NGUỒN
GỐC CỦA LỬA Ở CHÂU Á
James
George Frazer
Những người Menri nguyên thuỷ, một trong
những bộ tộc Semang lùn, cư trú trong những khu rừng rậm trên bán đảo Malacca
nói rằng họ nhận được ngọn lửa từ chim gõ kiến xanh. Truyện cổ tích như sau:
Khi những người Menri bắt đầu tiếp xúc với những người Malai, họ thấy ở chỗ những
người bạn mới một loài hoa (gantogn: tiếng
Malai gantang). Những người Malai tụ tập thành vòng tròn xung quanh bông hoa đó
và giơ thẳng cánh tay bên trên bông hoa đó để sưởi ấm. Sau đó, những người
Malai nhóm lửa và đốt cây lalang (một thứ cỏ). Thấy đám cháy, những người Menri
bỏ chạy vào rừng bởi vì họ vốn không có lửa. Một con hươu đực đến tận đống lửa
to và mang về nhà mình một thanh củi cháy.
Sợ người ta lấy trộm mất lửa, nó móc
thanh củi trên nóc lều khi nó đi lao động ở khu trồng trọt. Con chim gõ kiến
xanh nhìn thấy lửa bèn lấy trộm và mang đến cho những người Menri, giải thích
cho họ đấy là lửa, nhưng đồng thời cảnh
báo họ phải canh chừng bởi vì con hươu sẽ đuổi theo họ. Chim gõ kiến
khuyên những người Menri trong trường hợp con hươu đến truy tìm tài sản mất trộm
thì lúc đó dùng hai ngọn giáo bằng gỗ teras và đâm chết nó. Vì vậy, khi con
hươu đến tìm lửa của mình, hai người đàn ông cầm giáo và đâm trúng đầu con vật,
con hươu vội quay về rừng và từ đó mãi mãi nó chỉ có đôi sừng mà không có lửa nữa.
Con chim gõ kiến bắt những người Menri phải thề không được giết nó, bởi vì nó
đã cho họ lửa để sưởi ấm và nấu ăn. Từ lúc đó, người ta không được
giết chim gõ kiến nữa.
Trong những lược chuyện khác của huyền
thoại này những người Semang gán việc lấy trộm hoặc khám phá ra lửa cho con khỉ
rừng dừa (berok) chứ không phải con chim gõ kiến xanh. Theo một chuyện kể, con
khỉ rừng dừa lấy trộm một thanh củi cháy của Karei, Đấng Tối Cao vốn sống ở
trên trời và làm nổ ra tiếng sấm. Con khỉ dùng ngọn lửa này đốt cháy trảng cỏ.
Chẳng bao lâu, một đám cháy lớn hoành hành và các cư dân bỏ chạy: một số chạy
ra bờ sông, nhảy lên những cái mảng và trôi dạt xuôi dòng chảy, đó chính là những
ngườiMalai ngày nay. Một số khác chạy trốn vào rừng và lên núi, nhưng vì chậm
chân, họ bị lửa chộp được và làm cháy tóc của họ; đó chính là tổ tiên những bộ
tộc người lùn trên bán đảo Malacca, được biết dưới tên gọi Orangutan có mái tóc
quăn do bị lửa đốt cháy trong lúc họ chạy trốn.
*
*
*
Trong một dị bản khác của huyền thoại
Semang này, con khỉ rừng dừa giành được ngọn lửa một cách tử tế hơn là lấy trộm.
Người ta nói rằng vợ nó lúc bấy giờ đang trong cơn đau đẻ, con khỉ muốn đưa cho
vợ một quả dừa, nó bèn hái và đập vỡ đôi quả dừa, ngọn lửa bắn ra từ đó. Con khỉ
nhóm lên một đám cháy lớn, vì đám cháy đó những người Semang mới có mái tóc
xoăn.
*
*
*
Theo một chuyện cổ tích Semang khác, ngọn
lửa do một vị anh hùng Chepampes nào đó phát hiện trong lúc ông ta chặt cây
ratanlấy gỗ làm một cái cửa.Ở người Thái, vương quốc Thái Lan, có một truyền
thuyết là: một trận đại hồng thủy đã tiêu diệt toàn thể nhân loại trừ một thanh
niên và một thiếu nữ; họ trốn vào trong một quả bầu. Chuyện kể rằng hậu duệ của
họ là những cư dân hiện nay của thế giới. Nhưng vào thời buổi đó, sau khi nước
đã rút đi, bảy anh con trai của đôi vợ chồng đầu tiên không có lửa. Vì vậy họ
quyết định cử một trong bảy anh em đi lên trời để kiếm lửa. Thượng đế giao lửa
cho sứ giả của họ nhưng ra đến cổng thiên đàng, lửa bị tắt. Chàng sứ giả vì vậy
trở xuống đất và thông báo với các anh em về chuyến đi không có kết quả của
mình. Họ hội họp và quyết chí cử con rắn và con chim cú mang lời thỉnh cầu xin
lửa. Nhưng trên đường đi, con chim cú dừng lại ở ngôi làng đầu tiên để bắt chuột,
còn con rắn thì nấn ná trong các ruộng lầy để săn ếch nhái, cả hai chẳng con
nào bận tâm đến chuyến công vụ của mình.
Bảy anh em mở cuộc họp thứ hai và lần
này yêu cầu con ruồi trâu. Con ruồi trâu vui vẻ nhận nhiệm vụ đi xin lửa, nhưng
trước khi lên đường nó đặt điều kiện: “Để đổi lại nỗi vất vả của tôi - nó nói -
tôi sẽ giải những cơn khát trên đùi của những con trâu và trên bắp chân của những
vĩ nhân cũng như những người bình thường”. Mấy anh em đành chấp nhận lời yêu cầu
này. Khi ruồi trâu lên đến nơi, Thượng đế
hỏi nó: “Mắt của mày ở đâu? Tai của mày ở chỗ nào? Bởi người Thái tin rằng đôi
mắt của ruồi trâu không phải ở trên đầu nó mà ở đầu cánh và Thượng đế không biết
đặc điểm hình thể này”. Đôi mắt tôi - con côn trùng khôn khéo này đáp lại - ở
đúng chỗ như mắt của người khác và đôi tai tôi cũng như vậy”. - “Nếu thế, Thượng
đế nói tiếp, mày muốn bị nhốt vào đâu để không nhìn thấy được gì?”. Côn trùng
khôn khéo đáp: “Tôi có thể nhìn xuyên qua cạnh của một cái nồi, coi như đó là
khoảng không; nhưng xin hãy đặt tôi vào một cái rổ thưa thì tôi sẽ hoàn toàn
không nhìn thấy một tí gì”. Thượng đế yên trí, bèn đặt ruồi trâu vào một cái rổ
thưa và bắt tay vào nhóm lửa như thường lệ. Chui vào trong rổ, ruồi trâu theo
dõi các thao tác làm ra lửa nên mặc dù bó đuốc cháy được Thượng đế trao cho nó,
giữa đường bị tắt, ruồi trâu cũng không bận tâm lắm về chuyện đó, bởi lẽ nó
mang theo về bí mật của cách nhóm lửa của nhà trời.Khi nó về tới nơi, mấy anh
em chào nó và lo lắng hỏi:
“Lửa đâu? Lửa đâu?”. “Hãy chú ý đây - ruồi
trâu đáp - Các anh lấy cho tôi một mảnh gỗ nhỏ như bàn chân con hoẵng và mỏng bằng
râu con tôm: cắt một khấc sâu trên gỗ rồi ốp đám xơ gai xung quanh như một ổ của
lợn con- Lúc đó các anh kéo thật nhanh sợi dây từ phía trước ra phía sau cho đến
lúc khói bay lên mặt các anh”. Mấy anh em thao tác đúng như lời khuyên của ruồi
trâu và chẳng bao lâu ngọn lửa bốc lên từ một đám khói, và họ có thể nấu chín
thức ăn của họ. Con người vẫn còn tiếp tục nhóm lửa theo cách đó và ruồi trâu vẫn
giải cơn khát trên đùi của những con trâu và trên bắp chân của những người to lớn
cũng như những người bé nhỏ.Trong chuyện cổ tích này, mưu mẹo của ruồi trâu nhìn qua kẽ hở của
một cái rổ giống như mưu mẹo của người đàn ông trong chuyện cổ tích tương ứng của
những người Nia.
