Cải cách, duy tân của Nguyễn Trường
Tộ, đặc điểm, tính chất, tầm vóc và
quy mô
Nguyễn Đức Mậu
Nguyễn Trường
Tộ đặt ra hàng loạt vấn đề để cải cách, mỗi vấn đề như vậy thường xuất phát từ
mong muốn bảo vệ, phát triển đất nước. Trong các cải cách đó, có việc vì hướng
đến như một cần kíp để đối phó kịp thời nguy cơ mất nước, có việc hướng đến lâu
dài, có việc nếu muốn thực hiện thì phải giải phóng khỏi quan niệm, thói quen,
cách nghĩ hay phải nhìn nhận lại sự kháng cự lại của những cái đó.
Rất nhiều
những cải cách liên quan đến kỹ thuật, đào tạo, và phần lớn những cải cách muốn
thực hiện thì phải qua bàn tay triều đình, hay nói đúng hơn, Nguyễn Trường Tộ
chỉ nhìn hay trông mong vào triều đình, vào quyền lực nhà nước, vào quân quyền.
Tính chất của điều trần là vậy và hầu tất các cải cách Nguyễn Trường Tộ đưa ra
đều thế, nó không hướng đến một tầng lớp, một bộ phận xã hội nào ngoài bộ nhận
cao nhất của quyền lực, ông vua.
Đó là một đề
nghị cải cách từ trên xuống, từ sự chủ động của nhà nước. Nhưng cải cách để làm
gì, theo Nguyễn Trường Tộ, là cái căn bản cho trước mắt và lâu dài mà trực tiếp
là để mưu thu hồi và gìn giữ đất nước[1].
Ông dự tính cho công cuộc canh tân đó một kỳ hạn không dài: “Theo tôi tính toán thì từ nay về sau trong khoảng hai mươi năm, nước ta
chắc chắn có một kỳ thái bình thịnh trị (Đó là lý thế vận hội sinh ra như vậy. Lý do rất dài dòng khó có thể nói
rõ”[2].
Như đã nói ở bài Hai cách nghĩ, hai cách hành xử trước tình thế mới- trường hợp Nguyễn
Trường Tộ và Fukuzawa, hầu như ít lĩnh vực mà Nguyễn Trường Tộ không bàn đến
và đề nghị một sửa đổi, một cải cách. Vấn đề là đặc điểm, tính chất, tính hệ thống,
tư tưởng của thay đổi đó là gì, nó phản ánh điều gì.
Nguyễn Trường Tộ bàn đến thay đổi cơ cấu bộ
máy, đến phân quyền, giao quyền cho các cấp, nghĩa là hình thức là giảm tập quyền
mà mục đích là “giảm tải” cho quân quyền hay gì khác? Nguyễn Trường Tộ bàn đến
thay đổi trên diện rộng các mặt: luật pháp, giáo dục, thuế khóa, khai khoáng, vận
tải, buôn bán( chống bế quan tỏa cảng, vì mục đích chính trị hay thuần kinh tế?),
thay đổi chữ viết, ra báo chí, vai trò vua quan hay vai trò dân đối với xã hội,
vấn đề ruộng đất, các chức sắc làng xã,.. Những đề nghị thay đổi đó được nhận
thức liên quan đến nhau không, sự thay đổi được nhận thức từ triết lý nào? Tính
thực dụng hay tính tư tưởng nào là cơ sở? Trong từng ngành nghề, trong từng bộ
phận cụ thể thì sự thay đổi mang tính điều chỉnh hay thay đổi căn bản?
Xem xét các cách mà các tấu sớ, các lời
trích bàn về ý kiến, điều trần của Nguyễn Trường Tộ thì thấy các suy nghĩ của
Nguyễn Trường Tộ cũng đã được chú ý, với những quan chức như Trần Tiễn Thành
thì sự tin cậy là có. Vấn đề là những suy nghĩ nào của Nguyễn Trường Tộ được
chú ý, Nguyễn Trường Tộ tác động được phần nào đến suy nghĩ của các quan chức
có trách nhiệm không, cái đó trong tỉ lệ nhất định liên quan đến nhiều vấn đề
tiếp nhận.
Nhận thức về những cải cách của Nguyễn Trường
Tộ phần lớn đều thừa nhận có tính hệ thống, toàn diện[3],
cũng có thể nói là tổng thế. Phần lớn đều có thể liệt kê, từ chính trị, ngoai
giao, luật pháp, kinh tế( công, nông, thương,..), văn hóa, giáo dục đến các biện
pháp nhân đạo và những cấp bách trước mắt như lấy lại ba tỉnh miền Đông, kế hoạch
vận động ở Pháp để giữ ba tỉnh miền Tây, kế hoạc thu hồi sáu tỉnh, xa hơn là kế
ly gián Anh và Pháp, lập sứ quán, cử phái bộ, gửi người sang Pháp, sang
Xingapore học và sâu hơn nữa là cải cách phong tục, thay đổi cách nghĩ về đánh
giá nghề để hướng xã hội sang cả nghề khác thuộc công, thương,.. Hướng cải cách
phong tục như ăn ở, ăn mặc, vệ sinh, ngôn ngữ giao tiếp, và nhà cửa nơi đô thị.
Nếu điểm hết các đề nghị thì có thể nhìn thấy tính toàn diện, hệ thống, nói
chung là đủ mọi mặt.
Thế nhưng hàng loạt đề nghị cải cách có
thể gọi là toàn diện, hệ thống, đều là xuất phát nhận thức, thấy ra những yếu tố
cần thay đổi để hướng chuẩn theo giá trị châu Âu hiện đại. Trong mỗi đề nghị đó
yếu tố hiện đại được chiếm tỉ lệ thế nào, khả năng tương tác của nó trong không
gian cũ, nghĩa là sự thay đổi mang tính hệ thống hay chắp vá, cải cách hay cách
mạng, sự tương thích hay không có được ông tính đến, hay có phân tích đến mức độ
nào?.
Hình như khía cạnh nào ông cũng nhìn ra vấn
đề nào đó cần thay đổi, nhưng ông có nhìn ra tư tưởng tổng thế tạo ra toàn bộ
cơ cấu quyền lực nhà nước, cơ cấu chính trị, luật pháp không, ví dụ câu chuyện
đánh giá và hướng giá trị về thượng cổ, về cổ xưa hay, ví dụ cái học hư văn,
cái thái độ coi thường thực nghiệp,..ông có đặt câu hỏi nhận biết rằng những
cái đó có nguồn gốc từ đâu hay không. Những yếu tố, những điểm, những thành phần
mà ông thấy cần thay đổi liên quan đến Nho giáo( Nho giáo hay chỉ là Tống nho với
vài chỗ mà ông nói đến) và ý thức về sự liên quan đó trong nhận thức của ông có
được đặt ra hay không.
Nguyễn Trường Tộ không đối đầu, đối địch,
không thách thức Nho giáo, không xem nó là nguyên nhân cản trở lớn nhất cho tư
tưởng mới, cho cải cách theo hướng hiện đại của tư tưởng văn minh phương Tây
như Fukuzawa( có thể ông giữ tránh xung đột để thuyết phục cải cách). Điều khác
đó, phần rất nhiều là do chính phủ và xã hội Nhật lúc đó đã chịu ảnh hưởng khá
rộng rãi tư tưởng văn minh[4],
trong khi Việt Nam cùng thời Nguyễn Trường Tộ, văn minh phương Tây mới được nhận
thức ở một số cá nhân mà Nguyễn Trường Tộ là nổi trội một cách đơn lẻ. Tình trạng
nhận thức dạng đơn độc như thế, đã có thể nói, góp phần hình thành một áp lực
cho một lựa chọn nội dung điều trần. Nhưng sự đơn độc có phải là yếu tố quyết định
nên sự bất cập trong các nhận thức mang tính quan yếu của thay đổi, cải cách?
Nhà cải cách có vai trò đến duy tân của
Nhật Bản là Fukuzawa, người cùng thời với ông, đã nhìn thấy sức cản từ tư tưởng
Nho giáo, ý thức sức cản của nó nằm trong thói quen suy nghĩ và trong tình cảm
nữa, ông nói rằng trong lòng ông vẫn nặng Nho giáo nhưng ông cố khép nó lại
trong góc riêng. Fukuzawa nhận thấy nếu “để
tư tưởng thủ cựu của Nho giáo đọng vào trong trí não hậu thế, thì tư tưởng văn
minh phương Tây sẽ khó vào được Nhật Bản”[5].
Đấy là tư tưởng của nhà cách mạng, không chỉ là cải cách từng bộ phận, thay đổi
chi tiết, trong khi sức chống trả lại là cả hệ thống tư tưởng đang bám sâu vào
dân tộc. Fukuzawa nói hướng đến “tư tưởng
văn minh phương Tây”,“vào Nhật Bản”, chứ không chỉ chỉ là thay đổi yếu tố
trong hệ thống, chứ không phải thay đổi nhận thức từng phần trong bộ phận nào
đó của quyền lực, điều mà Nguyễn Trường Tộ dường không nhìn ra, hay trước một
tình thế đặc biệt của lịch sử bắt buộc ông nghiêng lệch trong quan tâm. Nhìn ra
được như Fukuzawa là nhìn ra chỗ cơ bản nhất để thay đổi. Chỉ khi nhận ra yếu tố
tư tưởng Nho giáo là cơ sở tạo ra sức cản trở cả hệ thống, mới có sự thay đổi hệ
thống, mới có thay đổi mang tính cách mạng triệt để.
Câu hỏi về sự phát triển và câu trả lời về
nó luôn được đặt ra, thông tin về sự phát triển tự do cá nhân liên quan đến sự
phát triển đất nước cũng có điều kiện đến được với Nguyễn Trường Tộ và cả vua Tự
Đức một cách trực tiếp, nhưng tiếp nhận điều đó và thái độ với nó lại là một vấn
đề quan trọng.
Một người phương Tây, lãnh sự ở Bangkok,
được giao nhiệm vụ ở Huế năm 1864, tường thuật buổi yết kiến vua Tự Đức, vua rất
thích trò chuyện với ông, chỉ khi đêm đến mới chịu chấm dứt, nhưng nhà vua có vẻ
“sửng sốt” nghe câu trả lời của vị lãnh sự này khi vua hỏi nhờ đâu mà nước Pháp
hùng cường và phồn thịnh: “ Những sinh lực
hàng đầu của một dân tộc là quyền tự do cá nhân và những quan hệ tự do giữa các
dân tộc nữa”[6].
Thêm một xác nhận về sự khó khăn thay đổi do tinh thần Nho giáo cản trở, nhân vật
ngoại giao này nhận xét: “Sự tôn trọng
phong tục, trên cơ sở phục tùng đến mức “giáo điều” học thuyết của Khổng giáo,
cho chúng ta một trong những chiếc chìa khóa cho phép chọc thủng bức màn bí mật
của lịch sử triều Nguyễn và trả lời câu hỏi chủ yếu này: Tại sao triều Nguyễn
đã không thể tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển một kiểu tư duy khả dĩ thức tỉnh ý thức dân tộc trước sự bành trướng của
phương Tây”[7]. Nguyễn Trường Tộ và cả Tự Đức nữa, như vậy,
đã tiếp xúc được những ý tưởng như vậy, nhưng thành vấn đề quan tâm chưa, hay
đó vẫn là điều xa lạ, có thể làm nên sự sửng sốt, nhưng thành xa lạ, không ám ảnh
như những nhu cầu thay đổi về kỹ thuật, về các bộ phận của quyền lực. Từ sự gặp
nhau về nhận thức của vị lãnh sự đến từ phương Tây và của Fukuzawa- một người
trực tiếp gặp Tự Đức, một người cải cách cùng thời ở Nhật, chúng ta thấy căn
nguyên quan trọng là tư tưởng Nho giáo, điều mà Nguyễn Trường Tộ mới ý thức được
từng phần, từng điểm. Yoshiharu Tsuboi cũng nhận thấy[8]
sự “không ngờ vực” “khuôn phép Nho giáo”, “sự tin tưởng mù quáng” vào hệ thống Nho
giáo đã cản trở những nhà cải cách và triều đình “phát huy những lối suy nghĩ khác”.
Xã hội trật tự phận vị Nho giáo không
hình dung được tự do cá nhân, tất nhiên sẽ rất sợ tự do cá nhân vì nó sẽ phá vỡ
trật tự từ lâu đã thành khuôn thước. Với cách nhìn chưa được chuẩn bị để thay đồi,
thì làm sao có thể nhận thấy rõ nho giáo
là lực cản mất còn với tự do, bình đẳng, trở lực nguy hiểm nhất của sự phát triển.
Nguyễn Trường Tộ nói không có bộ môn gì,
không thấy vấn đề gì mà không học, không đọc, nhưng yếu tố tự do cá nhân, các
điều kiện của xã hội cho tự do cá nhân tồn tại, lại không có trong quan tâm của
Nguyễn Trường Tộ[9]
như ở Fukuzawa.
A. Cải cách chính trị, xã hội
Nguyễn Trường Tộ viết điều trần là nhằm
thuyết phục một sự thay đổi từ nhận thức và hành động từ trên xuống, từ quyền lực
nhà nước. Chú trọng sự thay đổi từ vài bộ phận trong cơ cấu hệ thống quyền lực
cũ, nhưng sự thay đổi này, theo như những đề nghị của ông, tất nhiên hướng đến
sức mạnh nhà nước, xem sức mạnh này có ý nghĩa quyết định sự thay đổi, và hướng
ít, hay có thể chỉ là những dấu hiệu mờ nhạt, đến xã hội, đến sức mạnh ngoài
nhà nước. Cái quan niệm “nước mạnh, dân giàu” của ông không bao hàm trong nó vừa
sức mạnh của quyền lực nhà nước vừa sức mạnh trong lòng xã hội, nó có thể chỉ
là sự giàu mạnh về vật chất kỹ thuật và ông xem đây là cái quyết định sức mạnh
một đất nước, sự giàu mạnh của quốc gia.
Trong cách nhận thức và hình dung đó,
Nguyễn Trường Tộ không đặt vấn đề tiến bộ, văn minh, hay chưa thấy ra điều này
như Fukuzawa, mà đặt vấn đề nước mạnh, dân giàu, đặt hy vọng từ cải cách vài
quan niệm về kinh tế, vài nhận thức về bộ phận nào đó của chính trị, giáo dục
hay luật pháp,. sẽ thay đổi đất nước. Mỗi một đề xuất thay đổi yếu tố, bộ phận
nào đó thì ông đều nói rất lạc quan rằng rồi sẽ dẫn đến thế này, dẫn đến thế
kia một cách tích cực. Ví dụ, ông đề xuất “mua tàu lớn vượt bể để chở
những đồ vật nước mình dư không dùng đến đem bán ở các nước” rồi họ sẽ
đưa đi bán cho các nước khác, rằng “nếu làm được thì không ngoài vài năm người
Tây tự nhiên bỏ đất mà đi không cần phải đánh chác gì nữa”. Tuy nhận thấy sự xâm lược của phương Tây
mục đích đầu tiên là tìm kiếm, chiếm lĩnh thị trường, nhưng giải quyết vấn đề
chỉ vậy là không tính đến, lý giải đến các điều kiện, các mục đích khác. Đấy là
chưa nói đến thị trường nội địa và thị trường mà mình hướng đến, các nhu cầu
khác nhau của buôn bán,..Thực dân Pháp hướng đến Việt Nam là nhằm vào một không
gian thị trường, chính trị rộng lớn hơn, ví dụ hướng sang Vân Nam, Trung Quốc,
và một mục đích nhiều tham vọng hơn.
Hiểu được phá bỏ bế quan tỏa
cảng là một việc cần kíp, nhưng không thể nghĩ rằng mở cảng thông thương thì việc
tốt đẹp sẽ đến. Ông lý giải và lạc quan tin vào việc mở cửa khẩu mà không tính
đến xây dựng các phương diện hỗ trợ, tính đến các nguồn lợi từ nó, nhưng không
thể xem từ đó “ sự sinh sống của dân ta sẽ dần dần thịnh vượng”. Cách
phân tích rằng mở cửa thì nước ngoài “không thừa cơ gây hấn, chỉ dùng lối nói
mềm dẻo để xin” là một lạc quan hay là một cách thuyết phục của điều trần:
“Ví như trong nhà có một
chỗ bí mật không hề mở cho ai thấy ắt sẽ khiến người ta sinh nghi. Bọn cướp
không phải trên trời xuống, tất cũng là người trên đất này, chúng sẽ lấy kỳ được
những thứ cất giấu đó mới thôi. Nay nếu ta mở toang các cửa, để cho họ thấy rõ
mọi vật đều có chủ, thì không thể thừa cơ gây hấn, chỉ có dùng lối mềm dẻo để
xin mà thôi. Khi đó quyền định đoạt thuộc về ta. Ngày nay nếu ta nhân có họ xin
mà mở các cảng khẩu để thuyền bè các nước ra vào, ta ngồi mà thu thuế để tăng
quốc dụng, như ở Trung Quốc. Có thuyền máy qua lại trên mặt biển thì bọn cướp
biển dần dần sẽ tiêu. Sự sinh sống của dân ta sẽ dần dần thịnh vượng”(Di
thao 8).
Sự suy luận lạc quan từ một
đề xuất tích cực, nó phá vỡ một định chế tai hại là bế quan tỏa cảng, nhưng
không tính đến các điều kiện cần thiết, vì vậy về sau, tháng 9 năm 1875, nghĩa
là sau khi Nguyễn Trường Tộ mất được mấy năm, mở các bến cảng Hà Nội và Hải
Phòng, “đã có những hậu quả tai hại”[10] bởi triều đình “không biết đến cả cơ chế định
giá của thị trường tự do”[11]. Việc sử dụng các hiểu biết từ bên ngoài về Việt
Nam không đặt nó trong tổng thể, suy tính các yếu tố cần thiết, tương thích,
cũng như sự lạc quan về các kết quả của cải cách bộ phận, dường như là một đặc
điểm có tính chất chung của không ít các điều trần, các phác thảo của Nguyễn
Trường Tộ, hai phân tích trên là những ví dụ.
1. Mọi quyền lợi hành vi trong một nước phải do vua nắm
Về phương diện chính trị, nhiều nghiên cứu đã nói Nguyễn Trường Tộ muốn
giữ nguyên nền quân chủ nho giáo, có vài sửa đổi, ví dụ phân quyền cho các cấp
quản trị giống với các nước phương Tây mà ông quan sát được: “Nhìn ra các nước
ở phương Tây và Tây Châu, vua các nước
thường giao việc nước cho các đại thần mà chu du các nước để mở rộng kiến văn, không phải lo việc bên trong nữa,
vì đã có nhiều người lo giữ cho rồi. Sỡ dĩ được thế vì danh nghĩa đã lập, ngôi vị đã định, lý chính, thế đồng, phải trái
thiên hạ đều biết, tung hoành liên kết nước lớn nước nhỏ, hòa hiếu hợp với các
nước, một người làm trái thì cả đám gỡ cho”(Di thảo 8). Trong cách lý giải
và cách quan sát vua “phương Tây và Tây châu” của Nguyễn Trường Tộ, như
trích dẫn trên, thì bộ máy quyền lực được phân công trách nhiệm quản lý nhà nước
và được, nói như cách nói ngày nay là giám sát, bởi “thiên hạ đều biết”
“ phải trái’ và chính quyền “xử sự hợp với công luận”. Nhưng kiểu giám
sát và “ một người làm trái thì cả đám gỡ cho’ thì Sự phân công trách nhiệm “giao
việc cho các đại thần” để “chu du các nước” nhằm “mở rộng kiến
văn” vì đã có sự phân công rồi không phải lo nội chính vì “đã có nhiều
người lo giữ cho rồi ”. Cách nhìn này, như vậy đã đòi hỏi một chế độ quân
chủ khác, trên căn bản của bộ máy cũ. Nhưng hiểu theo kiểu phân nhiệm như thế
chưa bảo đảm điều đó được hiểu như một “tinh thần pháp quyền tư sản”[12], nó là vì vua, do vua, từ vua, nó không từ một khế
ước pháp quyền, mặc dù tính chất được mô tả đó không còn là tính chất nguyên bản
nhà nước quân chủ nho giáo đức trị.
Sự lý giải phân công trách
nhiệm trong bộ máy vẫn dựa trên “ lý chính”, “thế đồng”, “danh
nghĩa đã lập”, “ngôi vị đã định” và chưa cho thấy tinh thần của một
Hiến pháp cho hệ thống quyền lực, nó vẫn là “ giao việc” bởi từ vua, chứ
không phải khế ước xã hội. Cách nhìn nhận nhà vua đã giao việc cho các đại thần
nên “không phải lo việc bên trong nữa, vì đã có nhiều người lo cho rồi”
có thể chưa mô tả đúng tổ chức nhà nước tư bản và được hiểu như là phân nhiệm để
cho nhà vua có thời gian “mở rộng kiến văn”, không phải sự phân công sâu của
các bộ phận quản lý hành chính, quản trị đất nước. Cách giải thích của Nguyễn
Trường Tộ về “ ngôi vua là quý, chức quan là trọng” xuất phát từ phê
phán quan niệm “dân là gốc của nước” và giải thích vua, quan có trách
nhiệm ổn định xã hội, dân thì không bảo đảm cho điều đó, họ còn có thể tranh
giành quyền lực, làm loạn, thù oán nhau: “Người xưa có nói: “Dân là gốc của
nước”. Nói như vậy cũng chưa đúng. Tôi cho rằng vua quan là gốc của nước. Vì
không có vua quan thì chẳng bao lâu dân sẽ loạn, tranh nhau làm trưởng, giành
giật lẫn nhau, án sát lẫn nhau, oán thù lẫn nhau. Cho nên nước dù có vua bạo
ngược còn hơn không vua. Trong kinh thánh xưa của đạo giáo có nói: Tuy vua bạo
ngược dân cũng không thể hai lòng. Vì nếu dân dấy loạn thì chưa tổn hại đến vua
mà trước hết là hại dân”(Di thao13). Cách giải thích “Cho nên nước dù có
vua bạo ngược còn hơn không vua” cho thấy Nguyễn Trường Tộ rất xa với quan
niệm nhà nước pháp quyền. Điều đó có thể giải thích nhu cầu ổn định, về trật tự
pháp luật chứ chưa có thể nói về một nhà nước pháp quyền trong đó nhà vua là
viên chức trong hệ thống hành chính[13]. Nguyễn Trường Tộ đã viết trong bài Lục lợi từ( Di
thảo 5 ) và nhắc lại trong Di thảo 13, chứng tỏ ý tưởng về chế độ chính trị
quân quyền, tập quyền, chứ không phải cho thấy một nền chính trị pháp quyền độc
lập:
“Cho nên trong bài Lục lợi từ, tôi có nói: Mọi quyền lợi hành vi trong một nước phải
do vua nắm, và cùng với quốc dân chia sẻ nỗi vui buồn. Ngoài quy luật này ra đều là tội cả. Tôi xem khắp các nước trong
thiên hạ, hễ nước nào có một họ được bề tôi đời đời giúp rập thì tuy có đôi khi
suy vi nhưng trong nước cũng không đến
nỗi có loạn lớn. Như Nhật Bản đã mấy
nghìn năm, Thổ Nhĩ Kỳ đã nghìn năm, các nước phương Tây đều như thế cả, ở Nam
Tây Châu cũng vậy. Sở dĩ dân ở đấy phần nhiều chỉ có loạn nhỏ mà không có loạn
lớn là vì danh nghĩa đã xác lập ngôi vị ổn định, nghe thấy đã quen ít xảy ra việc
thoán đoạt làm loạn” ( Di thảo 13). Nhìn vào ngôi vua ổn định ở các nước
phương Tây mà không nhìn vào cơ cấu quyền lực, cấu trúc chính trị và đặc điểm
xã hội của họ thì sự biện luận cho bảo lưu một ngôi vị vua ở một nước chưa phát
triển về mặt xã hội là duy trì sự không thay đổi về nền chính trị quân chủ.
2. “Vua không dự vào những việc
ngũ hình”, “quan dùng luật để
trị, dân theo luật mà giữ gìn. Bất cứ một hình phạt nào trong nước đều không vượt
ra ngoài luật”.
Chế độ quân chủ nho giáo là
chế độ lấy đức trị để quản trị đất nước, dù có hình luật kiểu “Quốc triều hình
luật’ của nhà Lê thì đưa lên hàng đầu vẫn là đức trị, ơn nghĩa, lễ nghĩa, biếm
truất không xét xử là biện pháp quen dùng. Nguyễn Trường Tộ sau những quan sát
từ phương Tây đã đề nghị đưa luật lên cai quản đất nước, việc điều trần một
quan niệm, một nhận thức đó thôi cũng là điều không dễ được tiếp nhận, dù pháp
trị hay đức trị vẫn là sự tương nhượng, bàn luận rất nhiều trong lịch sử quyền
lực. Đặt các điều trần về luật của Nguyễn Trường Tộ trong môi trường tiếp nhận
của bộ máy cai trị bằng đức trị để phân tích thấy rõ khoảng cách giữa cái chính
trị đang tồn tại và cái đang đươc điều trần thay đổi, đồng thời thấy rõ đặc điểm,
tính chất tư duy nằm sâu trong hình dung cải cách của Nguyễn Trường Tộ. Như vừa
nói, chuyên chế đức trị hay pháp trị không phải là câu chuyện mới của sự lựa chọn
trong lịch sử, nhưng giữa đức trị chuyển sang luật có nội dung mới, mà tính chất
cơ bản của nó là khế ước xã hội, thay đổi ít nhiều quyền lực của nền quân chủ lại
là câu chuyện bước chuyển thời đại.
Cách trình bày một ý tưởng về
luật, tính tư tưởng và sự hình dung về nó, cách giải thích quan niệm liên quan
đến việc ông điều trần về các cách cải cách luật pháp,..là điều cần phân tích mới
thấy tầm vóc cải cách chính trị của Nguyễn Trường Tộ. Có thể nói, ở vấn đề này,
tính chất, đặc điểm của điều trần rõ nhất, khi Nguyễn Trường Tộ dung hợp mới cũ, trên cơ sở cái luật
cũ, điều đó cũng cho thấy Nguyễn Trường Tộ đi xa bao nhiêu, bị điều kiện hóa
trong cái cũ như thế nào:
“ Bất luận quan hay dân, mọi người đều phải học luật nước và những
luật mới bổ sung thêm từ Gia Long đến
nay. Ai giỏi luật sẽ được làm quan. Vì luật bao gồm cả kỷ cương, uy quyền,
chính lệnh của quốc gia, trong đó tam
cương ngũ thường cho đến việc hành chánh của 6 Bộ đều đầy đủ. Quan dùng luật
để trị, dân theo luật mà giữ gìn. Bất cứ một hình phạt nào trong nước đều không
vượt ra ngoài luật. Bởi vậy ở các nước phương Tây, phàm những ai đã nhập ngạch
Bộ hình xử đoán các vụ kiện tụng thì chỉ có thăng trật chứ không bao bị biếm
truất. Dù vua, Triều đình cũng không giáng chức họ được một bậc. Như vậy là để
giúp cho các vị này được thong dong trong việc chấp hành luật pháp không bị một
bó buộc nào cả. Phàm những tội ngũ hình đều do các vị này xử. Vua cũng không được
đoán phạt một người nào theo ý mình mà không có chữ ký của các quan trong Bộ ấy.
Làm thế là để cho dân chúng thấy rõ đạo công bằng. Vả lại vua không dự vào những
việc ngũ hình để tỏ đạo nhân ái.”
Đề xuất về luật của Nguyễn
Trường Tộ là bước tiến bộ vượt bậc
so với hình luật của chế độ quân quyền, đó là tất cả các hình phạt “không vượt
ra ngoài luật”, “quan dùng luật để trị, dân theo luật mà giữ gìn”( Tế
cấp bát điều- Di thảo 27). Nhưng điều đó không thế hiện hết sự tiến bộ khi quy
định mang tính hiến pháp, vượt ra khỏi vương quyền, đó là “dù vua hay triều
đình cũng không được giáng chức” ngạch Bộ hình, “Vua không dự vào những
việc ngũ hình”, dù điều này ông chỉ nêu câu chuyện “ở các nước phương
Tây”. Nhà vua thực sự vẫn nằm ngoài vòng pháp luật, luật quy định cho quan
trở xuống, nhà vua chỉ bị quy định ở chỗ không can thiệp vào việc “ngũ hình”,
nghĩa là tòa án có sự độc lập với chính quyền, nghĩa là có tính chất của “tam
quyền phân lập”, đấy là một tiến bộ quan trọng của đề xuất luật pháp qua việc
quan sát các nước phương Tây. Ông quan tâm cái gì trong những cái ông có thể
quan sát được?
Quy định như thế cho nhà vua
là không nằm trong luật pháp mà nằm trong hiến pháp, vì đấy là thuộc quyền hạn
và trách nhiệm, là hệ thống quy định những nguyên tắc căn bản của thể chế nhà
nước, nguyên tắc giữa các tổ chức chính trị, là đạo luật cơ bản nhất của một
nhà nước, chứ không thuộc vào điều luật.
Nhưng dù, là tính chất “tam(
hay nhị) quyền phân lập” được nêu lên rất rõ thì vua vẫn nằm ngoài luật pháp,
trừ mỗi quy định vua không can thiệp vào hình luật, vua không nằm trong sự xét
xử nào nên dùng luật cho quan và dân mà thôi. Nhà vua bị tước bớt quyền lực trực
tiếp, không còn biếm tuất, thăng trật ở ngạch hình luật.
3. Giải quyết
quan hệ giữa luật và đức, một vấn
đề đặt ra khi muốn đặt luật mới cho việc quản lý xã hội.
Nguyễn Trường Tộ giải thích để
nhằm biện luận cho luật mới và đạo đức, cái mà ông quan tâm mang tính chất mới
là “cái lẽ công bằng trong luật”, cái đạo đức của quyền, pháp nằm ở công bằng: “Nếu bảo luật lệ chỉ tốt cho việc cai trị
chứ không có đạo đức tinh vi, thế là không biết rằng trái luật là tội, giữ đúng
luật là đức. Nếu tận dụng cái lẽ công bằng ở trong luật mà xử sự thì mọi quyền,
pháp đều là đạo đức. Có cái đức nào lớn hơn chí công vô tư không? Chí công vô
tư là đức trời. Trong luật cái gì cũng công bằng hợp với đức trời, như vậy mà
không đáng gọi là đạo đức tinh vi sao?”( Di thảo 27). Nhìn ra “lẽ công bằng
trong luật” là đạo đức, dẫu chưa cấp cho nó những biện luận về bình đẳng giữa
quyền con người hay nhận thức chưa đạt đến đó, thì cũng là đã khác với quan niệm
trật tự phận vị, ở đó quân tử và tiểu nhân là cái hố ngăn cách không xóa lấp được.
Công bằng trong xét xử là yếu tố mới. Khái niệm “công bằng trong xét xử” giữa
các thần dân ở đây và khái niệm “bình đẳng trước pháp luật” của nhà nước pháp
quyền đối với mọi công dân chắc chưa được ông ý thức và thực sự quan tâm. Cái
nghĩa “lẽ công bằng trong xét xử” của Nguyễn Trường Tộ vẫn bị chi phối( ít, nhiều)
bởi trật tự, phận vị khi cho ràng không được xử phạt đại thần bằng nhục hình(
Di thảo 27?).
4. Tính
dung hợp, không nhìn thấy sự bài
trừ lẫn nhau giữa luật cũ và nội dung mang tinh thần khác của luật mới.
Phủ nhận quan niệm dân là gốc nước chỉ vì
Nguyễn Trường Tộ cho rằng giữ được ổn định là quan trọng nhất, nếu không có vua quan thì sự đảo lộn
trật tự sẽ xóa bỏ tất cả, cho nên vua, dù là hôn quân vẫn còn khả dĩ. Nhận thức
đó có phải là nền tảng cho xác định ngôi vua là trọng hay không thì chắc phải cần
một phân tích sâu. Trong phát ngôn của Nguyễn Trường Tộ đối với ngôi vua vẫn
còn yếu tố trung hiếu, yếu tố quan trong của chế độ quân chủ chuyên chế: “Biết rằng đạo làm người là không
gì lớn bằng trung hiếu, không gì cần thiết bằng lễ nghĩa”[14], “ Không
có quốc gia thì không thành dân sự. Không có đạo vua thì không thành quốc
gia”[15]. Như vậy cái mục đích trung hiếu và mục đích “ổn định”
quốc gia ở đây vẫn còn cần xác định cái gì là cốt yếu, hay có sự dùng dằng chưa
rõ ràng của tư duy phân tích trong chính bản thân Nguyễn Trường Tộ. Thực sự vua vẫn nằm ngoài quy định của
luật, chỉ mỗi việc vua không được tham gia vào trong hệ thống hình sự, chỉ có
quyền ân xá chưa đủ để nói vua là một bộ phận của bộ máy hành chính. Xét xử, dù
được nói đến công bằng nhưng chưa phải bình đẳng giữa các công dân, quan đại thần
vẫn được đề nghị không dùng nhục hình. Như vậy vẫn còn chỗ khác nhau trước luật
Nội dung và tính chất của luật, theo điều trần, vẫn
trên cơ sở luật cũ của triều đình đã được bổ sung mà thêm vào: “Bất luận
quan hay dân, mọi người đều phải học luật nước và những luật mới bổ sung thêm từ Gia Long đến nay”[16], luật đó đủ bảo đảm
nội dung và tinh thần nho giáo: “Vì luật bao gồm cả kỷ cương, uy quyền,
chính lệnh của quốc gia, trong đó tam
cương ngũ thường cho đến việc hành chánh của 6 Bộ đều đầy đủ ”[17]. Tiếp
nhận cái mới theo tinh thần “tiếp thu có lựa chọn”, đưa cái mới vào trong hệ thống
cũ kiểu như thế vừa không tính đến những nội dung cốt lõi của cái cũ và cả cái
mới, những nội dung đó có thể tương khắc hay triệt tiêu nhau, dù ông đã có ý thức
được điều đó như ở một đề xuất khác ông đã nói, thì cái khác nhau sâu xa từ xuất
phát điểm, cũng không dễ nhìn ra.
Cái mởi bổ sung vào cái cũ,
trên tinh thần tam cương ngũ thường, dường như không biện luận hay nhìn thấy
sâu xa mang tính nguyên tắc của hai định hướng luật, một bên bảo vệ vương quyền,
bảo vệ trật tự phận vị bất di dịch, nó có thể mang tinh thần của “lẽ công bằng
trong xét xử”, với một bên bảo vệ “ quyền bình đẳng trước pháp luật” của mọi
công dân. Nhìn bề mặt khái niệm công bằng và khái niệm bình đẳng có sự gần gũi
mà người tiếp nhận hiện nay dễ bị nhầm về tính hiện đại.
Sự dung hợp luật mới, luật
cũ này được biện luận về một cách nhìn đạo đức mới mà khái niệm công bằng vốn dễ
được chấp nhận, kiểu: “mọi quyền, pháp đều là đạo đức”, lại không xét đến
cái nghĩa khái niệm bình đẳng, bình quyền của pháp quyền tư sản.
Trong một bàn luận khác về
việc học, Nguyễn Trường Tộ lại giải thích về tư tưởng dung hợp của mình, trong
cách nhìn này cho thấy ông có chút lạc quan, ảo tưởng về việc gộp cái hay( mà
ông cho là có) của ta và của thiên hạ: “Những điều tôi trình bày ở đây không
phải là muốn bỏ hết cái cũ mà mưu cầu cái mới. Nhưng phải lấy cái hay của mình
có sẵn, còn phải gồm những cái hay của thiên hạ mới sáng tạo ra. Như thế những
cái mới của thiên hạ có mình cũng có và những cái mình sẵn có thì thiên hạ
không có. Lấy hai điều biết mà địch lại một điều biết như ở đoạn giữa của bài Lục
lời từ tôi đã trình bày. Như thế ai dám khinh rẻ nước mình?”[18].
Cung cách dung hợp ở
Nguyễn Trường Tộ, là cung cách lấy yếu tố, chọn lựa yếu tố của ta mà ông gọi là
“nhặt” để dùng cùng với cái lựa chọn từ của Tây: “Hãy tìm trong các sách Nho
từ trước đến nay xem có chỗ nào nói đến cơ xảo dù một vài câu cũng nhặt hết ra, thu thập sửa lại cho đúng. Ngoài
ra, lựa lấy trong các sách Tây, chỗ
nào nói về những cần thiết hàng ngày, thí dụ như các sách viết về nguồn lợi khoáng sản cũng như tất cả các sách Tây viết về máy móc”[19]. Cái của ta và cái của thiên hạ ở đây là bàn về
cái cụ thể, nhưng cách lấy yếu tố, mỗi bên một ít, là nhằm điều hòa, dung hợp
trong cách điều hòa. Cách tiếp nhận như thế là cách tiếp nhận theo kiểu, thêm bớt,
không tiếp nhận hệ thống.
Văn hóa, xã hội:
Báo chí, in ấn được Nguyễn
Trường Tộ đề xuất, nhưng khác Fkuzawa, người dịch sách Tây về các vấn đề xã hội
và khoa học như ngân hàng, tài chính, lập báo để thúc đẩy xã hội dân sự thì
Nguyễn Trường Tộ lại chú ý nhiều đến sách kỹ thuật, thu thập cả sách cũ của các
nhà nho nói đến “cơ xảo” để in. Khoa công, kỹ nghệ được quan tâm hàng đầu là in
ấn: “Hãy tìm trong các sách Nho từ trước đến nay xem có chỗ nào nói đến cơ xảo
dù một vài câu cũng nhặt hết ra, thu
thập sửa lại cho đúng. Ngoài ra, lựa lấy
trong các sách Tây, chỗ nào nói về những cần thiết hàng ngày, thí dụ như
các sách viết về nguồn lợi khoáng sản cũng như tất cả các sách Tây viết về máy
móc, (Tôi có mua hai quyển lớn đã trình nạp rồi, trong đó nói đủ cả) rồi xin
các giám mục địa phương mỗi nơi cho hai linh mục rành tiếng Nam về kinh để cùng
dịch thuật với các nhà biên soạn. Cũng xin mua một máy in để in ra xuất bản. Tuy nhiên
trước tiên phải lập khoa này, đặt thể lệ hẳn hoi để cho dân thấy rõ rằng Triều
đình xem việc này là trọng, ai học sẽ được thành danh lập nghiệp. Nếu không, họ
vẫn cứ đua nhau miệt mài văn tự theo cái học khoa cử mà thôi”[20].
Sách của Hàn lâm, các tập Ngự chế vẫn được dùng cho hiện tại, không bị xem là
không hợp với khoa học văn minh: “Ngoài ra xin đem các tập Ngự chế và các
sách của Hàn lâm sách nào hợp với thời vụ ra ban hành. Còn kinh sử tử truyện chỉ
dùng để khảo nghiệm một vài việc mà thôi. Và cũng xin đặt lệ cho các hiệu sách
trong nước nếu muốn khắc bản in phải theo quy định của Triều đình cho sách nào
in trước, sách nào in sau”[21]. Nguyễn Trường Tộ chưa dứt
được nội dung trong sách cũ hay muốn tạo một sự dung hòa thuận cho tiếp nhận,
chắc có thể dùng dằng chưa hết trong nhận thức của ông.
Một điều trần ra báo được Nguyễn Trường Tộ
đề xuất, nhưng những nội dung mà ông nêu ra là có tính công báo, công vụ quốc
gia hơn là những nghị luận xã hội mang tính dân sự: “Ngoài ra cần phải ấn
hành một tờ nhật báo đăng tải các chiếu, chỉ, sớ, dụ, những việc làm của các bậc
có tiếng tăm, những công vụ quốc gia hiện thời cho học sinh đọc để biết công việc
trong nước”[22]. Những nội dung như thế rất
xa với nhu cầu về xã hội, nó hướng về sự phát triển quyền lực nhà nước.
Một nội dung khác và mới mẻ nhất là lập
các hội, đây là một hình thức mới ngoài nhà nước có ảnh hưởng đến sự phát triển.
Nguyễn Trường Tộ hướng đến các hội này cũng nhằm khá nhiều vào nó trong việc
giúp đỡ nhà nước nhiều cơ sở vật chất như đường sá, cầu cống,..cả việc cho nhà
nước vat tiền: “Xin cho trong dân gian những ai lập các hội cứu tế như các
loại hội cứu hỏa, hội nào hiểm thuyền buôn, hội khơi cảng thu thuế, hội thay
nhà nước sửa chữa xây dựng cầu cống, đường sá nhà cửa, hoặc xuất tiền cho nhà
nước vay để hàng năm lấy lợi, hoặc quyên tiền cho nhà nước để lập ra các nhà
nuôi trẻ mồ côi, nuôi người nghèo khổ bệnh tật, và tự nguyện đứng ra quản lý
các việc ấy, hoặc khi nhà nước có việc khẩn cấp có thể cho vay tiền từ một vạn
trở lên, đều xét theo công lao sự việc lớn nhỏ mà phân biệt tước phẩm, hoặc tặng
cờ biển để khen ngợi”[23]. Nội dung đề xuất thành lập
hội thì mới, nhưng theo cách phân tích đó cho thấy ông nhìn ở các hội này với
tính chất của nó là hướng giúp nhà nước hơn là nhìn nhận ở nó một mô hình phát
triển ngoài sức mạnh nhà nước, một biện pháp phát triển quốc gia giàu mạnh.
Cũng có thể cho rằng ông nhằm mục đích thuyết phục triều đình nên phải phân
tích, biện luận theo hướng các hội là một nguồn lợi cho nhà nước.
B. Cải cách giáo dục, đào tạo- quan niệm và mục đích.
Trong các điều trần của Nguyễn Trường Tộ,
rất nhiều phương diện được bàn tới, được đề nghị thay đổi. Có nội dung của thay
đổi được cụ thể hóa, chi tiết hóa, có phân tích lập luận, xác lập sự cần thiết
phải thay đồi. Trong rất nhiều nội đó, giáo dục được Nguyễn Trường Tộ bàn nhiều,
cụ thể, chi tiết so với các vấn đề khác. Thống kê và so sánh để thấy Nguyễn Trường
Tộ quan tâm sâu nhất, dành nhiều tìm hiểu nhất và phân tích từng vấn đề là một
công việc đòi hỏi đi sâu hơn, ở đây bàn về một vài đặc điểm trong các đề xuất của
Nguyễn Trường Tộ.
Ngoài việc tập trung phác thảo hệ thống
giáo dục thì việc đào tạo còn được Nguyễn Trường Tộ đề xuất thêm nhiều hướng cụ
thế, đó là, 1/ hướng gửi người sang Tây, cái mà bây giờ chúng ta gọi là du học,
và 2/ hướng mời Tây vào khai thác và từ đó người Việt học được trực tiếp từ
saen xuất, thực hành của Tây. Cả ba hướng đào tạo đều có một điểm chung mà ông
chú ý, đó là đào tạo kỹ thuật, kỹ nghệ, những môn học thiết thực cho sản xuất,
khai thác, còn các môn thuộc cái mà bây giờ ta gọi là khoa học cơ bản, khoa học
nhân văn, khoa chính trị học,..thì tuyệt không được nhắc đến, dù ông có nói đến
học phương pháp mới của phương Tây.
Tập trung bàn việc giáo dục vào hai điều
trần quan trọng Tế cấp bát điều( Di thảo 27) và Về việc học thực dụng(
Di thảo 18), còn nhiều điều trần khác ông cũng bàn về giáo dục. Ông phê phán lối
học từ chương, hư học, ông đề xuất thực học, học những bộ môn liên quan thiết
thực đến khoa học thực nghiệp. Ông, như một chiến lược gia, vạch một thiết kế
các chuyên ngành, kiểu cách của một thiết kế tổng thể, đề xuất từ trường quốc học,
tỉnh học, trường tư cho đến thi Hương, thi hội, và như một chuyên gia cho từng
ngành, ông thuyết minh cả những nội dụng cụ thể trong từng chuyên ngành, nghĩa
là ông đi sâu vào các bộ phận riêng lẻ. Nguyễn Trường Tộ còn đề xuất cả cách
thi lẫn nội dung thi, nghĩa là cả vạch chương trình, phân bố các cấp, cả việc
ta ngày nay gọi là khảo thí, cả việc ý nghĩa, tính tư tưởng của nội dung học và
thi.
Nhìn tổng quát như vậy là hệ thống, là
toàn diện, nhưng đi sâu vào cái cụ thể thì ở đây có sự cộng cái mới vào hệ thống
cũ, cái cũ là cái gì, cái mới được thêm là bộ phận lẩy ra từ một hệ thống giáo
dục khác mà không phải là cả hệ thống giáo dục. Như trên kia đã trích dẫn quan
niệm của ông là lấy “phương pháp hay của mình” và “ cả những phương pháp hay
trên thế giới” để hợp dụng, thực hành song hành cho hiện tại. Từ cách nhìn này
ông luôn nói đến tìm trong sách cổ nhặt hết ra, dù một vài câu, thu thập, sửa lại,
rồi lựa trong sách Tây, chỗ nào nói về cái cần thiết dịch ra[24]. Trong tư tưởng hợp dụng
này, có ảo tưởng về kết quả của nó, khi ông nghĩ rằng: “Như thế những cái mới
của thiên hạ có mình cũng có và những cái mình sẳn có thì thiên hạ không có.
Lấy hai điều biết mà địch lại một điều biết… Như thế ai dám khinh rẻ nước
mình?”. Dẫu ông có nói dùng cái phương pháp của ta và của Tây, dùng những
cái “không trái ngược nhau” nhưng như vậy, sự thay đổi mang trính triệt
để căn bản vẫn khó khăn, khi mà sự không tương thích từ cái gốc căn bản là quan
niệm và mục đích của giáo dục, quan niệm về sản phẩm giáo dục. Nguyễn Trường Tộ
dường như quan tâm đến sản phẩm giáo dục là nội dung kỹ thuật có giá trị thực
hành cho người học, của giáo dục, mà như không chú ý vai trò cá nhân tự do,
bình đẳng, độc lập như Fukuzawa, người quan niệm: “Cá nhân có độc lập thì
gia đình mới độc lập. Và như thế quốc gia cũng độc lập”[25].
Cá nhân và quốc gia có mối quan hệ nơi tinh thần, tư duy độc lập của mỗi người.
Phê phán hư học, học từ chương, lấy cái
cũ, cổ xưa làm đích đến, lấy văn chương làm thước đo con người, thước đo văn
hóa, lấy nghề nho làm trọng mà coi thường nghề khác,..đó là những vấn đề vừa
nêu ở trên và đã phân tích ở các phần khác. Có dịp sẽ phân tích, phân loại thêm
về các cách ông phê phán, nội dung sự phê phán ở bệnh hư học. Ở đây nói rõ cái
học thực dụng và cách nghĩ về học thực dụng, một chủ trương có tính cải cách mạnh
mẽ của Nguyễn Trường Tộ, nó khác một cách căn bản với cái học truyền thống,
truyền thống nho học, và trong một mức độ nào đó, chúng ta so sánh cái học thực
dụng của Nguyễn Trường Tộ với cái học thực dụng mà Fukuzawa, người cùng thời và
có cùng chủ trương, để nhìn thấy cái khác nhau giữa hai đề xuất.
Trong điều trần Tám việc cần làm ngay,
ở điều thứ tư: “xin sửa đổi học thuật, chú trọng thực dụng”, là câu hỏi để định
nghĩa việc học, mục đích việc học, đối tượng cần học: Vậy học là gì?. Một vấn đề
như thế cần phải đặt ra, một định nghĩa nội dung kiểu như thế thường gắn với tư
duy phân tích. Fukuzawa cũng dùng phần 9 trong sách Khuyến học để nói điều đó:
Mục đích của học vấn.
Nội dung học mà Nguyễn Trường Tộ xác lập
là học cái chưa biết, và là cái để thực hành được: “Vậy học là gì? Là học những
gì chưa biết để biết mà đem ra thực hành. (Nhưng thực hành cái gì? Thực hành ở
đâu?). Đó là thực hành những gì thực tế trước mắt và còn để lại lợi ích cho đời
sau nữa”[26]. Cái đem ra thực hành được
trong thực tế, là có ý nghĩa thực dụng, học cái thực dụng, cái có ích, không học
cái vô dụng, vô ích: “Học những gì thực tế thì sẽ có thực dụng”[27]. Từ quan niệm học thực dụng
ông đề xuất các khoa, các môn để góp phần dần dần làm tiêu tan cái “tệ đoan”[28] do hư học đưa lại, đó là
các khoa: Nông chính, thiên văn, địa lý, công kỹ nghệ, luật học. Các khoa đó
bao gồm mấy khoa mà ông đã đề nghị một năm trước đó, năm 1866, trong điều trần Về
việc học thực dụng: khoa hải lợi, khoa sơn lợi, khoa địa lợi, khoa thủy lợi
và cả đáp ứng các ngành chế biến, cất giữ thực phẩm, đồ gia dụng, bào chế thuốc,
trồng trọt, lập hãng buôn.. Trong điều trần Kế hoạch làm cho dân giàu nước mạnh,
có thể ông đã khảo sát giá cả ở phương tây để đi đến nhận xét rằng: “Về biển
thì không có nguồn lợi nào lớn bằng cá với muối”, “rừng thì không có gì
lớn bằng gỗ” “ đất đai thì không có gì lớn bằng tơ gai”, “về mỏ
thì không có gì lớn bằng đồng và thiếc”[29].
Mô hình các ngành thiết yếu, thiết thực,
trong hệ thống này không thấy cái đại toàn toát yếu của sách giáo khoa nho
giáo(?), nhưng nó có đúng hệ thống trường và các ngành riêng rẽ của nó đúng mô
hình phương Tây đương thời, so với hệ thống trường mà Fukuzawa thành lập khác
nhau không, khi cả hai đều chịu ảnh hưởng giáo dục, đào tạo phương Tây.
Nguyễn Trường Tộ cũng nói ông phác thảo
để, 1/“dễ làm”, nghĩa là lựa chọn có tính đến khả năng tiếp nhận hay các
điều kiện hiện tại, và 2/ “ để dẫn tới nhiều tác dụng to lớn sau này”,
nghĩa là lựa chọn cái hữu ích cho mai sau, không chỉ là cái trước mắt, và nếu
triều đình muốn, ông còn có thế trình bày rõ ràng từng điều. Sự thay đổi được
ông xác định là mở ra dần trong tương lai, nghĩa là cấu trúc hiện tại mà ông vạch
ra chỉ là giản lược một cách tối ưu do tính toán cho thích hợp: “Các điều kể
trên là tôi chỉ chọn những điều tầm thường dễ làm để dẫn tới nhiều tác dụng to
lớn sau này. Đó chỉ là toát yếu mấy đề cương lớn mà thôi. Còn các đề mục nhỏ
trong đó không thể nói hết từng cái một (Dùng năm sáu trăm trang giấy cũng chưa
thể viết hết). Nếu Triều đình muốn đưa ra vấn đề nào, tôi xin lần lượt trình
bày rõ từng điều một. Ngay như khoản tình hình chính sự hiện tại cũng đã rất
nhiều, mà cũng có thể thay đổi dần dần. Điều này thật là cần gấp, thật là trọng
yếu”. Xét trong cách ông nói thì sự lựa chọn của ông hướng vào những cái
thiết thực, có tính đến khả năng thay đổi của đất nước thời hiện tại.
Nhưng nguồn lực, tài lực, vật lực cho những
thay đổi không thấy được ông tính đến. Hệ thống giáo viên, giáo trình, và những
điều kiện cho cải cách giáo dục từ ban đầu của nó chưa thấy được đặt ra, nhất
là khi chưa có một đội ngũ như thế. Đó là các tính toán vạch ra cho đào tạo
trong nước cho nhu cầu hiện tại.
Trong một điều kiện khác, điều kiện gửi người
đi học nước ngoài, thì cái ông đề xuất là học cái gì, học như thế nào? Xét những
phác thảo cụ thể và tuần tự, thứ tự mà ông quan tâm sau sẽ thấy: “Nếu muốn
sang thông hiếu hoặc chọn người sang phương Tây học tập quan sát các cơ xưởng kỹ xảo như thế nào, các phép thiên văn, địa lý, lái thuyền hàng hải
như thế nào, những cách phân biệt các thứ
kim loại đá quặng và thảo mộc như thế nào, các phép tìm kiếm khai quật các mỏ như thế nào, cách làm các khí cụ thường dùng hằng
ngày như thế nào, các binh cơ khí giới
như thế nào, các mưu lược tung hoành
như thế nào cùng là các lễ pháp ngoại
giao như thế nào, mua các máy móc to
nhỏ hoặc xem cách sử dụng hoặc lấy mẫu như thế nào, cách chọn những người dạy kỹ xảo như thế nào, tìm người trung tín
có thể nhờ vả để tìm những nguồn lợi trong nước ta như thế nào, các phương pháp mới để phát triển kinh tế,
chọn ra cái nào nên làm trước cái nào nên làm sau và ứng dụng ở nước ta như thế
nào, nhất nhất phải nhận cho rõ ràng mà làm, lợi hại hoãn gấp ra sao... đều phải
đồng lòng hợp sức để mọi sự được thỏa đáng. Trừ những cái bất ngờ ngoài sự trù
tính của mình ra, còn thì sau này mọi người cứ thế mà làm”[30]. Đó là những nội dung rất
cụ thể, chi tiết về kỹ thuật, và được quan tâm nhiều nhất, nhưng ngoài việc nói
đến “các phương pháp phát triển kinh tế”, chưa thấy phác thảo tìm hiểu
mô hình trường học, mô hình xã hội, chính trị liên quan. Nghĩa là dưới dạng tổng
quát, dạng khái quát để phát triển văn minh từ giáo dục, đào tạo thì không được
chú ý ở đây. Như thể hiện ở các trích dẫn trên thì việc học trong và ngoài nước
đều có mục đích chung là vẫn nghiêng hẳn về kỹ nghệ, kỹ thuật, nghĩa là có sự
thống nhất trong cách Nguyễn Trường Tộ chú ý.
C.
Cải cách kinh tế- cấp bách
và lâu dài.
Việc học, việc làm giàu là
hai vấn đề được Nguyễn Trường Tộ bàn nhiều nhất. Ông phân tích chủ trương làm
cho nước giàu mà dân cũng giàu, nhưng không thể giàu từ thu thuế vì thuế có hạn,
không phải bòn rút của dân mà phải lấy nguồn lợi tự nhiên làm ra của cải[31]. Nguyễn Trường Tộ phân ra
các nguồn lợi từ biển, về rừng, về đất đai, về mỏ mà ông cho rằng lợi về biển
thì không gì bằng cá và muối, lợi về rừng không có gì bằng gỗ, lợi về đất đai
thì không gì bằng tơ gai, lợi về mỏ thì không gì bằng đồng và thiếc. Ông còn
nói cụ thể rằng trừ than đá ra thì giá đồng, giá thiếc ở Bắc Kỳ một quan bán ra
nước ngoài tám quan, tơ, gai, cá muối cũng thế[32].
Bốn nguồn lợi được đánh giá như thế lại nói ngoài thu thuế thì làm ra sản vật
bán ra nước ngoài và mua cái cần dùng về, đó là cách nhìn đã trải qua khảo giá
từ nước ngoài. Đó là cách sản xuất, khai thác hàng hóa cho thương mại tính đến
hay nhìn từ thị trường bên ngoài.
Ông cũng đề nghị bỏ bế quan tỏa cảng,
phát triển thương mại, như tạo
điều kiện cho nhà giàu cửa bể mua tàu lớn làm thương mại với các nước để 1/
tăng thêm thu nhập từ đánh thuế xuất nhập. 2/ Để tăng thêm những thứ cần dùng
trong nước. Từ tính toán này ông nghĩ rằng như thế sẽ đáp ứng nhu cầu thị trường
và nước ngoài sẽ thấy thông thương, không cần đến thị trường ta nữa và Tây sẽ bỏ
ra đi[33].
Như vậy ông nhìn nhận việc nước ngoài xâm lược Việt Nam chỉ vì thương mại, vì
thị trường, giải quyết việc này là cùng lúc giải quyết luôn nguy cơ bị mất nước.
Thị trường và chính trị được đặt vấn đề về mối quan hệ giữa chúng. Nhưng giữa
buôn bán và độc chiếm thị trường là chuyện cạnh tranh toàn cầu, câu chuyện
không chỉ hàng hóa.
Mở cửa khẩu,
làm thương mại buôn bán, đó là nhìn trong quan hệ với thế giới, còn câu chuyện
thương mại trong nước không thấy ông bàn đến như một tổng thể các kế hoạch làm
giàu. Như thế mở cửa khẩu để thông thương và buôn bán chỉ là một của việc nhìn
ra thương nghiệp và vai trò của nó để phát triển, là cách nhìn ra một ngạch
quan trọng vốn bị coi thường trong xã hội thứ bậc xem thương ờ cuối bảng.
Mặt khác,
bên cạnh tạo điều kiện cho nhà giàu buôn bán quốc tế, thì mời gọi nước ngoài đầu
tư, khai thác mỏ để vừa thu lợi, thu thuế, vừa cho nhân dân có việc làm, đồng
thời để cho dân học tập, làm quen với khoa học kỹ thuật Tây phương. Nhưng mời gọi
khai mỏ cũng chỉ khai những mỏ mới mà khó khai thác, mỏ tốt thì để dành về sau
cho ta khai thác. Ông cũng bàn đến kế hoạch tự khai mỏ, bao gồm cho người đi
Tây mua các khí cụ để khai thác và chế tạo. Nhưng cũng như nhiều đề xuất, các dự
án cụ thể cần bao nhiêu tài chính và khả năng đáp ứng nó trong điều kiện hiện tại
thì không được bàn đến.
Các biện pháp
trên là làm giàu “để cứu giúp lúc khẩn cấp”[34],
nhưng để thực hiện nó lại phải cần khoản tài chính lớn cho khai mỏ, cho đóng
tàu, và cũng cần một thời gian khá dài để thực hiện, chưa nói đến những khó
khăn sẽ gặp phải đến từ nhiều phía. Ngay việc “xin
để cho những nhà giàu ở gần cửa bể có thể mua tàu lớn vượt bể để chở những đồ vật
nước mình dư không dùng đến đem bán ở
các nước”[35]
thì cũng phải có đủ thời gian đào tạo, đủ điều kiện kỹ thuật, điều kiện tìm kiếm
thị trường, và các điều kiện khác không dễ thực hiện một cách cấp bách.
Cùng với đề
xuất các biện pháp khẩn cấp làm giàu từ bốn nguồn lợi trên, và do quan sát thấy
“các nước phương Tây giàu mạnh cũng nhờ
chuyên về khoa nông nghiệp”[36],
ông đề xuất thành lập Bộ Canh nông, đặt nông quan để phụ trách nông nghiệp, thủy
lâm, bởi ông nhận thức rằng “nông nghiệp
là gốc”[37]
đáp ứng các nhu cầu ăn mặc, từ nhận thức đó ông đề nghị thành lập khoa nông
chính, tiến hành xuất bản bộ sách Nông
chính toàn thư thu thập các phương pháp nông nghiệp hợp với đất đai, thời
tiết, các loại nông sản, các giống chăn nuôi, đặng bỏ lối trồng trọt chăn nuôi “phó mặc tự nhiên”[38],..
cùng với điều chính thuế ruộng đất cho hợp lý, không tùy tiện, xin đặt khoa thủy
lợi tưới tiêu phòng úng, hạn. Một hình dung tổng thể cho nông nghiệp toàn quốc,
có hướng dẫn về kỹ thuật canh nông của người nhà nước. Ngoài những biện pháp, cả
kỹ thuật lẫn cách tổ chức nông nghiệp được đề nghị cải cách, ông còn đề xuất
ban thưởng cho những sáng kiến về sơn lợi, địa lợi, thủy lợi, canh nông,..
Không chỉ đi từ vai trò bộ máy nhà nước về nông nghiệp, bàn đưa kỹ thuật vào
nông dân, đưa thủy lợi tưới tiêu, mà bàn cả thay đổi thói quen canh tác.
Hầu như những đề xuất cải cách nông nghiệp
của Nguyễn Trường Tộ, như ông nói, đều từ quan sát phương Tây mà nhìn ra các vấn
đề. Những đề xuất của Nguyễn Trường Tộ, khác và giống những nội dung tương tự của
phương Tây và mang đặc điểm gì của tiếp nhận, điều đó cần một phân tích cụ thể
hơn trong những so sánh đồng đại của vấn đề được tiếp nhận.
[1] Nguyễn Trường
Tộ, con người và di thảo, Nxb T.p Hồ Chí Minh 2002, Tr 464, Di thảo số 52 : “Nay việc khẩn cấp nhất của ta là trước hết
phải giữ cho được cái gì chưa mất còn việc mưu thu hồi sáu tỉnh là việc sau. Muốn
giữ cái chưa mất thì phải gấp rút giao thiệp rộng, muốn mưu thu hồi sáu tỉnh thì
phải gấp rút thừa cơ, mà canh tân chính là căn bản để mưu thu hồi và gìn giữ. Nếu
không canh tân để tiến bộ thì dù có tạm thu hồi được, vá hôm nay ngày mai lại
rách, rốt cuộc cũng không thể không có chuyện xảy ra. Nếu nhất luật canh tân để
tiến bộ thì việc giữ không khó mà việc mưu thu hồi không chóng thì chầy cũng có
thể hy vọng được”
[2] Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo,
Nxb T.p Hồ Chí Minh 2002, Tr 465, Di thảo số 52
[4] Phúc Ông tự truyện, Fukuzawa Yukichi, Nxb Thế giới. H.2005 Tr.294
[5] Phúc ông tự truyện, Fukuzawa Yukichi,
Nxb Thế giới. H.2005, Tr.294
[6] Nước Đại Nam
đối diện với Pháp và Trung Hoa, Yoshiharu Tsuboi, Nxb Tri thức, H.2011, Tr 223
[7] Nước Đại Nam
đối diện với Pháp và Trung Hoa, Yoshiharu Tsuboi, Nxb Tri thức, H.2011, Tr 225
[8] Nước Đại Nam
đối diện với Pháp và Trung Hoa, Yoshiharu Tsuboi, Nxb Tri thức, H.2011, Tr 339
[9] Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo,
Nxb T.p Hồ Chí Minh 2002, Di thảo 3: “Về
việc học thì không môn nào không để ý tới, cái cao của thiên văn, cái sâu của địa
lý, cái phiền toái của nhân sự, cho đến luật lịch, binh quyền, tạp giáo, dị nghệ,
các môn cách trí, thuật số, không môn nào tôi không khảo cứu, nhất là, để ý nghiên
cứu về sự dọc ngang tan hợp trong thiên hạ”.
[10] Nước Đại Nam
đối diện với Pháp và Trung Hoa, Yoshiharu Tsuboi, Nxb Tri thức, H.2011, Tr 342
[11] Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa,
Yoshiharu Tsuboi, Nxb Tri thức, H.2011, Tr 342
[12] Cao Tự Thanh, Nguyễn Trường
tộ trong giới hạn và thất bại của trào lưu canh tân đất nước nửa sau thế kỷ XIX,
dẫn theo Nguyễn Tiến Lực: Fukuzawa Yukichi và Nguyễn Trường Tộ Tư tưởng cải
cách giáo dục, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, H.2013, Tr75-76
[13] Cao Tự
Thanh: “…mạnh đề: “ngôi vua là quý chức
quan là trọng” trong một bản điều trần của ông( Nguyễn Trường Tộ) thực ra đã xuất
phát từ cách đặt vấn đề về tổ chức quản lý nhà nước và xã hội theo tinh thần
pháp quyền tư sản, ở đó vua quan chỉ là những viên chức trong hệ thống hành
chính và đều phải làm tròn chức trách cũng như tuân thủ pháp luật, điều này
khác hẳn tư tưởng tôn quân và quan niệm về trật tự xã hội theo truyền thống Nho
giáo phương Đông” (Nguyễn Trường Tộ
trong giới hạn và thất bại của trào lưu canh tân đất nước nửa sau thế kỷ XIX)
dẫn theo Nguyễn Tiến Lực: Fukuzawa Yukichi và Nguyễn Trường Tộ Tư tưởng cải
cách giáo dục, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, H.2013, Tr75-76
[14] Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo,
Nxb T.p Hồ Chí Minh 2002, Tr 294, Di thảo
27, Tế cấp bát điều
[15] Nguyễn Trường
Tộ, con người và di thảo, Nxb T.p Hồ Chí Minh 2002, Tr 302, Di thảo 27, Tế cấp bát điều
[16] Nguyễn
Trường Tộ, con người và di thảo, Nxb T.p Hồ Chí Minh 2002, Tr293, Di thảo 27,Tế cấp bát điều
[17] . Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo, Nxb T.p Hồ
Chí Minh 2002, Tr293, Di thảo 27,Tế cấp
bát điều
[18] Nguyễn
Trường Tộ, con người và di thảo, Nxb T.p Hồ Chí Minh 2002, Tr224, Di thảo 18, Học thực dụng
[19]. Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo,
Nxb T.p Hồ Chí Minh 2002, tr293,Di thảo 27
[21] Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo,
Nxb T.p Hồ Chí Minh 2002, Tr 299, Di
thảo 27
[23]Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo, Nxb T.p Hồ
Chí Minh 2002, Tr226, Di thảo 18,Về việc
học thực dụng
[24] “Hãy tìm
trong các sách Nho từ trước đến nay xem có chỗ nào nói đến cơ xảo dù một vài
câu cũng nhặt hết ra, thu thập sửa lại cho đúng. Ngoài ra, lựa lấy trong các
sách Tây, chỗ nào nói về những cần thiết hàng ngày, thí dụ như các sách viết về
nguồn lợi khoáng sản cũng như tất cả các sách Tây viết về máy móc, (Tôi có mua
hai quyển lớn đã trình nạp rồi, trong đó nói đủ cả) rồi xin các giám mục địa
phương mỗi nơi cho hai linh mục rành tiếng Nam về kinh để cùng dịch thuật với
các nhà biên soạn” (Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo,
Nxb T.p Hồ Chí Minh 2002, Tr 292,Tế cấp bát điều, Di thảo 27)
-“ Nay xin gấp rút duyệt lại các sách
Thiên văn Địa lý từ trước đến nay, chọn lấy những gì hợp với thiên thời địa thế
nước ta, chắc chắn có thật lý thật sự, có thể thấy như vật trong bàn tay mà
không xem đến chuyện thuật số phong thủy, những chuyện phù phiếm quàng xiên, soạn
thành sách ban hành. (Tế cấp bát điều, Di thảo 27, NTT, Tr292-293. “Ngày nay nếu ta biết dần dần chỉnh đốn những
thói cũ, nghĩ cách làm lợi cho công, làm lợi cho tư để ta có được phương pháp
hay của mình lại có được cả những phương pháp hay trên thế giới mới sáng tạo ra
nữa, hai cái cùng thực hành song song với nhau không trái ngược nhau (Những
phương pháp hay này chưa kịp trình bày được). Như thế thì những cái thiên hạ mới
có, ta cũng đồng thời có.”( Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo,
Nxb T.p Hồ Chí Minh 2002, Tr162, Kế hoạch làm cho dân giàu, nước mạnh, Di thảo
5). “Những điều tôi trình bày ở đây
không phải là muốn bỏ hết cái cũ mà mưu cầu cái mới. Nhưng phải lấy cái hay của
mình có sẳn, còn phải gồm những cái hay của thiên hạ mới sáng tạo ra. Như thế
những cái mới của thiên hạ có mình cũng có và những cái mình sẳn có thì thiên hạ
không có. Lấy hai điều biết mà địch lại một điều biết như ở đoạn giữa của bài Lục
lời từ tôi đã trình bày. Như thế ai dám khinh rẻ nước mình?” (Nguyễn Trường
Tộ, con người và di thảo, Nxb T.p Hồ Chí Minh 2002, Tr224, Di thảo 18,Học
thực dụng,)
[25] Fukuzawa: Khuyến học, Nxb Trẻ. Tp HCM.2004, Tr
25
[26] Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo,
Nxb T.p Hồ Chí Minh 2002, Tr288, Di thảo
27, Tám việc cần làm ngay
[27]Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo, Nxb T.p Hồ
Chí Minh 2002, Tr223,Di thảo 18,Học thực
dụng
[28] “cần phải tìm học cái học thực
dụng, phân chia ra các khoa, các môn, ban thưởng nhiều cho những người dự thi
vào các khoa, môn này để khuyến khích dần dần đưa đến kết quả lợi ích thì các tệ
đoan dần dần sẽ mất đi” (Nguyễn Trường
Tộ, con người và di thảo, Nxb T.p Hồ Chí Minh 2002, Tr291,Di thảo 27)
[29] Nguyễn
Trường Tộ, con người và di thảo, Nxb T.p Hồ Chí Minh 2002, Tr 163,Di thảo 5
[30] Nguyễn
Trường Tộ, con người và di thảo, Nxb T.p Hồ Chí Minh 2002, Tr 200, Di thảo
12
[31] “Nay nước ta, của công chỉ
nhờ vào thuế, mà thuế đánh có hạn, chứ không có cách gì để làm cho của cải được
nhiều như phương Tây. Cái tôi gọi là làm cho có nhiều của ở đây không có nghĩa
là nói bòn rút của dân để làm cho nước giàu, mà là nhân nguồn lợi tự nhiên của
trời đất để sinh ra của. Do đó nước giàu mà dân cũng giàu”- (Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo,
Nxb T.p Hồ Chí Minh 2002, Tr162, Kế hoạc làm cho dân giàu nước mạnh)
[32] Nguyễn
Trường Tộ, con người và di thảo, Nxb T.p Hồ Chí Minh 2002, Tr162- 163,Di thảo
5, Kế hoạc làm cho dân giàu nước mạnh.
[33] “Lại xin để cho những nhà giàu ở gần cửa bể có thể mua tàu lớn vượt
bể để chở những đồ vật nước mình dư không dùng đến đem bán ở các nước, rồi lại chở về những thứ thiết dụng cho nước mình
và đánh thuế xuất nhập để tăng thêm những thứ cần dùng trong nước. Nếu người
nào mua về được nhiều thứ có lợi cho nước thì cân nhắc mà ban thưởng để khuyến
khích họ cố gắng thêm. Đấy là một điều lợi lớn. Vì rằng, những hàng hóa mình
có, trừ số cần dùng ra, còn thừa đem chở bán cho họ, họ lại bán cho nước khác,
như thế họ không cần phải đến nước mình làm gì. Nếu họ muốn đưa hàng hóa sản vật
của họ sang thì đã có tàu của nước mình đem về để mua bán trao đổi với người
cùng quê hương xứ sở, chẳng dễ làm hơn mua ở bên nước họ hay sao? Như thế tự
nhiên họ không cần phải tìm đến mình nữa. Sở dĩ họ tìm đến cầu thông thương với
mình là vì người mình không thể đi xa mà thôi. Có người nước ngoài nói rằng
kế ấy rất độc. Nếu làm được thì không ngoài vài năm người Tây tự nhiên bỏ đất
mà đi không cần phải đánh chác gì nữa”( Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo, Nxb T.p Hồ Chí Minh
2002, Tr165-166, Di
thảo 5, Kế hoạc làm cho dân giàu nước mạnh).
[34] Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo,
Nxb T.p Hồ Chí Minh 2002, Tr163, Di thảo 5, Kế hoạc làm cho dân giàu nước mạnh
[35] Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo,
Nxb T.p Hồ Chí Minh 2002, Tr165, Di thảo 5, Kế hoạc làm cho dân giàu nước mạnh
[36]Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo, Nxb T.p Hồ
Chí Minh 2002, Tr 291, Di thảo 27,Tế cấp
bát điều
[37] Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo,
Nxb T.p Hồ Chí Minh 2002,Tr 292, Di thảo
27,Tế cấp bát điều
[38] Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo,
Nxb T.p Hồ Chí Minh 2002, Tr 292, Di
thảo 27,Tế cấp bát điều
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét