi gì lớn nhìn theo cách cũ hay nhìn theo cách mới cũng chỉ thấy bốn
nghề, bốn hạng người cho nên dễ có sự nhầm lẫn. nhưng bên dưới là tứ dân hay
bốn nghề chưa rõ ràng thì ben trên là vua quan hay bộ máy nhà nước tư sản cũng
khó rõ ràng được.
Mục đích của Phan Bội Châu là tập hợp lực lượng cứu nước. Ông không
nhìn ra sức mạnh ở vị trí kinh tế và xã hội mà chỉ thấy sức mạnh ở tinh thần
yêu nước. Với ý nghĩa đó ông nói đến mười hạng người: phú hào, quan tước thế
gia, lính tập, gia tô, côn đồ, nghịch tử, nhi nữ anh thư, bếp bồi thông ký, cừu
gia tử đệ và sĩ. Nhắm mục đích phát động toàn dân nổi dậy chống Pháp, Phan yêu
cầu người phú hào:
Khơi bốn bể nuôi rồng hành vụ
Đem nghìn vàng tậu ngựa truy phong.
Làm Lỗ Túc, làm Trương Lương bỏ gia tài ra giúp nước, “đem lòng phổ
tế ra tay anh hùng”. Ông yêu cầu đám quan lại là “kế phản gián” “thừa cơ đảo
giáo, gieo gươm”. Ông yêu cầu lính tập “vì người Nam” “oán sâu quyết báo, thù
sâu quyết đền” trong lúc giáp trận, quay súng đánh Pháp “cứu cho ta mấy vạn
đồng bào”. Ông yêu cầu đồng bào công giáo “cứu cho ta địa ngục thoát vòng”. Ông
yêu cầu côn đồ nghịch tử
Giám đồ mật thất là ta tính liền.
Đối với phụ nữ ông mong họ bỏ của giúp binh lính, khuyên chồng con
làm nghĩa vụ cứu nước và học “người nhi nữ mà mưu anh hùng” của Nhật bản trong
chiến tranh Nga - Nhật:
Mượn yên hoa kết bạn người Nga
Bất tình sự ấy ai ngờ
Thừa cơ lấy được đồ thư đem về
Trong cuộc toàn dân chống Pháp như thế, ai cũng có cách giúp nước.
Phan khuyên mọi người ai ai cũng đem hết sức mình ra giúp nước
“Đồng tâm như thế mới là
đồng tâm”
Trong cả khối gồm mọi người Việt Nam như vậy Phan cũng nghĩ đến một
lực lượng nòng cốt. Nhìn vào thực tế xã hội, ông thấy uy tín của tầng lớp thân
sĩ, thấy mối thù của những “cừu gia tử đệ” cũng tức là con cháu các văn thần
vừa bị Pháp đàn áp, nhìn vào công việc, ông thấy sự quan trọng hàng đầu của
tuyên truyền. Vì lẽ đó ông giành cho kẻ sĩ một vai trò đặc biệt:
Quyết vùng dậy dơ tay tả đán,
Đứng đầu tên có bạn làng nho.
Kẻ sĩ vẫn được coi là hạng người đứng đầu trong công việc cứu nước
vì họ có thể
Đem những chuyện nhiệt thành ái quốc
Bảo một người, tỉnh được một người
Dần dần từ một đến mười,
Trăm, ngàn, vạn, ức ai ai tỉnh dần
Và ông yêu cầu họ
Họp chí sĩ liệu cơ thành bại,
Máu anh hùng đợi hội vân lôi;
Đem thân đại biểu cho người
Dựng nên độc lập, xướng bài tự do.
Nói đến sĩ, đến dân, đến quan không phải Phan phân tích các lực
lượng đó khách quan về mặt xã hội mà với cái nhìn của một người hành động. Phan
đánh giá thế, lực, khả năng đóng góp của họ vào công việc cứu nước từ khi phát
động cho đến khi ta và Pháp giáp chiến trong một cuộc chiến tranh có quy mô
khắp nước. Điều đó đối với Phan tất yếu phải xảy ra. Ở Phan Bội Châu có một
lòng tin không lay chuyển: là người Việt Nam, ai cũng ghét Pháp, đã ghét Pháp
nhất định họ đánh Pháp. Trong lịch sử dân tộc ta, lòng yêu nước, khối đoàn kết
dân tộc đã giúp chúng ta thắng nhiều đội quân xâm lược lớn mạnh hơn ta rất
nhiều lần. Nhưng đầu thế kỷ này, sau khi thất bại liên tiếp trước sức mạnh của
súng đồng tàu chiến của một đế quốc phương Tây, trước cái giàu mạnh của kẻ thù,
người ta sinh ra tâm lý chỉ thấy sức mạnh của kỹ thuật mà đánh giá thấp sức
mạnh của khối đoàn kết dân tộc. Phan Bội Châu là người đã đả phá tư tưởng đó,
khôi phục lòng tin tưởng vào sức mạnh của khối đoàn kết dân tộc.
Ông nhắc lại một sự thật đơn giản:
Họp khối cát chất nên non Thái
Họp nghìn dòng nên cái bể Đông
Với một lòng xác tín ông vẽ ra một cảnh nghìn muôn triệu người Việt
Nam cùng bắt tay vào
Người kiếm củi kẻ đun cơm
Kìa anh xẻ gỗ, nọ em đắp đường.
Mỗi người một tay thì việc gì làm cũng nổi, cả dân tộc đồng lòng
đánh Pháp thì nhất định sẽ đánh thắng kẻ thù
Năm mươi triệu đồng lòng đua sức
Năm mươi nghìn giống khác được bao
Cùng nhau bên ít bên nhiều
Lọ là gươm sắc súng kêu mới là.
Phan nói đến kết quả một cách tin tưởng và nói đến tương lai một
cách lạc quan:
Nếu cả nước đồng lòng như thế
Việc gì coi cũng dễ như không
Không việc gì không xong,
Nếu không xong quyết là không có trời.
Lòng tin, quyết tâm, tinh thần lạc quan của ông đã truyền vào cả một
thế hệ, làm cho rất nhiều người bỏ nước đi theo Phan Bội Châu làm nhiệm vụ cứu
nước và làm sống lại tinh thần của cả dân tộc.
Nhận thức sâu sắc được ý nghĩa của việc tập hợp lực lượng dân tộc đã
làm cho Phan Bội Châu khắc phục được nhiều thành kiến của nhà nho, của xã hội,
của thời đại ông. Về mặt xã hội, ông có cái nhìn rất thận trọng đối với phụ nữ.
Trong xã hội trước đây người ta quen nghĩ chức trách của đàn bà là ở trong
buồng the bép núc. Chuyện xã hội, chuyện làng, chuyện nước, chuyện dân từ phạm
vi họ mạc, làng xóm trở đi là việc của đàn ông. Đạo tam tòng ở Việt Nam tuy
không khắt khe đúng như trong sách nhưng cũng ít nhà nho nghĩ đến vị trí, vai
trò của người đàn bà trong xã hội. Phan Bội Châu không những biết thực tế trong
gia đình phụ nữ thường nắm tay hòm chìa khóa, hiểu giá trị lời khuyên của họ
đối với chồng con mà ông còn thấy phụ nữ cũng là quốc dân có trách nhiệm, họ có
năng lực cùng với nam giới
Ghé vai vào gánh cương thường
Kẻ nam người bắc đôi đường chia nhau
Trong một lời kêu gọi gửi từ nước ngoài về ông nói một cách khiêm
tốn chân tình
Lân la tháng tháng ngày ngày
Tội em chất đã cao tày non xanh
để nhờ chị em giúp đỡ cho.
Vì tinh thần đoàn kết dân tộc Phan đã có cái nhìn rộng rãi đối với
nhiều hạng người mà trước đây trong xã hội đã bị thành kiến căm ghét. Họ hoặc là
ra làm cho giặc như thông ngôn, ký lục, lính tập, hoặc là có quan hệ với Pháp,
đứng về phía Pháp trong phong trào Cần vương trước đây như Công giáo.
Phan nói với bếp bồi, thống ký:
Bấy lâu theo việc làm công
Vì tiền há phải có lòng vì ai.
Vì y thực, theo nòi giống khác
Dẫu ấm no, tiếng ác rửa sao?
Sao bằng tà vị đồng bào
Công danh cũng có, lẽ nào kém ai.
Với người công giáo:
Đạo Gia tô cũng đạo cứu dân
Thấy quân tàn ngược, bất nhân,
Dẫu cùng một giáo nhưng thân nỗi gì!
Dầu cho có bụng vì người Pháp
Nên lấy điều thảm thiết nói ra
Bởi vì ta lại với ta
Lẽ đâu lương giáo toan mà hại nhau!
Nhưng thắm thiết nhất là những lời ông nói với lính tập. Không những
ông chỉ ra cái cảnh khổ nhục vì mấy đồng lương mà phải đem thân làm hại làng
nước họ hàng để khuyên họ quay súng chống giặc cứu đồng bào mà ông còn viết cả
một bài ca riêng.
Các chú tập binh!
Các chú tập binh!
Chú ở An Nam sinh
Chú ở An Nam trưởng,
Chú sung chú sướng,
Chủ phủ chú phê,
Mãn hạn chú về,
Thuế sưu chú chết.
Họ đàng chú la lết,
Thân thích chú xác xơ,
Chú nghĩ lại biết chưa,
Tây công ơn chi chú?
Chú con một họ
Chú của một nhà,
Yếm bà lại buộc cổ bà…
Đây không phải chỉ là một lời ca địch vận đầy chính nghĩa mà còn là
một tấm lòng chân thành hiểu biết và thông cảm. Trong thời đại đó thấy được
những người lính theo giặc bắn vào đồng bào cũng là con một họ, vì cái ăn, cái
mặc mà phải đi theo giặc đã là khó, mà nhìn ra cái kết cục “mãn hạn chú về,
thuế sưu chú chết” lại càng khó hơn. Sự hiểu biết và lòng thông cảm như thế lại
càng khó hơn nữa đối với một người sống ở Nghệ Tĩnh ngay sau phong trào bình
Tây sát tả trong đó giáo dân và lính tập gây ra không ít tội ác đối với đồng
bào và quân Cần Vương.
Cái nhìn rộng rãi, rộng lượng, ít thành kiến của Phan còn biểu hiện
ở thái độ của ông đối với những người côn đồ nghịch tử:
Xưa nay quen thói hung hăng,
Súng con trong túi, đao lưng bên mình;
Cậy hào khí tung hoành vũ trụ
Tự xưng mình là lũ du côn;
Họp nhau mấy bọn con con
Ơn đền hoán trả há còn sợ ai.
Phan hiểu cốt cách tính nết của họ. Ông chỉ ra đúng chỗ họ tự hào:
anh hùng hảo hán, ơn đền oán trả, không biết sợ hãi ai, coi sinh tử như chơi.
Ông cũng chỉ ra nhược điểm của họ: vì tư hiềm tiểu khí, coi thường tính mạng
đồng loại, rượu chè quan tính nết tự do. Ông coi họ “cũng là người mãnh sĩ tài
năng” nhưng hành động của họ không làm tổn hại gì cho quân thù, cái chết của họ
là cái chết vô danh. Nếu không có một quá trình sống với những người du hiệp
thì một nhà nho như ông không thể rộng rãi với họ như vậy được, không thể nào
nói được đúng cả tim gan họ và bằng giọng nói mà họ nghe được như vậy:
Tôi xin trăm lạy các anh
…Gió tan xông mũi khó ưa,
Gươm sao cắp nách mà ngơ cho đành!
Hòn máu uất chất quanh đầy ruột
Anh em ơi! Xin tuốt gươm ra.
Giữa thực tế đầu thế kỷ, sau khi thất bại khắp nơi lòng người rời
rã, sợ sệt nghi kỵ lẫn nhau mà có được lòng tin yêu dân tộc như Phan Bội Châu,
tin yêu con người như Phan Bội Châu, tin ở khả năng đoàn kết và sức mạnh đoàn
kết như Phan Bội Châu thật vĩ đại. Cũng nhiệt tình yêu nước, cũng kiên cường
bất khuất mà Phan Chu Trinh viết cho toàn quyền Bô “yêu tự do, mưu độc lập, lấy
sự làm nô lệ người là xấu hổ, ngờ cho dân tộc bên châu Âu có lòng như thế là
phải rồi, chớ ngờ cho sĩ dân nước Nam như thế thì không khác gì ngờ cho người
bị bệnh bại trèo tường ăn cướp, ngờ cho đứa trẻ ba tuổi đốt nhà giết người.
Nước Nam đã lâu nay học thuyết sai lầm, phong tục hư hỏng, không có liêm sỉ,
không có kiến thức, trong một làng một ấp cũng xâu xé lẫn nhau đến chết hết mới
thôi, quyết không thể sống nổi trong cái thế giới này, lại còn chống cự ai được
nữa!”
Không phải Phan Bội Châu không thấy tình trạng “thờ ơ ai lo phận
nấy” “thấy lợi đâu bâu lại như ruồi” đến mức vì thế mà
Coi nhau như thể quân thù
Thù mong nhau bại, ghét cầu nhau hư
Đối với việc nước thì bàng quan, ích kỷ, trốn tránh, “điều hay bảo
đến tận nơi không làm”. Tình trạng rời rạc, cam chịu, ngu nhất là lại đấu đá
nhau như “gà nhốt cùng đàn” “cá nuôi cùng chậu” ấy Phan gọi là cái “vạ chất
lòng”. Ông nói một cách đau xót:
Ngồi nghĩ đến càng đau cả ruột
Ai ngăn dòng chống cột là ai?
Ấy ai đua sức, gắng tài
Rẽ mây phẩy gió, quét trời cho quang?
Thế nhưng ông không bi quan. Ông cho rằng tình hình đó là do:
Quyền dân (quân?) chủ trên đầu áp chế
Hai ngàn năm dân trí còn gì
Và với sức mạnh của cái lưỡi, cái bút
ông tin có thể làm cho ức triệu người “mê ngủ” ấy tỉnh lại. Phan Bội Châu tin
người Việt Nam, đặt hy vọng vào người dân nhưng là người dân tuộc dòng giống
Việt Nam, sinh ra trên đất nước Việt Nam chứ chưa phải người Việt Nam sống
trong tổ chức xã hội cụ thể có tài sản, có nghề nghiệp, có quyền lợi kinh tế
khác nhau, có quan hệ giai cấp với nhau, ở trong một chế độ chính trị, có quan
hệ với một tổ chức chính quyền cụ thể, đã chia ra bóc lột và bị bóc lột, áp bức
và bị áo bức. Cho nên ông thấy quan hệ dân tộc mà không thấy quan hệ xã hội, tuy
nói đến chế độ chính trị mà không thấy thực chất của chính quyền, đề xướng cách
mạng dân tộc biết gắn yêu nước với duy tân mà không ý thức đầy đủ được ý nghĩa
cách mạng kinh tế, cách mạng xã hội.
Ông nói đến nỗi khổ về sưu thuế, về
phu dịch, nói đến cảnh người lính tập khi đã trút bộ áo lính thì cũng chết về
sưu thuế như họ hàng làng nước của họ. Ông nói đến nỗi khổ nhục của những người
vì miếng cơm manh áo mà phải đi là bồi làm bếp, làm thông ký cho Pháp, coi đó
là do hoàn cảnh bắt buộc chứ không phải có dụng tâm theo giặc. Nhưng ông không
thấy vai trò nông dân. Có thể ông rất hiểu, rất thông cảm với nông dân. Có thể
khi nói cứu vớt đồng bào thì đối tượng chính mà ông nghĩ đến là nông dân. Thế
nhưng ông vẫn chưa nhìn ra nông dân là một lực lượng nhất thể, hùng hậu và có
khả năng cách mạng lớn. Ông hết sức quan tâm đến phụ nữ, luôn luôn nhắc đến họ
với tấm lòng trân trọng, tin rằng người nào trong họ cũng có khả năng góp phần
cứu nước, thế nhưng ông vẫn không nhìn thấy tình cảnh bị áp bức của phụ nữ, yêu
cầu giải phóng phụ nữ về mặt xã hội. Thiếu cái nhìn khoa học nhiều khi lòng tin
ở ông thật ngây thơ. Ông tin cả đến bọn Nguyễn Thân, Hoàng Cao Khải là người
Việt Nam, thì cũng có lúc họ có thể quay lại chống Pháp, và nếu họ làm như thế
thì kết quả lại là hết sức to lớn. Trong đời hoạt động của ông, rất nhiều lần
vì quá tin người mà ông phải trả giá rất đắt. Ông tin Phan Bá Ngọc, tin Lê Dư,
tin Nguyễn Thượng Hiền, tin Nguyễn Bá Trác… người thì làm mật thám, người thì
phản bội. Họ tìm cách nộp ông cho giặc.
Lời kêu gọi đoàn kết dân tộc, lòng
tin người của ông là một lời để thuyết phục, nhưng đó không chỉ là lời lẽ tuyên
truyền. Cái nhìn của Phan Bội Châu là cái nhìn của nhà nho, của kẻ sĩ đã tách
khỏi vua chúa nhưng chưa hòa làm một với dân, là cái nhìn của một người không
quan niệm xã hội là xã hội phong kiến như cũ mà cũng chưa quan niệm được một xã
hội theo trật tự mới.
Phan Bội Châu tán thành duy tân, chủ
trương học tập các nước Âu Mỹ và Nhật bản cả kỹ thuật, cả cách tổ chức xã hội,
nhưng trước vấn đề giành độc lập và giữ đất nước là vấn đề ông đặt lên hàng
đầu, ông nhìn sức mạnh dân tộc theo góc độ giống nòi, chủng tộc, cho nên đối
với dân thì ông nhìn theo tình đồng bào đồng chủng tất cả thành một khối, không
theo thực tế xã hội, mà đối với nước ngoài ông tin cậy nước đồng văn đồng
chủng, chưa hết được thành kiến, kỳ thị dân tộc. Ông chủ trương cầu viện Nhật
Bản nhưng không phải là người “vọng ngoại”. Ông phản đối những người chỉ trông
cậy vào nước ngoài. Ông so sánh việc cầu viện đó với việc mời thầy thuốc:
Ví như có kẻ bệnh đau nặng nề
…Tói đông lân mà rước thầy sang.
Và nói thái độ của người ỷ lại, vọng
ngoại:
Gì cũng chắc trông lưng thầy cả
Từ thuốc thang, đến hỏa lò, siêu,
Đến cùng giường chiếu người đau,
Hành trình đưa đón cũng cầu thầy cho
Đối với thái độ ỷ lại không tự lo
liệu, không tự cường như thế, Phan Bội Châu trách mắng:
Cầu thầy thể lại càng thêm nhục,
Thà nhờ tay giặc chết cho xong
Than ôi! Cái vạ chết lòng.
Sai lầm của Phan không phải là ở thái
độ ỷ lại vọng ngoại mà là ở chỗ ông không hiểu tham vọng đế quốc chủ nghĩa của
nước đồng văn đồng chủng trẻ tuổi Nhật Bản.
Nhìn vào sức mạnh đoàn kết của cả dân
tộc của nhiều hạng người khác nhau, có khả năng khác nhau, Phan cũng đã thấy
phương thức đấu tranh khác trước. Với sức mạnh đó, Phan nghĩ rằng:
Cốt trong nước người ta một bụng,
Nghìn muôn người cũng giống mặt người.
Phòng khi sưu thuế đến nơi
Bảo nhau không đóng, nó đòi được chăng?
Gọi đến lính, không thằng nào chịu,
Bắt một người ta kéo muôn người.
Trong cuộc đấu tranh với kẻ thù để
giành độc lập, ông đã thoáng nhìn ra sức mạnh của tinh thần, của lý lẽ, của tổ
chức quần chúng đấu tranh chính trị:
Việc gì phải bài binh, đụng kế,
Cứ thi gan kiện lý cho già
Của nhà ta phải trả ta,
Bên tham muốn nuốt, ắt là chẳng trôi.
Không phải Phan đã hiểu biết phương
thức đấu tranh chính trị, đấu tranh pháp lý, nhưng chủ trương kịch liệt bạo
động của ông dã không chỉ hạn chế trong xây đồn đắp lũy, đấu tranh quân sự, đấu
tranh võ trang như tư tưởng thời đại trước. Đó là một con đường làm cho tư
tưởng ông có tính chất dân tộc, dân chủ hơn.
Chuẩn bị cho một cuộc đấu tranh như
vậy, tuyên truyền giác ngộ quần chúng đóng vai trò rất quan trọng:
Mõ chuông là cái lưỡi này
Lôi đình trên ngọn bút này nổ ra.
Kẻ sĩ do đó đóng vai trò hàng đầu.
Nhưng kẻ sĩ trong quan niệm Phan Bội Châu đã không phải là người nho sĩ, dầu là
nhà nho chỉ đọc kinh truyện hay là nhà nho đã đọc tân thư tâ nvăn, chỉ biết đọc
sách. Pha nói: “Đọc sách sáng lẽ chỉ có kẻ sĩ, tư tưởng lớn lao chỉ có kẻ sĩ,
gánh nặng dường xa chỉ có kẻ sĩ nhưng kẻ sĩ phải “lấy nhiệt tình làm chính, lấy
đạo đức… dũng mãnh… lý tưởng… mưu lược… sảng khoái… khoa học… thao kiểm làm phụ
và lấy yêu nước làm mục đích”. Kẻ sĩ đó “nhóm họp đoàn thể, trao đổi tri thức,
phục tùng công lý, sửa đạo đức công dân, giữ nghĩa vụ công dân, giúp đỡ nhau,
thương yêu nhau” (hòa lệ công ngôn).
Khái niệm kẻ sĩ mở rộng bao gồm cả
văn cả võ, cả người mưu lược lẫn người khoa học rộng hơn cả tầng lớp trí thức;
phải nhiệt tình yêu nước sửa đạo đức công dân, giữ nghĩa vụ công dân tức là có
tính chất dân tộc và dân chủ; lại lập giao ước công dân xướng quyền lợi đông
dân giúp đỡ nhau tương yêu nhau tức là có tổ chức. Phan Bội Châu vẫn vướng vào
quan niệm sĩ đứng đầu tư dân nhưng lại dân tộc hóa và tư sản hóa từng lớp đó,
làm cho nó thành một tập hợp mới gồm những người giác ngộ có ý nghĩa hội, đoàn,
đảng.
Đó cũng là con đường làm cho tư tưởng
ông có tính chất dân tộc dân chủ hơn.
Vì lòng yêu nước, căm thù quân xâm
lược Phan Bội Châu đã bác bỏ quan niệm “mệnh trời”, quan niệm “nước của một
dòng họ”, khẳng định chủ quyền của dân và ông tiếp thu được tư tưởng dân chủ cả
về sau, cả tư tưởng xã hội chủ nghĩa nữa. Nhưng ông không hiểu ý nghĩa của tổ
chức xã hội, tổ chức chính quyền nên tư tưởng dân chủ của ông khá mơ hồ. Năm
1907 khi viết Hải ngoại huyết thư,
Phan vẫn chưa thật dứt khoát với tư tưởng quân chủ:
Kìa xem Nhật Bản người ta
Vua dân như thể một nhà kính yêu.
Ông cho Nhật Bản có chế độ “quân dân
cộng chủ” nên mới nói:
Chữ bình đẳng đặt đầu chính phủ
Bấy lâu nay dân chủ cộng hòa.
Từ sau cách mạng Tân Hợi ông ngả hẳn
sang chủ trương thành lập chế độ dân chủ cộng hòa và sau cách mạng tháng Mười
ông nghĩ đến cách mạng văn minh, cách mạng quốc tế, xã hội chủ nghĩa, nhưng ông
vẫn không quan niệm được đúng cách mạng xã hội, cách mạng kinh tế, tổ chức quần
chúng, vấn đề chính quyền và vấn đề quyền dân chủ để có một tư tưởng dân chủ tư
sản hay vô sản thật sự.
Dân chủ là một thử thách gay go đối
với tư tưởng nhà nho.
Tuy có những nhược điểm trong cơ sở
lý luận, tư tưởng đoàn kết dân tộc của Phan Bội Châu là một bước phát triển cao
so với tư tưởng truyền thống. Phan Bội Châu đã làm cho tư tưởng đoàn kêt scó
tính chất dân tộc rộng rãi và dân thủ. Đó là một cống hién to lớn của ông đối
với dân tộc. Tinh thần đoàn kết chân thành và rộng rãi trong tư tưởng của ông
có sức tập hợp rất lớn. Các từng lớp nhân dân cho đến cả đồng bào công giáo,
chị em phụ nữ, lính tập bòi bếp, dân anh chị đều theo ông chống Pháp, chứng
minh cho tư tưởng của ông. Phan Bội Châu đã khôi phục được truyền thống phá tan
không khí rời rạc, nghi kỵ, u uất lúc đó và phát triển tinh thần đoàn kết dân
tộc thành một đườgn lối chính trị sau này Đảng của giai cấp vô sản tiếp tục,
hoàn thiện bằng cách cung cấp cho nó một cơ sở lý luận khoa học và tổ chức thực
hiện hiệu quả to lớn. Tư tưởng đoàn kết dân tộc của Phan Bội Châu chuẩn bị nền
móng cho tư tưởng vĩ đại “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết” của Hồ chủ tịch.
*
*
*
Phan Bội Châu là một nhà nho. Nếu
thực té đã không làm cho nhà nho như ông đi theo con đường làm khanh tướng mà
lại trở thành lãnh tụ chính đảng, một cương vị xa lạ trong quy luật phát triển
của nhà nho, thì trên cương vị mới đó ông viết lời kêu gọi, viết chính luận,
viết sách bien khảo cũng là làm một công việc có ý nghĩa mới về chất lượng,
không bình thường theo quan niệm làm văn của nhà nho. Tuy vậy, qua ông, ta chưa
thấy giai đoạn trong đó một con người có thể kiêm là một nhà văn nghệ, một nhà
chính luận, một nhà khoa học mà vẫn chia tách thành những con người khác nhau
có cách tư duy, có phương pháp làm việc, có lối viết riêng. Lúc viết, dầu là
viết lời kêu gọi, viết báo, viết sách biên khảo, Phan Bội Châu vẫn làm văn theo
quan niệm văn học, tư tưởng nghệ thuật của Nho gia. Ông vẫn gắn văn chương với
đạo lý làm người, vẫn quan niệm dùng sử để treo gương, giáo dục. Văn chươgn của
ông vẫn mang tính chất giáo huấn chứ chưa phải là trình bày, mô tả, phản ánh.
Cái khác trước là ông đã nâng lòng yêu nước, nghĩa đồng chủng đồng bào, tinh
thần đoàn kết dân tộc thành một đạo lý làm người thay cho trung hiếu, thành một
nguyên tắc khen chê khi viết sử thay cho nguyên tắc chính thống, với ý thức
“phân biệt quốc sử vào giáo sử” (xem Việt
Nam quốc sử khảo, Trang 54).
Ngày nay khi chúng ta đã biết đạo đức
cộng sản chủ nghĩa, phương pháp luận sử học Mác xít thì điều đó chỉ là chuyện
đương nhiên đơn giản, nhưng đầu thé kỷ này, khi tư tưởng Nho gia còn thống trị
cách nhìn của Phan Bội Châu là táo bạo, là một tiến bộ vượt bậc.
Phan Bội Châu không chỉ là một nhà tư
tưởng, một nhà văn cần phát biểu, trình bày ý kiến của mình. Ông là một nhà
hoạt động chính trị cần biến những tư tưởng mói của mình thành hành động của
quần chúng. Văn chương của ông vừa phải làm nhiệm vụ trình bày, thuyết phục,
vừa phải làm nhiệm vụ cổ động, tổ chức quần chúng. Thích hợp với yêu cầu trình
bày tư tưởng mới là văn xuoi. Nhưng văn xuôi ở nước ta lúc đó lại chưa phát
triển. Vào thời đại đó người ta chưa có thói quen và chưa có khả năng nói những
vấn đề nghiêm túc bằng văn nôm. Văn xuôi nôm hầu như chưa được dùng để viết
văn. Phan Bội Châu là người quá quen thuộc với việc làm thơ phú chữ Hán, lại ra
nước ngoài từ 1905, lúc trong nước chữ quốc ngữ chưa truyền bá rộng rãi. Đã thế
hoàn cảnh viết văn của ông lại cũng đặc biệt, ông sống lưu vong ở Trung Quốc,
tác phẩm phải đăng trên báo Trung Quốc hoặc in ở Trung Quốc, đối tượng tuyên
truyền đầu tiên là nhà nho, muốn vào quần chúng cũng phải thông qua cái cầu nối
là nhà nho. Thường là ông phải viết hai lần: viết văn chữ Hán cho nhà nho rồi
lại dịch ý ra lục bát để tuyên truyền cho quần chúng rộng rãi. In được chữ nôm
là chuyện khó khăn. Ông phải lựa những chữ nôm phiên âm được bằng chữ Hán, nhà
in mới có tự mẫu để in. Việc ông phải dùng chữ Hán để viết, về sau làm cho ông
cách biệt với công chúng., lúc đầu là một việc cần thiết, không thể làm khác.
Tuy vẫn dùng chữ Hán nhưng văn chương ơbc sau khi xuất dương viết đã khác các
nhà nho lớp trước và cũng khác cả văn chươgn của ông trước khi xuất dương. Các
nhà nho đều dùng chữ Hán để viết văn nhưng chủ yếu là viết văn vần. Ngôn ngữ họ
dùng là thứ văn ngôn cổ. Phan Bội Châu viết nhiều văn xuôi và bằng thứ ngôn ngữ
cận đại Trung Quốc. Văn chương và ngôn ngữ của Phan Bội Châu không hẳn là văn
chương và ngôn ngữ đương đại của Trung Quốc, nó vẫn gắn với truyền thống Hán
Việt. Nhưng đó là vấn đề không cần thiết phải đi sâu ở đây. Sự đổi thay của
Phan Bội Châu có một ý nghĩa về tương quan giữa nội dung và hình thức: một mặt
tư tưởng mới, nhu cầu trình bày những vấn đề cụ thể, xác thực, lập luân rõ ràng
đòi hỏi phải chuyển dần từ văn vần sang văn xuôi, và mặt khác việc sử dụng văn
cuôi - dầu là văn xuôi nước ngoài - tạo ra khả năng to lớn trình bày nhiều nội
dung phong phú, đổi thay cả cách suy nghĩ của người viết. Đó cũng là một khía
cạnh trong công việc cách tân văn học của Phan Bội Châu.
Vì chủ yếu là trình bày ý kiến để
thuyết phục nên Phan Bội Châu đã chuyển từ viết văn cử tử sang dùng văn xuôi
viết luận thuyết. Luận thuyết – chính luận – là một thể loại mà các nhà nho
trước đây không quen viết. Cả tư tưởng theo cổ của Nho gia, cả lối văn xuôi
nặng tính chất biền ngẫu, bát cổ trói buộc việc diễn đạt tư tưởng. Đầu thế kỷ
XX, do tình hình tiếp xúc với văn háo và tư tưởng châu Âu, trong văn học có xu
hướng tất yếu, phải phát triển thể loại đó. Phan Bội Châu đã nhanh chóng viết
văn luận thuyết nhưng nếu so với Phan Chu Trinh, tác giả Văn minh tân học sách, văn luận thuyết của Phan Bội Châu có nhược
điểm: ít tri thức khoa học, ít tính chất lý luận ít tính chất lôgic. Phan Bội
Châu là nhà nho duy tân, không biết tiếng châu Âu, không đọc nhiều sách vở châu
Âu, không am hiểu tư tưởng và văn học châu Âu. Nổi bật trong văn luận thuyết
của ông vẫn là nhiệt tình yeu nước. Phan Bội Châu không bao giờ chỉ trình bày ý
kiến, nhằm thuyết phục lý trí bằng chứng cớ, lý lẽ chính xác. Kể cả trường hợp
đáng lẽ đã nổ ra tranh luân gay go như trường hợp mâu thuẫn sâu sắc về đường lối
giữa ông và Phan Chu Trinh, ông cũng chỉ lập luận đơn giản: “Quốc dân ta ngày
nay còng đang măng sữa… Răng đứa trẻ còn chưa chắc chắn mà đã đút xương bắt
nhai, chân đi chưa vững mà lấy roi vọt khua bắt chạy, thế mà muốn nó không
khóc, khong què thì thiệt là vô lý”. “Kẻ thù bên ngoài chưa diệt mà trong nọi
bộ đảng đã chia rẽ… Dân không còn nữa mà chủ với ai?” Và cái lý do cuối cùng có
lẽ thuyết phục nhất đối với các cụ là “Huynh ông nghĩ xem! Mặt tôi đây có thể
đi làm tôi đòi, làm chó săn đâu” (Thư gửi
Phan Chu Trinh).
Lập luận thật đơn sơ! Ông không phân
tích thực tế sâu sắc mà cũng không dựa vào lý luận khoa học. Nhiệt tình yêu
nước, căm thù giặc, lòng thông cảm với dân, lòng tin ở dân tộc, ở thắng lợi làm
cho văn chương ông thấm máu và nước mắt. Trong cuộc đời làm cách mạng của Phan,
những năm kể là đắc ý rất ít. Ông gặp hết thất bại này đến thất bại khác. Phong
trào cách mạng phát triển khó khăn, bị khủng bố dữ dội, bản thân ôngbị Nhật
trục xuất, bị Long Tế Quang bắt giam. Chuyện đồng chí hư hỏng, phản bội, nhân
dân cam chịu hưởng ứng càng ngày càng thưa thớt không kể hết. Nưhng dầu ông
sống cực nhục đến đâu, nhiêt jtình và lòng tin ở ông không bao giờ thay đổi.
Sẵn có trau dồi về văn chương bác học, lại quen thuộc lời ăn tiếng nói, câu ca,
bài hát của nhân dân, ông đã khai thác cái đẹp hùng tráng mỹ lệ của thể phú,
dùng những hình ảnh, những lời nói của nhân dân làm cho văn chưong ông vừa có
cái đẹp trang nhã, câu chữ chọn lọc, tổ chức nghiêm chỉnh, vừa có cái đẹp trong
sáng, giản dị. Nhiệt tình, lòng tin làm cho văn ông vừa có cái giọng thân
thiết, thân tình, lâm ly thống thiết, làm cho người nghe chảy nước mắt, vừa có
cái giọng hùng hồn, hừng hực chiến đấu làm cho người nghe căm thù Phan chấn,
trái tim bốc lửa. Nó là văn giáo huấn mà vẫn đi sâu vào tình cảm, thôi thúc mọi
người đứng dậy hành động cứu nước. Sức mạnh của văn Phan Bội Châu là ở chỗ kích
động tình cảm chứ không phải ở thuyết phục lý tính, là văn luận thuyết nhưng
lại tràn đầy tính chất trữ tình. Phan Bội Châu tạo được cho mình một văn phong riêng.
Văn chương của ông không những tác động sâu sắc, tuyên truyền cổ động mấy thế
hệ đi vào con đường cách mạng dân tộc, mà ảnh hưởng trực tiếp làm cho nhiều
người cùng thời học viết theo ông.
Trong phong trào yêu nước và duy tân
ở nước ta đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu là người tiêu biểu cho dân tộc. Theo lời
kêu gọi của ông, một thế hệ thanh niên đã đi vào con đường cứu nước, thành lập
chính đảng chống Pháp. Nhiều người trong số đó đã theo ông lưu vong ra nước
ngoài. Họ không những chịu ảnh hưởng ông về tư tưởng mà còn chịu ảnh hưởng ông
cả về văn học. Ở trong nước những người như Đặng Thái Thân, Phạm Văn Ngôn đều
viết hùng tráng, lâm ly theo văn phong của ông. Ở ngoài nước, những người đồng
chí viết nhữgn đề tài giống ông (Nguyễn Thượng Hiền viết Giọt lệ bể dâu, Liệt truyện; Mai Lão Nạng viết Khuyên đồng tâm…) mà những người trẻ tuổi, nhất là học trò ông như
Hoàng Trọng Hậu, Trần Hữu Lực không viết những đề tài giống ông mà lại cũng
viết theo văn phong của ông nữa. Họ tập hợp xung quanh Phan Bội Châu, người
lãnh tụ, người thầy, nhà văn đàn anh thành một nhóm viết văn theo một xu hướng
– có thể gọi là nhóm văn học yêu nước lưu vong. Văn chươgn của nhóm này về nội
dung và nghệ thuật có khác với nhóm Đông Kinh nghĩa thục mà về thời gian kéo
dài hơn. Về nội dung nó tiêu biểu cho dân tộc, cho thời đại, về nghệ thuật nó
đánh dấu một bước phát triển mới. Tác động của nó tích cực và rộng rãi. Sáng
kiến dùng lục bát viết diễn ca truyền bá tư tưởng cách mạng và cổ động nông dân
của họ thành một kinh nghiệm được sử dụng trong phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh và
cho đến say này.
Trong hai mươi năm đầu thế kỷ này,
Phan Bội Châu không những là ngôi sao dẫn đường về chính trị, tư tưởng mà cũng
là ngôi sao dẫn đường về văn học nữa.
*
*
*
IV. NHÀ VĂN VIẾT VỀ NGƯỜI ANH HÙNG
CỨU QUỐC
Phan Bội Châu không chỉ là nhà văn
chính trị mà còn là một nhà văn nghệ. Nhưng là người ngay từ lúc còn đeo đuổi
thi cử, đã coi việc lập thân bằng sự nghiệp văn chương là hèn hạ, khi chọn con
đường làm người hào kiệt cứu dân cứu nước thì đồng thời Phan Bội Châu cũng lựa
chọn một quan niệm văn học. Quan niệm văn học của ông còn rất gần quan niệm Nho
gia chính thống: đề cao văn chương chính đạo, khinh thường văn nghệ, coi nó là
phù phiếm chỉ để mua vui. Trong thời kỳ hoạt động chính trị sôi nổi, ngoài
những lời kêu gọi, những bài chính luận, Phan cũng có viêt smột số tác phẩm
mang tính chất văn nghệ. Trước gương hy sinh của nhiều đồng chí, ông thấy có
trách nhiệm ghi lại cho đời sau biết về họ. Trong lúc phong trào cách mạng gặp
khó khăn không khỏi xảy ra tình trạng chán nản, dao động về tinh thần và bất
hòa chia rẽ trong tổ chức, ông phải động viên giáo dục quầnchúng và đồgn chí.
Nhưng cũng trong tình hình vấp váp khó khăn như vậy, Phan Bội Châu vẫn ít làm
thơ bộc bạch, ký ngụ tâm sự, viết cho mình như nhiều nhà nho trong trường hợp
đó thường làm. Ở Phan Bội Châu mục đích hoạt động chính trị và quan niệm văn
chương giáo huấn vị đời cho phối khó chặt chẽ tư tưởng khi cầm bút.
Từ năm 1920 nhất là từ năm 1922 vì
sinh kế, Phan Bội Châu phải làm nghề viết báo. Từ viết báo ông bắt buộc phải
viết văn nghệ. Với tư liệu và vốn sống tích lũy được trong đời hoạt động của
mình, ông viết một số truyện ngắn và tiểu thuyết. Viết văn nghệ đối với ông là
một việc làm bất đắc dĩ. Một bước đi không tự giác. Với quan niệm chính thống
về vưn học ông ìm mọi cách làm cho văn chương mình viết có ích. Ông chọn những
đề tài lịch sử đem tư tưởng yêu nước cách mạng để giáo dục, viết truyện để treo
gương. Chủ nghĩa anh hùng mà ông quan tâm khá liên tục trở thành nội dung tư tưởng
chủ đạo trong các tác phẩm văn nghệ mà ông viết.
Đề xướng duy tân để cứu nước, các nhà
nho yêu nước đầu thế kỷ đã bắt đầu bằng việc phê phán người hủ nho và bàn về
phẩm chất người quốc dân. Nhưng người quốc dân mà “Đông Kinh nghĩa thục” đề
xướng vẫn chưa phải là người hành động cứu nước trong một tổ chức cách mạng.
Phan Bội Châu ôm ấp mộng làm hào kiệtcũng đã là phủ định hủ nho. Khi hoạt động
cứu nước, vận động tổ chức chính đảng, trong thực tế ông phải quan tâm đến khả
năng thành bại, đến việc lựa chọn và đào tạo những con người mới. Ông phải suy
nghĩ về những người anh hùng hành động cứu nước cụ thể. Phan Bội Châu đề cập
đến chủ nghĩa anh hùng và người anh hùng trong nhiều bài chính luận và sách
biên khảo và điều đáng chú ý là các tác phẩm văn nghệ của ông hầu như chỉ nói
đến có một nhân vật: người anh hùng cứu nước.
Khi mô tả nhân vật anh hùng vào tác
phẩm nghệ thuật không những quan niệm văn học của ông là cũ mà ông lại không
quen thuộc nghệ thuật viết văn hiện đại. Ông sử dụng một cách rộng rãi kinh nghiệm
viết văn cũ để viết truyện ngắn và tiểu thuyết hiện đại, mang dấu vết rõ rệt
của một quá trình cách tâ nghệ thuật truyền thống để nói nội dung đổi mới. Tất
cả tinh thần táo bạo và sức sáng tạo của Phan Bội Châu là ở công việc cách tân
nội dung và nghệ thuật đó.
1. Tuồng Trưng nữ vương
Tác phẩm văn nghệ thực sự đầu tiên
của Phan Bội Châu là tuồng Trưng nữ vương,
sáng tác vào năm 1911 ở trại Bản Thầm (Thái Lan). Năm 1910, khi ở trong nước,
Duy tân hội bị khủng bố, tan rã mà ở Trung Quốc hoạt động gặp bế tắc, Phan Bội
Châu chủ trương đưa các đồng chí sang Thái Lan lập trại cày “làm kế lâu dài”,
trong cuộc sống mới, Phan tuy “không cày bừa được nhưng cũng nón mê áo rách,
kiếm củi hái rau” với mọi người (PBCNB, 137). Cuộc sống tập thể nhất là vào lúc
gặp hoàn cảnh khó khăn, cần đến sinh hoạt văn nghệ. Phan Bội Châu đã làm ba bài
ca Ái Quốc, Ái chúng, Ái quân cho anh em chăn trâu, làm ruộng hát và sáng tác
tuồng Trưng nữ vương cho anh em diễn.
Theo nề nếp lúc đó, chắc Phan Bội
Châu không viết thành văn cả vở tuồng. Người sáng tác chỉ xếp đặt cốt truyện
(tích) và đặt một số lời hát. Khi “tập trò”, “diễn trò” diễn viên mới thêm bớt,
ứng khẩu thêm thành vở tuồng hoàn chỉnh. Tuồng Trưng nữ vương mà ta có ngày nay đã trải qua sự sửa chữa của nhiều
thế hệ diễn viên nhưng nội dung cốt truyện và những bài hát thì chắc là của
Phan Bội Châu.
Mục đích sáng tạo của ông là “cổ vũ
tấm lòng yêu nước… gieo hạt giống cách mạng ở giữa khoảng nước biếc non xanh” (Ngục trung thư). Theo quan niệm tuyên
truyền của mình, Phan Bội Châu đã đương đại hóa cốt truyện lịch sử, làm người
xem tiếp xúc với cuọc sống không phải của thế kỷ I trước ông nguyên mà với cuộc
sống của thời kỳ thuộc Pháp đầu thế kỷ XX (thuế má, cảnh sát hứa thưởng Bác đẩu
bội tinh cho ai bắt được Thi Bằng, lý trưởng đút lót 5 hào cho Từ Phú…). Những
chi tiết phi lịch sử, đội mũ thuộc địa cho tên Thai thú đời Hán như vậy nằm
trong một quan niệm thống nhất của ông khi viết về đề tài lịch sử.
Phan Bội Châu có dụng ý thay đổi chủ
đề của câu chuyện và do đó cả cốt truyện để làm cho cuộc khởi nghĩa của Hai bà
Trưng phản ánh thực tế đấu tranh chống Pháp và nhất là phản ánh quan niệm cứu
nước của ông. Trong sử sách, viết theo quan điểm phong kiến, Trưng Trắc vì thù
chống mà nổi lên đánh đuổi Tô Định, sau khi thắng lợi, giành lại được đất nước
hai bà lên làm vua. Phan Bội Châu giải thích sự kiện lịch sử đó thành ta một
cuộc vận động chống áp bức dân tộc. Thi Sách và Trưng Trắc đã nuôi chí đánh
đuổi Tô Định từ trước. Việc Tô Định sai Thi Sách đi thu ngọc trai, ngà voi chỉ
là một kế thử thách. Mâu thuẫn đối kháng giữa hai bên đã diễn ra từ trước. Báo
thù cho Thi Sách chỉ là cái cớ của cuộc khởi nghĩa. Trưng Trắc lên làm vua cũng
là do tình thế “quốc dân suy đái, tướng sĩ hàm tôn, thế trẫm khó từ nan, phải
đảm đương dân chủ” (Tuồng Trưng nữ vương,
Trang 18).
Với dụng ý nhấn mạnh nội dung “Thù
dân so với thù chồng nặng hơn”, không những ông giới thiệu tâm trạng uất ức của
Thi Sách, nguyện ước khôi phục đất nước của Trưng Trắc, Thi Bằng mà còn trình
bày hai tuyến nhân vật và khung cảnh khác với tuồng truyền thống. Tuồng truyền
thống (không kể tuồng đồ) là một thể loại nghệ thuật căn bản có tính chất cung
đình. Chủ đề tư tưởng của tuồng là đề cao trung hiếu tiết nghĩa. Nhân vật
thường chia ra hai tuyền trung, nịnh rõ rệt. Hành động sân khấu thường là những
âm mưu tranh đoạt ngôi vua, là cuộc đấu tranh của những người tôi trung nghĩa
chống lại bọn phản nghịch. Tuy cũng có lúc tuồng đề cập đến tình cha con, mẹ
con, vợ chồng, anh em, bè bạn… nhưng cuộc sống bình thường, đời sống xã hội và
nhân dân không có vai trò đáng kể trên sân khấu. Khung cảnh của hành động sân
khấu tuồng thường là cảnh triều đình, cảnh chiến trường. Trong tuồng Trưng nữ
vương, bên cạnh tên Thái thú tham tàn và giảo quyệt, còn có Từ Phú, Trần Quý
không được mô tả như những tên gian nịnh trong tuồng cổ mà như những tên bán
nước hèn hạ. Bên cạnh Trưng Trắc, không phải chỉ có Thi Sách, Trưng Nhị, Thi
Bằng mà còn có Liên Hoàn, lý trưởng, thằng mõ, cô Hoe bà … tập thể nhân dân
trên biển và miền núi có vai trò rõ rệt trên sân khấu. Chủ đề tư tưởng thay đổi
mà khung cảnh cũng thay đổi. Trong tuồng Trưng nữ vương cũng có cảnh triều
đình, cảnh chiến trường, nhưng nổi bật
trong đó lại là cảnh nông thôn. Đây là những làng xã có bô lão, có trai
tráng, có thằng mõ, có quan về hiếu thị, có phòng, lính về quấy rối sách nhiễu
và nhất là có người
“Biết dăm ba chữ, ra giữ lý trưởng
cho làng. Ba chén rượu huênh hoang, quan về đòi cũng rứa, lính về đòi cũng rứa.
Từ việc thuế, việc khóa, đến công ích, công sưu, rày vạn sự đáo đầu, một mình
min lo cả, một tay min liệu cả. Qưyền rơm vụ đá, tiếng cả nhà không, ai cũng
biết ơn lòng, ai không biết cũng mặc ý. Được tình thì mất lý, lợi quan thì hại
dân”.
(Tuồng Trưng nữ vương, trang 28)
Trong khung cảnh đó có quan hệ vợ
chồng, anh em, làng xóm; người đàn ông là lý trưởng hay cô Hoe lái đò lấy uy
thế gia trưởng mắng át vợ và người vợ hiền hòa tránh xung khắc, đưa “chén rượu
nhạt với đĩa cá kho” để “ông uống cho thơm tho”, giữ cho tình nghĩa vợ chồng êm
mát. Tâm trạng của nhân dân cũng được chú ý. Ở đây có những người dân sẵn sàng
hưởng ứng khởi nghĩa, mong “bao giờ sẵn có cơ quan” thì được tham gia mà cũng
có những cụ bô lão tưởng có “việc chèo việc hiếu, việc tang khó trong dân” thì
“lật đật không kịp chít khăn” ra đình nói một cách rất kẻ cả: “Chúng tôi ăn lo
đã lắm rồi”, nhưng đến khi nghe bàn chuyện chống giặc thì không dám “làm chi
điều già nó trót đời, mang áo tơi mà chết”. Ở đây cũng có những người “nhân
tình nước nể, thế sự xéo bè”, chịu khó nhọc kiếm ăn nhưng không chịu cứu giúp
Thi Bằng vì sợ nguy hiểm “làm phúc không bằng xúc lấy tội. Ở đây có người đầy
tớ (thằng Hề) cũng biết thương chủ, nhưng hai lần vì khó khăn hay vì sợ nguy
hiểm đã từ chối, trốn tránh không chịu giúp chủ. Đến khi cuộc khởi nghĩa đã
thắng lợi, Hề được Bà Trưng gọi đến, anh ta cũng sợ mang tiếng “bắt cá hai
tay”, nhưng cũng tự an ủi
Chữ quyền chữ tước, ai nỏ mon
men
Đồng bạc đồng tiền, ai không
lóc lẻm.
Thấy công
việc không có gì nguy hiểm khó khăn, Hề chạy rất mau để “thầy sung sướng thầy,
tớ sung sướng tớ” (trang 95)
Đến chủ
đề yêu nước đoàn kết dân tộc thay cho chủ đề trung hiếu tiết nghĩa, Phan Bội
Châu cũng đã đem con người và cuộc sống xã hội bình thường vào tuồng, làm cho
tuồng thay đổi tính chất.
Nổi bật
trong tuồng Trưng nữ vương là nhân vật
phụ nữ. Trưng Trắc là nhân vật chính. Bà cầm đầu cuộc khởi nghĩa và cuối cùng
lên ngôi vua. Nhưng Phan Bội Châu không mô tả bà như một tướng lĩnh anh hùng,
một nhân vật xuất chúng. Bà là người yêu nước “sợ tâm vốn đã nguyền cùng thiên
địa, xin đem mình phó với giang sơn”, nhưng bà cũng là một người đàn bà bình
thường. Khi Tôn Sách hỏi ý kiến thì nhường quyền quyết định cho chồng. Khi
chồng chết cũng đau đớn, bộc lộ một phút yếu đuối giao động, phải có Thi Bằng
nhắc khéo bà mới trở lại con người anh hùng vì nước. Khi Thi Bằng bị hy sinh,
bà tỏ ra bối rối, nói với Trưng Nhị: “Dạ chị rầy chín khúc rối ren, thôi muôn
việc có lẽ nhất triều mà tận phế” (trang 83). Phải có Trưng Nhị can ngăn và
Liên Hoàn khuyên bảo “bà làm thế tối sợ rồi sai việc”, Trưng Trắc mới lại hành
động sáng suốt. Đánh đuổi được bọn Tô Định, bà nghĩ ngay đến chuyện làm chay
cho chồng, chứ không phải lên ngôi vua. Đối với việc làm vua bà đắn đo băn
khoăn vì mình là “phường cân quắc”, không dám “đương chức cả ngôi cao”, làm
“điều không phải” với tướng sĩ và nhân dân.
Nổi bật bên cạnh Trưng Trắc ngoài Trưng Nhị
còn có Liên Hoàn, là một thị tỳ, Liên Hoàn là một người tận tâm với chủ, hơn
thế nàng là người yêu nước, đảm đang và quyết đoán. Liên Hoàn không những không
ngần ngại nhận nhiệm vụ coi sóc việc nhà cho Trưng Trắc đi đánh giặc mà còn chủ
động về thuyết phục anh tham gia khởi nghĩa. Liên Hoàn đã thuyết phục anh và
chị dâu một cách rất hợp tình hợp lý mà cũng đã can ngăn Trưng Trắc một cách
sáng suốt đúng lúc. Bên cạnh người nữ thanh niên đó, cô Hoe bà, cụ già chèo đò
trên sông Bạch Đằng cũng là một hình ảnh rất đẹp. Cố là một người căm thù giặc,
khinh bỉ “những đồ ma khái, tôi tớ người mà cõng rắn cắn gà nhà”(trang 54). Cố
cũng là người can đảm, dám cứu Thi Bằng vì biết hai chú cháu Thi Bằng vì dân,
vì nước mà chịu thiệt. Trong quan hệ với xung quanh vả cố Hoe bà, Liên Hoàn và
cả Trưng Trắc nữa cư xử như những người đàn bà Việt Nam bình thường.
Viết
tuồng nhưng Phan Bội Châu không có ý định sáng tác văn nghệ. Nghệ thuật đối với
ông chỉ có một ý nghĩa đáng kể là tuyên truyền cho chủ trương chính trị. Ông đã
cho Thi Sách đem nội dung yêu nước, đoàn kết dân tộc của ông, hiểu thị cho dân
miền biển, miền núi, để quan Hàn lâm ra trước trận đọc hịch kể tội giặc (Tô
Định hay Pháp?) và để cho nhà sư tụng bài: “Phen này cắt tóc đi tu” của Nguyễn
Quyền thay cho bài kinh để làm chay. Ông viết theo sự chỉ đạo của tư tưởng
chính trị chứ không phải theo yêu cầu những quy định về nghệ thuật của thể
loại. Viết tuồng không phải khó đối với Phan Bội Châu. Phú vốn là thể loại Phan
viết thành công nhất. Thế nhưng ông không quan tâm đến nghệ thuật mà có thể là
không am hiểu nghệ thuật cả bài bản làn điệu của tuồng chèo, cả nghệ thuật xây
dựng nhân vật và kết cấu của một vở tuồng, vở kịch.
Phan Bội
Châu đã dùng nghệ thuật sân khấu cổ truyền để tuyên truyền cho chủ trương bạo
động cứu nước, đoàn kết dân tộc, và qua đó thể hiện cả tư tưởng dân chủ của
mình. Ông có dụng ý rõ rệt đề cao vai trò của nhân dân, của những người anh
hùng vô danh trong cuộc cứu nước giành độc lập. Trưng Trắc đã không tiếp Từ Phú
và Trần Quý, mà để cho hai tên phản bội “ra lạy tạ quốc dân, quốc dân thỏa thì
ta cho sống” (trang 93). Sau khi chiến thắng, tiến hành ban thưởng cho những
người có công trạng, Trưng Trắc khen thưởng cố Hoe bà trước các tướng sĩ với lý
do “Kẻ vô danh mà giữ lấy can trường, biết tiếc nước biết thương dân là mấy
có”. Thế nhưng ở đây ta cũng cần lưu ý đối với Liên Hoàn, người nữ tỳ đã giúp
đỡ rất nhiều cho cuộc khởi nghĩa, đã có công “thanh toán miếu đường” thì bà
Trưng cũng chỉ tuyên bố “kén trong văn võ lưỡng ban, để trạch phối cho đáng đôi
đáng lứa” (trang 101). Ta không thấy Liên Hoàn được ban tước, được đặt vào vị
trí quan trọng trong triều đình. Sự thiếu công bằng đó chứng tỏ vấn đề vị trí
xã hội và chính trị của phụ nữ trong tư tưởng còn có chỗ hạn chế.
Phan Bội Châu đưa nhân dân, cuộc sống
xã hội bình thường vào tuồng, làm cho bộ môn nghệ thuật này bớt tính chất cung
đình, có tính chất nhân dân cao hơn, có ý nghĩa cách tân quan trọng về thể
loại. Trong tuồng Trưng nữ vương “một số đoạn lại viết theo lối kịch bản chèo”,
“hạn chế cho diễn viên sân khấu tuồng” (Hoàng Châu Lý. Sơ khảo lịch sử
tuồng.Nxb Văn hóa,1973, trang 144). Về một mặt, đó là do “tác giả không nghiên
cứu kỹ công năng của các làn điệu hát” (SGK), nhưng mặt khác, tác giả hay cả
diễn viên nữa, phản ánh một chặng đường phát triển trong văn học lúc đó: cách
tân nghệ thuật chính thống bằng cách tiếp thu nghệ thuật dân gian. Ở đây là đem
cuộc sống thôn xóm với cái cười đả kích của chèo vào tuồng.
2.
Truyện và truyện ngắn
Một thể loại mà Phan Bội Châu viết khá
nhiều là “truyện” những người yêu nước đã hy sinh trong phong trào chống Pháp,
nhất là những người cùng với ông lưu vong sang Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan.
Lịch sử phong trào Đông du là một lịch sử hùng tráng và bi thảm. Nghe theo
tiếng gọi cứu nước, nhiều người đã bỏ nhà, bở nước ra đi, quyết tâm khôi phục
đất nước. Nhưng trong thực tế, hoạt động cách mạng không được chuẩn bị chu đáo,
cơ sở cách mạng không được chuẩn bị chu đáo, cơ sở cách mạng tổ chức không chặt
chẽ. Ra nước ngoài, họ gặp đủ mọi cảnh khốn khổ: quân giặc bắt bớ, khủng bố,
mật thám theo dõi, chính phủ Nhật Bản, nhà đương cục Trung Quốc ngược đãi và
thường xuyên họ chịu cảnh thiếu thốn, đói rét, bệnh tật, lần lượt người này đến
người khác hy sinh. “Có người đánh giặc mà chết, có người mạo hiểm mà chết, có
người chết để thực hiện chí mình” (Đặng Đoàn Bằng. Tựa Việt Nam nghĩa liệu sử). Là người chịu trách nhiệm về phong trào và
với từng người, Phan Bội Châu rất đau xót trước tình cảnh đó. Mỗi lúc có người
hy sinh, ông lại ghi chép về họ, mong lưu danh họ trong sử sách, mong dùng tấm
gương của họ giáo dục những người đang sống. Phan làm công việc đó rất liên
tục. Trong Việt Nam vong quốc sử ông đã chép về các văn thân chống Pháp cuối
thế kỷ XIX, và từ năm 1907-1908 khi Tăng Bạt Hổ về nước ốm chết, Trần Đông
Phong uất ức tự tử, ông đã ghi chép về họ; cho đến khi về già ở Bến Ngự, ông
còn viết truyện Tiểu La, truyện Phan Tây Hồ. Một số truyện ông viết được
thu thập, in trong cuốn Việt Nam nghĩa liệt
sử. Việt Nam nghĩa liệt sử tập
hợp ghi chép của nhiều người: có truyện chỉ là vài dòng tiểu sử sơ sài, nhưng
có một số truyện viết cẩn thận, có tính chất văn học. Có một số nhân vật, một
số chi tiết liên quan riêng đến Phan Bội Châu và hầu như chỉ có Phan Bội Châu
mới biết. Những truyện đó thường cũng là những chuyện viết có tính chất văn học
nhất. Ta có thể căn cứ vào đó để bàn về cách viết truyện của ông.
Đối tượng Phan Bội Châu đưa ra viết
truyện là bè bạn, là đồng chí, một số đông trong đó là học trò, là người dưới
quyền, về hàng tuổi tác là hàng con cháu của ông nhưng Phan viết về họ không
chỉ với tình cảm đồng chí thiết tha mà với cả tấm lòng đau xót tự trách mình
kém cỏi, có trách nhiệm gây ra sự hy sinh của họ. Việc người thật, việc thật,
nhắm theo gương, giáo dục lại tâm tình sùng kính người xưa như vậy tự nhiên
Phan Bội Châu dễ đi theo hướng tiếp thu nghệ thuật của thể loại liệt truyện
trong sử ký.
Liệt truyện là một thể loại mà Tư Mã
Thiên sáng tạo, dùng để viết sử ký, về sau ảnh hưởng đến cách chép sử, chép gia
phả, viết bi ký… Liệt truyện thường là kể sự tích một người có kèm lời đánh
giá. Khi viết thành văn bi ký thường có cả lời ca hay lời minh bằng thơ ở cuối
bài. Đây là một thể văn trang nghiêm viết vể người thật, việc thật, không được
dưa vào đó những chi tiết tầm thường, rườm rà. Người viết thường đứng ở cương
vị con cháu, người dưới viết để ghi công, để ca tụng, tất nhên không tránh khỏi
thêm bớt, tô điểm, nhấn mạnh những mặt tốt, che giấu, kiêng tránh những mặt
yếu, những thiếu sót, nhưng về nguyên tắc liệt truyện đòi hỏi sự chân thực,
không được hư cấu. Vì lẽ viết truyện một người nên quan niệm con người của Nho
gia chi phối khá rõ rệt cách lựa chọn chi tiết đưa vào liệt truyện. Liệt truyện
là người kể toàn bộ, có đầu đuôi cuộc đời của một người cho nên người ta thường
chú ý đến gia thế với quan niệm phúc ấm, đến đạo đức theo quan niệm cương
thường, đến kinh lịch, sự nghiệp, quá trình thành đạt trong cuộc đời. Trong
liệt truyện, người ta cũng chú ý đến khắc họa một vài nét tiêu biểu của tính
cách nhân vật nhưng thường là với thái độ nghiêm chỉnh, sùng kính và viết rất
gọn. Văn liệt truyện phải viết ngắn, cô đọng, đĩnh đạc, không chuộng hoa mỹ.
Người viết có thể có mặt nhưng tự kiềm chế và giữ thái độ khách quan, tôn trọng
đối với nhân vật. Trong liệt truyện có lời bình luận, nhưng bình luận phải hết
sức gọn, hầu như bằng một số thuật ngữ xếp loại định sẵn bằng cách dùng điển
tích gây liên tưởng đến một hình ảnh có sẵn trong sử sách. Đó là lời bình luận
theo sử bút nghĩa là phải xác đáng, thành lời bàn “thiết trạch thiên cổ”.
Vào thời đại của Phan Bội Châu, đó là
thể loại phổ biến thích hợp để ghi chép chuyện các đồng chí đã hy sinh. Nhưng
so với yêu cầu viết để tuyên truyền giáo dục thì nó có nhược điểm. Thứ nhất nó
hạn chế những tình tiết cụ thể gây xúc động. Thứ hai nó hạn chế việc trình bày
ý kiến phân tích để thuyết phục. Trong điều kiện viết truyện không phải để khắc
lên đá, viết lên trướng hay chép vào một bộ sử mà là in thành sách, người viết
có điều kiện viết dài hơn và tự do hơn. Đó là thực tế đã làm cho Phan Bội Châu
đi từ liệt truyện, mở rộng thành truyện và cuối cùng thành truyện ngắn. Nếu
chúng ta so sánh các truyện Nguyên Hàm, Trần Quý Cáp, Đặng Thái Thân, Nữ liệt
sĩ Đinh phu nhân trong Việt Nam nghĩa
liệt sử với Chân tướng quân, Nhà sư ăn rau, Tái sinh sinh, truyện Phạm Hồng
Thái, thì chúng ta nhìn thấy rõ ràng quá trình cách tân từ liệt truyện đến
truyện ngắn của Phan Bội Châu. Từ lối kể có đầu có đuôi chuyện thực ngắn gọn và
khô khan, cuối cùng Phan Bội Châu đã chú ý tả cảnh, tả người, chú ý sắp xếp cốt
truyện, chọn lịc và hư cấu những tình tiết nhằm làm cho truyện ly kỳ hấp dẫn.
Liệt truyện trở thành truyện ngắn (như trường hợp Nhà sư ăn rau hay Tái sinh
sinh). Từ lối kể cuộc đời theo một khuôn mẫu định sẵn cuối cùng Phan đã chia
chuyện ra từng đoạn, phần phân tích bình luận chiếm vị trí quan trọng nhất:
liệt truyện trở thành ký (như trường hợp Chân
tướng quân hay Truyện Phạm Hồng Thái). Phan Bội Châu chưa phân biệt phương pháp
viết truyện, truyện ngắn và ký theo quan niệm phân chia thể loại văn học hiện
đại nhưng rõ ràng do nhu cầu phát biểu tư tưởng tình cảm của bản thân mà ông đã
đi từ liệt truyện đến hai thể loại mới đó. Trong cả mấy loại truyện đó của Phan
Bội Châu nghệ thuạt viết văn còn chịu ảnh hưởng của nền văn liệt truyện nhưng
tư tưởng chính trị và quan niệm làm người của ông đã thay đổi hình dáng của
liệt truyện một cách khá cơ bản.
Trước hết, thực tế cuộc đời của một
người hoạt động cách mạng tẩnung ở ba khâu giác ngộ, hoạt động và hy sinh khác
hẳn với cuộc đời của các nhân vật liệt truyện truyền thống; mặt khác quan niệm
về đời người, về phẩm chất con người cũng đã biến đổi theo thời đại. Ở một số
truyện, Phan Bội Châu còn chú ý nói đến gia thế, nhưng là với một ý định khác
trước; ông coi đó là toàn cảnh đi vào con đường cách mạng, hoặc là có cha anh
yêu nước anh hùng, ảnh hưởng giáo dục gia đình tốt nên thuận lợi, hoặc là sinh
ra trong gia đình quan lại, sinh ra trong gia đình nghèo hèn, hoàn cảnh éo le,
khó khăn để nhấn mạnh tinh thần, phẩm chất đặc biệt của nhân vật được nói đến.
Ta không thấy ở đây quan niệm phúc ấm, báo ứng nữa. Về tính cách Phan Bội Châu
cũng chú ý nhiều đến đức, nhưng ở đây cũng không còn quan niệm đạo đức của con
người chức năng theo luân thường. Phẩm chất cao quý mà ông chú ý mô tả là tinh
thần căm thù giặc, yêu nước, cương quyết tự nhiệm táo bạo, chịu khổ và hy sinh.
Cuộc đời, tính cách nhân vật cũng chưa được đặt vào hoàng cảnh cụ thể để mô tả
chi tiết, nhưng những nét đưa ra, nhất là hoàn cảnh tham gia cách mạng và
trường hợp hy sinh đều khá sinh động. Nhiều chuyện tuy vẫn là kể, và bằng một
lối viết ngắn gọn nhưng lại viết với xúc cảm trữ tình rất dạt dào. Người viết
vẫn tự kiềm chế nhưng tình cảm và tư tưởng vẫn trào ra đầu ngọn bút. Dưới
truyện vẫn thường có mấy bài thơ hay câu đối, phúng viếng nhắm ca tụng người đã
hy sinh, nhưng phần đó đã thành bộ phận độc lập, có khi không phải của người
viết mà cũng không gắn một cách hữu cơ với phần trên. Những truyện viết trước
năm 1916 (khi Việt Nam nghĩa liệt sử
được xuất bản) của Phan Bội Châu tuy vẫn còn dấu vết của liệt truyện, nhưng rõ
ràng đã có những cách tân đáng kể. Về sau, khi viết báo, Phan Bội Châu viết một
số truyện gần với truyện ngắn, ký. Trông những truyện viết thời kỳ đó, ta thấy
Phan Bội Châu đã chú ý đến sắp xếp cốt truyện, đến mô tả, đến phân tích. Hư cấu
giữ một vai trò đáng kể. Trong truyện đã xuất hiện từng đoạn tả cảnh, bình
luận. Lời viết đã xa liệt truyện nhưng cùng còn rất xa truyện ngắn hiện đại.
Truyền thống kể chuyện kiểu phương Đông vẫn chi phối cách sắp xếp cốt truyện; truyền
thống làm văn vẫn chi phối cách viét. Không thay đổi được quan niệm thế giới và
quan niệm văn học, Phan Bội Châu không thể quan niệm được một nhân vật, một
hoàn cảnh để xây dựng những truyện ngắn theo kiểu hiện đại.
Nếu so sánh với các truyện ngắn viết
cùng thời ở trong nước của các tác giả chịu ảnh hưởng văn học Pháp thì truyện
ngắn của Phan Bội Châu khá lạc hậu về mặt nghệ thuật. Nhưng đứng về mặt lịch sử
văn học thì truyện ngắn của ông là bước phát triển trên cơ sở truyền thống văn
học dân tộc, là bước đường phát triển tự thân của văn học phương Đông để đi đến văn học hiện đại. Cho
nên nó có giá trị bằng chứng rất quan trọng cho việc nghiên cứu lịch sử phát
triển truyện ngắn.
Bằng những truyện ngắn của mình, Phan
Bội Châu đã để lại cho đời sau hình dáng của cả một thời đại. Trong liệt truyện
có đủ mặt các từng lớp, các thế hệ, các địa phương và người nào cũng có những
phẩm chất tốt đẹp, yêu nước, anh hùng, có tác dụng giáo dục cao. Những điều ông
viết là người thật việc thật nhưng không phải chỉ có giá trị sử liệu - về mặt
ấy nhiều khi những liệt truyện ông viết không thật chính xác đầy đủ - về mặt
giá trị văn học, những nhà vận động cách mạng như Nguyễn Hàm, Trần Quý
Cáp, Đặng Thái Thân đã được khắc họa
thành hình tượng văn học. Cái chết của Hoàng Trọng Mậu, Trần hữu Lực, Nguyễn
Quỳnh Lâm, Đinh Doãn Tế mỗi người một cách đã để lại cho người đọc những ấn
tượng bi tráng khó quên.
Nếu như những lời kêu gọi của Phan Bội
Châu làm cho mọi người được khích lệ, dám hành động, dám hy sinh để cứu nước
thì với những truyện ngắn ông lại đưa ra những tấm gương cụ thể cao cả chứng
minh cho những lời kêu gọi đó, làm mọi người thấy phẩm giá của người Việt Nam
đẹp hơn, lòng tin tưởng và tự hào về dân tộc được nâng lên cao hơn. Ghi chép về
những anh hùng hy sinh vì sự nghiệp cứu nước không chỉ là chuyện “lưu lại một
tia ánh sáng trong khoảng trời đất” mà “sử Việt Nam nghĩa liệt viết ra
trước tức là sử Việt Nam độc lập viết
theo sau” (Nguyễn Thượng Hiền. Tựa Việt Nam nghĩa liệt sử). Với ý nghĩa đó việc
Phan Bội Châu liên tục viết truyện các đồng chí đã hy sinh đóng góp một phần
rất quan trọng cho văn học của dân tộc.
3.
Tiểu thuyết Trùng Quang tâm sử
Trong sáng tác của Phan Bội Châu thời
kỳ lưu vong có cả một quyển tiểu thuyết: Trùng
Quang tâm sử. Trùng Quang tâm sử viét bằng chữ hán được công bố trên Binh sự tạp chí ở hàng Châu từ số 89
(tháng 9 năm 1921) đến số 132 (tháng 4 năm 1925) chỉ hai tháng trước khi ông bị
Pháp lừa bắt. Nó có thể được viết từ trước. Trong Phan Bội Châu niên biểu, tác giả liệt Trùng Quang tâm sử vào trong số tác phẩm được viết trước khi bọ
Long Tế Quang bắt giam (19/1/1914), nhưng căn cứ vào nội dung tư tưởng tác
phẩm, vào tình hình công bố cách quãng trên báo, ta có thể nghĩ rằng nó được
viết xong vàơthì gian chậm hơn. Tuy được công bố từ năm 1921 đến 1925 nhưng đối
với công chúng Việt Nam mà ngay từ đầu quyển sách ông đã nhăm nhe thì phải chờ
hơn 30 năm, sau khi cách mạng tháng Tám thành công, tác phẩm được sưu tầm, dịch
ra tiếng Việt mới được đọc nó, mới nghe được lời keu gọi: “Quốc dân ơi! Đồng
bào ơi ! Dậy! Dậy! Dậy! Dậy mà nghe tôi kể chuyện… của tổ tiên ta (TQTS, 21) Đề
tài của quyển tiết thuyết rút từ lịch sử, nói vè cuộc khởi nghĩa chống quân
Minh của Trần Quý Khoáng. Mục đích viết sách của Phan là dùng tấm gương lịch sử
để giáo dục, thức tỉnh đồng bào cứu nước. Về hình thức, Trùng Quang tâm sử vẫn thuộc loại tiểu thuyết chương hồi, nhưng đọc
nó ta vẫn thấy dấu vết của một quá trình cách tân thể loại như ở trong tuồng và
truyện ngắn của ông.
Trùng
Quang tâm sử viết về một đề tài lịch sử. Nhưng đó
không phải là một quyển tiểu thuyết lịch sử: thực tế lịch sử không được tôn
trọng. Vói dụng ý thay đổi chủ đè câu chuyện, tác giả đã chỉnh lý cả lịch sử để
trình bày một quan niệm chính trị diễn tả một mơ ước chính trị của mình. Tác
giả nhập hai cuộc khởi nghĩa chống Minh của Trần Quý Khoáng và của Lê Lợi làm
một, thay đổi vai trò của các nhân vật lịch sử, biến mưu đồ chống Minh, khôi
phục ngôi vua của Trần Quý Khoáng, Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân tahnhf một cuộc
khởi nghĩa của nhân dân để giành độc lập, giống với cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi
và mang màu sắc chính trị của phong trào Duy tân hội đầu thế kỷ XX. Theo tác
giả, đây là câu chuyện dã sử kể theo lời các ông già đọc sách chữ Thổ, chứ
không phải theo chính sử chép bằng chữ hán.
Lấy địa điểm khởi nghĩa là vùng Nghệ
Tĩnh, hai cuộc khởi nghĩa đó về thời gian gần nhau và có liên quan với nhau.
Nhưng đây không phải là một sự nhầm lẫn. Phan Bội Châu đã thanh minh vì sao
mình kể chuyện khác chính sử (xem TQTS, trang 174 – 175), nhưng đó không phải
là sự thực. Chọn thời điểm từ lúc nhen nhóm cuộc khởi nghĩa cho đến khi thu
phục được thành Nghệ An, trước lúc kéo quân ra Bắc, xảy ra trận Bô Cô, giảm nhẹ
vai trò của Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân, Trần Quý Khoáng, đem nguyễn Xí người
anh hùng của cuộc khởi nghĩa Lê Lợi giữ vai trò quan trọng và thêm vào rất
nhiều nhân vật hư cấu, tác giả có dụng ý trình bày cuộc khởi nghĩa khôi phục
đất nước theo tư tưởng chính trị khác chính sử: đoàn kết toàn dân giành độc
lập, vai trò quyết định trong cuộc khởi nghĩa là nhân dân chứ không phải hoàng
tộc và quan lại. Những người giác ngộ, tự nguyện cứu nước, những người anh hùng
vô danh có vai trò quan trọng không thua kém gì những quý tộc quan lại được sử
sách ghi tên. Sự đổi thay đó làm cho Trùng
Quang tâm sử khác các tiểu thuyết chương hồi truyền thống.
Chuyện thực lịch sử nói vè một người
thuộc tôn thất nhà Trần là Trần Quý Khoáng đánh gặic đẻ khôi phục ngôi vua.
Trong tiểu thuyết, các đảng hữu cùng “tôn ông Khoáng lên làm vua” “nối nghiệp
nhà Trần” (TQTS, 173 – 174), nhưng trong Trùng
Quang tâm sử không có tư tưởng chính thống. Không ai nhắc đến quyền nối
ngôi của con cháu họ Trần. Cuộc khởi nghĩa bắt đầu ở trại Trùng Quang không có
người trung nghĩa mà chỉ có những người yêu nước và căm thù giặc. Nguyễn Cảnh
Chân tuy có nhiều công lao nhưng không phải là một ông quan trung nghĩa mà thay
hẳn vai trò thành là một nhà nho vì thù giặc mà bất đắc chí, “có ruộng có trâu
đều bán hết để cúng cho ma rượu” (TQTS, 63), gặp ông Ký rồi mới tham gia nghĩa
quân. Cuốn tiểu thuyết không mở đầu bằng việc bàn về lẽ phế hưng trị loạn mà
cũng không kết thúc ở chỗ Trần Quý Khoáng, Đặng Dung bị bắt, cơ nghiệp nhà Trần
tan tành hẳn.
Trại Trùng Quang là một thứ “nước tự do
lâm thời” (TQTS, 30) trong khi đất nước đã bị giặc chiếm đóng. Nhưng đó cũng là
một sơn trại có địa thế hiểm yếu, “phía cực tây của trại giáp với Sơn man, nhìn
xuống dòng sông lớn, tựa lưng vào núi, rừng già xanh biếc bao phủ xung quanh”.
Hơn trại có “vài trăm khoảnh ruộng”, có “khe suối làm mương tưới nước cho
ruộng. Trên bờ khe có hơn một trăm gian nhà” (TQTS, 46). Trong trại cũng hình
tahnhf một thứ “tụ nghĩa đường” của các anh hùng hảo hán. Sơn trại phảng phất
giống Lương Sơn Bạc.
Thế nhưng con đường đưa các anh hùng
hảo hán đến đó thì lạo khác Thủy Hử.
Phan Bội Châu cực tả sự tàn ác của cảnh áp bức dân tộc. Dưới sự thống trị của
quân Minh, người nông dân đem hết số thóc thu nhập cả năm bán hết cũng chưa đủ
nộp thuế (TQTS, 24). Mỗi người tráng đinh phải nộp ít nhất là 70 đồng mới lấy
được giấy bảo đảm (một thứ thẻ thuế thân như hồi Pháp thuộc – TĐH) Nếu không
bán trâu thì không làm gì có đủ số tiền đó, anh Lục phải tính nước tự tử để
khỏi phải lấy giấy bảo đảm lưu lại trâu cho vợ con làm ăn, “chết đi để giữ gìn
tính mạng cho cả nhà” (TQTS, 51). Người dân mất nước không chỉ có khổ mà nhục.
Bọn quan lại nhà Minh khinh bỉ dân nước Nam hết chỗ nói. Tên Thừa Tuyên sứ bắt
mọi người đi qua cổng chợ phải “cúi đầu làm lễ” đôi giày “đại biểu cho mệnh
lệnh của Hoàng đế”, ai không lạy thì bị hạ ngục về tội làm loạn” (TQTS, 27).
Tên Thống soái lại còn ngạo ngược hơn. Trong một bữa tiệc “hắn tụt quần chổng
đít trước mặt công chúng”, hạ lệnh ban thưởng hàm cửu phẩm (!) và miễn giấy bảo
đảm cho “người nước Nam” nào giơ miệng hôn đít quan soái” (TQTS, 142). Thế mà
không ít người vẫn phải làm theo. Cảnh đốt phá, chém giết, hãm hiếp xảy ra khắp
nơi. Anh hạnh đem thóc đi chợ bán để cưới vợ vì không chịu để thóc mình cho
ngựa quan ăn rồi lại đánh chết ngựa, nên anh đã suýt phải đền mạng (TQTS, 39 –
60). Áp lực dâ ntộc đã làm cho quý tộc, hào trưởng, nhà nho, nông dân, dân
chài, dân thợ, phường săn, cả nam cả nữ, cả Kinh cả Lào trước sau đến trại tụ
nghĩa.
Sơn trại là mọt thứ “triều đình riêng
một góc trời”, một lối tổ chức quen thuộc của các cuộc khởi nghĩa nông dân; gắn
với sơn trại là chủ nghĩa sơn đầu, là những người anh hùng hảo hán lục lâm.
Những hắc điếm, dò la và giết khách qua đường, những vụ đón đường đòi tiền mãi
lộ, những cuộc đánh cướp quy mô lớn mà ta thường thấy trong Thủy Hử là phương thức sống của những
người vì áp bức phong kiến, vì khong chịu bó buộc mà bỏ nhà trốn tránh lên sơn
trại. Phan Bội Châu có ý thức lên án lối sinh hoạt đó. Trong Trùng Quang tâm sử ông Xí phá ngục cứu
bạn xong cũng phải “trốn vào núi” sống cuộc đời lục lâm. Ông Võ sau khi đánh
đắm thuyền giặc, phải trốn tránh, tuy không làm nghề lục lâm nhưng vì giỏi võ
nghệ “được bọn cướp tôn làm thầy, nếu không được ông cho phép thì không dám
cướp bóc” (TQTS, 76). Những người như ông Xí, ông Võ đã nhan ra “hò hét ở nơi
rừng xanh chỉ là kế nương thân tạm thời. Vì “mục đích cuối cùng của người đại
trượng phu là phải làm cách mạng (TQTS, 29), họ đã bỏ nghề lục lầm mà cùng nhau
cứu nước. Nhưng trong hoạt động của sơn trại còn có cả cảnh “Vào lúc gần nửa
đêm… quân cướp (tức là người của trại Trùng Quang giả trang) đốt lửa xông vào,
lửa sáng rực đến hơn một dặm. Người to lớn đi đầu, tay cầm một con dao năm
chĩa, phá cửa vào tìm người phó cả… Bọn cướp… cầm dao trong tay múa tít như hoa
bay. Không ai dám lại gần… quát lên một tiếng “Tránh” vang lên như sấm. Những
người đến cứu đều khiếp sợ ngã lăn ra” (TQTS, 48). Lương thực cho mọt số người
càng ngày càng đông, lên ở sơn trại và chi phí cho hoạt động cứu nước là một
vấn đề rất khó giải quyết. “Võ và Xí đều là những người dũng cảm tuyệt vời, mỗi
khi rảnh việc thường dẫn năm sáu người trai tráng sang các phủ huyện khác ăn
cướp tiền của bọn quan giặc” (TQTS, 100), nhưng kế đó không thể là lâu dài.
Trại phải tổ chức khu cày cấy, chăn nuôi để tích trữ lương thực, lại phải tổ
chức quan rượu, thương điếm trao đổi hàng hóa giữa miền xuôi và miền ngược để
thu lợi làm kinh phí. Các anh hùng hảo hán biết tránh việc giết người bừa bãi,
trong sơn trại cũng khong có cảnh tiệc tùng chè chén linh đình. Mọi người trong
trại đều theo gương ông Khoáng lao động làm ăn, “đàn ông thì chăm lo việc bên
ngoài, đàn bà thì trông coi việc ở trong, đốt săng cấy ruộng, vải bông và gia
súc càng ngày càng nhiều (TQTS, 100). Quan tâm đến vấn đề lao động sản xuất,
kinh doanh công nông thương nghiệp, gây cơ sở kinh tế cho sơn trại là một chủ
trương chống lại chủ nghĩa sơn đầu. Tư tưởng “lấy nhân nghĩa để chiến đấu”,
“không phiền nhiễu nhân dân” “tuyệt đối không nên cướp bóc của nhân dân” (TQTS,
97) đã là tư tưởng quán xuyến trong truyện.
Trại Trùng Quang là một sơn trại, nhưng
là một sơn trại tự đặt cho mình nhiệm vụ lo toan cho cả nước. Nó không nhắm mục
tiêu là sự thịnh vượng chỉ của sơn trại, là hùng cứ một phương, mà vạch một
chương trình khôi phục đất nước gồm ba thời kỳ: thời kỳ vận động, thời kỳ tiến
hành và thời kỳ kiến thiết. Công việc sau khi đất nước đã được khôi phục (thời
kỳ kiến thiết) sẽ do “những người nối tiếp” đảm đương, anh em sơn trại chỉ lo
toan cho hai thời kỳ trên (TQTS, 43). Nhắm mục tiêu vận động nhân dân khôi phục đất nước, những người lãnh
đạo sơn trại đã hình dung một kế hoạch xây dựng lực lượng quân sự, một kế hoạch
tác chiến, đã bàn đến đường lối chính sách đối với các từng lớp, các địa
phương… Các phương sách đề ra chưa có gì thật mới mẻ. Mưu kế cũng chưa vượt
được những chuyện chính kỳ, hư thực, mai phục, hỏa công, trá hàng… mà ta đã
biết trong Tam quốc, Thủy hử. Nhưng
hành động tính toán có quy mô toàn quốc và có sự tham gia của toàn dân, sơn
trại tự coi là một “đảng”, một “đoàn thể” vận động cách mạng chứ không phải là
một triều đình trong núi
Một vấn đề có ý nghĩa lớn trong sơn
trại là vấn đè sắp xếp tổ chức nội bộ. Những người lục lâm giang hồ chọc trời
quấy nước thường lấy quan hệ anh em trên dưới đối xử với nhau. Người cầm đầu
thường được tôn làm “đại ca” khi sơn trại phát triển thành quy mô lớn, tởchcs
mang hình dáng một triều đình có đủ hai ban văn võ. Đại ca trở thành “đại
vương”. Đại vương phải sắp xếp vị thức cho các “đầu mục”. Người đại ca trong
sơn rại của khởi nghĩa nông dân thường quan niệm giống ông vua sáng suốt nhân
ái: có đức, biết tài và quý tài, rộng rãi, công bằng. Thường thường người đó
cũng thuộc dòng dõi cao quý hay có tướng lạ…
Trong trại Trùng Quang không có cảnh
phân chia ngôi thứ theo tinh thần đó. 49 người đến dự lễ khai trại tuyên bố:
“Chúng ta bất luận thế nào đều nhắm mục đích duy nhất là quang phục tổ quốc”,
“nếu ai tán thành việc giết giặc thì đều là anh em” (TQTS, 42), “anh em chúng
ta đều bình đẳng như nhau. Chỉ kể đến công hay tội mà thôi, không kể gì sang
hay hèn” (trang 30), “anh em chúng ta có 50 người nhưng phải coi như thể một
người vậy” (trang 44). Tuy mọi người trong trại phải “đồng tâm đồng đức” nhưng
công việc phải có “chuyên trách”. Toàn trại bầu ra ba người lãnh đạo chính:
trại chủ, mưu chủ và chiến chủ. Tuy trại chủ vẫn ra mệnh lệnh đảm đương việc
giao thiệp nhưng mọi người “phụ trách công việc gì đều do công chúng ủy nhiệm”,
ai “không xứng chức” làm hỏng việc “anh em đều có quyền trách phạt”. Tuy cũng
gọi là “anh em” nhưng tình thần quan hệ trong trại là tinh thần dân chủ bình
đẳng. Đó là tình đồng chí trong tổ chức đảng – như mọi người thường nhắc - chứ
không phải là tình anh em kết nghĩa có trên có dưới như giữa các hảo hán giang
hồ. Ngay từ khi bầu, ông Kiên đã bài bác tinh thần “chia cách ngôi thứ”. Ngôi
trại chủ của ông Khoáng là vấn đề cần chú ý. Ông là tôn thất nhà Trần, tham gia
tổ chức trại ngay từ đầu, nhưng không tỏ ra có tài cán gì đặc biệt. Ong đã đem
tài sản dâng cho đảng hoạt động, đã làm gương và đôn đốc mọi người lao động xây
dựng sơn trại, giúp đỡ cho những người xung quanh sơn trại nên có uy tín với
nhân dân các vùng xung quanh. Nhưng các công việc của sơn trại hầu như đều do
ông kiên, ông Xí, cô Chí đề xuất và tiến hành. Có khi và ngay cả trong ngày lễ
tuyên thệ khai trại, ý kiến ông Khoáng cũng tầm thường, bị gạt đi, không được
chấp nhận. Vị trí của ông Khoáng trong trại Trùng Quang làm ta nghĩ đến vị trí
của Cường Để và thái độ của Phan Bội Châu đối với Cường Để trong Duy tân hội.
Trại Trùng Quang không phải là một tổ
chức kháng chiến đời Trần mà là hình bóng của một tổ chức kiểu Duy tân hội. Qua
cách mô tả trại Trùng Quang, ta có thể thấy dụng ý đem tư tưởng dân chủ và bình
đẳng, toàn tâm toàn ý vì sự nghiệp chung của một đoàn thể cách mạng khắc phục
tư tưởng vua tôi trên dưới kiểu phong kiến và xu hướng sơn đầu lục lâm của nông
dân khởi nghĩa là hai nhược điểm còn khá nổi bật trong tổ chức chống Pháp của
giai đoạn trước. Với dụng ý gợi ý một cuộc vận động chính trị giải phóng dân
tộc ở thế kỷ XX, Phan Bội Châu đã thay đổi phương thức và tiến trình chuẩn bị
khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa không được nhen nhóm từ chỗ một tướng lĩnh có sẵn
lực lượng quân đội chọn một người trong hoàng tộc, lấy danh nghĩa người đó đưa
hịch hiệu triệu các phủ huyện như thực tế cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi, nghĩa là
không phát triển trên cơ sở quan hệ chủ tớ của chế độ phong kiến. Trong Trùng Quang tâm sử, cuộc khởi nghĩa bắt
đầu bằng con đường giác ngộ từng cá nhân và vân động nhân dân đứng lên chống
giặc. Các nghĩa sĩ không sống tập trung ở sơn trại mà phân tán hoạt động trong
nhân dân. Trại không phải là đồn lũy mà chỉ là địa điểm bí mật. Các nghĩa sĩ
đến sơn trại bằng nhiều con đường nhưng tất cả đều tự giác, tự nguyện hy sinh
vì chính nghĩa. Cũng có người vì phải trốn tránh, vì cưỡng bức, vì bị bắt đến
hoặc đầu hàng mà gia nhập hàng ngũ sơn trại; nhưng tất cả, khi bước chân vào
trại thì đều đã nhận thức được như ông Võ về nghĩa quốc gia, đồng bào, tình thế
cạnh tranh giữa các nòi giống, đều biết hạnh phúc cá nhân gắn liền với hạnh
phúc của đồng bào, “hy sinh những cái tự tư tự lợi của bản thân, để hết lòng
hết sức bảo vệ tổ quốc” (TQTS, 83). Hoạt động của trại không dính líu đến việc
cướp bóc, quấy nhiễu người lương thiện nên không ai phải băn khoăn vì tình thế
bắt buộc, về tính chất bất hợp pháp của việc mình làm.
Tuy cuộc khởi nghĩa đã được chuẩn bị
cách khác nhưng chiến tranh giải phóng thì lại tiến hành giống như trước cho
nên những nhân vật chủ yếu của sơn trại vẫn mang hình dáng cũ. Tổ chức không
phải là tổ chức triều đình nhưng trại chủ, mưu chủ, chiến chủ vẫn còn diện mạo
và tính cách như mình chủ, tướng văn, tướng võ như trong các tiểu thuyết cổ.
Trong thời đại phong kiến, anh hùng của giai cấp thống trị và anh hùng của nông
dân là hai loại đối lập nhưng cả hai lạo cũng có những nét giống nhau. Cả hai
đều có 3 mẫu điển hình: minh chúa, tướng văn, tướng võ. Người đại ca trong các
sơn trại nông dân khởi nghĩa, được anh hùng hảo hán giang hồ quý trọng cũng vì
họ là người rộng lượng, có đức, quý tài, giống như các minh chúa phong kiến.
Trong lớp đầu mục thế nào cũng có ít người đóng vai quân sư và ít người võ nghệ
cao cường đóng vai hổ tướng, chỗ khác nhau là tính cách: một bên là trung
nghĩa, một bên là hào hiệp, một bên là thận trọng giữ lễ vua tôi và một bên
không ràng buộc mang ít nhiều nét, bừa bãi vô chính phủ (như kiểu Lý Quỳ trong Thuỷ Hử). Nhưng việc tập hợp của đạo đức
minh chủ, tài mưu lược của quân sư, sức mạnh muôn người khôn địch của hổ tướng
thì vẫn là giống nhau.
Trong Trùng Quang tâm sử, ông Khoáng là một nhân vật minh chủ. Tuy đối
với các đảng hữu, vai trò minh chủ của ông không nổi bất, như Lưu Bị trong Tam quốc hay Tống Giang trong Thủy Hử. Ông không ở vị trí quyết đoán
mọi việc để cần biết tài, trọng tài; tướng lạ và dòng dõi không đóng vai trò
quyết định trong việc tập hợp anh em. Trong sơn trại ông phụ trách một công
việc cụ thể: lương tướng tức là tiếp tế quân nhu. Khi sơn trại không sống bằng
cướp bóc mà sống bằng kinh doanh thì đó là công việc rất quan trọng. Tính cách
thiêng liêng của mệnh trời đã mất. Sau khi nghĩa quân đã thu phục được từ Nghệ
An đến Thuận Quảng, các đảng hữu mới tôn ông Khoáng lên làm minh chủ “nối
nghiệp nhà Trần” nhắm “đem danh nghĩa đánh kẻ có tội cứu dân chúng”, tuyên bố
khắp cả nước “hiệu triệu dân chúng trong ngoài” (TQTS, 173). Đó là “một ngọn cờ
tập hợp” khi kéo quân ra Bắc. Đối với Phan Bội Châu, dòng dõi nhà vua không
phải là lý do hiển nhiên để ông Khoáng trở thành minh chủ nhưng tính cách của
ông Khoáng thì vẫn là tính cách người minh chủ. Ông là “người trung hậu kẻ cả”
đau lòng vì quốc sỉ” “ôm ấp chí lớn”. Ông là người giàucó mà rộng rãi. “Các dân
tộc Mán Kinh xa gần đều thích qua lại chơi bời với ông”, “các hấohn đến với ông
được tiếp đãi rất hậu” (TQTS, 46 – 47).
Kiên và Chân là chánh phó mưu chủ, được
xây dựng theo mẫu các quân sư trong tiểu thuyết cũ. Kiên là một người hào
trưởng “mắt sáng như sao, có nhiều mưu trí và học thức sâu rộng” “các hành động
của những hào trưởng káhc đều do ông ta vạch ra” (TQTS, 26). Chân trước khi
tham gia nghĩa quân đã sống mai danh ẩn tích, lấy rượu làm khuây như một ẩn sĩ.
Cả hai đều là loại “trí nang” sáng suốt và cơ mưu “liệu địch như thần”. Thực tế
xảy ra ở chiến trường không bao giờ ra ngoài dự liệu của họ. Kiên và Chân làm
chúng ta nghĩ đến Khổng Minh, Ngô Dụng và cả Chu Du nữa (đoạn bố trí cho Phan
và Lực trá hàng). Cũng giống như các nhân vật quân sư khác, Kiên và Chân được
miêu tả thành những người trầm tĩnh chín chắn, sâu sắc. Ung dung vốn vẫn là vẻ
đẹp của tướng văn.
Xí và Võ được xây dựng theo mẫu võ
tướng. Cả hai đều là loại võ nghệ cao cường “đi trước xông pha nơi nước sôi lửa
bỏng, đạn tên nguy hiểm”, tiếng thét vang như sấm, dao mác tít như hoa bay.
Tương ứng với sức khỏe đó, tướng mạo của họ cũng khác thường. Tiếng reo của Xí
“ấm như chuông đồng, vang xa tới mười dặm”, “toàn thân Võ đen bóng, mặt như
láng sơn”, “đôi mắt đen lóng lánh như ngọc châu”. Là võ tướng họ cũng không
tránh được nóng nảy thô lỗ. nghe Tính và Chí nói đến để mua người, Võ nổi giận
“nắm tay của ta đây không hiền đâu!” Chưa nghe hai người nói chuyện, Võ đã dọa:
“Ngươi hãy nói nhanh lên! Vừa ý ta thì tốt, nếu không thì ta sẽ lấy gậy này để
kính biếu ngươi!” (TQTS, 77).
Đó là người hổ tướng trong tiểu thuyết
cũ, nhưng cũng nên nói thêm là họ gần loại Lý Quỳ hơn là loại Trương Phi, Hứa
Chử. Nổi bật ở họ là nét ngang tàn của người du hiệp lục lâm giang hồ, nhưng sự
giác ngộ về tinh thần vì nước vì dân đã làm cho họ bớt hẳn tính tàn bạo, bừa
bãi.
Họat động phục quốc bắt đầu bằng công
tác điều tra tinh thần và vận động nhân dân, kinh phí của trại dựa vào hoạt
động kinh doanh của trại cày và buôn bán cho nên những nhân vật “đàn em”, những
người phụ nữ như Chí, Liên, Triệu, những người nông dân nghèo khổ như Tinh,
Lực, Hạnh… là những nhân vật Phan Bội Châu mới đưa vào, so với tiểu thuyết
chương hồi cũ. Nói chung họ xuất thân từ tầng lớp dưới, có cuộc sống cụ th, suy
nghĩ và hành động bình thường hơn. Chí là con một chủ tiệm rượu. Thừa Tuyên Sứ
mê sắc đẹp của cô, vu oan và bắt cha cô giam vào ngục để ép cô làm tỳ thiếp.
Đến nỗi cha cô phải tự tử, tránh cho con khỏi rơi vào nanh vuốt giặc. Gia đình
của Lực là một gia đình nông dân, cha mẹ, vợ chồng, con cái làm ăn cần cù chân
chỉ và sống êm ấm. Hạnh mơ ước một cuộc sống hạnh phúc đơn sơ. Nhưng tất cả
những con người muốn làm ăn lương thiện như vậy đều vì áp bức của quân giặc mà
không thể sống nổi. Lực phải tự tử. hạnh phát khùng liều mình. Cô Chí căm thù
giả điên đi ăn xin tìm kế phục thù. Khi được giác ngộ, họ hoạt động không mỏi
mệt cho đảng. Người thì có tài nói năng sắc bén, nhiều người nghe theo. Người
thì am hiểu lâm thổ sản, người thì tháo vát, tính toán giỏi, người thì tiếp đãi
khách hàng khéo léo. Tài năng của những con người làm ăn bình thường đó đều góp
phần làm cho trại phát triển nhanh chóng. Công việc họ làm rất bình thường
nhưng họ đều là những bậc anh hùng. Quyết tâm phục thù của Chí; khí phách bất
khuất của Phan, Tinh, Lực; tinh thần xung phong dũng cảm của mọi người đều nổi
bật. Nhưng bên cạnh những anh hùng phi thường được sử sách ca tụng thì họ bị
quên lãng không ai biết đến. Phan muốn nói đến những người anh hùng vô danh, đề
cao những công việc bình thường của họ. Ông nói về họ với một tình cảm rất chân
thành quý mến. Đó cũng là loại người mà ông quen thuộc am hiểu trong cuộc đời.
Nói về con người anh hùng bình thường nhưng ông lại không quan niệm anh hùng
cũng là bình thường. Đã là anh hùng họ phải có cái gì khác đời. Từ nhỉ Xí đã
không thích đi học mà thích đánh nhau; nghe giặc ngô giết trẻ con treo đầu nhử
quạ, cậu bé tám tuổi ấy đã “mắt đỏ bừng, đầu tóc dựng đứng, thét lớn”, “thề
giết hết quân giặc. Chí là một cô gái xinh xắn nhưng “mắt sáng, mày sắc, nét
mặt bừng bừng”, để tỏ cho mọi người thấy khí phách của mình, cô đã “đập đầu vào
đá” máu trên đầu chảy đầm đìa.
Phương pháp nghệ thuật của Phan không
phải là mô tả, tái tạo dựa trên những con người trong cuộc sống thực mà nhân
cách hóa một tính cách theo quan niệm của mình. Ông muốn nói đến một người yêu
nước, một người anh hùng, nam hay nữ, nông dân hay nho sĩ. Từ đó ông phác họa
ra thành những ông Võ, cô Chí.. Tư tưởng muốn khắc phục tính chất phong kiến và
chủ nghãi sơn đầu lục lâm đưa ông đến chỗ thảo dã hóa người trung nghĩa, du
hiệp hóa nhà nho và làm cho những người anh hùng nông dân thâm trầm, cơ mưu,
rộng rãi, khác với trong tiểu thuyết cổ. Nhân vật của Phan Bội Châu đã đa dạng
và cụ thể, bình thường hơn nhân vật tiểu thuyết cổ nhưng sự khác nhau vẫn là
loại biệt, nhân vật vẫn còn mang những nét ước lệ chứ chưa phải là những con
người có cuộc sống thật, cụ thể trong gia đình, xã hội, có cá tính, có tâm lý
riêng.
Quan niệm con người cụ thể, hoàn cảnh
cụ thể, hoạt động xây dựng sáng tạo của sáng tác văn học đối với ông vẫn còn là
xa lạ. Vì chưa quan niệm viết văn là một quá trình sáng tạo; người viết đối trí
với khách quan, nhận thức, tái tạo, cải tạo thế giới khách quan thành những
hình tượng văn học nên bước sang thể loại tiểu thuyết, Phan Bội Châu gặp khó
khăn và bộc lộ nhiều nhược điểm. Tiểu thuyết là một thể loại văn học cao, đòi
hỏi ở người viết không những sự am hiểu khách quan phức tạp và cụ thể trong một
khung cảnh không gian và thời gian rộng lớn mà còn đòi hỏi ở người viết một
công trình tư duy phân tích tổng hợp xây dựng tái tạo lớn. Nhưng Phan Bội Châu
lại chưa thoát khỏi quan niệm của Nho gia về quan hệ giữa khách thể và chủ thể,
về văn học, về viết văn. Trước mắt ông chỉ có kinh nghiệm kể chuyện của tiểu
thuyết chương hồi.
Phan Bội Châu là người táo bạo, giàu sự
sáng tạo nhưng những mặt mạnh đó của ông không hướng vào sự sáng tác văn học mà
hướng vào việc đồ thức hóa một chủ trương chính trị. Tiểu thuyết lấy đề tài
lịch sử nhưng Phan đã không ngần ngại đổi thay cả sự thực lịch sử để trình bày
một chủ trương chính trị. Trùng Quang tâm
sử vì thế có tính chất là một tiểu
thuyết luận đề.
Ý đồ chủ quan thay thế cho sự quan sát,
nhận thức, phản ánh tái tạo hiện thực khách quan. Những điều Phan viết không
phải là hiện thực của thế kỷ XV mà cũng không phải là hiện thực của thế kỷ XX.
Quan tâm hàng đầu đến việc trình bày một chủ trương một ý kiến mà không chú ý
đến tính khách quan, đến tính lịch sử tác giả thường tìm cách tự bộc lộ. Có khi
là bằng những xúc cảm những lời bộc bạch, có khi là bằng những đoạn thuyết lý
giảng giải. Lối kể chuyện có đầu có đuôi của tiểu thuyết chương hồi càng làm
cho việc mô tả không được chú ý. Con người do đó chỉ là những tính cách. Tâm lý
không phải là của những cá nhân cụ thể mà là nét minh họa cho tính cách. Hoàn
cảnh không có vai trò tất yếu, gắn chặt với hành động, mà chỉ để tô điểm cho
tính cách, cho hành động. Thiếu khung cảnh xã hội cụ thể, thiếu đời sống tâm lý
tiểu thuyết, thiếu hẳn chiều sâu của cuộc sống. Không phải những nhân vật của
Phan không có trong thực tế, đều là bày đặt tùy tiện. Ngược lại cả một lớp
chiến sĩ cách mạng đồng thời với tác giả đều có nưhgnx nét anh hùng như Phan mô
tả. Những con người như Đặng Thái Thân, Đinh phu nhân, Lê Võ, Ngô Quảng… và bao
nhiêu người khác được kể lại trong Việt
Nam nghĩa liệt sử đều có những nét giống với các nhân vật tiểu thuyết của
ông, và hầu như Phan đã dựa vào từng mẫu có thực trong cuộc đời đó để xây dựng
các nhân vật (ví dụ Đinh phu nhân và các nhân vật nữ). Thế nhưng ta không thể
nói tiểu thuyết của Phan là hiện thực hay lãng mạn. Hiện thực hay lãng mạn đều
là những phương pháp sáng tác văn học và đều có sự phân biệt chủ thể và khách
thể.
Chuộng sự chân thực theo lối sử học,
lấy việc có thực đểchứgn minh cho một ý kiến đều không phải là con đường của
phương pháp hiện thực trong văn học. Biến suy nghĩ của mình thành chuyện để
truyền đạt cũng chưa phải là con đường của phương pháp lãng mạn. Trong Trùng Quang tâm sử có cả hai điều đó.
Phan Bội Châu chưa vượt qua được quan niệm “Đạo, Tâm, Chí” để có một quan niệm
về khách thể chủ thể cả cũng chưa vượt được quan niệm văn bao trùm cả sử và
triết (kể cả tư tưởng chính trị) để có một quan niệm sáng tạo văn học.
Trùng
Quang tâm sử lấy đề tài lịch sử mà là một quyển
tiểu thuyết luận đề chính trị, là tiểu thuyết đại diện màu sắc trữ tình. Tác giả đặt cho nó một cái tên chỉ thể loại
và nó cũgn đúgn với cái tên đó: tâm sử.
Về mặt lịch sử tiểu thuyết ở Việt Nam,
tâm sử của Phan Bội Châu là một bước cách tân đối với tiểu thuyết chương hồi.
Tuy rằng sự cách tân đó khôngthu được những thành tựu đáng kể về nghệ thuật để
góp phần làm cho tiểu thuyết phát triển.
4.
Chủ nhĩa anh hùng và nhân vật anh hùng
Nhìn toàn bộ hoạt động văn học của Phan
Bội Châu ta thấy ông có hứng thú đặc biệt về những đề tài lịch sử, tất cả sáng
tác văn nghệ của ông từ liệt truyện đến tuồng, tiểu thuyết đều nói đến chỉ một
nhân vật: người cách mạng cứu nước, người anh hùng. Phan không phải là nhà văn
theo tinh thần lãng mạn, đem những điều mình ấp ủ mơ ước thể hiện trong một
nhân vật lý tưởng. Phan là một nhà nho, hoạt động cứu nước, đem chuyện lịch sử
để giáo dục, nhân cách hóa những ý tưởng của mình để treo gương. Tư tưởng cứu
nước của ông gắn với đạo lý làm người và tư tưởgn anh hùng của ông chi phối
trực tiếp việc viết truyện.
Phan Bội Châu đã nói về mình: “Trời phú
cho tôi nhiệt huyết không thiếu, đọc chuyện trung nghĩa ngày xưa thì nước mắt
tuôn ra đầm đìa” (Ngục trung thư),
“Tôi có tính mạo hiểm quả quyết” “thường có khí khái… dầu có ngàn vạn người ở
trước mặt cũng cứ xông ra đối địch” (PBCNB). Trong loại thơ ca bộc bạch tâm sự
trước khi xuất dương ta đã gặp ở Phan một con người
Khi ngâm nga xáo lộn cổ kim đi
Tùa tám cõi ném về trong một túi
Phùng xuân hội, may ra ừ cũng dễ
Nắm địa cầu vừa một tí con con
(Chơi xuân)
Con người muốn làm hào kiệt dễ chấp nhận quan niệm “đã sinh làm trai thì
phải khác đời” (Xuất dương lưu biệt)
dễ nghĩ “sinh thời thế phải xoay nên thời thế”, có quyết tâm thì việc gì cũng
làm xong. Ông sùng bái những người anh hùng và giữa những tấm gương anh hùng
trong sử sách từ Kinh Kha, Nhiếp Chính, Trương Lương, Tổ Dịch đến Oa – dinh –
tơn, Na – pô – lê – ông, ông dễ bỏ qua những mặt khác nhau mà tìm khía cạnh
giống nhau ở họ. Đối với Phan, làm anh hùng không phải là một mơ ước lãng mạn
mà gắn liền với một ý đồ quyết tâm bắt tay vào sự nghiệp cứu nước gian nan. Khi
bước vào hành động cứu nước, thực tiễn bắt ông phải suy nghĩ lại vấn đề đó một
cách nghiêm túc.
Mâu thuẫn nảy ra giữa thực tiễn công
việc cứu nước và quan niêm janh hùng bắt đầu ở chỗ: những người anh hùng mà ông
biết đến đều chỉ làm những công việc vĩ đại, họ khác với nhân dân xa lạ và cô
độc; mà công việc cứu nước ông tiến hành thì lại gồm nhiều việc lớn nhỏ, phải
có toàn dân tộc tham gia, tùy tài tùy sức. Anh hùng phải là sự nghiệp của nhiều
người. Đầu tiên ông phải phá bỏ ranh giới giữa nam nữ, giữa sang hèn, chống tư
tưởng coi thường phụ nữ, coi thường người dân bình thường, tuyên truyền tư
tưởng “anh hùng không phải việc gì kỳ quái lắm. Muốn làm anh hùng thì được anh
hùng thôi” (Sùng bái giai nhân), “Sự
việc anh hùng phải đâu chỉ có bạn trai mới làm được”. Nếu mọi người đồng tâm
nhiệt tình cứu nước thì có thể có cả những gia đình, những làng xóm cho đến cả
nước đều anh hùng. “Tổ tiên ta sinh ra trong thời đó (cuối đời Trần) không một
ai là không anh hùng” (TQTS, 22). Chủ trương và lòng tin ở sức mạnh của khối
đoàn kết dân tộc đã làm ông thấy anh hùng là một phẩm chất phổ biến. Sự nghiệp
lâu dài gian khổ không thể chỉ có một số ít người làm nên mà người anh hùng
cũng không thể chỉ làm một số việc phi thường mà được việc. Từ sùng bái giai
nhân, Việt Nam quốc sử khảo viết năm
1997 – 1908 ông đã nhấn mạnh vai trò của anh hùng vô danh: “Một Trưng vương mà
không có hàng ngàn vạn Trưng vương vô danh làm vây cánh… đồng lòng góp sức thì
nước ta sao khỏi chia làm quận huyện” (VNQSK, 110 - 111) và đếm Chân tướng quân đăng báo quãng năm 1917
– 1919 vấn đề quan hệ giữa anh hùng hữu danh và vô danh lại được giải quyết
lại; tiến thêm một bước: “Nhân dân nước họ (Nhật Bản) coi việc nước như việc
nhà, dấn thân vào việc nguy nan chung thì tựa như người đói đi tìm ăn vậy. Một
Tây Hương đó chẳng qua cũng chỉ là một đại biểu cho hàng vạn hàng ức Tây Hương”
(CTQ, 18). Từ chỗ coi anh hùng vô danh là vây cánh đến chỗ coi anh hùng vô danh
chỉ là đại biểu, tư tưởng Phan Bội Châu càng ngày càng dân chủ và quan niệm anh
hùng của ông cùng càng ngày càng có tính chất nhân dân quần chúng hơn. Tuy vậy
cho đến khi ông đã biết và ham thích chủ nghĩa xã hội, nói đến vai trò công
nông, nói đến hình thức đấu tranh bãi công thì Phan vẫn quan niệm người anh
hùng Phạm Hồng Thái là người tiên tri, tiên giác “dấn thân vào địa ngục” công
nhân tức công xưởngchịu cái cảnh “đầu bù tóc rối, mặt mũi nhọ nhem, chân tay
sần sùi chai sạn… hy sinh hết mọi thú yên vui…” để cứu vớt công nông. Quan niệm
anh hùng vô danh, anh hùng chỉ là đại biểu của Phan tuy khá tiến bộ, nhưng vẫn
còn khá xa quan niệm lãnh tụ và quần chúng của giai cấp vô sản.
Anh hùng bao giờ cũng để chỉ những phẩm chất
phi thường, hành động phi thờng, sự nghiệp phi thường. Nhưng không phải người
nào có phẩm chất phi thường cũng lậo được sự nghiệp phi thường, không phải hành
động phi thường nào cũng là anh hùng. Là nhà nho, trước lúc xuất dương, tư
tưởng ý chí luận ở Phan rất nặng. “Xoay nên thời thế” là thái độ ý chí luận bất
chấp số mệnh. Làm quen với tân thư và bước vào hoạt động Phan cũng bàn vấn đề
anh hùng và thời thế, chú ý đến điều kiện, hoàn cảnh khác nhau. Một quan niệm
chiết trung mơ hồ giữa quyết định luân và ý chí luận kéo dài khá lâu và không
phải cuối cùng ông đã giải quyết đúng đắn. Cả một cuộc đời gặp toàn thất bại đã
làm ông thấm thía sự khắc nghiệt của điều kiện thực của hoàn cảnh khách quan.
Ông nói đến công những người anh hùng thất bại “tìm đường mở lối, vỡ núi dọn
gai đi trước” chuẩn bị cho các anh hùng lừng lẫy lập nên sự nghiệp. Ông so sánh
Hoàng Hoa Tham với Hoa - thịnh - đốn, với Nã - phá - luân, nhấn mạnh tình huống
khác nhau chứ phẩm chất anh hùng thì chưa dễ ai đã hơn ai. Thấy được tác dụng
to lớn của hoàn cảnh khách quan chưa phải ông đã hiểu đúng đắn quan hệ giữa ý
chí và quy luật. Là một nhà nho, sống bằng tình cảm, đạo lý; Phan Bội Châu khong
có thói quen triệt để, nhất quán và đi sâu vào lý luận. Lòng yêu nước không bờ
bến hướng dẫn ông giải quyết những vấn đề thực tế: ông than thở cho những người
anh hùng “lỡ sinh ra ở nước ta” (CTQ, 23) chứ không đầu hàng trở về với tư
tưởng số mệnh. Không phải là Phan đã khắc phục được những chỗ sai lầm trong tư
tưởng cũ để có một quan niệm anh hùng đúng đắn, phù hợp với thời đại ông sống,
nhưng những phẩm chất anh hùng mà ông suy nghĩ lại vạch ra được một lý tưởng
sống phù hợp với con người Việt Nam của thời đại đó.
Nhân vật ành hùng của Phan Bội Châu tuy
nguồn gốc xã hội khác nhau, chức trách khác nhau, hình thức hoạt động cũng đa
dạng, nhưng ai cũng kiên cường bất khuất, rất căm thù giặc, thiết tha yêu nước,
nghe nói đến chuyện đánh giặc cứu nước thì hăng hái xung phong, không ngại khó
khăn, khi cần hy sinh không tiếc thân mình.
Có ý thức về nhân cách làm người Việt
Nam, họ không chịu nhục, không quỳ gối trước cường quyền. Say mê tự do, họ muốn
sống phóng khoáng, không chịu ràng
buộc, không tự do thà chết, sẵn sàng “đem máu mua lấy quyền tự do”, “lấy máu
rửa vết nhơ nô lệ”. Đó chính là những người sống vì lý tưởng, sóngcos mục đích:
nhiệt tình vì nước, vì dân, giác ngộ vì lý tưởng, vì mục đích, người anh hùng
mới đó ra sức làm việc, “không ưa sự nhàn rỗi” “mạo hiểm để lo toan”, khắc phục
khó khăn một cách bền bỉ, không đầu hàng lùi bước. Họ chỉ nghĩ đến việc chung,
không nghĩ đến danh vị, không tính toán cho cá nhân. Một nét đáng chú ý là
người anh hùng của Phan Bội Châu thường là trầm tĩnh, cơ mưu, có suy nghĩ chín
chắn. Họ không sợ gian khổ, không từ chối hy sinh, nhưng cũng biết cân nhắc vì
lợi ích chung chứ không chỉ bằng lòng với danh nghĩa đạo lý như hành động
“thành nhân” “tựu nghĩa” của người trung nghĩa hay vội vã, khinh suất như nhiều
anh hùng thảo dã nông dân. Khi mô tả người anh hùng, Phan Bội Châu cũng có nói
đến hoàn cảnh gia đình, nói đến tình cha con, vợ chồng, đến một số quan hệ xã
hội, nhưng hầu như những cái đó không ảnh hưởng đến tính cách nhân vật. “Bậc
đại trượng phu” tự hào vì mình, không ràng buộc với những hoàn cảnh cụ thể đó,
“thấy việc phải thì bỏ mình để làm, nhà cửa vợ con có kể gì” (TQTS, 69). Tất cả
suy nghĩ, cảm xúc của Phan Bội Châu tập trung vào vấn đề áp bức dân tộc, vào
nước, vào đâu mà quan niệm người dân của ông thì chỉ gắn với nước chứ không gắn
với những điều kiện kinh tế và xã hội cụ thể. Tư tưởng dân chủ đã làm cho Phan
Bội Châu đề cao người đàn bà và người nông dân lên hàng anh hùng. Về một mặt,
điều đó có ý nghĩa chủ trương sự bình đẳng trong xã hội. Nhưng cách mạng giải
phóng dân tộc tuy có gắn với duy tân nhưng lại không đặt ra vấn đề quyền sở hữu
về kinh tế, địa vị chính trị và xã hội cho nên không có vấn đề giải phóng phụ
nữ, giải phóng nông dân cụ thể. Cô Chí là người phụ nữ yêu nước, biểu lộ phẩm
chất anh hùng trong hoạt động cứu nước chứ không phải là một người phụ nữ đấu
tranh giải phóng cho đất nước và cho tầng lớp mình. Ông Xí, ông Võ là những
nông dân yêu nước anh hùng trong họat động yêu nước chứ không phải là người
nông dân đấu tranh giải phóng dân tộc để giải phóng cho nông dân. người anh
hùng của Phan Bội Châu là người anh hùng của đấu tranh giải phóng dân tộc. Nổi
bật ở người anh hùng đó là lòng yêu nước, yêu đồng bào đồng chí. Họ căm thù
giặc ngoại xâm chứ không phải căm thù áo bức bóc lột; căm thù cường quyền chứ
không phải sự thống trị giai cấp. Muốn duy tân tư sản hóa nhưng Phan Bội Châu
chưa có ý thức đầy đủ về cách mạng kinh tế và cách mạng xã hội. Nếu như lúc đầu
Phan Bội Châu quan niệm anh hùng là phi thường thì càng về sau ông càng muốn
làm cho anh hùng trở thành bình dị. Nhưng không đặt con người trong điều kiện
cụ thể của cuộc sống bình thường ông không sáng tạo ra được một mẫu anh hùng
bình dị mới mà chỉ nâng người bình thường lên mức anh hùng và phổ biến hóa phẩm
chất anh hùng thích hợp với nhiều người. Người anh hùng của ông không phải là
một số ít người lớp trên được trời sinh ra với những phẩm chất, những số mệnh
đặc biệt, nhưng cũng không phải là những người sống bình thường, suy nghĩ hành
động trong những điều kiện bình thường, giải quyết những vấn đề của cuộc sống
bình thường, theo cách bình thường nhưng lao động, chiến đấu ở mức anh hùng phi
thường.
Đi vào quỹ đạo chung của thế giới hiện
đại, xã hội Việt Nam theo quy luật tất yếu nhanh chóng bỏ qua chế độ phong kiến
và chế độ tư bản chủ nghĩa để tham gia vào tình hình chung của giai đoạn cách
mạng vô sản trên thế giới. Tư tưởng anh hùng của Phan Bội Châu, phát triển
trong điều kiện đó, đã di từ mẫu người trung nghĩa đến người anh hùng của nhân
dân, đầu tiên là cứu nước giành độc lập và về sau coi mục đích của cuộc đời là
giải phóng công nông. Đó là một quá trình lần lượt tiếp thu và phủ định người
hào kiệt phong kiến, người hào hiệp thảo dã, rồi cả những Oa – dinh – tơn, Na –
pô – lê – ông, Bít – mác… được hình dung theo lối phương Đông - để quan niệm rõ
hơn người anh hùng cứu nước không vì cá nhân, không vì người tri kỷ, “tự nhiệm
tự động” “hy sinh vì quốc dân” (xem Phạm
Hồng Thái, 141 – 142). Ở Phan Bội Châu, tư tưởng anh hùng phát triển tương
ứng với tư tưởng yêu nước và dân chủ. Phan Bội Châu xuất phát từ yêu nước đã
say mê tư tưởng dân chủ tư sản rồi tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Nhưng cho đến đầu
thế kỷ XX chế độ phong kiến ở phương Đông chưa tạo ra tiền đề về vật chất cho
một cuộc cách mạng tư sản chống phong kiến; công việc chống Pháp giành độc lập
lại đòi hỏi lấy tinh thần đoàn kết tập hợp mọi lực lượng dân tộc. Phan Bội Châu
không có thực tế đấu tranh xã hội để quan niệm con người và xã hội một cách
khoa học, một cách hiện đại. Cho nên tuy ông nói hy sinh cho bình dân, cứu vớt
công nông, nhưng ông vẫn chưa hiểu lao động và bóc lột một cách sâu sắc, ông
vẫn giữ thái độ phân biệt kẻ có học và quần chúng (Phạm Hồng Thái, 124- 130).
Ở đây có vấn đề nhân thức, có vấn đề
hoàn cảnh sống, có vấn đề nếm trải. Tư tưởng Nho gia chi phối nội dung và cách
suy nghĩ. Sống ở Nghệ Tĩnh, đi lại với những người “lục lâm giang hồ” (những
người yêu nước sống bất hợp pháp lúc đó) và hoạt động lâu năm ở Trung Quốc; tất
cả những điều đó ảnh hưởng đến việc hình thành tư tưởng anh hùng và hình tượng
anh hùng.
Phan Bội Châu khắc phục được nhiều
nhược điểm của tư tưởng anh hùng phong kiến, anh hùng nông dân, nhưng Phan vẫn
không vượt qua để đối lập được với thời đại phong kiến, không đặt mình rõ ràng
trong điều kiện của thời đại mới để tiếp thu chủ nghĩa anh hùng mới và sáng tạo
nhân vật anh hùng mới.
Từ cuối thế kỷ XIX, trong khoảng ba bốn
mươi năm nước ta đã vượt qua một chặng đường tương đương với 3, 4 thế kỷ ở châu Âu. Là người lính tiên phong của giai
đoạn lịch sử đó, Phan Bội Châu đã tùm đường không mỏi và luôn luôn tiến lên.
Trong tình trạng bế tắc của đất nước: tổ chức xã hội cũ đã tan rã, các phương
thức đấu tranh bảo vệ tổ quốc đã hết hiệu nghiệm, ý thức hệ Nho giáo đã hết sức
sống, khong thể chi trì cho hành động, Phan Bội Châu với quyết tâm cứu nước phải
tìm cách mới để thay thế. Không sống ở một trung tâm của phong trào cách mạng
tiên tiến, chủ nghĩa yêu nước không có điều kiện thuân lợi để tiến nhanh gặp
chủ nghĩa cộng sản. Ông mày mò rút từ những kinh nghiệm thất bại, sửa chữa
những sai lầm mà đi đến chủ trương đoàn kết dâ ntộc thành lập chính đảng trong
toàn quốc, thực hiện chế độ dân chủ và để làm cơ sở ý thức cho hoạt động cứu
nước mới, theo cách suy nghĩ của Nho gia, ông tìm một đạo lý làm người mới. Từ Sùng bái giai nhân đến truyện Phạm Hồng Thái, các tác phẩm ông viết
chính luân hay văn nghệ, về nội dung tư tưởng đều đi theo phương hướng đó. Kết
quả là Phan Bội Châu đã xây dựng thành một mẫu người cách mạng sống với nhau
theo một tình nghĩa mới: tình đồng chí trong một tổ chức mới: đảng, đoàn thể. Ông
đưa ra đạo lý làm người vì dân vì nước mà hy sinh thay thế cho đạo lý trung
hiếu của Nho gia.
Chủ nghĩa anh hùng và hình tượng người
anh hùng của ông còn rất xa không chuẩn bị được cho cách mạng xa họi chủ nghĩa,
nhưng lại chuản bị rất nhiều cho mọi từng lớp nhân dân sẵn sàng đi theo lá cờ
yêu nước mà Đảng của giai cấp vô sản giương cao, hoàn thành sự nghiệp giải
phóng dân tộc. Chủ nghĩa anh hùng và hình tượng ngườianh hùng của Phan Bội Châu
đã góp phần đáng kể bồi dưỡng nên một phẩm chất đặc biệt của người cộng sản
Việt Nam: yêu nước, tình nghĩa đồng chí, gắn bó với dân tộc.
Người cộng sản Việt Nam đứng trước hai
nhiệm vụ hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ và xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa
thấy mình được giáo dục, được cổ vũ bởi hình tượng người anh hùng, yêu nước của
ông vừa thấy mình phải khắc phục tính chất nho gia và nông dân trong tư tưởng
anh hùng của ông để có được chủ nghĩa anh hùng chân chính của thời đại.
*
*
*
V. NGƯỜI CHÍ SĨ CÔ ĐỘC QUAY VỀ VỚI CON NGƯỜI ĐẠO ĐỨC THEO NHO GIA
V. NGƯỜI CHÍ SĨ CÔ ĐỘC QUAY VỀ VỚI CON NGƯỜI ĐẠO ĐỨC THEO NHO GIA
Năm 1925 Phan Bội Châu bị thực dân Pháp
bắt cóc đem về nước. Không ám hại được, chúng buộc phải đưa ra xử trước toà án.
Trước toà án của kẻ thù, ông giữ thái độ hiên ngang bất khuất và chuẩn bị chết
một cách xứng đáng.
"Sống không trừ được mối lo thiên
hạ, chết không rửa được thù ý trung. Mối giận dằng dai, sông Cả, núi Hồng muôn
thuở đó.
Hý cuộc trước đã sắp đến tàn, vũ đài
sau chính đáng sắp dựng. Thúc người sôi sục, gió Âu, mưa Á, tám phương
dồn".
(Nguyên văn chữ Hán. Tôn Quang Phiệt
dịch)
Nổi bật trong lời tuyệt mệnh không phải
là cái chết của bản thân mà là của đất nước, là lòng uất hận căm thù chất thành
khối, là cuộc chiến đấu trong tương lai như sóng gió đã cuồn cuộn đổ về. Nhờ
phong trào đấu tranh của nhân dân cả nước, ông được thả ra và bị đưa về Huế.
Sống trong cảnh giam lỏng, luôn luôn bị theo dõi uy hiếp, ông già bến Ngự
vẫn viết nhiều văn chương thức tỉnh đồng bào, kêu gọi quốc dân giải phóng đất nước.
Những năm đầu mới về rõ ràng ông vẫn ôm ấp hy vọng tiếp tục hành động cứu nước. Nhưng giữa phong trào cách mạng của đất nước,
Phan Bội Châu càng ngày càng trở nên xa lạ: phong trào giải phóng dân tộc đã đi
theo một phương hướng mới, gắn với cách mạng xã hội chủ nghĩa, do giai cấp vô
sản lãnh đạo. Không phải Phan Bội Châu không thích chủ nghĩa xã hội mà ngược
lại. Thế nhưng, khi trong thực tế chủ nghĩa xã hội đi vào quần chúng mà thành
phong trào cách mạng, sôi sục ngay ở quê hương Phan Bội Châu thì ông rất bỡ
ngỡ. Ông quan niệm chủ nghĩa xã hội một cách khác và không hiểu được phong trào
đấu tranh cách mạng của công nông. việc Phan Bội Châu bị bắt kích động nhân dân
cả nước gây thành một cao trào dấu tranh rầm rộ, bãi công, bãi khoá, bãi thị,
biểu tình khắp toàn quốc tập dượt cho quần chúng cách mạng, nhưng sóng cồn nổi
lên càng ngày càng cao với phong trào đòi thả Phan Bội Châu lại xa dần Phan Bội
châu. Phong trào chính trị càng phát triển thì Phan Bội Châu càng trở nên bỡ
ngỡ cô độc.
Phan Bội Châu là người viết văn. Khi về
bến Ngự ông có thì giờ để viết và viết nhiều hơn trước. Ông biên soạn nhiều sách,
làm thơ, viết truyện đăng báo khá nhiều. Hết khả năng hoạt động chính trị, ông
cũng coi viết văn là công việc chính và dần dần ông cũng chuyển sang viết văn
nghệ. Việc ông mở thị xã Mộng Du (1931) để dạy làm thơ trên báo là biểu hiện
của khuynh hướng đó. Thế nhưng phong trào văn học trong nước cũng đã vượt qua
ông. Từ quãng năm 1925 về sau tiểut huyết, kịch và thơ mới giành được công
chúng đông đảo mà Phan Bội Châu vẫn làm thơ, làm phú, viết truyện theo lối cũ.
Ông đứng về phía Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng chống phong trào quốc văn quốc
học, sùng bái Truyện Kiều của Phạm Quỳnh mà cũng đứng về phía Huỳnh Thúc Kháng,
Ngô Đức Kế, bảo vệ quan niệm văn của nhà nho. Không phải Phan Bội Châu không
muốn sáng tạo, không muốn thay đổi, nhưng ông cũng không quan niệm được văn học
nghệ thuật đủ mới. Tình hình đó cũng đưa Phan Bội châu đến chỗ lạc lõng, xa lạ,
cô độc.
Cuộc đời Phan Bội Châu là cuộc đời một
bực anh hùng "hoàn toàn thất bại" (chữ của Phan Bội Châu). Ông nếm
cảnh thất bại ngày từ những năm mới xuất dương. Về bến Ngự chỉ là thay đổi hoàn
cảnh cụ thể. Không phải thất bại đủ làm cho Phan Bội Châu thất vọng. Ông là người
hết sức bền bỉ, kiên cường. Vừa thoát chết ông đã động viên mọi người coi
"gian nan là trường học anh hùng", "thất bại là mẹ thành
công" có "đứt tay mới hay thuốc". Đối với những ma chiết của
cuộc đời hoạt động nguy hiểm ông giữ một thái độ thách thức:
Có gan sắt nguội
Mặc sức rèn tôi.
Có chất vàng mười
Tha hồ mài xát.
(Nam quốc dân tu tri.
Gian nan là trường học anh
hùng)
Ngã rồi liền dậy
Muôn dặm không xa
Chèo mãi sẽ qua
Bờ kia hẳn tới
Trời đâu? Ta hỏi
Xem thử gan già!
(Nam quốc dân tu tri.
Thất bại là mẹ thành công)
Nhưng Phan Bội Châu là một nhà hoạt động
chính trị, chí khí sức mạnh tuỳ thuộc vào quần chúng, vào phong trào cách mạng.
Xa lạ với phong trào, bỡ ngỡ với quần chúng, càng ngày càng thấy mình xa mọi người;
cảm giác cô độc làm ông đau xót, thất vọng, nhiều khi chán nản. Tất cả sáng tác
của Phan Bội Châu giai đoạn 1925 – 1940, nhất là từ 1930 về sau, là tiếng nói
của người chí sĩ cô độc, tuy vẫn giữ lòng yêu nước sắt son nhưng nội dung không
hợp với phong trào thực tế. Trong thơ đoạn sau bộc lộ âm hưởng bi thảm, thất
vọng, khác hẳn thơ văn Phan Bội Châu trước đây.
1.
Yêu nước và chủ nghĩa xã
hội
Phan Bội Châu bị bắt về nước đúng vào
lúc trong nước cách mạng đã chuyển sang hướng mới. Từ năm 1919 Nguyễn Ái Quốc đã
bước vào hành động chính trị. Trong nước giai cấp công nhân đã giác ngộ, đấu
tranh; những thanh niên trí thức đã bắt đầu làm quen với sách báo mác – xít do
những chuyến tàu từ Pháp bí mật chuyển về. Nói chung đối với đất nước nhiệm vụ
vẫn là cứu nước và duy tân - giải phóng dân tộc và hiện đại hoá đất nước – Nhưng
nằm trong tình hình chung của các nước phương Đông, trước năm 1925 dân tộc đã
thức tỉnh bằng tấm gương duy tân của Nhật Bản mà sau 1925 nó lại sôi sục lên vì
tấm gương cách mạng vô sản của nước Nga. Đầu thế kỷ người ta lặn lội sang Đông
theo ánh "mặt trời Phù Tang", tìm giải phóng trong cuộc đấu tranh
chung của giống da vàng mà sau Cách mạng tháng Mười, người ta lại tìm đường
sang Tây, hướng về ngôi sao trên nóc điện Cờ - rem – lanh, tìm giải phóng trong
cuộc đấu tranh chung của giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức. Làn gió cách
mạng vẫn từ Quảng Châu trực tiếp thổi tới nhưng ở Quảng Châu ngọn gió đã đổi
chiều. Nguyễn Ái Quốc vào Đảng Cộng sản Pháp, sang Liên Xô rồi về Quảng Châu…
Giai cấp vô sản lớn lên, đi đến tự giác… Trí thức Tây học giác ngộ ngả theo hai
giai cấp cách mạng cơ bản: công nông… Kết quả quan trọng không chỉ là một tư tưởng
mới dược truyền bá mà là một tổ chức cách mạng của quần chúng mới được hình
thành. Phan Bội Châu sống trong phong trào đó, tiếp xúc khá sớm với chủ nghĩa
xã hội, đã gặp Nguyễn Ái Quốc (trực tiếp hay gián tiếp?), nhưng do những hạn
chế của bản thân, ông không có những điều kiện - nhất là khi về Bến Ngự lại
càng không có điều kiện – như công nông hay người trí thức Tây học để tiếp thu
tư tưởng mới và tham gia phong trào cách mạng.
Từ năm 1926 đến năm 1930 Phan Bội
Châu viết nhiều tài liệu bằng tiếng Việt: Nữ quốc dân tu tri, Nam quốc
dân tu tri, Luân lý vấn đáp, Cao đẳng quốc dân, Bài hát chữ Cần, Bài hát chữ
Kiệm, Bài hát chữ Nhân ái, Thuốc chữa dân nghèo… Tất cả đều có dụng ý
tuyên truyền giáo dục lòng yêu nước, Phan Bội Châu vẫn tự coi mình có trách
nhiệm tiếp tục sự nghiệp cách mạng. Trong thâm tâm ông vẫn ôm ấp mộng hành động
cứu nước.
Trong thơ văn lúc đó Phan Bội Châu
nói nhiều đến nỗi khổ nhục của dân mất nước, trách nhiệm của quốc dân đối với đất
nước, tư cách của người dân một nước văn minh, độc lập… Ông hô hào quốc dân yêu
nòi giống, hợp đoàn, tự cường… Sống trong hoàn cảnh o ép, ông không thể dõng
dạc nói thẳng ý mình như trước. Viết về nội dung yêu nước, cách mạng để in
sách, đăng báo công khai, ông phải nói khéo để chính quyền thực dân không gây
khó dễ, để lưỡi kéo kiểm duyệt không cắt bỏ. Ông vẫn truyền bá tư tưởng "nước
là mẹ ta; ta là con nước". Ông tránh nói Pháp xâm lược mà lại nói
"Cuộc đời dâu bể. Trời cướp mẹ mình". Nỗi khổ nhục mất nước được
trình bày thành là:
Hồn mẹ lênh đênh,
Nỗi con chua xót.
Và từ đó kêu gọi mọi người phải
"thương đến nước", phải "thề cùng sông núi giữ vững lòng ái quốc
(Xem Nam quốc dân tu tri. Thế nào là ái quốc).
Ông cũng nói đến dân quyền. Quyền dân
là điều tất yếu tự nhiên, là "chức trời". Là người ai cũng có quyền
nghe, quyền thấy, quyền nghĩ, quyền nói, quyền hoạt động. Ông nói một cách
thiết tha:
Dân sống lâu bởi quyền tôn trọng
Dân không quyền, dân sống được đâu.
Không quyền là ngựa là trâu
Dân đà đến thế, nước đâu được còn.
(Độc sử cảm ngôn)
và tố cáo sự bất công:
Cớ sao chúng nó
Cướp sạch quyền mình
Đến nỗi lợi mình
Nó cũng cướp ráo?
(Thuốc chữa dân nghèo)
Ông trách
dân ta hèn kém đem quyền cho người khác giữ, biến thân phận chủ nhà thành thân
phận tôi tớ và kêu gọi mọi người
Anh em xin gắng
Giành lại quyền dân
(Thuốc chữa dân nghèo)
Ông cũng
khuyên mọi người hợp quần. Ông lên án thái độ ích kỷ, bàng quan ai lo phận nấy
của dân:
Hợp quần là sao?
Là có đoàn thể.
Dân ta quá tệ
Ai nấy riêng tây
Dầu đó với đây
Chung nhau xương thịt.
Đó đau, đó chết
Đây ngồi tự nhiên.
Ghét nhau vì tiền,
Ghen nhau vì của,
Cõng rắn về tổ,
Rướ voi giày mồ.
Đó bị búa rìu,
Đây cũng dao thớt!
(Thuốc
chữa dân nghèo)
Đoàn kết dân
tộc là một tư tưởng lớn của Phan Bội Châu mà tình trạng rời rã,ghen ghét nhau,
làm hại nhau dưới chế độ thự dân phong kiến lại càng nặng nề. Ông nói đến điều đó
không những thiết tha mà đau xót:
Vẽ mặt làm chi mấy cụ già
Đá nhau
thì có ích gì mà…
Dưới chân
má vịt tranh ba miếng.
Trước lưỡi
dao trâu nghèo một ma
Cựa sắc
gà khoe cùng kẻ lạ
Lông vàng
xin nhớ cũng con nhà.
Phá lồng
nếu có khôn ngoan nữa
Xin dắt
dìu nhau ta với ta.
(Sau
lúc đau ngớt hát chơi – Bài thứ 5)
Nét nổi bật
trong cách viết của Phan Bội Châu thời kỳ này là nói bóng gió, khai thác gửi
gắm tâm sự trong loại thơ vịnh cảnh vịnh vật trước đây để nói nội dung yêu nước.
Từ vịnh cái gầu, đòn gánh, đôi thùng, đôi gióng, cái gáo, cái chum sành, cái
giỏ cho đến cảnh sông, cảnh trời mưa, cảnh hạn hán ông đều lợi dụng hai chữ
"nước" đồng âm để nhắc đến nước, cảnh thiếu nước mất nước.
Hạn mãi trời toan giết chúng
con
Mấy lâu
trông nước, nước đâu còn.
May chi
cổ cóc chưa khan tiếng
Tội quá
thân lươn dám quản bùn.
(Trách
trời hạn)
Trà ơi
còn nước là vinh hạnh
Cháy lưỡi
khô môi thảm những ai.
(Gọi
trà)
Với lối nói
bóng gió ngụ ngôn đó ông lên án sự xâm lược, tố cáo bọn quan lại bán nước, vạch
bộ mặt giả dối của chế độ bảo hộ, của triều đình phong kiến.
Ông mượn lời
con cà cưởng trách chim tu hú giành tổ:
Ai ơi! ai có nợ nần chi
Sao ổ ai mà ai chiếm ngay?
Chồng vợ tôi đành cam chịu khổ
Cha con bác khéo bợm làm lỳ.
…………
Thiên hạ có đâu kỳ quái dữ
Chẳng mời mà tới, đuổi không đi.
(Tu
hú tranh tổ cà cưởng)
Ông có dụng
ý rỗ rệt đưa trắng đối chọi với vàng để gợi cảnh áp bức của thực dân Pháp:
Bùn tắm
da vàng đen quá mực
Đất ngâm
nước bạc trắng hơn vôi.
(Dân
bị bão lụt kêu trời)
Thù gì
với cá? vàng khô giếng
Oan bấy
kìa rau! trắng toát đồng.
(Trách
thần nắng)
Sắc nước
lọ là tô điểm bạc
Màu trời
giữ lấy giống giòng vàng.
(Tạ ơn
cho hoa cúc)
Đối với cái
nhục mất nước, bị nước ngoài áp bức, Phan Bội Châu có mẫn cảm đặc biệt. Hình như
ở đâu, lúc nào ông cũng nhìn ra cảnh người Pháp đè đầu cưỡi cổ dân ta. Nhìn một
tờ lịch cũng có ghi ngày dương lịch và âm lịch bằng hai màu khác nhau, ông cũng
nghĩ:
Á Âu xáo
lộn đen pha đỏ
Tân cựu
phân minh tớ đội thầy.
Tháng một
đứng trên đầu tháng chạo
Ngày Nam
nằm dưới đít ngày Tây.
(Tạ ơn
người cho lịch năm mới)
Tả một bầy
dê, ông viết: "Bầy dê hơn mười con, ở trong đó có vài con dê xồm râu dài
lắm, sừng nhọn mà cong, thấy con Vá, nó thả uy dê ra chồm lại húc Vá" (Lịch
sử con Vá).
Tư tưởng
ghét Tây không khỏi có ít nhiều hơi hướng chủng tộc chủ nghĩa, nhưng lòng yêu nước
của ông là một ngọn lửa luôn luôn nung nấu tim gan. Trong một nước mất chủ
quyền như vậy bọn quan lại nô lệ múa may, quay cuồng như trên sân khấu hát bội:
Vẽ mặt
múa men tuồng giúp nước,
Rán gân
hò hét tiếng vang làng
Người
ngay kẻ vạy chung sân khấu
Vào Tống
ra Phiên cũng một đàng.
(Hát
bội)
Phan Bội
Châu có viết giọng trào phúng hài hước, nhưng tình cảm của ông là căm giận sôi
sục, đau xót không nguôi. Ông thường dùng hình ảnh đàn gà mất mẹ để nói tình
cảnh dân mất nước. Dưới "cặp mắt đăm đăm hùm thấy lợn" của con diều
là đàn gà "một bầy nhung nhúc chuột kinh mèo" (Diều bắt gà).
Trứng gà chưa nở, gửi trứng cho ác, con gà má vịt, đàn gà bị diều bắt mất mẹ,
gà què ăn quẩn cối xay, gà chọi, gà trong lồng, gà đá nhau… đều thành đề tài để
Phan Bội Châu nói chuyện dân, chuyện nước.
Gà ơi, gà
nhớ mẹ gà không?
Mẹ vịt
nào thương lũ khác giòng
Sắp chọi
những e phường thiếu cựa
Toan kêu
còn ngại bợm mang lồng
Cậy vườn
xưa vẫn khoe mồng mỏ.
Vỡ ổ nay
còn chút cánh lông.
Thương mẹ
càng đau thân phận trẻ
Thóc người
thôi chớ cậy mà mong.
(Lời
than gà mất mẹ II)
Và ông nhắn
nhe an ủi bầy gà bơ vơ ấy:
Lông cánh
ngại ngùng cơ gió bắc
Ó diều e
né mái non Tây.
… Ôm ấp
lấy nhau may lớn mạnh
Tốt mồng
sắc cựa học ghe ngày.
(Bài
I)
Sống trong
hoàn cảnh nguy hiểm luôn luôn bị uy hiếp đe doạ nhưng Phan Bội Châu không chỉ
bộc lộ một tấm lòng yêu nước. Lòng yêu nước ở Phan Bội Châu bao giờ cũng có nội
dung quyết chiến nhằm tuyên truyền cho mục đích hành động cứu nước, giải phóng
dân tộc. Lời kêu gọi cứu nước của ông khi ở bến Ngự cũng vẫn còn khí thế hứng
hực bốc lửa như khi mới xuất dương.
Mở mắt thấy rõ ràng tân vận hội
Xúm vai
vào xốc vác cựu giang sơn.
Đi cho
êm, đứng cho vững, trụ cho gan
Dây thành
bại ghe phen liên hiệp lại!
… Đừng
ham chơi, đừng ham mặc, ham ăn!
Dựng gan
óc quyết đánh tan sắt lửa.
Xối máu
nóng rửa vết nhơ nô lệ
Mới thế
này là mới hởi chư quân!
(Bài
ca chúc tết thanh niên)
Với sự sốt
ruột ông muốn khuyên mọi người hành động nhưng ông lại lo sợ mọi người hành động
không chắc chắn, không chuẩn bị cẩn thận Ông nhắn nhủ:
Nước sợ
mất đâu, bờ sẵn đắp
Giống
mong tốt nữa, có mau bừa
(Mừng
được mưa)
Ông cũng
biết hành động cần phải có cơ hội nhưng lên án thái độ tiêu cực bị động, ông
mỉa mai những người chỉ "nói thàm", làm hỏng, đổ vì "không có cơ
hội", không chịu chuẩn bị, lấy nê là "chờ cơ hội". Ông nói cơ
hội "thoáng như chớp nhảy như nước", nếu không chuẩn bị sẵn sàng thì
"thời thế chỉ là thời thế ai", "cơ hội này qua cơ hội
khác".
Huống gì đắp
chiếu ngủ say bấy nhiêu năm
Cơ gì?
hội gì? Thôi thôi chớ nói khoác.
(Than
cơ hội)
Đó là những
lời sốt ruột viết năm 1938 trước tình hình sắp xảy ra đại chiến thứ hai, Đức
Pháp sắp đánh nhau. Rõ ràng đó là tâm lý của một người muốn hành động.
Có thể Phan
Bội Châu cũng nghĩ rằng có kẻ sẽ trách ông quá khích, không tự lưỡng, hiếu
chiến, chủng tộc chủ nghĩa, nên trong bài Sau lúc đau ngớt hát chơi,
tác giả nghĩ lan man đến chuyện châu chấu đá voi:
Gan đương
xông giận, quân hèn nhỏ
Quyền
phải tranh liều, quyết tử sinh.
… Voi ơi!
chấu cũng hoà bình rất
Tức tối
non sông há của anh!
(Bài XI)
Tức tối vì
nỗi non sông về tay kẻ khác, đó là nội dung mà suốt đời Phan Bội Châu đã dùng
thơ ca để truyền lại cho nhân dân.
Trong một
bài tự trào, Phan Bội Châu đã rao bán mình:
Miệng tựa
chuông đồng vang dậy đất
Râu ria
sao chổi quét ngang trời.
Nếu ai có
hỏi nghề gì chú?
- Tôi đã
cồng khua mõ gióng hoài.
(Bán mình)
Kêu gọi
nhân dân cứu nước đối với ông là một thứ chuyên nghiệp và ông coi đó là một
thiên chức do bản tính tự nhiên: Có miệng lẽ đâu trơ đất đá? Trước cảnh
non sông tăm tối "không thể câm miệng" (xem bài Gà gáy sáng),
Hoàn cảnh dầu có khó khăn ông cũng không hề lùi bước:
Trời nếu
gió mưa dồn trận trận
Ta càng chuông mõ giục hồi hồi
(Mừng
báo Tiếng dân chẵn 12 năm)
Ông đã tự nhận
lấy việc làm con quốc Khắc khoải năm canh quốc quốc hoài. Cho đến lúc
già, con quốc vẫn không hề ngớt hơi khan tiếng và Phan Bội Châu cũng không biết
mình đã già:
Mò tìm quên quách chòm râu bạc
Bảy chục
con nghi tuổi mới ba.
Trái tim của
Phan Bội Châu chứa đầy nhiệt huyết; lòng yêu nước của ông sâu sắc giàu sức
chiến đấu; nhưng bước vào giai đoạn mới của cách mạng, những lời kêu gọi của
ông không đi vào quần chúng với sức mạnh bão táp như xưa. Phan Bội Châu không
nói thẳng, nói đầy đủ được ý mình, ông phải nói quanh co bóng gió. Nhưng không
phải vì lẽ đó mà nhân dân không hiểu ông. Phan Bội Châu đã viết rất tài tình,
tình cảm chân thành đã lấn át hẳn nghệ thuật gò ép. Điều quan trọng làm cho tác
động của văn chương Phan Bội Châu kém sút là công chúng đã khác, thời đại đã
tiến lên phía trước, mà nội dung thơ ông không theo kịp. Được chủ nghĩa Mác soi
sáng người ta đã nhìn đến bản chất của chế độ thự dân và phong kiến, quan tâm
nhiều đến các vấn đề cách mạng kinh tế và xã hội, nhìn thế giới và đất nước
trong những mối liên hệ chặt chữ, nhận ra cách mạng giải phóng dân tộc không
thể không kết hợp với cách mạng của giai cấp vô sản thế giới, ngay cả những tư
tưởng lớn của chính Phan Bội Châu cũng đã được phát triển cao hơn. Thế nhưng
Phan Bội Châu vẫn kêu gọi học hành, hợp đoàn như xưa: chủ nghĩa chủng tộc chưa được
khắc phục, lòng yêu nước đang nằm trong tư tưởng quốc gia hẹp hòi… Những lời
kêu gọi yêu nước của ông không phải sai, nhưng con người yêu nước đã phải nghĩ
khác, hành động khác. Ông không giải đáp được những vấn đề mà quần chúng đã bắt
đầu quan tâm đòi hỏi.
Những năm
Phan Bội Châu về sống ở Bến Ngự là những năm tình hình trong nước rất đen tối.
Về nước, chính mắt Phan phải chứng kiến cảnh kinh tế khủng hoảng, hạn hán bão
lụt liên miên và sự khủng bố đẫm máu của thực dân Pháp đối với phong trào cách
mạng lúc này đã do Đảng Cộng sản phát động, lãnh đạo. Trái tim luôn luôn gắn bó
với nhân dân, với dân tộc của Phan vì thế càng thổn thức. Đè nặng lên tâm trí
Phan là cảnh khốn khổ của nhân dân:
Cạnh bếp
nhà nông cười lẫn khóc
Dọc đường
lao động chạy vừa rênh
Vớt rong
mụ nọ cò bờ bến
Hái củi
thằng kia, cuốc trước ghềnh
Nào là cảnh
lụt lội "xương phơi nuôi cá tép". Nào là cảnh hạn hán đói kém "đồng
điền ba tháng thiêu như lửa. Chày cối liền năm lặng tựa tờ". Đã mất mùa
lại chiến tranh, ông khái quát thành một "bức đồ xã hội" u ám:
Duy có
khất cái hai chữ đề
Ngày Tết thường
là một dịp cho nhà nho làm thơ. Vào nhữgn dịp tống cựu nghinh tân đó nhà nho thường
suy nghĩ về cả cuộc đời. Phan Bội Châu cũng hay làm thơ Tết. Năm 1936 ông cho đăng
trên báo Tiếng dân 10 bài thơ Vịnh Tết, mỗi bài nói cảnh Tết một
hạng người trong xã hội: dân cày, thợ thuyền, phu xe, công thương, học sinh,
thầy tu, quan lại… Mười bài đó không chỉ cho ta thấy tình cảm khốn khổ của nhân
dân mà còn cho ta thấy cả cách nhìn xã hội của Phan Bội Châu nữa.
Trong ngày
Tết chỉ có quan lại là hả hê sung sướng, vênh vang:
Xe hơi
chen chúc đứng đầy ngõ
Áo gấm
vào ra rộn cả nhà
Tiếng
chúc, tiếng mừng chen tiếng pháo
Câu cười,
câu tán lẫn câu ca.
Chỉ có hạng
thầy tu là vô lo, ung dung thoải mái:
Hương hoa
vô số người mê cúng
Chè oản
tha hồ phật sống xơi
Sướng tột
là không xâu thuế tới
Giờ thừa
lại có kiệu cờ chơi.
Ngoài họ ra,
tất cả đều vất vả khổ cực, lo lắng. Thám thương nhất là "dân quê ở thôn
ổ". Quanh năm đã đói khát "hóng tháng mười ngồi ngóng tháng ba"
mà đến ngày Tết cũng không đầy đủ hơn:
Táo quân
bếp lạnh ngồi giương mỏ
Con trẻ
ngồi không khóc suốt ngày.
Nhà văn tuy
làm nghề thanh tao, không phải chân lấm tay bùn, ngày Tết tuy cũng còn có khả năng
Say gượng chén chè mua thú rượu nhưng đời sống của họ cũng không bớt
phần lo lắng vất vả vị nỗi
Ngồi mềm đầu
óc bán bài thuê
Thuế sưu, đói
khát, túng thiếu, nợ nần, không phải người ta mong Tết chờ Tết mà người ta lo
Tết, sợ Tết đến. Thế mà ở Việt Nam, từ khi Pháp sang cả năm Tết đi Tết lại đến
hai lần: Tết âm lịch của người Việt Nam và Tết dương lịch của người Pháp. Đã là
ngày Tết thì cũng thành ra quang cảnh ngày hội có chuyện chúc mừng, có cảnh:
Pháo xì ngũ sắc tung trời bắn
Cờ phất
tam tài rợp đất bay
Cảnh đối lập
giữa bọn thống trị và nhân dân cũng nhân dịp Tết mà phô bày ra:
Bôi mặt
nhát nhau phường hát bội
Chen vai
lĩnh chẩn lũ ăn mày.
Và người
Việt Nam nghèo khổ quanh năm vất vả đến ngày Tết cũng phải cố xoay xở cho đủ
thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ, nêu cao pháo nổ bánh chưng xanh. Phan Bội Châu
nhìn cảnh nhộn nhịp tưng bừng đó một cách chua xót:
Kìa nhà
nổ pháo, kìa cửa treo hoa
Kìa xôi
thịt heo gà mâm cỗ trực
Rằng vui
vẻ, ừ, vui vẻ thực
Gánh cu
ly chưa vứt tính sao đây
Gánh cu ly
và sự nghèo khổ, Phan Bội Châu từ khi về nước càng ngày càng hưóng về nhân dân
lao động, cái nhìn cũng chuyển sang góc độ xã hội. Ông nói đến nạn kinh tế
khủng hoảng, nạn thất nghiệp, cảnh phá sản của nông dân là những vấn đề kinh
tế, xã hội mới đặt ra lúc bấy giờ, và nhìn mọi thế lực tự nhiên và xã hội đua
nhau vào hùa với thực dân làm tình làm tội người dân đã mất nước gây ra cảnh:
Sĩ học không tiền đậu không bổ
Nông ruộng mất mùa phải đưa cố
Công chẳng ai mướn chẳng ai thuê
Thương thì buôn thua lại bán lỗ.
Trong cảnh
nghèo túng, cùng cực, nhục nhã chung, Phan Bội Châu thường đặc biệt hay nhắc đến
ba hạng người: dân quê, người cu - ly và người phu xe. Người cu – ly, người phu
xe cũng chỉ là người nông dân phá sản:
Vùng tôi ở lở dở
Đã cách
với nguồn lại xa chợ
Muốn
buôn, không có đồng vốn nào
Muốn cày
ruộng, không có một sở
Học mới
học cũ đều dở dang
Không
phải thầy cũng không phải thợ.
Chính người
nông dân bị nạn sưu thuế, bị nạn trích đạc (đo đạc ruộng đất), bị thiên tai,
không có tiền nộp sưu thuế, không có tiền đút lót, phải bán ruộng, bán vợ con,
"bán thân mình", đã "bước chân đi làm thuê" trở thành người
cu – ly:
Kiếm cơm
năm suốt mười hai tháng
Bán sức
ngày vừa ít chục xu;
Làm thuê
không nhàn nhã hơn người nông dân mà cũng không mất được cái lo của người nông
dân. Ba đồng ba tiền sưu mà vẫn là cơn ác mộng đối với họ. Họ mong làm cu – ly để
"đồng công đồng nợ có tiêng trả" nhưng rốt cuộc thì:
Làm rồi,
tiêu rồi không có đồng tiền nào còn dính tay
Chỉ lủa
mình cái mộc
Đi về dở
cười lại dở khóc.
(Đi
làm thuê)
Phan Bội
Châu đã nói đến lao động, nói đến bóc lột, nhưng ông vẫn chưa thấy thật sâu sắc
ý nghĩa áp bức giai cấp trong xã hội mới. Trong xã hội mới thay đổi đầu thế kỷ
ông thấy không rõ người tư sản mà cũng thấy không rõ người công nhân. "Phường
công búa" "thương thì buôn thua lại bán lỗ" chỉ gợi lên hình ảnh
từng lớp tiểu thương buôn thúng bán mẹt hay có hiệu hàng nhỏ. Người công nhân
Tiền bạc
bòn trong mười ngón ép
Tháng
ngày qua trọn một đời thuê.
Chịu cảnh
thất nghiệp "Công chẳng ai mướn chẳng ai thuê" là vì "biết bao
máy móc cướp trọn nghề". Họ chỉ là thợ thủ công. Ông không thấy rõ thực
trạng bóc lột trong một xã hội tư bản chủ nghĩa.
Thái độ của
ông đối với học sinh cũng đáng làm chúng ta chú ý. Khác với lúc Phan Bội Châu
xuất dương, lúc ông về nước số học sinh học các trường Pháp Việt đã rất đông đảo,
trong hoạt động cứu nước và cách mạng họ đang dần dần có một vai trò quan
trọng; thay thế cho vị trí nhà nho trước đây. Thế nhưng Phan Bội Châu không
nhìn ra trong họ vai trò mới đó. Ông chỉ coi họ là những người học chữ Pháp:
Lưỡi đưa
lắt léo dê ăn lộc
Miệng nói
bi bô cóc táp ruồi.
(Học
chữ Tây)
Tất nhiên
trong đám học sinh đông đảo lúc đó có nhiều người đáng cười vì đua đòi ăn chơi,
chịu ảnh hưởng xấu của văn hoá thực dân, của đời sống đô thị, nhiều người đi
học chỉ cốt để kiếm ăn:
Sự nghiệp kia làm ba món ký
Công danh
nọ cũng một thằng bồi.
Trong học
không hiếm những người yêu nước, nhưng cái nhìn của Phan Bội Châu đối với họ
không khỏi mang nhiều thành kiến. Ông chỉ thấy cô nữ sinh
Trả lời
nông uý (non, oui) pha không có
Hỏi giá
oong đơ (un, deux) lẫn một hai
và chỉ thấy
hạng nam học sinh mê say nhảy đầm, đánh vật, chỉ là hạng người vô lo, vô tích
sự.
Áo mình
vừa mốt mũ mình cừ
Lại được
va căng phết bây giờ
Sách kệ
thây quân, chơi quá khoẻ
Banh tha
hồ đánh, sức còn dư.
Mót năm
ba chữ vừa xem hát
Rập chín
mười cô chơi đánh thơ
Tiểu
thuyết tình thư lo gắng đọc
Tết này
còn có tết sau chơ.
Giữa cảnh áp
bức dân tộc và áp bức giai cấp, ông vừa thấm thía cái khổ của cảnh nghèo đói
vừa thấm thía cái nhục của sự áp bức bất công cho nên hạng người làm ông xúc động,
nói đến nhiều và coi như hình ảnh của kiếp sống khổ nhục là người phu xe. Người
phu xe bụng đói, áo rách, trời mưa trời nắng vẫn phải "co khu một mạch tối
rồi mai". Công việc làm ăn của người phu xe hết sức vất vả:
Đường trơn
như mờ dẻo như xôi
Chân tôi
tối ngày chạy như sặt
Đầu tôi
rách nón thân không tơi
Một manh
áo vải ướt như tắm.
Hàng ngày
anh ta phải lo nộp năm hào thuế cho chủ xe, cả năm lại phải nộp ba đồng ba tiền
sưu cho thực dân. Đối với anh ta kiếp người không phải chỉ có cái đói rét lo
lắng như người cu lu, người dân cày mà còn có cái nhục làm "ngựa trâu người"
kéo xe hầu hạ bọn "bị thịt". Anh ta thấy mình có đôi tay đôi chân
khoẻ mạnh hơn người, làm lụng vất vả hơn người, thế mà "từ sáng đến hoàng
hôn tiền kéo không đầy bốn giác thuế". Không phải anh ta chỉ than vãn về
cảnh khổ cực mà anh ta còn bất bình vì sự bất công:
Thử nghĩ
coi thân giữa trời đất
Tay chân
tai mắt như người ta
Sao có kẻ
sướng lại người cực
Đem thân
bảy thước làm lạc đà.
(Phu
xe than trời mưa)
Tất cả những
điều đã nói ở trên cho ta thấy cách nhìn xã hội của Phan Bội Châu. So với nội
dung văn thơ trước đây, Phan Bội Châu đã chú ý đến thực tế kinh tế và xã hội hơn,
chú ý nhiều hơn đến nhân dân thành thị. Từ nhìn cả xã hội chỉ qua người nông
dân bị thực dân bóc lột sưu thuế, ông đã mở rộng tầm mắt đến cả các từng lớp
dân thành thị, nói đến lao động, nói đến bóc lột, lên án sự ăn bám.
Chém cha
một giống
Không làm
mà ăn
Khoanh
tay tréo chân
Giũa nanh
mài miệng
Đã lười
lại biếng
Đã tham
lại kiêu…
(Thuốc
chữa dân nghèo)
Lên án ăn
bám bóc lột là chống chế độ tư bản. Thế nhưng đối với các từng lớp chủ yếu
trong kết cấu xã hội mới: tư sản, công nhân, tiểu tư sản, trí thức… thì ông
không hiểu sâu sắc, cho nên không nhìn ra khả năng và xu thế của họ. Tuy về
sống ở thành thị, ông vẫn chưa am hiểu xã hội mới. Xã hội tuy đã mở rộng ra bao
gồm cả dân thành thị nhưng cách nhìn vẫn là cách nhìn tứ dân, cách nhìn nông
thôn. Điểm xuất phát để nói cảnh khổ nhục tuy mở rộng ra đến cách bóc lột kinh
tế, cảnh áp bức giai cấp, nhưng góc độ nhìn vẫn là thực tế mức sống, sự lao khổ
mà không nhìn theo góc độ bóc lột thặng dư giá trị lao động của nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa. Cho nên thích xã hội chủ nghĩa mà ông vẫn khó thấm thía cuộc
sống của người công nhân, bản thân ông có tinh thần đoàn kết dân tộc rất rộng
rãi mà vẫn không xoá bỏ được những thành kiến của cách nhìn nông dân đới với
dân thành thị. Cách nhìn đó ảnh hưởng đến cách đánh giá thời uộc, đánh giá tinh
thần cách mạng của nhân dân, đến quan niệm chủ nghĩa xã hội, đến quan niệm phương
pháp cách mạng, làm cho ông không hiểu được những vấn đề cách mạng, những lực lượng
cách mạng mới; do đó không hoà được vào phong trào của quần chúng lúc đó.
Đối lập với
cảnh khốn cùng của nhân dân là phè phỡn xa hoa của bọn thực dân, quan lại sang
trọng và của bọn phú hào, tư sản giàu có. Chạy theo danh lợi, cả bọn "lừa
thầy phản bạn" "dựa thế nương quyền" thành một đàn lúc nhúc lâu
nhâu mà Phan Bội Châu coi là đàn ruồi "bâu mật bâu gừng", là đàn chó
"sủa hình sủa tiếng", là bầy cá tranh nhau "táp mồi". Ông
nhìn cảnh tượng đó thành một chuyện hư hỏng vè đạo đức và lên án đồng tiền, coi
nó là nguyên nhân phá hoại nhân tâm. Đồng tiền được dùng làm mồi làm bẫy, tạo
thành một quan niệm sống, một tâm lý xã hội chỉ biết ăn, mặc, chơi bời, trai
gái, lao vào giành giật cạnh tranh giành lấy thú vui xác thịt. Người ta tuyên dương
lối sống đó một cách trắng trợn không ngượng ngập:
Sung sướng
cốt có sung sướng xác
Hay nói
tinh thần thật là hoác.
Với lý tưởng
chạy theo danh lợi, sống bằng vật chất, con người trở thành thú vật, mù quáng:
Chồn được
mồi ngon quên cả bẫy
Ruồi ưa
mật ngọt tiếc gì thân.
Đối với công
việc cứu nước giúp dân xã hội nhìn với một thái độ hờ hững:
Hy sinh
giá đắt, đòi tham rẻ
Nhân
nghĩa hàng mai, chợ quá trưa.
Trong một xã
hội như vậy đồng xu hống hách tự xưng là Thượng đế. Trong bài Trong giấc
mơ nói chuyện với Thần xu, Phan Bội Châu hình dung một cuộc gặp gỡ với
vị Thượng đế xu ấy. Thần xu không phải là "người nước ta", tự xử cao
ngạo, không thèm chào hỏi bắt tay và mắng người "xuỳ cô soong" y như
thực dân Pháp. Nó huênh hoang phô trương thanh thế:
Tao đây
danh vọng
Rực Á
sang Âu
Thiên hạ
xưng tao
Là Thượng
đế xu
Danh tao
vẫn lớn
Quyền tao
vẫn to
Hễ ai
khôn khéo
Tới tao
khấn đều
… Tao
muốn ai sống
Nó sống được
lâu
Tao muốn
ai chết
Nó phải
chết mau.
… Ai dầu
ty tiện
Tao đề,
nó cao.
Ai dầu
quyền quý
Tao đổ,
nó nhào.
này xem
trước mắt
Bao nhiêu
nhân vật
Họ say mê
tao
Như ruồi
say mật
Họ chiều
lòng tao
Chi chi
cũng vất
Sợi dây đạo
đức
Tay tao
cắt đứt…
Trong giấc mơ,
tác giả đã mắng Thượng đế xu một trận nên thân. Tác giả lên án đồng xu đẻ ra
lòng tham, sự tàn ác, chiến tranh, đẻ ra hạng quý tộc, phú hào, tư bản, ức
nhược phò cường, khinh bần trọng phú, bênh vực cho các thế lực xấu xa hắc
ám, gây tai hoạ cho nhân loại. Nhiều nhà nho trước đây như Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Nguyễn Công Trứ, Cao bá Quát… cũng đã lên án đồng tiền làm hư hỏng đạo đức.
Nhiều ý nhiều lời của Phan Bội Châu cũng giống họ, nhưng quan điểm của Phan Bội
Châu đã khác. Đồng xu cũng như bất cứ vật gì cũng đều có mặt xấu mặt tốt. Ông
nói với Thần xu một ngày kia thế giới sẽ đổi thay, mọi nười sẽ chung của chung
sức, lúc đó người ta sẽ coi xu như rơm như cỏ, "trên pho tự điển chữ xu
không có". Đó là lòng tin vào lý tưởng tương lai: xã hội xã hội chủ nghĩa.
Nhưng quan
niệm chủ nghĩa xã hội của Phan cũng độc đáo. ông bác bỏ mọi luận điệu vu cáo,
xuyên tạc của bọn đế quốc nào xã hội chủ nghĩa là bình quân, cào bằng, là cộng
thê, nào người cộng sản là quân trộm cướp… Ông hoan nghênh chế độ sở hữu công
cộng, tán thành tịch thu ruộng đất và tư bản, tán thành đấu tranh giai cấp,
hình thức đấu tranh bãi công và cả chính quyền lao công chuyên chính. Trong
những năm 30 lúc bọn Đệ nhị quốc tế và bọn Tơ - rốt – kít chống chủ nghĩa Lê –
nin, ông lên án cả chủ nghĩa quốc gia làm tay sai cho tư bản, cả tính viển vông
của bọn vô chính phủ, ông chỉ thừa nhận học thuyết Mác và Lê – nin là chủ nghĩa
xã hội chân chính, coi đó là lý tưởng cao đẹp nhất của loài người. Thế nhưng
ông lại coi hư vô chủ nghĩa, vô chính phủ chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa cũng đều
là xã hội chủ nghĩa, coi Tôn Văn đối với Mác cũng như Mạnh Tử đối với Khổng Tử,
và coi tư tưởng Mác cũng chỉ là phát triển tư tưởng Đại đồng của Khổng Tử.
"Tuy trên mặt chữ chưa có danh từ hai chữ xã hội mà kỳ thực chân tinh thần
của chủ nghĩa xã hội là đại đồng" (Xã hội chủ nghĩa. Tiết
cuối cùng). Với lòng nhiệt thành ông tin chủ nghĩa xã hội của Mác Lê – nin, nhưng
đó chỉ là lòng tin dựa vào tình cảm, lòng say mê cái tốt đẹp, lòng bội phục đối
với những con người cao cả vĩ đại, không dựa vào sự nhận thức có cơ sở khoa
học: ông không thể phân biệt chủ nghĩa xã hội chân chính với các lý thuyết xã
hội chủ nghĩa sai lầm và giả dối của các giai cấp khác. Xã hội xã hội chủ nghĩa
nhất định sẽ được thực hiện không phải vì đó là thế giới được nhận thức, cải
tạo, phát triển đúng theo quy luật của xã hội mà vì đó là lý tưởng tốt đẹp hợp
với đạo đức. Người cách mạng giác ngộ, đấu tranh không phải là nhận thức quy
luật khách quan hành động tự giải phóng mà là thực hành một đạo đức cao cả, hy
sinh để cứu vớt người nghèo khổ. "(Chủ nghĩa xã hội) là đạo quân vô địch
của nhà nhân từ để phá tan đồ đảng của chủ nghĩa tư bản" (Xã hội chủ
nghĩa. Tiết thứ nhất). Trong cách suy nghĩ của ông, nhà nhân từ (tôn
giáo hay không tôn giáo) và người xã hội chủ nghĩa nếu không phải là hoàn toàn
giống nhau thì cũng không khác nhau hẳn. Điểm chung giữa họ là lòng nhân ái.
Tôn giáo và cách mạng không khác nhau về cơ bản. Trước cảnh nghèo khổ của nhân
dân, ông ca tụng người con gái nhỏ con nhà giàu sang, nghe lời ông, dốc hết số
tiền đi xem hát bố thí cho bác phu xe già vì cô giữ được chút "thiên
lý", quên mình cứu người, có sẵn trong lòng tất cả mọi con người. Ông tự
hình dung mình là "bác đồ già" "nghe mưa lắng gió suốt năm
canh", chia sẻ nỗi lo âu với nhân dân bị bão lụt và ước ao nếu được thì
sẵn sàng hy sinh để cho họ được có cơm có áo. Cách nhìn của Phan Bội Châu là
cách nhìn đạo đức: ông nhìn xã hội theo góc độ nhân tình thế thái mà quan niệm
chủ nghĩa xã hội thành một học thuyết đạo đức. Lúc về già ông vừa say mê viết Chủ
nghĩa xã hội vừa say mê viết Khổng học đăng, Phật học đăng,
vừa nhiệt thành ca tụng Mác Lê – nin vừa nhiệt thành đọc kinh kệ nhà Phật. Anh
Khờ chống áp bức bóc lột theo tư tưởng vì dân cứu khổ cứu nạn, bằng hành động
nghĩa hiệp, chứ không phải theo tư tưởng xã hội chủ nghĩa khoa học.
Đạo đức,
lòng nhân ái làm ông tự hào, sống kiên cường trong cảnh cùng quẫn, giúp ông làm
việc không mệt mỏi, nhưng nó cũng làm ông sống kỳ dị, xa lạ với phong trào cách
mạng của quần chúng, và mang một tâm trạng cô độc.
Trước bàn
đức Khổng ba pho sách
Dưới tượng
Lê – nin một tấm lòng
Ngó bốn
bề quanh không vũ trụ
Mong ngàn
thu nữa có non sông.
2.
Người hào kiệt cô độc
thất vọng
Từ khi xuất
dương cho đến khi bị bắt Phan Bội Châu dùng ngòi bút khá tập trung vào nhiệm vụ
chiến đấu. Trong lúc ngồi ở nhà ngục Quảng Châu, ông cũng làm nhiều thơ để
khuây buồn nhưng ngâm xong là quên đi chứ không ghi chép lại. Ông ít viết về
mình, ít nói tâm sự của cá nhân. Bộ phận văn nghệ - hay thơ chơi như quan niệm
nàh nho – không chiếm vị trí quan trọng trong sáng tác của Phan Bội Châu. Sau
khi về nước ta thấy một tình hình khác. Ông làm đến 6, 700 bài thơ cho đăng báo
và xuất bản thành sách (Sào Nam văn tập in năm 1935). Từ 1926 đến
1929 Phan Bội Châu viết nhiều tác phẩm nhằm tuyên truyền giáo dục và phát động
tư tưởng cứu nước, nhưng cả đoạn cuối đời hầu như ông tập trung vào việc biên
khảo tư tưởng Nho giáo, Phật giáo. Bộ phận văn nghệ bao gồm thơ phú, truyện
ngắn viết cho các báo chí càng ngày càng nhiều. Trên báo Tiếng dân
hầu như tháng nào cũng có thơ ông, có lúc đăng hàng chục bài vào một số. Trước
xu hướng tư tưởng yêu nước kết hợp với xã hội chủ nghĩa, Phan Bội Châu cũng
tuyên truyền xã hội chủ nghĩa (Thuốc chữa dân nghèo, 1927;
Xã hội chủ nghĩa, 1935), nhưng tiếng nói của ông lạc lõng bên cạnh sách
báo chữ quốc ngữ và chữ Pháp cùng loại. Trước xu hướng hình thành nền văn nghệ
hiện đại, Phan Bội Châu cũng chuyển sang viết văn nghệ nhưng nghệ thuật văn chương
của ông cũng lạc lõng bên cạnh truyện và ký của Nguyễn Ái Quốc và cả bên cạnh
truyện ngắn tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Tự lực văn
đoàn, lạc lõng bên cạnh cả thơ mới, thơ cũ lúc bấy giờ. Nhìn vào chủ đề, đề
tài, thể loại, ta có thể thấy Phan Bội Châu quay lại thành một tác giả nhà nho
tuy suy nghĩ về những chủ đề có rộng hơn nhưng cách chọn những đề tài, cách thể
hiện đề tài bằng những bài thơ ngũ ngôn, thất ngôn, trường thiên để vịnh cảnh,
vịnh vật, gửi gắm tâm sự và cả nhiều bài thơ thù ứng làm cho văn thơ ông giống
như thơ văn của những nhà nho lớp trưpức. Rời bỏ cương vị lãnh tụ phong trào
cách mạng để trở thành một người viết văn, Phan Bội Châu cũng từ bỏ một lối
viết văn mới mẻ đối với nhà nho mà ta có dịp phân tích ở trên.
a) Trách quốc dân hờ hững
Sự thực ngay
từ khi thành lập, Việt Nam Quang phục hội đã không gây được một phong trào cụ
thể. Phan Bội Châu tuy đứng đầu tổ chức, nhưng tổ chức không có cơ sở để hoạt động
thực tế, cho phép ông có cơ hội hoạt động như một lãnh tụ chính đảng. Tuy vậy
nhân dân cả nước vẫn đặt tất cả hy vọng giải phóng dân tộc ở ông và ông cũng tự
coi mình có trách nhiệm đảm đương công việc đó. Sau khi về nước, ngay từ khi
vừa thoát chết, Phan Bội Châu đã viết nhiều tác phẩm tuyên truyền phát động tư
tưởng yêu nước và tuyên truyền chủ nghĩa xã hội, mong tiếp tục hoàn thành trách
nhiệm của mình với quốc dân. Những lời kêu gọi của ông đầy nhiệt thành nhưng
không trúng, không như trước đây kích động lòng người làm cho đoàn đoàn lớp lớp
thanh niên vùng dậy đi theo. Phan không hiểu là cách mạng và quần chúng đã đi
theo hướng khác và chỉ thấy quốc dân hờ hững. Ông bực bội than thở cảnh vắng
lặng, trách móc sự im lìm của giấc ngủ mê say, làm bao nhiêu lời kêu gọi thiết
tha của mình rơi vào chỗ trống không. Ông tự nguyện gióng trống khua chiêng mà
quốc dân không ai hưởng ứng:
Hồn Thục kêu hoài khan giọng
quốc
Cung cầm đàn
mãi lảng tai trâu.
(Sau
lúc đau ngớt hát chơi)
Khen cho
tài ngủ người mình nhỉ
Kêu đến
bao lâu cũng kệ thây.
(Đồng
hô náo)
Tinh thần
yêu nước của nhân dân sa sút! Mọi người quên cái nhục nô lệ! Miếng mồi danh lợi
của quân thù đã kịp làm mọi người hư hỏng! Ông chê trách "người mình"
mê muội, bưng tai bịt mắt, không những không biết đến chuyện thế giới xung
quanh mà cũng không biết đến mình đang sống thế nào
Sinh làm
người Nam Việt
Ở vào hố
mù mịt
Ngoài cửa
như góc trời
Trong
buồng sống tựa chết.
Ý Á họ
choảng nhau
Sấm đánh
bên tai vịt.
… Thây kệ
ai xích hoè
Gì gì là
Xô viết
Thây kệ
họ độc tài
Gì gì là
Phát xít.
… Nhưng đó
là việc người
Tối tăm
cũng đáng thiệt
Quái ngán
nhất chỉ là…
Không nói
đố ai biết?
(Không
nói đố ai biết)
Ông trách
mọi người chỉ biết học lặp theo người ngoài, chỉ chạy đua theo "văn minh
vỏ", chỉ biết lo cho thân mình "lửa láng giềng reo, ngủ vẫn
ngon". Vì chút quyền lợi ích kỷ nhỏ nhặt họ đấu đá giành giật nhau như đàn
gà. Được một chút thế lực thì học khoe khoang khoác lác hống hách với nhau như
mèo như chó. Vì mải mổ nhau, đá nhau đàn gà đã phải "bưng mắt", không
thể "cậy vườn" với gà khác, "thóc đổ mê man" cũng chẳng
nhặt được "nặng mề" thế nhưng khi "chết đã đến sau ót" nó
lại
Tục tục lá chanh còn nghển cổ
Khoan
khoan bắc nước hỡi bà kia
(Sau
lúc đau ngớt hát chơi)
Trong nhiều
bài ông nói đến con gà đá nhau trong chuồng, con vẹt khoe cái lưỡi Khuya
khuya sớm sớm chiều chiều lắp. Dạ dạ thưa thưa bẩm bẩm hay (Vẹt học
nói). Chim cắt chó săn được chủ nuôi để giết đồng loại "giây trói
mòn cổ còn ti toe" (Vô đề trường thiên), con lợn "ăn
uống phủ phê" đến nỗi "mắt mí híp lại sự đời biết chi" (Con
heo) và một loại chó "có một không hai":
Giặc cướp
vào nhà đuôi quịt đất
Gậy mày
ngó cửa miệng vang trời
Tham mùi
bả quá liều thân chết
Thấy
miếng ăn rồi cắm cổ xơi.
(Sau
lúc đau ngớt hát chơi)
Những lời đả
kích đó đều nhằm vào bọn quan lại, bọn công chức làm cho Pháp.Thế nhưng khi
trong lớp thanh niên có học là từng lớp mà Phan Bội Châu đặt tất cả hy vọng ông
chỉ thấy những anh con trai khoe giày mũ, mê nhảy đầm, lo đọc tiểu thuyết tình
và những cô con gái nói lẫn lộn cả tiếng
Tây tiếng ta thì làm sao từ đó khỏi đẻ ra lớp quan lại nô lệ?
Trong
giấc chiêm bao còn nói mơ
Thưa lạy
cụ… cụ tha cho con.
(Nói
chuyện với cu cò chuột heo)
Ông nghĩ
tinh thần của dân tộc đã sa sút. Điều đó làm ông đau xót. Nhưng mặt khác, một
tình hình nữa cũng làm ông đau xót. Trong mười lăm năm ông về sống ở Bến Ngự
trong nước không phải hoàn toàn im lìm. Từ khi có Đảng Cộng sản Đông Dương,
phong trào cách mạng như một lò lửa âm ỉ không ngớt bùng lên, có lúc khá rầm rộ
như cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh, còn thì lẻ tẻ khắp nơi. Trên báo chí không ngớt
đưa tin những vụ bắt bớ, những vụ án chính trị. Thế nhưng đối với Phan Bội Châu
tất cả những hoạt động như vậy không khỏi đột ngột lạ lùng. Ông không gặp những
người khí phách hiên ngang, anh hùng lỗi lạc như ông vẫn hình dung người cách
mạng. Đấu tranh bằng rải truyền đơn, treo cờ, biểu tình, những hình thức đấu
tranh của quần chúng cách mạng lúc đó làm ông khó hiểu, không yên tâm. Ông
không khỏi nghi ngại, cho đưa ra không ra chống với gươm súng là manh động, coi
đó là những ngọn lửa rơm, hy sinh vô ích, làm tổn hại đến "nguyên
khí". Ông nhắc nhủ:
Suốt đời
phải có tay thần thánh
Xin chớ
như ai bướm thấy đèn.
Ông khuyên
thanh niên "Chớ đi!", "Chớ chạy!" "Chớ nóng!" vì
"Lỡ một nước cờ muôn việc hỏng" (Can anh).
Hành động
hay không hành động, ông đều thấy quốc dân đã không nghe theo ông. Điều đó làm
ông day dứt, đau đớn, mang tâm trạng cô đơn, "thấy mọi người đều say mà chỉ
một mình ta tỉnh" như Khuất Nguyên. Sự xa lạ với phong trào làm Phan Bội
Châu cô độc và sự cô độc làm ông nhìn đời bi quan:
Bụi hồng
thế lộ mây trăm thức
Mặt bạc
nhân tình giấy nửa tờ
Toan mượn
cánh trời qua bến Sở
Thăm hồn
ông Khuất tỉnh hay chưa
(Mồng
4 tháng 5)
b)
Khóc đồng chí chết dần
Với Phan Bội
Châu tình bạn đã phát triển thành tình đồng chí. Tình đồng chí lúc đó còn là
gắn bó với nhau chủ yếu vì sự quen biết, vì tình nghĩa, vì lý tưởng tin cậy cá
nhân hơn là vì hành động cho cùng một đường lối, trong cùng một tổ chức. Nhưng
tình đồng chí lúc đó cũng đã làm cho con người thấy mình được tiếp sức, lớn
mạnh hẳn lên. Đối với đồng chí, Phan Bội Châu cư xử rất trung tín, chung thuỷ,
có trách nhiệm. Ngay từ khi còn lưu vong, hoạt động tuy nguy hiểm nhưng còn hy
vọng, thấy nhiều đồng chí hy sinh, Phan Bội Châu đã trách mình đảm đương việc
lãnh đạo không chu đáo và bộc lộ tâm trạng đau xót:
Đầu giận
không rơi trước bạn bè.
Về nước,
sống trong cảnh bị giam lỏng, rất ít hy vọng hoàn thành nhiệm vụ mà đất nước và
đồng chí đã giao cho, Phan Bội Châu cứ phải sống, chứng kiến thêm nhiều đồng
chí chết trước. Đối với ông, đó không phải chỉ là những tin buồn mà hầu như là
những võ chơi khăm của số mệnh.
Lần lượt ông
được tin Phan Chu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền, Đặng Nguyên Cẩn, Đặng Thúc Hứa,
Ngô Đức Kế… chết. Và cứ một dịp như thế ông lại làm thơ, câu đối, văn tế để
phúng viếng. Đó không phải chỉ là công việc thù ứng thông thường. Ta có thể nói
Phan Bội Châu tìm cách thổ lộ tâm sự bằng văn tế. Ông khóc Tây Hồ, khóc Tiểu La
không phải chỉ một lần. Nghê nhân dân Nghệ Tĩnh, nhân dân Bình Phú vị bão lụt,
nghe mấy nữ chiến sĩ Xô viết bị giặc bắt tra tấn man rợ, nghe một thanh niên có
tâm huyết chết vì bệnh lao, nghe tường đổ làm chết người… Phan Bội Châu cũng
làm văn tế. Văn tế thành một hình thức văn học thích hợp với tâm trạng của ông
lúc đó.
Trong những
bài khóc bạn bè thân cận, ta vẫn gặp lòng sùng kính quý mến đồng chí, tinh thần
nhận lỗi, tự trách mình hèn kém, như những bài ông viết về các đồng chí trước đây.
Nhưng nổi bật trong văn tế sau khi về nước là diễn biến trong suy nghĩ của ông
về tiền đồ, là sự chua xót bất lực càng ngày càng tăng.
Văn tế là
loại viết về một con người cụ thể, một hoàn cảnh đã mất, cách viết không nhằm đi
vào chi tiết, lối văn trang trọng có làm giảm đi khá nhiều khả năng nói sự thực
cụ thể, nhưng lại cho người viết cơ hội đề cao phẩm chất người chiến sĩ kiên cường
thiết tha yêu nước, căm thù giặc, tự giác chiến đấu, sẵn sàng hy sinh làm bất
cứ việc gì để cứu nước. Phan Bội Châu đã không bỏ cơ hội vạch mặt chính sách đàn
áp bất công, lối kết tội vu vơ của toàn án thực dân với những lời mỉa mai kiểu
"thầy đốc vinh thăng hàm cụ phạm" (Văn tế Đặng Nguyên Cẩn).
Ông cũng không bỏ lỡ cơ hội tố cáo cảnh khổ cực của nhân dân "dưới miệng
cọp gửi đàn con đỏ" (Văn tế Phan Chu Trinh).
Mấy mươi
vạn lau nhau lố nhố, hú hí bữa cơm bữa cháo tân khổ qua ngày; Quanh một năm
chạy vạy chàng vàng, lo có đồng thuế đồng sưu, trung thành hết sức.
Dù nắng
dù mưa, dù dông hồi tố trận, đầu mun mặt trấu, dám đâu trắng trợn với ông xanh;
Ai cày cai cuốc, ai đập đá, đốn cây, chân lấm tay bùn, trót đã đen thui hơn chó
mực (Văn tế đồng bào Nghệ Tĩnh chết vì nạn bão lụt).
Vì quan hệ đồng
chí chiến đấu cho sự nghiệp cứu nước, trước cảnh kẻ mất người còn, Phan Bội
Châu có thể công khai nói về trách nhiệm tiếp tục công việc của người sống. Thế
nhưng từ văn tế Phan Chu Trinh (1926) đến văn tế Đặng Nguyên Cẩn
và Đặng Thúc Hứa (1931) ta đã thấy một sự thay đổi lớn.
Trong bài văn
tế Phan Chu Trinh ông để một đoạn dài nói về tình cảnh đất nước, chí nguyện
chung của hai người.
Ước những
chuông rền trống nhịp, khắp ba kỳ cho vang tiếng reo hò; mới là anh trước em
sau dắt một lũ để đồng bào gắng gỏi.
Ông dõng dạc
tuyên thệ nhận lấy "gánh tồn vong" cầm lấy "mái chèo đang lúc
cheo leo" do người bạn để lại, tuyên bố quyết tâm và lòng tin tưởng vào
thắng lợi:
Trước đã
giỏi mà sau thêm giỏi nữa, dấu cộng hoà xin rán sức theo đòi; Thác còn thiêng
thì sống phải thiêng hơn, thang độc lập quyết ra tay vin vói
Đến năm
1931, trong bài văn tế Đặng Nguyên Cẩn và Đặng Thúc Hứa ta đã không còn gặp cái
hùng khí đó nữa. Đoạn kết bài văn tế là lời bộc bạch tâm sự đau xót:
Em Châu
nay, Thân chưa trắng nợ; kiếp vụng đường tu
Vai sông
núi lẻ loi còn chiếc bóng; kiếp tang bồng trơ trẽn với hàm râu.
Ngoài
chân trời mang xác về không, với nước với dân trách mình đã chồng oan chứa tội;
trên số bạn kêu hồn vắng ngắt, điều khôn điều dại, lấy ai đây đũa ngọc mài
thau.
Ông vẫn tin đất
"Lam thuỷ Hồng sơn" còn mãi mãi "sẵn đoàn anh tuấn", "đúc
nên sự nghiệp" nhưng chua xót cô đơn đã chiếm hết tâm hồn ông. Ông cầu
mong người chết "thứ lỗi người già thương lũ trẻ", tự thấy mình đã
bất lực.
Những bài Cảm
tác nhân ngày đệ bát chu niên cụ Phan Tây Hồ (1934), Bài văn khóc
cụ Tiểu La (1934) còn bộc lộ một tâm trạng đau xót thê thảm hơn.
Trong các
bài văn tế Phan Bội Châu thường trách trời tàn ác bất công với dân Việt Nam,
vùi dập những người anh hùng chí sĩ. Đó không phải chỉ là một cách nói, một thứ
sáo ngữ của các bài văn tế. Tất nhiên nói trời bất công cũng không phải chỉ là
nói trời. Nỗi uất ức của những người dân "tôi con mẫu quốc" không dám
trêu chọc "Phong Di" hết sức kính cẩn" Hà Bá" và "lo
có đồng thuế đồng sưu, trung thành hết mực", trách trời "nuôi bứo bọn
sấu kình", không phải chỉ trút vào một mình Trời. Thế nhưng trách trời đã
thành một ý nghĩ vấn vương khó gỡ trong tư tưởng của Phan Bội Châu. Đã không
tìm ra sức mạnh trong các thế hệ kế tiếp mà cái chết của mỗi đồng chí lại như
rứt đi ở ông từng chút sức tàn; điều đó làm ông cảm thấy chơ vơ bất lực. Không
những ông cảm thấy bó tay không xoay chuyển được tình thế mà hầu như còn lấy
làm quái lạ đối với cả những việc ông đã làm từ trước:
Chân
không sao muốn đá trời?
Tay không
sao muốn lấp vời dời non?
Lưỡi khua
mãi chẳng mòn sao nhỉ?
Ruột quay
tơ chẳng nghỉ gì sao?
Gân đồng
da sắt thế nào
Đành cho
muôn sặt bắn vào bia thân?
Không phải
ông hối hận về những việc đã làm nhưng sự cô độc bất lực dẫn ông đến tư tưởng
số mệnh. Ông băn khoăn:
Chẳng ích gì sao hay làm mãi?
Làm mãi
sao chẳng cái gì thành?
Tại ai?
hay cũng tại mình?
Tại mình
hay cũng sự tình tại ai?
(Đêm
trăng hỏi bóng)
Và ông không
khỏi có lúc chế giễu tuổi trẻ của mình quá bồng bột
Vẫn biết
trời già tay đáo để
Chống
trời người có lúc hung hăng
(Vô đề)
c) Giữ
kiên trinh và tìm tự do trong cuộc sống hiu quạnh
Giữa một thời
cục rối ren đen tối mà ông không tìm ra lối thoát, giữa một quốc dân ông thiết
tha yêu mến nhưng lại thấy xa lạ, không hiểu xu thế, tuổi già và cảnh tù túng
cô quạnh càng làm ông thêm cô độc.
Khi Phan Bội
Châu bị đưa về Huế, đồng bào Nam Trung Bắc và bè bạn góp gửi cho ông một số
tiền. Ông làm một ngôi nhà nhỏ và sắm được một chiếc thuyền. Cuộc sống của ông
thu hẹp lại trong ngôi nhà và chiếc thuyền ấy. Nhà không to, chỉ có hai gian và
cũng không thể nói là kín trên bền dưới. Nhà thơ tả cảnh ở nhà:
Ngoài rèm nguyệt xế mây lai
láng
Bên án đèn
khuya gió hắt hiu.
Đó là
"kho gió giăng vô tận" mà cũng là cảnh một ngôi nhà không có tường
vách, chỉ có "rèm thưa mấy lớp thấy rồng vây". Gặp ngày mưa, nhà dột
nhà thơ phải
Căng dù
ngồi giữ vài chồng sách
Đội nón
ra xem mấy khóm cây.
Trong hồi ký
Nhớ lại ông già Bến Ngự, Trần Huy Liệu đã kể cảnh sống đạm bạc
của cụ Sào Nam và chính cụ tuy không có ý muốn nói cảnh thiếu thốn của mình
cũng đã kể:
Đồ nhắm
may còn ba trái khế
Bữa ăn e
ngót một đồng xu.
Nhưng nghèo
khổ không tác động đến ông nhiều bằng cảnh bị bao vây, cảnh mất tự do. Quanh
nhà chỉ có mây gió, đêm chỉ nghe tiếng ếch kêu, tiếng dế ri rỉ, tiếng chuột
chạy, tiếng gió đánh mõ trên cành ngô… và tiếng chó sủa những "ông
trộm" luôn luôn rình mò quanh nhà. Nhà thơ hay nói đến cảnh mất ngủ, khó
ngủ. Mất ngủ vì suy nghĩ nhiều mà cũng mất ngủ vì bị quấy rối. Ông trách cả
giọt mưa rơi:
Xin hỏi
thần mưa sao nỡ thế
Không cho
mình ngủ lại còn trêu.
Phan Bội
Châu thường nói đến cảnh cô độc, làm bạn chỉ với đèn với bóng, với sách vở, với
trăng
Dưới đèn
ngẫm nghĩ gương kim cổ
Mình nói
mình nghe, khóc lại cười
Khóc cười
với bóng, nói chuyện với bóng, uống rượu say khuyên bóng núa, mà chấm sách thì
cũng
Đụng câu
gì khó thưa thầy bóng
Đối với một
người sống xông xáo sôi nổi cho đến mức tưởng mình dầu có chết cũng không nằm
yên được, "xuống đất ghe phen đội đất lên", cảnh "trăng gió nhốt
ba gian" thật là tàn ác. Vắng lặng có lẽ cũng chưa khổ bằng mất tự do.
Sống ở ngôi nhà tranh ở Bến Ngự Phan Bội Châu luôn luôn bị mật thám rình mò. Có
lẽ vì thế cụ thường sống dưới thuyền:
Một ông kềnh và một nốôc con
con
Chở ngần
ấy nước non e chửa nặng
Tha hồ tố,
tha hồ giông, tha hồ mưa lẫn nắng
Vững gan già thủng thẳng lẽ
trời thua
Mặc dầu
bể Sở sông Ngô
Mây ùa dưới
cát, sóng ùa bên tai.
(Hỏi
anh Trời)
Sống dưới
thuyền nhà thơ vẫn cứ thấy "nường trăng dò mui" "đám mây vô lại
dòm ngó" và "cha mưa gió sớm trưa theo lẻo đẻo". Sống dưới
thuyền vẫn chưa thoát cảnh bị theo dõi. Đó cũng chỉ là cảnh quen thuộc của
những kẻ "ở đỗ", "ở mướn" ngay nơi quê cha đất tổ. Dầu sao
mây gió cũng chỉ là những kẻ rình mò vô hại. Phan Bội Châu có thể tự do thả
thuyền lơ lửng từ chập tối đến bình
minh:
Tứ bề
tiếng ngủ suố tnăm canh
Khắc
khoải thâu đêm riêng một mình
Bức vẽ lưng
trời: sao lố nhố
Tấn tuồng
mặt nước: cá lanh chanh
Dò mui khen khéo trăng lơ
lửng
Vững lái tha hồ sóng bập
bânh
Sẵn gió thuyền xuôi
thuyền lại ngược
Hải hồ khoan hãy tới
bình minh.
(Thuyền
đi đêm)
Trong
thuyền, ông có cái thú được tự do "một bầu thơ rượu riêng trời đất",
ông có thể "say liều" "hát bướng". Chiếc thuyền làm cho ông
xa được những "ông trộm" dò xét những hạt mưa trêu tức không cho ông
ngủ, nhưng cũng làm ông xa luôn cả mọi người. Dưới thuyền ông chỉ tiếp xúc với
cá tôm, với trăng sao, với trời mây và mặt nước mênh mông. Thỉnh thoảng mới
nghe vọng đến tiếng trống hát tuồng từ Yên Cựu, Đông ba và tiếng chuông chùa.
Là người thích sống sôi nổi, Phan Bội Châu không chịu được sự vắng lặng. Ông
hát, hát một mình, vừa hát vừa "tùng cắc"
Viết xong múa tay hát như
sấm
Một mình quan viên và
kép đào.
Không ai
"chầu" thì "bắt trời chầu", không ai nghe thì gọi Phật cùng
nghe. Phá sự bủa vây của quân thù, Phan Bội Châu đi tìm tự do. Ông không tìm được
"anh em đầy bốn biển" mà lại gặp Trời Phật:
Bầu bạn với Trời trên
mặt nước
Láng giềng cùng Phật dưới
sườn non.
(Đậu
thuyền dưới chùa Thiên Mụ)
Bạn với
Trời, với Phật không làm ông bớt cô đơn mà lại làm ông cô độc hơn, không làm
ông thấy mình mạnh mà lại làm cho ông yếu hơn. Sự kiên trinh theo kiểu nhà nho
làm ông xa mọi người. Đã xa mọi người, ông khó tránh được đi theo vết mòn của
nhà nho ẩn dật.
4. Thú thơ
rượu. Sự thanh cao và người trượng phu kềnh
Đối với Phan
Bội Châu, cô độc cũng là nhàn rỗi. Ông không nao núng trước cảnh cô độc nhưng
ghê sợ sự nhàn rỗi. Ông là người đã bôn ba nhiều, ông lại là người "ngộ nhược"
không chịu khuất phục, thế mà cuối cùng phải chịu cảnh "khoanh cẳng bó
tay", nhìn thời gian trôi qua, đơn điệu và vô ích "Rày lại mai, mai
sớm lại trưa". Sự rỗi rãi làm ông ghê sợ "khi thong thả quá ghê thong
thả". "Đã sống thì nên có việc làm", thế mà ông không có việc.
Ông nói thật mỉa mai
Cu ly, bô lít, nghề
chưa thạo
Ông bếp, ông bồi, nghiệp
chửa rành
Toan học đĩ trai, da quá
nhám
Muốn theo làng hót,
miệng không lanh.
Chỉ hay một việc làm ông
"cách"
Chợ ế hàng thừa phải ngậm
thinh.
… Đã ngán ngồi không ở
nể rồi
Bày tuồng chạ chạ để mà
chơi
Tàu bay thế đó diều sơn
giấy
Súng lớn đây kia pháo
tịt ngòi
Nhắm mắt đứng thêu bùa
cấm muỗi
Vuốt râu ngồi thảo hịch
khua ruồi.
Tự do độc
lập cho đất nước đã không giành được mà tự do của bản thân cũng không giữ được.
Muốn làm việc có ích cũng không làm được. Phan Bội Châu mượn lời con chim cu cườm
chế giễu cảnh mất tự do của mình:
Thuyền chỉ một khoang
Đậu dưới cây bàng
Ngửa lên trên cây
Có chim cu cườm
Nó đắc ý gáy
Từ mai đến hôm
Rằng "Cụ cụ ngu
… Có ba việc to
Một là thân vu (vous = anh)
Mất ráo tự do
Hai là bụng vu
Nhờ người mới no
Ba là miệng vu
Nói nhờ người cho…
(Biện
nạn cùng chim cu cườm)
"Thú
ngồi dưng" đối với Phan là một sự "đày đoạ". Trong nhiều bài với
những đầu đề Ghét mình sống, Mong chết, Đêm không ngủ… ông nói đến
một tâm sự muốn chết, muốn chết cho khuất mắt khỏi phải nhìn cảnh gai mắt.
Mắt chán chường vì
giày mũ nộm
Tai
ghê gớm những trống chiêng tù
(Ghét
mình sống)
và chết cho
thoát khỏi phải sống nhờ vả:
Đã chẳng rầy rà vì
bác miệng
Lại không dan díu với
anh tiền.
Sự rỗi rãi,
sự bất lực làm ông ghê tởm cả bản thân, thấy mình chỉ là một "bộ xương
tàn", một cái "xác thừa", sống không có ý nghĩa gì. Vào những năm
cuối đời trong tư tưởng Phan Bội Châu có một cuộc đấu tranh xung quanh vấn đề
sống chết. Trong bài Tiêu khiển ngâm ông mượn lời một người khác
tỏ ý quái lạ tưởng ở vào hoàn cảnh ông thì phải "rách mắt chau mày nghiến
răng", thế mà lại sống ung dung, vẫn làm thơ, vẫn uống rượu. Người đó nói:
Đã không như cụ Khuất
Nguyên
Thì nên tịch cốc tùng
tiên cho rồi
Hay chi than vắn thở dài
Chi bằng liều vứt cái đời
mới gan
Chẳng tiên chẳng tục dở
dang
E ông tiếc nắm xương tàn
hay sao?
Ông đã cân
nhắc. Ông không muốn sống nhục nhã qua ngày mà cũng không chịu chết hèn nhát vô
nghĩa. Ông thấy mình "còn vướng nhân duyên", còn "khổ vì gánh
nặng trên đầu chưa xong" và vẫn còn hy vọng, còn chờ đợi. Ông trả lời người
kia:
Bắc Nam lần lượt tin
hồng
Đầu ghềnh quốc quốc bên
sông kêu hè
Thôi thì ta hãy ngồi
nghe
Hồn đi rồi chắc chồn về
rày mai.
Đó là bài thơ
viết tháng 2 năm 1940, mấy tháng trước khi cụ mất. Tuy trong cuộc đời có nhiều
chuyện như gai đâm vào tròng mắt nhưng trong bụng lại "còn lửa hầng hầng
một quả tim". Quả tim của Phan Bội Châu đã làm ông quên cả tuổi già, không
cho phép ông đầu hàng. Ông muốn chết nhưng không cam chịu bất lực:
Ông nếu chưa cho mình
chết ủa
Lay non lấp bể để ông
coi
Gượng sống
nhục nhã là một tâm sự u uất. Để khuây khoả, Phan Bội Châu cũng chỉ biết uống rượu
ngâm thơ, đắm mình trong phong cảnh thiên nhiên, tìm một người bạn câm lặng để
thổ lộ tâm sự:
Câu thơ đỡ đói vênh
hàm đọc
Chén rượu khuây buồn vỗ
vế xơi.
Ai biết chăng ai ai
chẳng biết?
Năm canh vừng nguyệt hé
gương cười.
(Ai
vậy)
Phan Bội
Châu không quan niệm hành tàng xuất xử như các nhà nho lớp trước, nhưng thất
vọng với xung quanh đến mức nghĩ "thế giới e không chẵn nửa người",
ông cũng giận dỗi muốn say tít, quên hết thây kệ mọi người và tìm giữ cái thanh
cao của riêng mình. Ông cũng bất đắc chí như các ẩn sĩ xưa và đi theo con đường
thơ rượu gió giăng của các ẩn sĩ xưa. Ông cũng tự hình dung là "trượng phu
kềnh" hay "ông kềnh" cũng say mê cuộc sống của cây thông:
Giữa trời ta đứng ta
reo nhỉ
Muôn cụm xanh xanh một
cụ tùng.
(Vô đề)
"Trượng
phu kềnh" không phải chỉ là dịch nôm chữ "đại trượng phu" (con
người lý tưởng theo Mạnh Tử) mà là một hình ảnh biến dạng của nó. "Làm cây
thông đứng giữa trời mà reo" là một cách sống của kẻ bất bình với thực tại
đến mức cầu mong "Kiếp sau xin chớ làm người". Cả hai đều là hình tượng
lấy ở Nguyễn Công Trứ, người đồng hương của Phan Bội Châu. Nguyễn Công Trứ thị
tài, bất mãn với triều đình, coi thường xung quanh, tự coi là trượng phu kềnh,
muốn làm cây thông bất chấp giá rét, nhưng ông là người tài tử đòi hưởng thụ
vinh quang và thú vui. Thiên nhiên, thơ rượu, thanh sắc đối với ông đều là
những "đồ thích chí" mà ông say mê. Phan Bội Châu không phải là người
tài tử. Ông bất bình với xung quanh không phải vì thị tài mà ông cũng không đòi
hỏi hưởng thụ. Con đường giữ đạo đức thanh cao và kiên trinh đưa ông đến tư tưởng
làm trượng phu kềnh, làm cây thông. Cảnh thiên nhiên, thơ rượu chỉ là thú vui
bất đắc dĩ.
Trong nhiều
bài thơ, Phan Bội Châu cũng nói đến phong cảnh thiên nhiên. Nhưng ông không say
đắm cảnh mỹ lệ. Ông không nhìn thiên nhiên với cặp mắt đa tình mà cũng không
ngã vào lòng bà mẹ thiên nhiên tìm một chút an ủi. Ông ham thơ nhưng không coi
thơ là vật cao quý:
Dốc bể xô non ngòi bút
cùn (Cô phong)
Thơ đuổi giặc, rượu
chiêu hồn đặng đâu (Tiêu khiển ngâm)
Ông cũng không
coi văn chương là thú vui tao nhã để hưởng thụ mà chỉ coi nó là một phương tiện
thổ lộ tâm sự, gửi gắm tâm tình.
Mượn chén rượu người xối
cục uất
… Bao nhiêu thi nhân là
bọn cùng.
(Cổ
phong)
Ông say rượu
nhưng không có cái thích thú say sưa. Cái lối thơ rượu "Câu thơ điên chọc
trời ngơ ngất. Khúc hát say trêu đất gật gù" của Phan Bội Châu là một cách
phát tiết lòng uất ức chứ không phải là một cái thú.
Khấn nguyện đoàn sau
chim đỉnh núi
Kêu rêu hồn nước quốc đêm
thu
Trời ơi chớ bảo say là
quấy
Trời nếu như tôi cũng
gật gù.
(Tự
tình với rượu)
Phan Bội
Châu không say mê thiên nhiên như những người ẩn sĩ lánh đời, không say mê thú
thơ rượu như những người tài tử hưởng thụ thú vui ở đời. Nhưng con đường giữ đạo
đức thanh cao, con đường độc hành kỳ đạo của nhà nho làm ông gặp các nhà nho
ấy. Tuy không cùng đi trên một con đường, cuối cùng ông vẫn dẫm vào vết chân
của họ.
3. Bi kịch của người hào kiệt thất bại
hay là hiện tượng lại giống của nhà nho Phan Bội Châu
Trong cả đoạn
cuối đời, khi gặp phong trào cách mạng có cơ hộ phát triển như trong phong trào
bình dân hay khi Pháp bị Đức đánh bại hồi đầu Đại chiến thé hai, Phan Bội Châu
không giấu được nỗi vui mừng khấp khởi. Nhưng không phải là người trực tiếp
tham gia phong trào để có cái lo, cái cui, cái sức sống cụ thể của người trong
cuộc, trong tổ chức, hy vọng thường chóng qua và tâm trạng bi quan bế tắ lại
kéo dài. Trước khi mất Phan Bội Châu để lại một đôi câu đối tự viếng mình:
Trời sao vầy? Chúa sao vầy? Chết âu
cũng là không, chạnh tiếc trong lòng vùi Khổng Mạnh.
Nước như
thế! Dân như thế! Đời còn gì đáng tiếc? Thôi ra ngoài cuộc học Hy Hoàng.
(Nguyên văn chữ Hán. Tôn Quang Phiệt dịch)
Đối với một
con người như Phan Bội Châu tâm sự đó là một bi kịch.
Từ là một
nhà nho, với khí phách phi thường, Phan Bội Châu đã vứt bỏ cái lốt nhà nho để
làm người hào kiệt, làm con chim mặt biển, mang hoài bão vá trời lấp biển, hành
động say mê. Bước vào hoạt động cách mạng ông đã bỏ con đường làm thánh hiền rẽ
sang con đường làm người anh hùng và trong hành động thực tế thấy ra vai trò
của nhân dân, của quần chúng, của phòng trào mà tự nguỵen làm anh hùng vô danh.
Con đường ấy đáng lẽ dẫn ông đến chỗ làm người chiến sẽ tìm ra sức mạnh trong
tổ chức, thế mà cuối cùng ông lại tìm an ủi trong hình ảnh người trượng phu
kềnh. Là người chủ trương phẩm giá con người là ở hành động cách mạng cứu nước
và là hành động tập thểcủa quốc dân đồng tâm đoàn kết thế mà cuối cùng quay ra
tự hào về đạo đức thanh cao và khí tiết như một nhà nho “độc thiện kỳ thân”. Là
người nhiệt tình muốn duy tân, không ngần ngại bỏ cũ, theo mới để chủ trương
chế độ dân chủ cộng hòa rồi xã hội xã hội chủ nghĩa mà cuói cùng ước mong sang
bên kia thế giới để làm Hy Hoàng! Chung cho tất cả cái đó là lời than vãn bi
đát “Chạnh tiếc trong lòng vùi Khổng Mạnh” của một người đã từng vứt bỏ đạo
thánh hiền với mọt lời bộc bạch đầy hùng tâm tráng khí:
Non sông đã chết, sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài.
(Xuất dương lưu biệt, bản dịch của Tôn
Quang phiệt)
Cũng có thể nói đến một sự thoái hóa,
trở thành cái đối lập, một sự tự phản bội. nhưng ở Phan Bội Châu sự thoái hóa
như vậy không biểu thị một sự phản bội, một sự biến tiết. Ông khuyên thanh niên
đừng nôn nóng, nhìn hành động cứu nước của lớp trẻ một cách thiếu tin tưởng
không phải vì sợ sệt, mất tinh thần chiến đấu. Những việc làm thơ tặng Sa – ten
(Châtel), tặng Xô – nhi (Sogny), tặng Ngô Đình Diệm rất lạ lùng đối với một nhà
yêu nước nuôi lòng căm thù bền bỉ “Oán thù ta hãy còn lâu, trồng tre nên gậy,
gặp đâu đánh què” như Phan Bội Châu, sẽ trở thành dễ hiểu nếu ta so với việc
Phan Đình Phùng viết thư trả lời Hoàng Cao Khải. Nhà nho coi kẻ thù như những
cá nhân, tự xử một cách cao thượng bằng lễ nghĩa, không coi việc làm của mình
là hành động chính trị phải đúng đường lối chính trị và chính trị thì cũng
không phải là đường lối khoa học mà chỉ là những thái độ, những thủ đoạn. Phan
Bội Châu ngông nghênh nói về người trượng phu kềnh, coi thường xung quanh không
phải vì tự mãn, không phải vì tự cao, không phải vì tự ái. Trước sau ông vẫn là
người đặt Nước và Dân lên trên hết, sẵn sàng phục thiện. Nhưng nếu như trước
kia, tinh thần và chí khí đã giúp ông coi thường mọi hiểm nguy, có gan từ bỏ
tất cả để chiến đấu như một người hoạt động cách mạng thì về cuối đời cũng
chính tinh thần và chí khí đó đưa ông đến chỗ quyết tâm làm thứ “cột đá giữa
dòng” hiên ngang thách thức giữa cánh “biển trầm mê cuốn rác trôi bèo” (Huỳnh
Thúc Kháng. Văn tế Phan Bội Châu).
Tuy chỉ mới vài mươi năm nhưng lịch sử đã bỏ qua hai thời đại. Trước sự đổi
thay không bình thường như thé cần thay đổi nhận thức nhanh chóng, suy nghĩ
theo những tiêu chuẩn hoàn toàn khác, thế nhưng Phan Bội Châu dừng lại ở mức
cũ, vì thế trở thành lạc hậu một cách kinh khủng. Những việc theo ta ngày nay
là lạ lùng, trái ngược và mâu thuẫn, thì theo cách nhìn Nho gia của ông lại là
nhất quán và đắc thể vì được suy nghĩ theo góc độ đạo đức cá nhân chứ không
phải theo tiêu chuẩn hành động chính trị của người chiến sĩ cách mạng.
Ở Phan Bội Châu có hiện tượng thoái hóa
nhưng không phải là biến tiết. Đó là một hiện tượng lại giống, quay về với Nho
giáo. Nho giáo trang bị cho ông đạo đức, tinh thần trách nhiệm, khí tiết tức là
tình cảm và chí khí; gặp lúc phải xử biến ông đủ sức vứt bỏ tất cả, kể cả kinh
truyện thánh hiền để trở thành một nhà hành động và nhà hành động thì đã không
còn là nhà nho nữa. Nhưng ở trong ông hành động đã theo quy luật của hoạt động
chính trị mà cách suy nghĩ, quan niệm làm người, động cơ của hành động thì vẫn
là theo Nho gia. Đến khi không hành động chính trị nữa thì chỗ trống đó được
lấp kín: quan niệm kàm người choán hết suy nghĩ của ông. Đạo đức, chí khí,
phương pháp suy nghĩ theo nhà nho không cho phép ông nhận thức ra đường lối
chính trị khoa học và lối sống chiến đấu của người chiến sĩ.
Cái xảy ra với Phan Bội Châu thì cũng
đã xảy ra với tất cả các nhà nho yêu nước thuộc thế hệ ông. Chỉ khác là quá
trình lại giống đó xảy ra ở Phan Bội Châu tương đối ít tiêu cực hơn mà cũng
chậm hơn. ở các nhà nho yêu nước - dầu thuộc phái ôn hòa hay kịch liệt khi bị
bắt phải ngồi tù ở Côn Đảo, mất điều kiện hoạt động chính trị, quá trình lại
giống xảy ra nhanh hơn, chỉ vài ba năm sau khi vào tù. Họ cũng trở về con người
đạo đức thanh cao khí tiết, cũng nhìn mọi người với thái độ “đại trượng phu”. Ở
nhiều người lòng tự hào gần thành tự mãn. Lòng yêu nước, căm thù giặc, quyết
tâm chiến đấu vì nước vì dân cho đến thắng lợi cuối cùng ở họ không sâu sắc như
ở Phan Bội Châu nên không kìm hãm quá trình lại giống lâu như ở Phan Bội Châu
và cũng không biến thành cái uất ức đau xót như ở Phan Bội Châu, nhưng hiện
tượng lại giống đó xay ra trước Phan Bội Châu mà quan trọng hơn là cũng trước
cả những thay đổi có tính thời đại.
Nho giáo bằng cách giáo dục cho con
người tinh thần vì đời, tinh thần vì nghĩa, ý thức tu thân giữ đạo đức có thể
làm cho nhà nho có tinh thần yêu nước, vì dân, dám dũng cảm hy sinh, trong tổ
chức cách mạng có thể vì tín nghĩa mà thành những đồng chí đáng tin cậy… Nhưng
Nho giáo không chuẩn bị cho nhà nho khả năng nhận tứhc có hứng thú và ý thức
tìm hiểu khách quan, theo dõi các vấn đề lý luận có hệ thống và nhất quán. Động
cơ và tiêu chuẩn của hành động là đạo đức và là đạo đức cá nhân chứ không phải
sự tất yếu, sự tiến bộ khách quan, chịu trách nhiệm với đạo lý chứ không phải
tổ chức. Phan Bội Châu đã có những lúc ở những điểm vượt qua nhà nho nhưng chưa
phủ định được nó. Bị tư tưởng Nho gia ràng buộc, kìm hãm, Phan Bội Châu lạc hậu
không theo kịp thời đại. Mơ ước một đời sống tự do, một xã hội công bằng, dân
chủ của thời đại thái cổ và thời hiện đại của người nông dân và người công
nhân, muốn vì đời, vì dân nhưng không phân biệt được phương pháp đấu tranh cách
mạng với lòng nhân ái tôn giáo, ông không tìm ra cho mình cách chiến đấu hợp
với thời đại và hợp với hoàn cảnh khó khăn của mình nên giữ thái độ kiên trinh
một cách tiêu cực và cô độc chỉ dẫn đến sự mòn mỏi.
Trước sự đổi thay bằng nhiều bước ngoặt
nhanh chóng, Phan Bội Châu có vinh dự là người khởi xướng, đi đầu và đi đến
cuối cùng của một thế hệ. Đối với thế hệ đó quay lại Nho giáo là một hiện tượng
có tính tất yếu. Tất nhiên tất yếu không phải là định mệnh. Phan Bội Châu cũng
đã cưỡng lại nhưng không tìm ra điều kiện nên cuối cùng đã không thoát được. Có
lẽ đây là một điều cần để chúng ta hiểu đúng Phan Bội Châu. Không phải chỉ
trong Việt Nam vong quốc sử, Hải ngoại huyết thư, Tân Việt Nam, Sùng bái
giai nhân, Trùng Quang tâm sử, Truyện Chân tướng quân, truyện Phạm Hồng Thái
ta mới gặp Phan Bội Châu, cả trong các tác phẩm về sau ta cũng vẫn gặp đúng nhà
chí sĩ lớn lao ấy. Về mặt lịch sử, 15 năm hoạt động cuối đời của Phan Bội Châu
không phải vô nghĩa. Nó giúp ta hiểu Phan Bội Châu toàn vẹn hơn mà cũng giúp ta
hiểu thời đại ông, thế hệ ông đúng hơn.
Phan tiên sinh là người hào kiệt
Mười mấy năm xưa đọc hết sách thánh hiền.
Gặp cơn đất đổ trời nghiêng
Lòng mẫn thế ưu thiên chan chứa
Nào những lúc câu thơ kiến chí
Bút hào hùng nhả khí phong lôi.
(Võ Liêm
Sơn – Chúc thọ cụ Sào Nam)
Giữa “bút hào hùng” và “người hào kiệt”
vốn có quan hệ mật thiết. Phan Bội Châu từ khi còn là cậu Khóa San, ông Giải
San đã tìm ra miếng đất thích hợp cho văn phong của mình: thể phú. So với thể
phú, Phan Bội Châu làm thơ ít thành công hơn. Phan Bội Châu không thuộc loại
nhà thơ hào hoa phong nhã “lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu”. Ông thiếu
cái nhìn tinh tế, cảm xúc lắng đọng, tâm sự sâu kín và từ chương tao nhã là
những cái tạo nên cái hay, cái đẹp của thơ thất ngôn. Thành công lớn của Phan
Bội Châu là đem được cái đẹp hùng tráng cẩoc thật “đắc địa” vào văn chương
tuyên truyền cổ động. Ngay cả khi viết văn xuôi, Phan Bội Châu cũng tìm cách mô
tả cảnh hùng tráng, đem những câu biền ngẫu có giọng hùng tráng vào tô điểm cho
bài văn. Từ sau khi về Bến Ngự, Phan Bội Châu ít viết phú mà viết rất nhiều thơ
thất ngôn, và lại viết đúng vào thời gian trong nước thơ mới ra đời, lấn át dần
địa vị của thơ cũ. Ông viết đủ loại từ phú đắc, đề, vịnh đến cảm hoài, tức sự,
đủ cả ngũ ngôn, thất ngôn, tứ tuyệt, bát cú, trường thiên, cổ phong. Càng ngày
ông càng có xu hướng đem tâm sự bộc bạch trong thơ. Khác với giai đoạn trước,
trong giai đoạn sau Phan Bội Châu đem cái tôi vào văn chương, nhưng cái tôi ông
đưa vài không phải là cái tôi sống cụ thể bằng cảm giác, cảm xúc, dục vọng cá
nhân mà là cái tôi đạo đức thanh cao kiên trinh nên không phân biệt hẳn với cái
ta đạo lý.
Phan Bội Châu cũng viết nhiều thơ trào
phúng đả kích. Thơ trào phúng của ông thường là viết theo lối ngụ ngôn lấy
chuyện con muỗi, con vẹt, con gà, con chó săn… để đả kích quan lại, phê phán
nhân tình thế thái. Tuy là trào phúng nhưng nhắm đả kích hơn là gây cười, nhắm
phê phán về mặt đạo đức hơn là mô tả cái khôi hài lố bịch, Phan Bội Châu cũng
viết nhiều thơ tự trào. Thơ tự trào của ông không nhắm cười đùa bằng cái hóm
hỉnh thông minh mà là những tiếng cười gằn trong hoàn cảnh cay đắng của mình.
Thơ thất ngôn của Phan Bội Châu vẫn thuộc loại ký ngụ, phẩm bình, ngâm vịnh khác hẳn thơ thất ngôn của Tản Đà
và thơ mới lúc đó. Trong cả thời gian cuói đời Phan Bội Châu ít làm phú và
những bài dùng thể phú để viết những lời giáo huấn, ngày nay chúng ta chỉ còn
thấy một bài phú thực sự: Hương giang thu
phiếm.
Hương
giang thu phiếm tả một cảnh đi chơi thuyền trên
sông Hương. Cũng là một buổi trăng trong gió mát, cũng là một khung cảnh thiên
nhiên đẹp đẽ. “Long lanh sắc nước; bát ngát hương trời” và tác giả cũng muốn
nói đến một cuộc đi chơi phong nhã:
“Tháng bảy tám chi gian, bức vẽ lòng
sông mặt đất;
Chèo đôi ba tùy ý, túi thơ, cảnh vật,
thú người”.
Thế nhưng bài phú viết ra không phải để
ca tụng cảnh đẹp hay thú đi chơi mà lại để gửi gắm một tâm sự đau xót. Phan Bội
Châu chọn câu Kiều: “Người buồn cảnh có vui đâu” để hạn vận. Cảnh có đẹp mà
lòng người không đành vui với cảnh! Cuộc đi chơi sông Hương của Phan Bội Châu
không có cái vui thanh thoát trước cảnh mênh mông huyền ảo như cuộc chơi sông
Xích Bích của Tô Đông Pha mà cũng không có cái vui hào hứng trước cảnh tráng lệ
như cuộc đi chơi sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu. Phú là thể loại để mô tả.
Phan Bội Châu đã tả cảnh sông Hương, cảnh chơi trăng khá đẹp và tả bằng thể phú
cho nên ông cũng trở lại dùng bút pháp khoa trương, âm điệu hùng tráng vốn rất
quen thuộc vói ông. Phan Bội Châu nói đến một cảnh tiên không cần có khe quạnh
ngàn sâu, đến một cuộc chơi khác hẳn tuồng đời và một nỗi vui mừng vì thú vùng
vẫy tự do.
Lúc cuối trời mây lượn, liếc mắt đưa nhạn bắc về nam;
Khi góc bể trăng lù, giơ tay khoát chim rừng về tổ.
Há chẳng là khí tượng tự do
Ừ thế cũng giang sơn hữu chủ
Tha hồ mình hát mình hò
Thây kệ nào giống nào tố.
Thế nhưng nhìn toàn bài không những
phần tâm sự át phần mô tả, nôi đau xót lấn át khí hào hùng, mà cái hùng tráng mỗi
lúc vươn lên liền bị chặn lại. Sang hai câu:
Trên nước vững một tay chi lái, đủng
đỉnh thuyền khua sóng chạy, gó ào ào cỏ múa cây đùa;
Dưới trời giương hai cánh chi buồm,
thung dung thuyền cưỡi gió lên, sóng ràn rạt bổ nhào núi đổ.
Là cả một đoạn bộc bạch đau xót: nước
mất, nhân dân bị chìm đắm “Rượu Xích Bích tỉnh say say tỉnh, đành chăng vui một
mình vui?”
Hùng tráng kết hợp với bi thảm nhưng
không tạo ra cái đẹp bi tráng lẫm liệt. Có lúc ta cũng gặp cả một tâm trạng
thanh thoát hay cuồng phóng. Nhưng tất cả đều bị cái bi ai ghìm xuống, vùi lấp.
Bài Hương giang thu phiếm làm ta liên
tưởng đến cảnh vật vã thê thẩm của người hào kiệt thất bại.
Hào kiệt và thánh hiền. Hành động và
tâm sự. Phú và thơ thất ngôn. Hùng tráng và bi ai. Ta chứng kiến một quá trình
đổi thay mà cũng chứng kiến mối quan hệ chặt chẽ giữa tư tưởng và nghệ thuật,
giữa nội dung và hình thức. Văn chương Phan Bội Châu xa rời cái hùng tráng, có
lẽ còn nói một vấn đề lớn hơn là hoàn cảnh thất bại thê thảm của riêng ông.
Đáp lại yêu cầu của một thời kỳ lịch
sử, Phan Bội Châu đã thôi không làm thánh hiền để làm hào kiệt. Con người hào
kiệt vốn dĩ có một cái tôi, cái tôi không trộn lẫn được với cái ta chung vì nó
muốn vượt lên trên cái tầm thường, cái bình thường, nó muốn vương lên một cái mẫu
mực cao nhất để sống khác thường, chứ không phải sống sâu nhất, cao nhất cái
bình thường; nó muốn một mình lên đỉnh cao giơ tay ra cứu vớt mọi người chứ
không phải đứng cùng chỗ với mọi người, cải tạo cái bình thường, nâng nó lên
càng ngày càng cao như người anh hùng kiểu mới. Trong cuộc đời hoạt động cứu
nước của mình, Phan Bội Châu đã cố gắng làm một người hào kiệt rồi lại khắc
phục được nhiều nhược điểm của người hào kiệt: hiểu được quan hẹ giữa anh hùng
hữu danh và anh hùng vô danh, tin tưởng cả dân tộc Việt Nam có thể thành những
tập thể lớn, cả nhà anh hùng, cả nước anh hùng, nam cũng như nữ. Nhưng ông vẫn
chưa giải quyết được quan hệ giữa kẻ sĩ, những người có tri thức và dân, tức là
quần chúng lao động thất học. Giữa cái tôi của Phan Bội Châu và cái ta lý tưởng
thì ông không phân biệt, nhưng giữa cái tôi đó và cái ta thực tế tức là quần
chúng thì ông có phân biệt. Đó là lý do làm cho người hào kiệt trong ông vẫn
tồn tại, trách móc, mắng mỏ quốc dân, có lúc bi quan đến “hư vô chủ nghĩa” (chữ
của Đặng Thai Mai) đối với cả con người.
Theo cách người anh hùng kiểu mới, nếu
không đến được cái phi thường thì chỉ là bình thường hay tầm thường, còn người
hào kiệt nếu không là phi thường thì cô độc, thậm chí trái tính trái nết, không
hòa mình với mọi người, mất hứng thú với thực tế khách quan, gửi tâm sự vào
thơ, cho “chim ngàn cá biển”, cho trăng gió vô tri, không tránh được bất lực.
KẾT LUẬN
PHAN BỘI CHÂU TRONG LỊCH SỬ VĂN HỌC VIỆT NAM
Trong lịch sử Việt Nam Phan Bội Châu là
một nhân vật lớn. Ông là nhà họat động chính trị, là nhà tư tưởng, là nhà yêu
nước tiêu biểu cho cả dân tộc trong một giai đoạn lịch sử. Phan Bội Châu cũng
là nhà văn; trong địa hạt văn học ông cũng lại tiêu biểu cho cả giai đoạn lịch
sử ấy. Vì lẽ đó, Phan Bội Châu có vị trí quan trong trong lịch sử văn học.
1. Goóc - ky coi văn học là nhân học.
Nói thế không chỉ là nói nhà văn chân chính nào cũng như là nhà nhân đạo chủ
nghĩa, mà chủ yếu nói văn học, một bộ môn nghệ thuật lĩnh hội và phản ánh thế
giới khách quan, cuộc sống thực tế theo góc độ đó nên văn học chân chính đứng
về phía con người, quan tâm thiết tha với sự nghiệp giải phóng của con người,
chống những thế lực tự nhiên và xã hội ràng buộc, áp bức nó, không cho nó giành
được tự do và hạnh phúc cao hơn, phát triển để tiến bộ toàn diện hơn, phản ánh
cuộc đấu tranh của con người vươn tới làm chủ thiên nhiên, hoàn thiện tổ chức
xã hội, nâng cao phẩm giá và năng lực của mình. Nhà văn lớn là những nhà văn
tiêu biểu cho cuộc đấu tranh đó trong những chặng đường cụ thể, cụ thể về mặt
lịch sử, cụ thể về mặt dân tộc, cho nên tác phẩm của họ có tính nhân dân, có
tính dân tộc cao màcũng có tính chiến đấu, tính nhân đạo cao.
Do điều kiện thực tế của lịch sử, ở
Việt Nam cuộc đấu tranh vì con người trước hết là đấu tranh giành và giữ độc
lập, cho nên văn học Việt Nam phát triển thành một truyền thống yêu nước, đoàn
kết dân tộc, vì dân, phát triển không dứt từ thời Lý Trần cho đến đỉnh cao ngày
nay. Sau khi chế độ thực dân hình thành, dân tộc đứng trước một tình hình mới:
muốn là yêu nước thì phải đấu tranh giải phóng dân tộc, mà muốn giải phóng dân
tộc thì phải duy tân chống phong kiến, dân chủ hóa đất nước, hiện đại hóa đất
nước và cuói cùng hòa vào cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản thế giới đấu tranh
cho chủ nghĩa xã hội. Đầu thế kỷ XX, nhiều nhà nho vì yêu nước đã bước đầu nhận
ra con đường đó. Họ đưa tư tưởng yêu nước, duy tân vào văn chương, tạo thành
một phong trào văn học khác trước, phân biệt với văn chương, tạo thành một
phong trào văn học khác trước, phân biệt với văn chương yêu nước truyền thống
từ thời Lý Trần đến cuối thế kỷ XIX. Phan Bội Châu là người sáng tác nhiều
nhất, trong thời gian liên tục và lâu nhất, đạt đến những đỉnh cao nhất vè giá
trị nội dung và nghệ thuật. Đề cao quyền làm chủ và trách nhiệm làm chủ đất
nước của người dân, kêu gọi vì nghĩa đồng chủng đồng bào mà đoàn kết dân tộc,
lấy tình đồng chí mà gắn bó tổ chức cách mạng và đem máu ra rửa vết nhơ nô lệ,
Phan Bội Châu đã làm cho văn học yêu nước có nội dung dân tộc dân chủ cao hơn,
có tính chiến đấu, tính nhân đạo cao hơn.
Phan Bội Châu là nhà văn yêu nước tiêu
biểu cho một giai đoạn lịch sử mới: giai đoạn cận đại.
2. Khi Phan Bội Châu bước vào hoạt động
cứu nước và sáng tác văn học thì nước Việt Nam đã mất độc lập. Cả dân tộc đang
đứng trước đòi hỏi phát động lại phong trào đấu tranh giành độc lập mà cũng
đang đứng trước thực tế đất nước đã đi vào quỹ đạo chung của thế giới tư bản
chủ nghĩa đang tư sản hóa. Tất yếu lịch sử đòi hỏi phải xóa bỏ chế độ phong
kiến. Đáng lẽ đó là nhiệm vụ của một giai cấp mới: giai cấp tư sản. Thế nhưng
trong nước cơ sở kinh tế và xã hội lại chưa phát triển để giai cấp tư sản thành
một lực lượng đáng kể. lịch sử đã đặt lên vai - hay nói cho đúng hơn nhà nho
Phan Bội Châu đã tự đặt lên vai mình gánh vác thay cho giai cấp tư sản nhiệm vụ
đó. Ông đã thành lập chính đảng, kêu gọi phát triển công thương nghiệp, tổ chức
đoàn hội và họat động như một chính khách. Ông cũng đã sử dụng văn học vào mục
đích mới: tuyên truyền cho công chúng, kêu gọi cứu nước, duy tân dân chủ, ông
trở thành nhà văn và viết văn nghệ.
Nhà nho vốn là một nhân vật nông thôn,
chỉ thích hợp với chế độ phong kiến phương Đông. Ra vận động duy tân, dân chủ
hóa, tư sản hóa đối với họ là chuyện lạ lùng mới mẻ. Sự phát triển xa lạ với
quy luật đòi hỏi ở họ một cố gắng vượt bậc mà cũng đưa họ đến những khó khăn
không thể vượt qua. Điều đó quy định nội dung tính chất và vận mệnh của nền văn
học mà các nhà nho duy tân khởi xướng.
Một mặt nhu cầu phê phán chế độ phong
kiến làm cho nó gặp gỡ tư tưởng cách mạng tư sản thế kỷ thứ XVIII ở Tây Âu phát
triển thành một xu hướng khải mông. Nhưng mặt khác, tiền đề vật chất không đầy
đủ như phong trào Khải mông châu Âu nó lại phát triển chỉ trong khuôn khổ chiết
trung với tư tưởng Nho giáo.
Trong hoàn cảnh nước nhà mất chủ quyền,
một nền văn học có tính chất cách mạng chống thực dân, chống phong kiến như vậy
không thể họat động đàng hoàng hợp pháp. Những nhà nho yêu nước và duy tân hoặc
phải lưu vong ra nước ngoài hoặc trước sau đều bị tù đày. Mối liên hệ mong manh
với quần chúng, cũng tức là công chúng văn học, do quan niệm, do thiếu khả năng
về tổ chức của nhà nho, nhanh chóng bị cắt đứt. Họ trở thành những người lẻ loi
cô độc. Trong hoàn cảnh thất bại, thứ văn chương yêu nước “hải ngoại” hay “thi
tù” trước sau đều quay về bộc bạch tâm sự của con người đạo đức, khí tiết thanh
cao kiểu Nho giáo, tạo thành một hiện tượng “lại giống”. Phan Bội Châu đã trải
qua trọn vẹn chặng đường ấy, trong phạm vi mà điều kiện khách quan quy định ông
đã đạt đến những điểm tích cực nhất và tránh được những điểm tiêu cực nhất. Ông
đã nhiệt tình gan góc cổ động cho đấu tranh giành độc lập, cho tư tưởng dân
chủ, rồi cho tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Ông đã lên án văn chương cử tử, đã cách
tân văn học, sáng tác những lời kêu gọi lâm ly thống thiết, có sức đi vào quần
chúng rộng rãi, mạnh dạn viết truyện ngắn, tiểu thuyết… Nhưng ông vẫn phải dừng
lại trước thế giới hiện đại. Không phải ông không say mê lý tưởng xã hội chủ
nghĩa, nhưng ông không hiểu được nó. Không phải ông không thích một nền văn học
khác trước, nhưng ông không hiểu cách khái quát thế giới của văn học hiện đại.
Cuối cùng Phan Bội Châu cũng không tránh được hiện tượng lại giống. Chỉ có điều
hiện tượng đó ở ông xảy ra chậm hơn, và ở ông, ta luôn luôn chứng kiến một cố
gắng vươn lên, sẵn sàng tự thay đổi để tiến bước.
Phan Bội Châu là tấm gương phản ánh
trung thực cả thời đại. Tư tưởng và sáng tác văn học của ông soi rõ vận mệnh
hợp quy luật của nèn văn học Việt Nam đi từ phong kiến đến hiện đại tức là quá
trình phát triển phi tư bản chủ nghĩa của Việt Nam trong thế giới hiện đại. Qua
tấm gương của ông ta có một ý niệm rất rõ về quan hệ giữa điều kiện khách quan
và năng động chủ quan, về tác động của hoàn cảnh sống và họat động cụ thể, về
tác động của thế giới quan, của ý thức hệ khi đã hình thành hẳn trong một con
người. Phan Bội Châu có thể vẫn cứ là nhà nho và cũng không thể khác thế, nhưng
nếu ông chọn con đường sang châu Âu, nếu ông biết một ngôn ngữ châu Âu, nếu ông
tiếp xúc được với văn học châu Âu… Đó không phải là hiện thực, nhưng đó không
phải là cái ngoài khả năng của thời đại. Thế giới hiện đại đã mở ra nhiều con
đường rộng hơn, nhưng Phan Bội Châu đã chọn lầm một ngõ cụt.
3. Phan Bội Châu là nhà tư tưởng, là
nhà văn của thế kỷ XX, nhưng nếu so với những nhà tư tưởng, nhà văn đồng thời
với ông trên thế giới mà ngày nay ta đã quen thuộc thì quãng cách giữa Phan Bội
Châu với họ phải đến 1, 2 thế kỷ. Chỉ cách đây 50, 60 năm những “câu thơ dậy
sóng” của ông – lúc bấy giờ là rất mới – mang sức mạnh bão táp, thổi bùng ngọn
lửa cách mạng, lay động, thôi thúc hàng ngàn hàng vạn thanh niên dấn thân vào
con đường cứu nước đầy gian nguy. Đến ngày nay những vấn đề ông đặt ra chưa
phải là cũ, thế mà đối với chúng ta Phan Bội Châu đã xa cách rất nhiều. Khi
nhập vào cuộc sống chung của thế giới, chúng ta còn rất lạc hậu vì chúng ta là
kẻ đến muộn. Nhưng chúng ta đã hòa vào cuộc sống chung đó rất nhanh và trải qua
một quá trình phát triển gấp rút, không bình thường.
Phan Bội Châu tiêu biểu cho thời kỳ cận
đại có tính chất giao thời. Theo xu hướng phát triển phi tư bản chủ nghĩa, thời
cận đại không phát triển trọn vẹn, không phân biệt rạch ròi với thời trung cổ
và thời hiện đại. Đó là một giai đoạn tự phủ định, tìm tòi, chọn đường trong
thế giới hiện đại. Cả về tư tưởng, cả về văn học; sự họat động của Phan Bội
Châu là sự từ giã cái cũ, tìm đường đến cái mới. Xung quanh ông, một thế hệ nhà
nho tiên tiến đã tập hợp lại, suy nghĩ như ông và viết văn theo gương ông. Thế
nhưng thế hệ sau không đi con đường của họ, mà chính họ cũng không đi lâu trên
con đường mình vạch ra. Con đường hòa mình vào thế giới hiện đại phải trải qua
một bước phát triển nhảy vọt, gián đoạn, cách mạng. Về mặt tư tưởng và văn học,
đó là sự thay đổi hoàn toàn phương pháp nhận thức thế giới, quan niệm văn học,
phương pháp sáng tác, tiêu chuẩn thẩm mỹ… Để đi đến nền văn học hiện đại chân
chính, nèn văn học cũ của ta vừa phải dân tộc hóa, vừa phải hiện đại hóa; thế
mà con đường cách tân văn học của Phan Bội Châu không vượt được truyền thống
nghệ thuật phương Đông dẫn đến một cuộc cách mạng cơ bản để hiện đại hóa. Cái đẹp
nghệ thuật có tính lịch sử. Trải qua bước đột biến phương thức khái quát thế
giới của Phan Bội Châu, lý tưởng thẩm mỹ của Phan Bội Châu, ngôn ngữ văn học
của Phan Bội Châu lúc bấy giờ rất dân tộc, rất hợp với công chúng, nhưng ngày
nay đã là quá khứ trong quan niệm của chúng ta về nghệ thuật.
Không phải vì vậy mà Phan Bội Châu thôi
không còn là nhfa văn lớn của dân tộc. Trong văn học trước thời hiện đại của ta
tồn tại hai dòng bác học và bình dân do sự phân cáchcó tính lịch sử giữa hai
lực lượng sáng tác, hai công chúng văn học: nhà nho và nông dân. Trong nền kinh
tế nông nghiệp tự nhiên, người nông dân tuy nắm toàn bộ nền sản xuất xã hội
nhưng lại giữ vị trí hoàn toàn phụ thuộc về chính trị và xã hội. Văn học bình
dân cũng vì vậy có tính cách lẻ tẻ, địa phương, nói những vấn đề trong phạm vi
chật hẹp. Nhà nho cũng là nhân vật nông thôn nhưng vẫn xa nông dân, dùng một
văn tự ngoại lai, nhưng lại là một tầng lớp tiêu biểu cho văn hóa dân tộc. Hán
ngữ là ngôn ngữ văn học. Đối với các tác giả nhà nho, chỉ trong văn chương chữ
Hán ta mới gặp những tư tưởng tình cảm nghiêm chỉnh nhất của họ. Sự phát triển
của văn nôm trải qua một quá trình từ dân ca đến thơ ca chịu sự tác động vừa
của văn chương nhà Nho, vừa của dân ca. Trong cuộc sống chung không những nhà
nho học lời ca điệu hấtcủ nông dân mà nông dân cũng học nghệ thuật văn chương
nhà nho. Tác động qua lại đó góp phần làm ra đời một loại thơ ca hoặc là do
nông dân làm, hoặc do nhà nho làm thích hợp hơn với công chúng đông đảo nhất
của dân tộc: nông dân. Truyện nôm ra đời do tác động qua lại như vậy, tuy đã
đạt được những thành tựu cao, làm cho văn học dân tộc phát triển lên một bước
mới, được nông dân ưa thích nhưng vẫn là một bộ phận riêng, không nói đến những
vấn đề lớn của đại bộ phân dân tộc, không chứa đựng truyền thống yêu nước của
dân tộc, cho nên không phải là bộ phận tiêu biểu nhất cho tình cảm tư tưởng dân
tộc. Việc ra đời của truyện nôm chưa xóa bỏ sự cách biệt giữa văn chương bác
học và bình dân. Sự tham gia tích cực của nông dân vào đời sống dân tộc nổi bật
từ khi Pháp xâm lược nước ta. Phong trào chống Pháp đã làm ra đời rất nhiều vè
lên án thực dân, triều đình, quan lại, tố cáo hiện thực khổ nhục của nhân dân
dưới sự thống trị của thực dân và phong kiến. Được Đảng của giai cấp vô sản
giác ngộ và tổ chức, nông dân càng tham gia mạnh mẽ vào tiến trình phát triển
của dân tộc và của văn học, tạo thành những phong trào thơ ca Xô Viết Nghệ
Tĩnh, thơ ca kháng chiến, thơ ca cải cách ruộng đất… Nền thơ ca đó của nông dân
có một ví trí riêng trong lịch sử văn học dân tộc. Đóng góp của Phan Bội Châu
vào lịch sử văn học dân tộc có thể nhìn cả hai mặt: một mặt ông dùng chữ Hán
viết những vấn đề lớn lao của dân tộc, của quần chúng và vì yêu cầu đó cách tân
các thể loại văn chữ Hán; mặt khác, ông dừngchx Nôm viết thơ ca cho nông dân,
góp phần nâng cao nội dung và nghệ thuật của thứ văn chương đó làm cho nó có
tính chất dân tộc, tính toàn quốc, góp phần làm hình thành thể loại diễn ca
cách mạng sử dụng rộng rãi sau này.
Văn học chân chính góp phần bồi dưỡng,
đào tạo những phẩm chất cao đẹp mới cho con người, nâng cao phẩm giá, năng lực
của con người trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Trong con người Việt Nam
tiên tiến của thời hiện đại: người cộng sản, nhiều phẩm chất được nhiều người
chú ý: yêu nước, yêu đồng bào, kiên cường, bất khuất, yêu đồng chí, đồng đội…
là những phẩm chất có từ lâu trong truyền thống dân tộc và chính Phan Bội Châu
đã có công lớn phát huy, nâng lên cao hơn từ khi phủ định người trung nghĩa,
người khí tiết theo kiểu Nho gia từ thế kỷ XIX trở về trước.
Trong lịch sử văn học Việt Nam, Phan
Bội Châu là một mắt xích quan trọng. Tên tuỏi ông thuộc vào loại những người có
công phát triển truyền thống tốt đẹp của dân tộc, phát triển văn học dân tộc
lên một bước và nâng cao phẩm giá con người Việt Nam lên một bước.
4. Việt Nam thành thuộc địa của Pháp và
hòa vào cuộc sống chung của thế giới hiện đại là một sự kiện phản ánh quy luật
phát triển chung của xã hội loài người: chủ nghĩa tư bản phát triển đến giai
đoạn đế quốc chủ nghĩa, nhưng nước chậm tiến bị đế quốc xâm lược biến thành
thuộc địa, ở các nước thuộc địa xuất hiện xu hướng gấp rút tư sản hóa, hiện đại
hóa và hình thành phong trào chung chống chủ nghĩa thực dân - vết ô nhục của
loài người văn minh. Nước Việt Nam cũng phát triển tong phong trào chung đó,
ngày nay “có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc
to là Pháp và Mỹ” (Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh). Nên văn học yêu nước,
cống thực dân của Việt Nam trong lịch sử văn học thế giới sẽ được chú ý vì nó
là nền văn học của đội tiên phong chống thực dân. Nổi bật lên trong lịch sử
chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới là tên tuổi của dân tộc Việt Nam, của Đảng
Lao động Việt Nam, của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vì lẽ đó Phan Bội Châu sẽ xứng
đáng được nhiều người quan tâm như là người trong bước đầu chống chủ nghĩa thực
dân của dân tộc ta đã dùng văn học cổ động cho chủ trương duy tân đất nước, đấu
tranh võ trang, đoàn kết dân tộc, thành lập chính đảng cứu nước (chưa phải là
Đảng Cộng sản), làm cho mọi người thiết tha yêu quý độc lập và tự do, chuẩn bị
rất nhiều cho cuộc đấu tranh anh hùng do Đảng Cộng sản lãnh đạo đến thắng lợi.
bao da iphone 7 plus mới nhất
Trả lờiXóa