*
*
*
Những người Kachins ở Myanmar nói rằng
thời khởi thủy con người ta không có lửa, họ ăn sống thức ăn, thân hình gầy gò
và bị lạnh cóng. Những phía bên kia bờ sông Irraouaddy có một thần linh tên là
Wun-Lawa-Makam, thần linh này có một ngọn lửa đốt cháy mọi loài gỗ dù là tươi
hay khô. “Đó chính là thứ chúng ta cần”, mọi người bảo nhau như vậy. Vì vậy họ
cử Kumthan Kumthoi Makam đến gặp Wun Lawa Makam để mượn lửa. Vị sứ giả qua sông
trên một chiếc mảng, và chẳng bao lâu đến chỗ Wun Lawa Makam và nói: “Bố già
hùng mạnh ơi, chúng con bị lạnh cóng, chúng con ăn sống mọi thức ăn và chúng
con rất gầy, xin bố cho chúng con ít lửa”. Thần linh đáp: “Loài người các con
không thể nào có Thần Lửa được, Thần sẽ gây ra cho các con quá nhiều tai họa”.
Nhưng sứ giả than vãn: “Hãy thương lấy chúng con, bố già hùng mạnh ơi! Chúng
con đau khổ biết bao nhiêu”. Thần linh bèn bảo: “Ta không thể cho các con Thần
Lửa, nhưng ta sẽ bảo các con cách nhóm lửa như thế nào”. Vị sứ giả vui mừng
quay về gặp lại những người đã cử mình đi. Nghe được tin mới này, mọi người cho
đi tìm ngay một người đàn ông tên gọi Tu và một người phụ nữ tên gọi Thu, rồi cả
hai người cọ xát hai thanh tre vào với nhau. Chẳng bao lâu, lửa toé ra từ những
mảnh tre, và từ bấy giờ mọi người có thể sưởi ấm và nấu chín thức ăn.
Theo một chuyện cổ tích Trung Hoa, ‘‘một
nhà thông thái vĩ đại đi tản bộ sang bên kia đường ranh giới của mặt trăng và mặt
trời; ông nhìn thấy một cái cây, trên cây một con chim đang mổ vào cành cây và
làm các tia lửa bắn ra. Nhà thông thái rất lấy làm lạ, ông lấy một cành cây và
lấy lửa từ trong đó ra, vì vậy nhân vật vĩ đại này được mệnh danh là Suy-jin”.
Do vậy hình như trong tiếng Trung Hoa từ suy chỉ một dụng cụ để nhóm lửa và từ
myh-say có nghĩa là một dụng cụ làm cho tia lửa bắn ra bằng cách xoay tròn xát
mạnh hai mảnh gỗ vào nhau; và Suy-jin-she là tên của người đầu tiên làm ra lửa
cho mọi người sử dụng. Rõ ràng từ câu chuyện vừa kể rút ra kết luận là việc
khám phá ra lửa bằng cách cọ xát hai mảnh gỗ với nhau, những người Trung Quốc
thường gán cho một nhà thông thái quan sát một con chim mổ vào thân cây làm tia
lửa bắn ra.
*
*
*
Trong một bộ tộc Tartare ở vùng nam
Siberia có một chuyện cổ tích về nguồn gốc ngọn lửa. Ở đây người ta kể rằng khi
Kudai, Đấng sáng tạo chế tác ra con người, Ngài nhận thấy: “Con người sẽ trần truồng, vậy làm sao mà sống nổi trong giá lạnh, cần
phải khám phá ra lửa”. Vậy mà, một người đàn ông nào đó tên là Ulgon có ba cô
con gái. Ba cô này không biết cách nhóm lửa, cũng chẳng biết cách khám phá ra
việc đó như thế nào. Lúc đó Kudai tới. Bộ râu của Ngài thì dài, Ngài giẫm cả
lên râu và vấp ngã. Ba cô con gái của Ulgon chế nhạo Ngài và Ngài nổi giận.
Nhưng ba cô nấp rình ở cạnh đường đi đế nghe xem Ngài nói gì. Ngài nói: “Ba đứa
con gái nhà Ulgon chế nhạo ta và chúng cười cợt nhiều đến nỗi chúng không thể
khám phá tính sắc bén của đá và tính rắn chắc của sắt”. Khi biết được điều đó,
ba cô con gái của Ulgon bèn lấy hòn đá sắc cạnh và thanh sắt rắn chắc đập mạnh
vào nhau làm cho tia lửa bắn ra.
*
*
*
Những người Yakouts vùng Bắc Siberia nói
rằng: “Việc khám phá ra lửa xảy ra như thế này: Vào một ngày nóng nực mùa hạ, một
ông già sau khi lang thang trong núi ngồi xuống để nghỉ ngơi và vì không có việc
gì làm nên ông cụ cầm hai hòn đá đập vào nhau, những tia lửa do cuộc va chạm bắn
ra, bén vào cỏ và những cành cây nhỏ khô. Lửa lan rộng và từ khắp bốn phía, người
ta chạy tới để xem hiện tượng kỳ diệu mới phát sinh. Lửa càng lan rộng, càng bốc
cao thì càng làm tăng thêm những tiếng kêu thét khiếp sợ, nhưng may thay một trận
mưa rào rơi xuống dập tắt lửa”.
*
*
*
Những người Bouriate vùng Nam Siberia kể
lại một chuyện cổ tích có khác đi về nguồn gốc ngọn lửa. Họ nói rằng, thời
nguyên thuỷ, loài người không có lửa. Họ không tài nào nấu chín được thức ăn, họ
đói và rét. Một con chim én thương xót họ và lấy trộm lửa của Tengri, tức là
ông Giời, cho họ. Nhưng Tengri nổi giận, lấy chiếc cung nhằm bắn con chim én.
Mũi tên không trúng thân chim nhưng xuyên qua đuôi nó, và vì vậy ngày nay đuôi
chim én vẫn còn bị tách làm đôi. Chính chim én đã mang lửa xuống cho con người.
Con người từ đó rất vui sướng và không hề làm hại một con chim én nào. Ngược lại
người ta vui sướng khi thấy chim én về làm tổ trong các mái lều của họ.
*
*
*
Ở những người Sema thuộc bộ tộc Naga
vùng Assam có một truyền thuyết kể lại rằng ở đó ngọn lửa không được biết tới.
Họ cho là vào thời buổi ấy, mọi người có lông dài như những con khỉ để chống
rét. Nhưng J. H. Hutton, người đã cung cấp cho chúng ta một bản tường trình quí
báu và rất đầy đủ về bộ tộc này, chưa hề gặp một người Sema kể với ông xem lửa
đã được khám phá như thế nào. Tuy nhiên,
những láng giềng của họ, những người Chang, lại biết rất rõ về lửa. Họ nói rằng
việc khám phá ra lửa do hai người phụ nữ nhìn thấy một con hổ nhóm lửa bằng
cách rút một cái gai ở phía dưới bàn chân, bởi vì cho đến lúc đó, muốn có lửa,
mọi người phải trông chờ ở lòng tốt của con hổ. Những người Sema vẫn còn lấy lửa
theo cách học được của con hổ bằng cách rút thật mạnh từ phía trước ra phía
sau, một mảnh tre mềm kẹp trong chạc đôi của chiếc gậy cho đến khi cái bùi nhùi
đặt phía dưới cái chạc bắt đầu bén lửa, lúc đó người ta thổi mạnh cho bùi nhùi
bốc lửa. Tuy nhiên, theo một bộ tộc Naga khác thì đó không phải một con hổ mà
là một con khỉ và một phụ nữ trông thấy nó đang nhóm lửa.
*
*
*
Những người Ao, bộ tộc Naga trên phía Bắc,
sát biên giới những người Sema đã tiếp nhận dị bản của huyền thoại này. Họ nói
rằng một thời xa xưa, lửa và nước đối chọi với nhau. Lửa không kháng cự nổi với
nước nên chạy trốn vào các cây tre, hòn đá và ở đó cho đến ngày nay. Nhưng, một
hôm họ lại đánh nhau và lửa tung ra toàn bộ sức mạnh của mình, và ngọn Đại Hoả (Molomi) mà các cụ già
nói đến rất lâu, trước khi những nhà truyền giáo kéo đến xứ sở, đã thiêu rụi tất
cả kể từ hai bờ sông Brahmapoutre và đốt cháy mọi vật trên mặt đất. Tuy nhiên,
cuối cùng nước thắng thế vì một trận lụt đuổi theo ngọn Đại Hoả, và nhấn chìm
vĩnh viễn mặt đất. Có điều là khi lửa bỏ chạy vì bị nước đuổi theo, không một
ai ngoài con châu chấu nhìn thấy lửa trốn vào chỗ nào. Với đôi mắt to cố định,
con châu chấu nhìn thấy hết và ghi nhận nơi ngọn lửa trườn tới và náu mình
trong những hòn đá và những cây tre như thế nào. Vào thời đó, con người có lông
lá như con khỉ. Vì con châu chấu nói cho con khỉ biết nơi ẩn náu của lửa và con
khỉ làm cho tia lửa bắn ra từ một đoạn dây bằng tre có lửa.
Nhưng con người rình mò và lấy trộm lửa
của khỉ. Vì vậy ngày nay những con khỉ không có lửa, và chúng giữ được thân nhiệt
bao nhiêu tuỳ thuộc vào bộ lông của chúng. Con người, ngược lại đã mất bộ
lông bởi vì không cần đến nó nữa, họ đã
có lửa để thay thế. Do ngọn lửa ẩn nấp trong cây tre và những hòn đá, nên những
người Ao ngày nay vẫn còn nhóm lửa với một sợi dây có lửa bằng tre bện hoặc với
một hòn đá và mảnh sắt. Sợi dây có lửa là theo kiểu quen thuộc của người Naga.
Người ta nhét hòn đá vào giữa chạc chẻ làm đôi của chiếc gậy gỗ khô. Người ta rải
xuống đất cái bùi nhùi làm bằng những sợi bông vụn, dùng chân giữ thật chặt cái
gậy có chạc đôi. Người thao tác luồn một sợi dây tre bện xuống dưới chạc gỗ, mỗi
tay cầm một đầu sợi dây kéo đi kéo lại thật nhanh. Chưa đầy một phút, bùi nhùi
bén lửa.
Trong chuyện kể của người Ao vừa nói ở
trên, cuộc chiến tranh giữa nước và lửa có những bản sao chép lại trong những
huyền thoại, như chúng ta đã thấy, do những thổ dân của Ongtong Java và những đảo Gilbert kể lại, cũng như những người Toradya
đảo Célèbes, và chúng ta gặp một huyền thoại khác tương tự ở những người Sakalave và những người
Tsimihety ở Madagascar.
*
*
*
Những người Lori vùng Beloutchistan, là
những thợ rèn truyền đời có thái độ tôn kính ngọn lửa đặc biệt, coi như một quà
tặng mà ông trời trao cho David, quà tặng này người lấy từ bọc ra khi David hỏi
người làm thế nào để nung chảy được sắt. Họ nhóm lửa bằng đá lửa cộng với thanh
thép.
*
*
*
Ở Ceylan một chuyện cổ tích phổ biến về
con chim đớp ruồi màu xanh đen có đuôi như chim én (kawudu panikka) và kẻ thù sống
còn của nó, con chim quạ nói rằng con chim đớp ruồi giống như thần Prométhée,
mang lửa từ trên trời xuống mặt đất, vì hạnh phúc nhân loại. Con quạ ghen tức với
niềm vinh dự này bèn nhúng đôi cánh của mình xuống nước rồi cho nhỏ giọt xuống
đống lửa và dập tắt lửa. Kể từ đó, có mối thù sống còn giữa hai giống chim này.
Nguồn: Các huyền thoại về nguồn gốc của lửa (tên gốc: Myths of the Origin of Fire, 1930), James George Frazer – Ngô Bình
Lâm dịch, Phạm Minh Quân hiệu đính, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2019, tr.139-149.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét