Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt. Nguyễn Tài Cẩn, Nxb Đại học quốc gia, H.2001
Vài
lời của tác giả
1.
Đây là một tập chuyên luận viết về vấn đề nguồn gốc và vấn đề quá trình hình
thành cách đọc chữ Hán ở Việt Nam, cách đọc mà trước nay ta thường quen gọi là
cách đọc Hán Việt.
Cơ sở của tập chuyên luận này là một
số bài giảng chúng tôi đã đọc mấy năm gần đây cho sinh viên năm thứ 3, thuộc
ngành Hán Nôm, Khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.
2. Những bài giảng này thường được
bố trí liền sau giáo trình Lịch sử ngữ âm tiếng Việt - một giáo trình
trong đó nhiều phần đã được xây dựng chủ yếu trên cơ sở so sánh các cứ liệu
phương ngữ Việt Nam với nhau, cũng như so sánh cứ liệu tiếng Việt với tiếng Mường,
cứ liệu tiếng Việt - Mường với cứ liệu các tiếng Môn Khơ-me, các tiếng thuộc
nguồn gốc Nam á khác. Mặt khác, các bài giảng này lại thường được bố trí liền
trước giáo trình chuyên giảng về nguồn gốc, kết cấu và diễn biến của chữ Nôm.
Vì vậy, cứ liệu về phương ngữ, về các tiếng Nam á, cũng như cứ liệu về chữ Nôm,
trong tập bài giảng này chúng tôi thường không đề cập đến, hoặc nếu có đề cập
đến thì chúng tôi cũng tinh giản đến mức tối đa, để tránh tình trạng gây ra ấn
tượng trùng lặp nhiều lần.
3. Cái mới nhất trong những bài
giảng này là tri thức về ngữ âm lịch sử tiếng Hán, mà chủ yếu là tiếng Hán vào
giai đoạn Đường - Tống. Nhưng đây là một địa hạt vô cùng phức tạp, từ trước đến
nay đã có không biết bao nhiêu là tài liệu, sách, báo viết về vấn đề này. Vì
vậy, chúng tôi bắt buộc phải có một sự chọn lọc, theo ý kiến chủ quan của chúng
tôi. Trên nguyên tắc, chúng tôi chỉ cung cấp những tri thức nào mà chúng tôi
xét thấy cần thiết nhất, không có những tri thức đó thì không thể hiểu được về
cách đọc Hán Việt - nội dung chính của chuyên luận này. Chúng tôi cũng chỉ
trình bày những kiến giải, những luận cứ nào mà chúng tôi cho là hợp lý nhất,
theo nhận định riêng của bản thân chúng tôi. Để bù đắp cho sự hạn chế đó, chúng
tôi đã tìm cách bổ sung. Chúng tôi đã dành riêng một chương, trình bày về các
nguồn cứ liệu gốc mà xưa nay, bất kỳ nhà Hán ngữ học nào nghiên cứu về giai
đoạn này cũng phải sử dụng đến : trình bày về vận thư và về vận đồ. Chúng tôi
hy vọng rằng, nếu nắm vững được, sử dụng được những nguồn cứ liệu gốc này thì
người đọc hoàn toàn có thể tự mình kiểm tra lại được các kiến giải của các nhà
nghiên cứu đi trước, và tự mình cũng có thể xây dựng được cho bản thân một
hướng suy nghĩ riêng của mình.
4. Đi vào vấn
đề nguồn gốc, vấn đề quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, về thực chất là đi
vào địa hạt ngữ âm lịch sử. Mà đã đi vào địa hạt này thì thường thường tốt nhất
là nên dựa vào hệ thống thuật ngữ, hệ thống kí hiệu phiên âm quốc tế. Nhưng ở
đây chúng tôi vẫn có chủ trương hơi khác. Chúng tôi nghĩ rằng đối với người
Việt Nam, lại đi sâu vào ngành Hán Nôm, thì một cái vốn tri thức tối thiểu về
hệ thống âm vận học cổ truyền là một điều không thể nào thiếu được. Vì vậy
trong các bài giảng này, chúng tôi chủ trương kết hợp, vừa cung cấp những thuật
ngữ hiện đại, vừa cung cấp những tên gọi cổ truyền : một mặt vẫn ghi bằng những
ký hiệu như k, kc, g, ŋ, một mặt vẫn gọi bằng tên gọi các tự mẫu “kiến,
khê, quần, nghi” như trong thư tịch cổ. Thêm vào đó, khi đưa vào ấn
loát thì dùng tên tự mẫu, tên các vận bộ theo lối cổ truyền cũng có mặt lợi của
nó: bằng cách này, có thể hạn chế rất nhiều việc sử dụng những ký hiệu phiên âm
quốc tế mà các nhà in thường không có.
5. Tập này chuyên viết về cách đọc
Hán Việt, thì tất yếu không thể nào tránh khỏi được việc phải sử dụng nhiều các
ký hiệu văn tự Hán. Nhưng dùng quá nhiều chữ Hán thì cũng rất phiền cho việc ấn
loát. Vì vậy sau đây, chúng tôi bắt buộc phải tự hạn chế, chỉ dùng nhiều chữ
Hán ở ba chương VI, VII, VIII, khi nêu cách đọc Hán Việt của từng chữ, từng chữ
một. Ở các chương trước, chúng tôi luôn cố gắng dùng cách đọc Hán Việt để thay
thế. Đối với tên gọi các tự mẫu, các vận bộ, chúng tôi cũng ghi bằng chữ Quốc
ngữ, căn cứ vào cách đọc Hán Việt. Để tránh những sai lầm đáng tiếc, chúng tôi
sẽ làm một số bảng đối chiếu riêng, có ghi chữ Hán bên cạnh chữ Quốc ngữ, và ở
đầu sách sẽ làm bảng quy ước để bạn đọc tiện theo dõi.
6. Vấn đề nguồn
gốc, vấn đề quá trình hình thành cách đọc Hán Việt là một vấn đề đã được nhiều
người đi trước bàn đến. Viết tập chuyên luận này, chúng tôi đã dựa rất nhiều
vào thành tựu của các bậc đi trước đó. Tuy nhiên, ở rất nhiều vấn đề, chúng tôi
đều có cách kiến giải riêng của mình. Nói về điều kiện tiếp xúc giữa tiếng Hán,
tiếng Việt, chúng tôi không những chỉ nói đến sự tiếp xúc trong khoảng 8, 9 thế
kỷ sau công nguyên, mà chúng tôi còn bàn đến khả năng tiếp xúc sau khi nước nhà
đã giành được độc lập, tự chủ. Nói về xuất phát điểm của cách đọc Hán Việt,
chúng tôi cũng không tự bằng lòng chỉ dựa vào sự hiểu biết chung chung về tiếng
Hán trong toàn bộ thời kỳ gọi là trung cổ, mà chúng tôi cố gắng dựng lên một
giai đoạn nhỏ riêng, giai đoạn bao gồm hai thế kỷ VIII - IX. Nói đến hệ thống
ngữ âm thời Thiết vận, nói đến quá trình diễn biến của tiếng Hán sau
thời Thiết vận, chúng tôi cũng đều có những cách tái lập dựa trên lối
suy luận riêng của bản thân chúng tôi. Chúng tôi rất tự biết, vị tất những cách
kiến giải của chúng tôi đã có đầy đủ sức thuyết phục, có thể tranh thủ được sự
đồng tình của tất cả mọi người. Mặt khác, trong quá trình trình bày cũng không
thể nào không gặp phải những chỗ mà tự ngay bản thân chúng tôi, cũng thấy là
đang còn có vấn đề cần phải đầu tư tiếp tục suy nghĩ nhiều hơn nữa. Vì vậy, rất
mong các anh chị em sinh viên đã từng nghe giáo trình chuyên đề này, cũng như
rất mong đông đảo các bạn đọc theo dõi tập chuyên luận này, chỉ cho tác giả
những chỗ còn sai sót, và gợi cho tác giả những điều cần phải tiếp tục sửa
chữa.
7. Tập tài liệu này sở dĩ ra mắt
được bạn đọc trước hết là nhờ có sự giúp đỡ tận tình của đồng chí N.V. Xtankêvich
và của Cụ Nguyễn Tài Đức. Đồng chí N.V. Xtankêvich đã dành nhiều thì giờ giúp
đỡ chúng tôi trong việc lập hồ sơ, thu thập tư liệu về ngữ âm lịch sử, như lập
gần 7.000 phiếu đối chiếu cách đọc Hán Việt với Đường âm, khoảng 6.000 phiếu
những chữ Nôm có liên quan đến đề tài, sao lại nhiều phần trong các bộ từ điển
cổ v.v... Cụ Nguyễn Tài Đức đã trích Tứ thư, Ngũ kinh, lập cho chúng tôi
được một danh sách những chữ Hán thông dụng nhất, có kèm theo cách đọc Hán Việt
bên cạnh. Cụ thường xuyên làm cố vấn cho chúng tôi trong những vấn đề có liên
quan đến cách học, cách dạy, cách làm văn bài, thi cử thời trước.
Tập tài liệu này sở dĩ ra mắt được
bạn đọc lại còn nhờ có sự khuyến khích rất nhiệt tình của các bạn đồng nghiệp trong
hai tổ bộ môn Ngôn ngữ và Hán Nôm.
Cuối cùng, trước khi đưa in, tập này
cũng đã được ban biên tập Nhà xuất bản Khoa học xã hội, và được các đồng chí
Vương Lộc, Phan Huy Lê đọc kỹ và góp cho nhiều ý kiến rất bổ ích. Nhân đây
chúng tôi xin ngỏ lời chân thành cảm ơn của chúng tôi.
Tác giả
Nguyễn Tài Cẩn
(l979)
Quy ước trong việc trình bày
1. Trong tập này, chúng tôi sẽ dùng
song song cả hai hệ thống thuật ngữ : thuật ngữ ngữ âm học hiện đại, cũng như
thuật ngữ của ngành âm vận học cổ truyền. Về nội dung các thuật ngữ âm vận học
cổ truyền, xin xem:
- Vận, tiểu vận trang 100 -
Thanh mẫu, tự mẫu trang 111
- Vận bộ (vận
loại) trang 104 - Đẳng trang 112
- Phiên thiết trang 105 -
Khai khẩu, hợp khẩu trang 114
- Nhiếp trang
114
2. Tên gọi các
tự mẫu, các vận bộ chúng tôi đều ghi theo cách đọc Hán -Việt. Để tránh những sự
nhầm lẫn đáng tiếc, xin xem bảng đối chiếu với chữ Hán ở các trang sau đây:
- Về tên 61 vận
bộ và 206 vận mục trang 101, 102
- Về tên 36 tự
mẫu trang 115
3. Để bạn đọc
tiện theo dõi, nhiều trường hợp chúng tôi sẽ ghi các âm theo chữ Quốc ngữ chứ
không theo ký hiệu quốc tế. Những trường hợp đó sẽ dùng chữ cái, in hoa, ví dụ
âm B, âm CH, âm A, âm ƯA v.v... Riêng trường hợp âm A, những lúc cần
phân biệt với ký hiệu quốc tế A thì sẽ dùng thêm hai ngoặc kép, ví dụ : “A”.
4. Một số ký
hiệu thường dùng :
- Ký hiệu / có
nghĩa là “đối lập với” hoặc “tương ứng với”.
Ví dụ : p / b (p đối lập với b)
-m / -p (-m tương ứng với -p)
- Ký hiệu >
có nghĩa là “chuyển thành”.
Ví dụ : s > t (s chuyển thành t)
- Ký hiệu <
có nghĩa là “chuyển từ”.
Ví dụ : t < s (t chuyển từ s đến)
- Ký hiệu // có nghĩa là “tồn tại song song với tư cách là những biến thể”.
Ví dụ: Ie
// I (Ie, I là hai biến thể của một âm vị)
Chương thứ nhất
Mở Đầu
I. Định nghĩa “Cách
đọc Hán Việt”
1. Chữ Hán
(hoặc còn gọi là chữ Nho) vốn là một nền văn tự do người Hán sáng tạo ra cách
đây khoảng trên 3.000 năm, khi người Hán đang còn đóng khung địa bàn cư trú của
mình trong vùng đất thuộc lưu vực sông Hoàng Hà và sông Vị.
Lúc đầu nó chỉ
dùng để phục vụ riêng cho người Hán và các tầng lớp trên trong các khu vực đã
bị Hán hoá sớm: ghi chép những chuyện liên quan đến bói toán (giáp cốt văn tự),
ghi chép lời nói của những nhân vật nổi tiếng thời thượng cổ (Kinh Thư), ghi
chép thơ ca dân gian (Kinh Thi), ghi chép các huyền thoại mà người Hán
nghe được trong vùng (huyền thoại về Tam hoàng, Ngũ đế, Nữ Oa v.v...). Tiến lên
một bước nữa, nó dùng làm công cụ để bàn bạc về triết học, thảo luận về chính
trị (Luận ngữ, Mạnh tử, Trang tử, Tả truyện v.v...) cũng như để sáng tác văn học (Sở
từ). Nhờ có chữ Hán, người Hán không những đã ghi chép được thành văn những
điều mắt thấy tai nghe liên quan đến đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc
mình, mà đi đến đâu, với công cụ sắc bén đó trong tay, người Hán cũng còn thu
thập được cả những điều vốn có liên quan đến nền văn hoá của các dân tộc khác,
tạo điều kiện để nâng cao thêm nền văn hoá của mình.
Sau đó, song song với việc mở rộng
địa bàn cư trú của người Hán và địa bàn ảnh hưởng của nền văn hoá Hán, chữ Hán
cũng dần dần lan tràn ra toàn vùng. Nó vượt sông Dương Tử, đi vào đất Ngô, đất
Việt. Đến khoảng đầu Công nguyên, một mặt nó tiếp tục đi xa hơn về phía Nam, đi
vào tận khu vực đất nước ta, một mặt nó lan tràn lên phía Đông Bắc đi vào đất
nước vương quốc Cao Cú Lệ ở Triều Tiên.
Sau đó vài thế kỷ, xuất phát từ vùng bờ biển miền trung Trung Quốc nó lại tràn
sang đến hai vương quốc Bắc Tế, Tân La nằm ở phía Nam Cao Cú Lệ. Xa hơn nữa về
phía Đông, nó đã vượt biển lan tràn sang đến quần đảo Nhật Bản.
Trong điều kiện của nền văn minh
trung cổ thời bấy giờ, cũng như chữ La-tinh và tiếng La-tinh ở vùng Tây âu, dần
dần chữ Hán không còn là nền văn tự của riêng dân tộc Hán nữa: nó trở thành một
nền văn tự dùng chung cho toàn vùng. Trong địa bàn Đông và một phần Đông Nam á,
nó chuyển dần thành một nền văn tự chính thức của nhiều dân tộc khác, hay ít
nhất thì cũng trở thành nền văn tự chính thức trong tầng lớp thống trị, tầng
lớp trí thức của nhiều dân tộc khác.
Ở Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam,
trong nhiều thế kỷ chữ Hán đã được coi như là văn tự chính thống, được đem
giảng dạy ở nhà trường một cách quy mô nền nếp, được dùng vào thi cử, dùng vào
công tác hành chính, ngoại giao, và cũng được dùng cả vào địa hạt văn hoá, địa
hạt sáng tác văn học.
Nhưng với thời gian qua, cách đọc
chữ Hán ở Trung Quốc, cũng như ở những vùng ngoài Trung Quốc đều dần dần thay
đổi. Địa bàn mở rộng cũng tạo điều kiện củng cố thêm cho những sự cách xa nhau
vốn có trong cách đọc - vì mỗi vùng vay mượn vào một thời kỳ khác nhau, sau đó
lại diễn biến theo những chiều hướng khác nhau - làm cho những sự cách xa nhau
đó càng ngày càng thêm sâu sắc. Mặt khác, đứng về bản thân chữ Hán mà nói, thì
lối chữ này vốn cũng có những đặc điểm thúc đẩy thêm sự xa cách đó: đây là một
nền văn tự không ghi từng âm như chữ Nga, chữ Anh, chữ Pháp, hay như chữ Quốc
ngữ của chúng ta hiện nay. Qua tự dạng của chữ Hán chúng ta không thể phân tích
để rút ra cách đọc một cách dễ dàng như ở các lối chữ ghi theo từng âm. Do tất
cả những lẽ đó, dần dần trong vùng hình thành một tình thế như sau: hai người ở
hai khu vực cách xa nhau có thể dùng chung một thứ chữ, viết như nhau, xem và
biết được nội dung như nhau, nhưng đọc lên thì khác nhau, nói và nghe thì không
hiểu được nhau nữa. Chữ Hán trở thành một hệ thống văn tự có nhiều cách đọc.
Hiện nay, nếu không kể những cách
đọc khác nhau ở trong các địa phương Trung Quốc, thì ít nhất cũng phải tính đến
mấy cách đọc chữ Hán có tầm quan trọng đáng kể sau đây: cách đọc chính thức
theo âm Bạch thoại ở Trung Quốc, cách đọc ở Triều Tiên, hai cách đọc Go-on (Ngô
âm), Kan-on (Hán âm) ở Nhật Bản, và cuối cùng là cách đọc thường được gọi là
Hán Việt ở những vùng thuộc địa bàn văn hoá của người Việt.
2. Cách đọc Hán Việt thường được
giải thích là lối đọc chữ Hán riêng của Việt Nam, người Việt chuyên dùng khi
đọc các văn bản tiếng Hán. Kể ra với một nội dung hiểu như thế mà đặt ra thuật
ngữ “cách đọc Hán Việt” thì quả cũng có điều chưa thực ổn. Nhưng vì thuật ngữ
ấy đã quá quen thuộc nên ta vẫn tạm dùng. Điều cần nói ở đây là ngay bản thân
cách định nghĩa trên, tuy đúng nhưng cũng chưa thật thoả mãn chúng ta. Trong
định nghĩa chúng ta chỉ mới gắn liền khái niệm “cách đọc Hán Việt” với bản thân
người Việt và khu vực đất nước Việt. Thế ngộ nhỡ - về mặt lý luận - ở một địa
bàn nào đấy, với một cộng đồng người đọc nào đấy, mà có đến hai ba lối đọc khác
nhau thì sao? Như ở Nhật Bản chẳng hạn, người Nhật đứng trước chữ Hán vừa có
lối đọc Go-on, vừa có lối đọc Kan-on, đó là chưa kể lối đọc theo Đường âm, theo
quán âm, và lối đọc theo nghĩa. Nếu trong định nghĩa chỉ nêu “cách đọc chữ Hán
của người Nhật, ở Nhật Bản” thì làm sao phân biệt được Go-on với Kan-on? Ngay ở
Việt Nam ta cũng có tình hình phần nào tương tự như vậy. Ít nhất ở ta cũng có
một khối lượng đáng kể những chữ hoặc vừa có cách đọc Hán Việt, vừa có cách đọc
cổ Hán Việt, hoặc vừa có cách đọc Hán Việt, vừa có cách đọc Hán Việt Việt hoá
(cách này tương đương với cách đọc gọi là Quán âm ở Nhật Bản).
Ví dụ về chữ vừa có cách đọc Hán
Việt vừa có cách đọc cổ Hán-Việt :
務? |
vụ |
味? |
Vị |
帆 |
phàm |
房 |
phòng |
mùa |
Mùi |
Buồm |
buồng |
Ví dụ về chữ vừa có cách đọc Hán Việt vừa có cách đọc Hán -Việt
Việt hoá:
肝? |
can |
近ỹ |
Cận |
本? |
bổn |
板? |
bản |
gan |
Gần |
vốn |
Ván |
Cố nhiên, trước nay, theo thói
quen, chúng ta không gọi mùa, mùi, buồm, buồng, gan, gần, vốn, ván là
những cách đọc chữ Hán. Nhưng xét trên lí thuyết, và căn cứ kinh nghiệm
ở những nước khác, thì cũng không có gì ngăn cản chúng ta có thể coi đó
như là những cách đọc chữ Hán, có điều đó là những cách đọc khác với cách
đọc Hán Việt. Trong trường hợp đó mà nếu chỉ định nghĩa cách đọc thông
qua người đọc, địa bàn đọc thì làm sao phân biệt được cách đọc Hán
Việt với cách đọc cổ Hán Việt, hay với cách đọc Hán Việt Việt hoá, vì cả ba
cách đọc này cũng đều là những cách đọc chữ Hán của người Việt ở
Việt Nam cả.
Mặt khác, lối đọc Hán Việt ở thế kỷ
XX này (ta tạm ghi tắt là HV/20) lại xuất phát từ những lối đọc cổ hơn của các
thế kỷ trước (HV/17, HV/15, HV/13 v.v...), những lối đọc này - theo định
nghĩa trên - cũng đúng là những lối đọc Hán Việt cả. Truy xa hơn nữa, ta sẽ
tìm ra lối đọc HV/1O, HV/9. Nhưng lúc này ta sẽ lúng túng, vì lúc này cách
đọc riêng của người Việt lại chính cũng là cách đọc của người Hán, hay ít
nhất thì cũng gần gần như cách đọc của người Hán. Thành thử, trong tình hình
hiểu biết hiện nay, khi cần có định nghĩa thật đơn giản, thật dễ hiểu, thì ta
dùng định nghĩa như trên là đúng. Nhưng
nếu muốn có một tri thức thực sự khoa học, thì rõ ràng là cần phải có sự bổ sung
thêm. Chỉ dựa một mình vào đặc điểm người đọc, địa bàn đọc, trả lời rằng đó
là cách đọc chữ Hán của người Việt Nam, hoặc cách đọc chữ Hán ở Việt Nam,
thì chưa đủ. ít nhất trong miêu tả cũng phải đưa thêm vào hai nội dung nữa,
trả lời hai câu hỏi sau đây:
- Đây là một
lối đọc bắt nguồn từ đâu? Từ ngữ âm tiếng Hán, nhưng cụ thể là tiếng Hán của
thời kỳ nào?
- Đây là một
lối đọc hình thành trên cơ sở nào? Trên cơ sở giữ nguyên (hoặc giữ gần nguyên)
tiếng Hán trung cổ hay trên cơ sở biến dạng nó đi? Và nếu có biến dạng thì biến
dạng theo phương hướng nào? Dưới tác động của những áp lực gì? v.v...
Đây là những câu hỏi không đơn giản,
muốn trả lời đầy đủ thì phải có cứ liệu minh hoạ, có biện luận. Tạm thời ta chỉ có thể nói trước, một cách sơ bộ, trên
những nét lớn:
- Cách đọc
Hán Việt là một cách đọc vốn bắt nguồn từ hệ thống ngữ âm tiếng Hán đời
Đường, mà cụ thể là Đường âm dạy ở Giao Châu vào giai đoạn bao gồm khoảng hai
thế kỷ VIII, IX;
- Nhưng cách
đọc theo Đường âm đó, sau khi Việt Nam giành được độc lập, đã dần dần biến
dạng đi, dưới tác động của quy luật ngữ âm và ngữ âm lịch sử tiếng Việt, tách
xa hẳn cách đọc của người Hán để trở thành một cách đọc riêng biệt của
người Việt và những người thuộc khu vực văn hoá Việt. Đây là một cách đọc
tạo thành hệ thống, nghĩa là trên lý thuyết có thể dùng để đọc toàn bộ kho
tàng các ký hiệu văn tự Hán, với khả năng gần như cách đọc của bản thân người
Hán; nhưng đây lại là một cách đọc độc lập, có đặc trưng riêng, chức năng
riêng và có cả một lịch sử diễn biến của riêng mình.
3. Cách đọc
Hán Việt đang là một sản phẩm của sự tiếp xúc giữa tiếng Việt với tiếng Hán, và
nền văn tự Hán. Nhưng cũng là sản phẩm của sự tiếp xúc này, chúng ta lại đang còn
có cả một loạt nhiều hiện tượng khác như những đơn vị gọi là tiếng Hán Việt,
những đơn vị gọi là từ Hán Việt, và những đơn vị gọi là yếu tố gốc Hán v.v...
Vậy phân biệt như thế nào?
Theo ý chúng
tôi, nói đến cách đọc Hán Việt là nói đến cái vỏ ngữ âm mà người Việt Nam
gán cho hệ thống văn tự Hán, bất luận
những chữ được đọc đó là những chữ như thế nào: những chữ ghi những tiếng đã
được du nhập vào trong tiếng Việt như 雪 tuyết, 學 học,高
cao,雖 tuy, hay những chữ không liên quan gì
với tiếng Việt như 怎 chẩm?, 這 giá,么 ma..., Ngược lại, khi nói đến yếu tố
gốc Hán là nói đến những yếu tố đã được
du nhập vào trong tiếng Việt, bất luận đó là những yếu tố như thế nào, xét về
mặt quan hệ với văn tự: những yếu tố người Việt có thể liên hệ trực tiếp ngay
với một chữ Hán như quốc 國?, gia 家?, sơn 山?, thuỷ 水?, hay những yếu tố không gây ra sự
liên hệ như thế, ví dụ mùa (vốn do vụ 務? mà ra), gần (vốn do cận 近ỹ mà ra), hoặc mì chính (vốn
do vị tinh 味?精 mà ra) v.v...
Đối chiếu hai khái niệm cơ bản trên
đây với nhau - một khái niệm nặng về ngữ âm, một khái niệm nặng về từ vựng -
chúng ta sẽ có sơ đồ như sau:
Cách đọc Hán- - Việt
Yếu tố gốc
Hán
I
III II
Trong sơ đồ hình thành 3 khu vực:
a) Trong khu vực I ta sẽ gặp những
chữ tuy ta có thể đọc Hán Việt được, nhưng những chữ đó chỉ liên quan đến Hán
ngữ chứ không liên quan gì đến tiếng Việt (xem những trường hợp chẩm, giá,
ma ở trên).
b) Trong khu vực II là những yếu tố
người Việt mượn từ tiếng Hán, nhưng những yếu tố đó lại không trực tiếp liên
quan gì đến cách đọc Hán Việt. ở đây có thể có ba trường hợp:
- Trường hợp mượn trước cách đọc
Hán Việt như mùa, mùi, buồng, buồm...
- Trường hợp mượn đời Đường, cùng
một lần với cách đọc Hán Việt, nhưng sau diễn biến theo một con đường khác với
cách đọc Hán Việt. Ví dụ: gan, gần, vốn, ván...
- Trường hợp mượn thông qua một
phương ngữ tiếng Hán, ví dụ mì chính, cắc, lú bú...
c) Trong khu vực III là những yếu tố
cũng thuộc vào loại mượn từ tiếng Hán, nhưng đó là những yếu tố mượn thông
qua cách đọc Hán Việt nên được gọi là yếu tố Hán Việt. Ví dụ: tuyết, học,
quốc, gia v.v... Xét về mặt ngữ pháp, có thể chia các yếu tố Hán Việt này
thành trường hợp chỉ là tiếng, nhưng không phải là từ (ví dụ : quốc, gia)
và trường hợp vừa là tiếng, vừa là từ (ví dụ: tuyết, học).
Phân biệt rành mạch 3 khu vực trên đây
là một điều hết sức quan trọng. Chẳng hạn, làm một cuốn tự điển chữ Hán có ghi
chú cách đọc Hán Việt cho người Việt thì phải chú ý đến cả khu vực I, cả khu
vực III; làm một cuốn từ điển tiếng Hán Việt, từ Hán Việt, thì phải loại trừ khu
vực I; để xảy ra một số chỗ lẫn lộn như
trước nay thường thấy là một điều rất đáng tiếc.
II. Tầm quan trọng của cách đọc Hán Việt
1. Vấn đề tìm hiểu cách đọc Hán
Việt là một vấn đề có tầm quan trọng đáng được đánh giá đúng mức, đối với
thực tiễn cũng như đối với lí luận, đối
với chúng ta cũng như đối với ngành Đông phương học thế giới.
Xuất phát từ
thực tiễn trong nước mà nhìn, ai cũng thấy rằng trong quá trình phát triển,
nền văn hoá dân tộc của chúng ta đã có mối quan hệ mật thiết với nền văn ngôn và với chữ Hán. Người Việt
Nam trước đây, từ thế hệ này sang thế hệ khác, đã liên tục trong nhiều thế
kỷ, sử dụng chữ Hán và lối văn ngôn như một công cụ văn hoá của dân tộc, dùng
nó để ghi chép, viết lách, lưu lại đến ngày nay một kho tàng không nhỏ những
công trình về sử học, về luật học, về y học, về văn học... Đó là một gia tài
quý báu mà chúng ta phải đọc, phải tìm hiểu, phải dịch để giới thiệu lại cho
các thế hệ mai sau. Mà rõ ràng là những việc làm này - đối với người Việt -
không thể nào tiến hành tốt được nếu không thông qua cách đọc Hán Việt.
Trong kho tàng
văn hoá Trung Quốc, cũng có nhiều thành tựu đã trở thành tài sản chung của
nhân loại, thế giới cần phải thừa hưởng. Những tác phẩm triết học thời Tiên
Tần, những áng Hán văn, Đường thi được coi là thuộc địa hạt tài sản thế giới đó, không lẽ chúng ta lại đọc theo âm Bạch
thoại như ở Trung Quốc và Âu Mỹ, trong khi chúng ta đã có sẵn cho riêng mình
cách đọc Hán Việt! Cách đọc Hán Việt là một tài sản của riêng dân tộc ta,
không lý gì ta lại ruồng bỏ nó. Có dùng nó khi đọc Đạo đức kinh,
Kinh Thi, Sở từ... thì mới phù hợp
với thói quen dân tộc, tiện lợi cho dân tộc. Theo ý chúng tôi, dùng cách đọc
Hán Việt ở những trường hợp này là một điều hết sức phù hợp với khoa học. Đọc
theo lối Hán Việt thì dễ hiểu hơn, bởi lẽ ngay trong tiếng Việt đã có khá
nhiều tiếng Hán Việt quen thuộc, chỉ đọc lên, nghe được, là hiểu được; đọc
theo lối Hán Việt thì cũng thuận tai hơn, bởi lẽ hệ thống phụ âm, nguyên âm Hán
Việt đã lọt vào trong hệ thống ngữ âm Việt Nam, trở thành hết sức tự nhiên;
hơn nữa, đọc theo lối Hán Việt thì lại càng gần với thực tế lịch sử hơn, dễ
dàng bảo tồn được những mặt thanh, vận, niêm, luật cổ, mà âm Bạch thoại ngày
nay đã bỏ mất...
2. Nói đến tiếng Việt, lịch sử tiếng Việt, cũng không thể nào không đề
cập đến bộ phận có liên quan đến cách đọc Hán Việt. Trong kho từ vựng
Việt Nam - như trên đã nói - hiện có một khối lượng khá lớn những tiếng Hán
Việt và từ Hán Việt. Đây là một bộ phận không thật xưa lắm, không thật “thuần
tuý dân tộc” lắm. Nhưng đây là một bộ phận khá quan trọng, xét cả về mặt số
lượng, cả về mặt vai trò mà chúng giữ, ở trong toàn bộ ngôn ngữ nói chung, và
đặc biệt là ở trong cái gọi là ngôn ngữ văn hoá, nói riêng. Vì vậy một nhiệm
vụ phải đặt ra: phải tìm hiểu toàn diện về lớp đơn vị từ vựng này, mà trước
hết là phải tìm hiểu về cái vỏ ngữ âm Hán Việt của chúng.
Ngôn ngữ là một hệ thống. Yếu tố Hán Việt nằm trong lòng tiếng Việt với
tư cách là một bộ phận của hệ thống. Cho nên khảo sát về bộ phận này cũng không
phải chỉ là để hiểu riêng bộ phận này mà còn là để góp phần soi sáng chung cho
toàn bộ hệ thống. Có hiểu được sắc thái ý nghĩa, chức năng tu từ, đặc điểm ngữ
pháp của sơn, thuỷ, quốc, gia thì mới góp phần hiểu rõ hơn được sắc thái
ý nghĩa, chức năng tu từ, và đặc điểm ngữ pháp của núi, sông, nước, nhà.
Cũng vậy, có hiểu được lịch sử hình thành cách đọc Hán Việt, thì mới góp phần
hiểu rõ hơn toàn bộ lịch sử diễn biến ngữ âm của tiếng Việt.
3. Ngoài ra, như mọi người đều biết, trước đây ta lại còn có chữ
Nôm. Chữ Nôm là một lối chữ dân tộc xây dựng nên trên cơ sở dùng các yếu tố của
nền văn tự Hán, đọc với lối đọc Hán Việt. Thế nghĩa là có tìm hiểu được về sự
hình thành toàn bộ hệ thống ngữ âm Hán Việt, thì mới giải thích được về vấn đề
thời kỳ hình thành toàn bộ hệ thống chữ Nôm; có nắm chắc được về quá trình diễn
biến của từng phụ âm, từng nguyên âm, từng vần Hán Việt, thì mới đoán định được
thời điểm xuất hiện của từng mô hình chữ Nôm. Trong đa số các kiểu cấu tạo, chữ
Nôm đều phải dựa vào cách đọc Hán Việt, muốn đọc Nôm, phiên Nôm, cũng không thể nào không dựa vào cách đọc Hán Việt được.
4. Đứng ở địa hạt Đông phương học thế giới mà nhìn, cách đọc Hán
Việt cũng là một cứ liệu quan trọng, luôn luôn được giới nghiên cứu nhắc nhở
đến. Nghiên cứu hệ thống ngữ âm tiếng Hán trung cổ, thì rõ ràng là không thể
nào không viện dẫn đến cách đọc chữ Hán ở Việt Nam, vì cách đọc này vốn bắt
nguồn từ tiếng Hán trung cổ. Nhưng ngay khi nghiên cứu cách đọc Kan-on ở Nhật
Bản, hay cả những khi nghiên cứu những cách đọc có nguồn gốc xa hơn như
cách đọc Hán - Triều, cách đọc Go-on, thì so sánh với cách đọc Hán Việt lắm
khi cũng là một con đường có thể đưa lại những sự gợi ý hữu ích.
Một ví dụ về sự đóng góp của cách đọc Hán Việt: Trong khoảng đầu thế
kỷ VII, ở cuốn Thiết vận của Lục Pháp Ngôn có một loạt chữ được quy vào
cùng một nhóm với những chữ như hà, hài, hàm, hoạ, hai bên cùng thuộc
một thanh mẫu gọi là thanh mẫu hạp. Nhưng đến cuối Đường, đầu Tống,
trong bảng Tam thập lục tự mẫu ta lại thấy những chữ đó được xếp cùng
với những chữ như do, dư, dĩ và quy thành một thanh mẫu mới gọi là thanh
mẫu dụ. Như vậy trong khoảng vài trăm năm, những chữ ấy đã có một sự di
chuyển từ thanh mẫu này sang thanh mẫu khác. Một vấn đề được đặt ra: quá trình di chuyển ấy đã xảy ra theo những
bước như thế nào, và xảy ra do những nguyên nhân nào ? Nếu đem loạt chữ đó
đọc theo cách đọc Hán Việt, chúng ta sẽ thấy chúng đọc với phụ âm V (ví dụ :
vu, vân, viên), một phụ âm vừa không giống với hà, hài, hàm, hoạ,
vừa không giống với do, dư, dĩ. Thế nghĩa là chỉ với một mình cứ liệu
Hán Việt chúng ta đã có thể:
a) Một mặt, khẳng định thêm những điều mà cứ liệu tiếng Hán đã cung
cấp : những chữ này sở dĩ chuyển từ hạp sang dụ, là vì thuộc tam
đẳng, mà phần lớn là hợp khẩu, có -iw- ở đầu vần. Quả vậy, V ở tiếng Việt vốn
có bắt nguồn từ w, và những chữ ghi với D Quốc ngữ vốn thường bắt đầu bằng J,
tái lập cho vu, vân, viên tổ hợp âm lướt -iw- là điều hoàn toàn hợp lý.
Chính tổ hợp âm lướt này đã cho phép vu, vân, viên, có điều kiện để,
ở tiếng Việt, chuyển sang phụ âm V; còn ở tiếng Hán thì chuyển sang phụ âm J,
nhập vào thanh mẫu dụ.
b) Mặt khác, cách đọc Hán Việt vu, vân, viên lại làm sáng tỏ
thêm một điều: những chữ này, sau khi tách khỏi thanh mẫu hạp không phải
là đã nhập ngay vào thanh mẫu dụ, mà phải kinh qua một bước trung
gian, đứng độc lập riêng một đàng, với phụ âm không giống ở hạp cũng
không giống ở dụ. Bước trung gian này là bước xảy ra vào khoảng hai
thế kỷ VIII và IX.
III. PHƯƠNG HƯỚNG NGHIÊN CỨU CÁCH
ĐỌC HÁN -VIỆT
1. Vì tầm quan
trọng như trên, dưới đây chúng ta sẽ đi vào chuyên khảo sát cách đọc gọi là
Hán Việt đó. Nhưng trước lúc bước vào việc khảo sát, cũng cần phải nói rõ
vài điểm có thể coi như là thuộc địa hạt phương pháp, để thống nhất cùng nhau
về cách đặt vấn đề, cũng như về đường đi nước bước.
Cách đọc Hán Việt là một hiện
tượng thuộc địa hạt ngôn ngữ, nghĩa là một hiện tượng có tính chất xã hội.
Vì vậy, nói đến cách đọc Hán Việt, nhất thiết phải dựa vào thói quen của toàn
xã hội để định đoạt, tuyệt đối không thể lấy một nhân tố phi xã hội nào để
làm cơ sở. Đứng trước một hiện tượng như cách đọc ảo của chữ 幻 chẳng hạn, nếu chúng ta căn cứ vào
tự điển, căn cứ vào tài liệu ngữ âm lịch sử, thì chúng ta sẽ thấy ngay rõ ràng
đó là một cách đọc nhầm. Đọc huyễn, hoạn mới đúng, vì Khang
Hy tự điển phiên thiết là “hồ biện”, còn các tài liệu ngữ âm
lịch sử khác thì lại cho biết đó là một chữ thuộc thanh mẫu hạp, vận bộ
sơn, khứ thanh, hợp khẩu. Nhưng đối với chúng ta, không một cuốn
sách nào, không một nhà nghiên cứu nào là có thể bắt ta bác bỏ được cách đọc ảo.
Đối với chúng ta, trong vấn đề nghiên cứu ngôn ngữ, chỉ có nhân tố xã hội
mới có tiếng nói quyết định. Nếu ta đã chấp nhận cách đọc huyễn,
vì huyễn 幻 đã nhập một với 眩
(cũng đọc là huyễn), tạo ra từ huyễn hoặc được dùng rộng
rãi, thì ta lại không có lý gì không chấp nhận luôn cả cách đọc ảo khi
toàn dân đã quen nói ảo tượng, huyền ảo, hư ảo, ảo thuật, ảo mộng, ảo ảnh
v.v... Theo ý chúng tôi, đang ở
địa hạt Hán Việt, nếu chỉ căn cứ
vào sách vở mà chê cách đọc này là sai, mà đề nghị cách đọc kia phải đọc
lại v.v... thì đó là
một điều vừa không tưởng, vừa sai lầm. Nói một cách khác, phải chấp nhận bất
kỳ cách đọc nào đ được tiếng Việt chấp nhận, vì đó là hiện thực.
Do lẽ đó, chúng ta phải đi đọn một hệ quả là phải hết sức thận trọng,
phải cố gắng cân nhắc kỹ lưỡng trước khi chọn một chữ nào đấy để làm đối
tượng khảo sát. Khối lượng chữ Hán vô cùng lớn. Chữ Hán lại thuộc loại văn tự
không thể nào cho phép một người có thể đọc được tất cả mọi chữ. Có những chữ
nhiều người biết, nhiều người đọc thống nhất từ lâu đời. Bên cạnh lại có
những chữ ít khi gặp, ít ai biết đến, nếu có ai đó đọc lên thì cách đọc đó
vị tất đã có một cơ sở xã hội thật chắc chắn làm hậu thuẫn. Vì vậy
khi nghiên cứu, chúng ta sẽ cố gắng chỉ đi vào trường hợp những chữ có cách
đọc thực sự được bảo đảm.
Làm thế
nào để có thể biết rằng một chữ nào đấy có cách đọc thực sự được bảo đảm,
để chọn lựa dùng làm đối tượng nghiên cứu? Chúng tôi đã tự đề ra mấy tiêu
chuẩn dưới đây để hướng dẫn sự chọn lọc:
a) Trước hết phải chọn những chữ mà cách đọc đã đi vào trong kho từ
vựng tiếng Việt, làm thành những đơn vị có khả năng vận dụng độc lập của tiếng
Việt, ví dụ chọn tuyết, ngọc, cao, học, tuy, hoặc v.v... Đó là những chữ có
cách đọc đã Việt hoá cao độ, đã trở thành những từ đơn quen thuộc, ai ai
cũng biết.
b) Thứ hai, là chọn những chữ mà cách đọc đã trở thành những hình vị
cấu tạo từ khá thông dụng, được dùng để tạo ra hàng loạt từ cho tiếng Việt, ví
dụ:
- ái trong ái tình, ưu ái, ái quốc, bác ái, luyến ái, ái hữu,
ái ân, nhân ái v.v...
- gia trong gia đình, gia tộc, gia phả, gia sản, gia tư, gia
phong, quốc gia v.v...
- quốc
trong quốc kỳ, quốc ca, quốc tế, ái quốc, quốc huy, quốc hiệu, quốc vương,
vương quốc v.v...
- hải
trong hải đăng, hải phận, hải quan, hàng hải, hải lưu, duyên hải...
c) Cố
nhiên cũng có thể có trường hợp một tiếng nào đây không dùng để tạo ra nhiều
từ, nhưng ta vẫn biết đó là một tiếng được xã hội nhất trí chấp nhận, và ta
vẫn chọn được, ví dụ: gia 嘉?. Tiếng
này không có sức sản sinh cao. Nhưng tiếng này lại nằm trong những tên riêng
quen thuộc như Gia Định, Gia Long... Trong Kiều lại có câu:
“Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh”
ai ai cũng biết đến. Trường hợp chữ húc 旭? cũng vậy. Trong Hán Việt tự điển, cụ Đào Duy Anh
chỉ cho một từ húc nhật, mà ngay từ này cũng ít ai biết đến. Nhưng chúng tôi
vẫn chọn vì lẽ rằng đã có tên cầu Thê Húc ở hồ Hoàn Kiếm được báo chí nhắc đi
nhắc lại nhiều lần.
d) Nếu
chữ nào không rơi vào ba trường hợp trên thì chúng tôi lại chủ trương dùng
phương pháp đối chiếu các tự điển Hán Việt với nhau để làm cơ sở chọn lựa:
những chữ nào mà các tự điển đều thống nhất cách đọc thì chúng tôi tin cậy
hơn, đưa lên hàng ưu tiên; những chữ nào hễ có tự điển đọc khác thì chúng tôi
đánh giá thấp hơn và chỉ dùng khi thật cần thiết.
2. Việc
nghiên cứu cách đọc Hán Việt, nếu tiến hành được triệt để, thì có thể đưa đến
hai kết quả:
- Thứ
nhất là phát hiện ra được những quy luật cơ bản nhất, chi phối cách đ?c của
tuyệt đối đa số trường hợp.
- Thứ hai là góp phần giải thích được ngay cả những cách đọc cá biệt,
nằm ngoài quy luật (nằm ngoài quy luật, nhưng vì một lý do nào đó, vẫn được
toàn xã hội chấp nhận) như trường hợp chữ ảo đã từng có lần đề cập đến ở
trên.
Ở Việt Nam
cách đọc ngoại lệ không phải là ít. Xin đơn cử một trường hợp sau đây để
minh hoạ: trường hợp đọc các chữ thuộc thanh mẫu tâm. Trong bảng điều tra của
chúng tôi có 229 chữ thuộc thanh mẫu tâm với 239 cách đọc (vì có những chữ có
thể có đ?n 2, 3 cách đọc). Kết quả phân bố như sau:
Tổng số
Cách
đọc Hán Việt (theo Quốc ngữ) |
Khai
khẩu |
Hợp
khẩu |
|||||||
Đẳng 1 |
|||||||||
2 |
3 |
4 |
1 |
2 |
3 |
4 |
|||
T |
33 |
|
90 |
28 |
29 |
|
37 |
|
217 |
S |
4 |
|
1 |
|
2 |
|
|
|
7 |
TH |
1 |
|
1 |
2 |
1 |
|
|
|
5 |
D |
|
|
|
1 |
|
|
1 |
|
2 |
CH |
|
|
|
|
|
|
2 |
|
2 |
TR |
1 |
|
|
|
|
|
|
|
1 |
N |
1 |
|
|
|
|
|
|
|
1 |
KH |
|
|
|
1 |
|
|
|
|
1 |
X |
|
|
1 |
|
|
|
|
|
1 |
NH |
|
|
|
|
|
|
1 |
|
1 |
H |
|
|
|
|
|
|
1 |
|
1 |
Rõ ràng đối với một nhà ngữ văn học thì sự hiểu
biết về những cách đọc chỉ gặp một hai lần như H, NH, X, KH, N, TR, CH, D ở
trên là vô cùng quý báu. Và đối với nhà ngữ âm học lịch sử nhiều khi những
cách đọc ngoại lệ đó cũng rất có ý nghĩa. Nhưng ở đây, trong đợt sơ bộ khảo
sát này thì chúng ta chưa thể đi vào giải thích cách đọc của từng chữ một
được. Phải đợi đến một đợt sau, trong một công trình khác - ví dụ trong một
cuốn từ điển Từ nguyên chẳng hạn - thì ta mới có thể thoả mãn được yêu cầu đó.
Ở đây, chúng tôi chỉ mới có hy vọng đứng về mặt ngữ âm lịch sử tìm ra những
quy luật cơ bản nhất chi phối cách đọc chính của đa số trường hợp. Cách đọc
lệ ngoại cũng sẽ được ghi nhận, nhưng sẽ chưa được giải thích.
3. Cuối cùng,
cũng xin nói qua về các bước đi của chúng tôi trong việc trình bày về cách
đọc Hán Việt, sau chương mở đầu này.
Trước
hết chúng tôi sẽ trình bày hoàn cảnh lịch sử đã dẫn đến sự hình thành cách
đọc Hán Việt. Với chương này (chương II) chúng tôi sẽ đi đến kết luận: chính
vào giai đoạn thế kỷ VIII, IX, ta có một đợt tiếp xúc với tiếng Hán cực kỳ
quan trọng. Đây là thời kỳ đặt nền móng cho cách đọc Hán Việt. Kể ra, muốn
xác định điểm xuất phát của cách đọc Hán Việt, thì phải xác định, dựa đồng thời vào một tổng hợp
nhiều cơ sở, trong đó cơ sở ngữ âm lịch sử là quan trọng nhất. Nhưng cơ sở ngữ
âm, là vấn đề sẽ bàn ở các chương sau, nếu đưa lên trước, thì sẽ trùng lặp,
và cũng sẽ gây ra cả khó khăn cho người đọc. Do đó, ở chương này chúng tôi
chủ yếu chỉ đưa điều kiện lịch sử ra để trình bày.
Từ thế kỷ X
trở về sau, không phải chúng ta không còn có dịp tiếp xúc với tiếng Hán nữa.
Gần đây chúng tôi vừa phát hiện được một chứng tích cho thấy đầu thế kỷ XV vẫn
có thời kỳ ở Việt Nam dạy đọc kinh Đạo giáo theo cách đọc của người Hán đời
Minh. Chúng tôi sẽ dành toàn bộ một chương (chương III) để phân tích cứ liệu
này. Bởi vì phân tích kỹ cứ liệu này chúng ta sẽ có được hai điều thu hoạch hết
sức quan trọng :
- Một mặt,
chúng ta sẽ thấy rõ được ảnh hưởng của tiếng Hán trong những lần tiếp xúc hậu
kỳ, sau khi độc lập.
- Một mặt
khác, chúng ta lại sẽ càng thêm xác tín rằng, dầu sao thì đợt tiếp xúc trong giai đoạn bao gồm hai thế kỷ
VIII - IX cũng là đợt tiếp xúc cơ bản nhất, có vai trò quyết định nhất trong
việc đặt nền móng cho cách đọc Hán Việt.
Sau hai
chương, xác định được hoàn cảnh lịch sử như thế rồi, thì chúng ta sẽ bắt đầu
đi hẳn vào vấn đề nguồn gốc, vấn đề xuất phát điểm của cách đọc Hán Việt :
vấn đề tìm hiểu tiếng Hán đời Đường. Nhưng muốn khách quan thì phải trình bày
cứ liệu trước khi trình bày nhận định. Do đó ở đây chúng ta cũng sẽ có hai
chương:
- Chương IV:
giới thiệu các cứ liệu dùng để nghiên cứu xuất phát điểm của cách đọc Hán
Việt.
- Chương V:
giới thiệu về bản thân cái xuất phát điểm đó: hệ thống thanh mẫu, hệ thống vận
bộ của tiếng Hán vào khoảng hai thế kỷ VIII, IX.
Sau khi Việt
Nam giành được độc lập (905 - 938), cách đọc chữ Hán ở Việt Nam không phải
đứng yên một chỗ. Nó luôn luôn diễn biến, mà chủ yếu là diễn biến theo quỹ đạo
của quy luật ngữ âm và ngữ âm lịch sử tiếng Việt. Do đó, bước tiếp theo là
phải khảo sát các quá trình diễn biến liên tục từ đầu thế kỷ X đến nay, trên
đất Việt Nam, để xem thử những quá trình đó đã dần dần, từng bước, làm
biến dạng cách đọc của Đường âm như thế nào, để cuối cùng đi đến tình trạng
như hiện thấy. Vì địa hạt ngữ âm khá rộng, ít nhất cũng phải chia thành vài
khía cạnh nhỏ để trình bày, nên sau chương V, chúng ta sẽ có thêm ba chương
tiếp nữa :
- Chương VI:
trình bày về quá trình hình thành hệ thống phụ âm đầu Hán Việt hiện nay.
- Chương VII :
trình bày về quá trình hình thành hệ thống vần trong cách đọc Hán Việt.
- Chương VIII:
trình bày về quá trình hình thành hệ thống thanh điệu.
Cuối cùng là
chương tổng kết. Trong chương IX này chúng ta sẽ cố gắng vươn lên, nhìn với một
tầm nhìn bao quát hơn để rút ra một vài nhận xét chung nhất.
Chương thứ hai
HOÀN
CẢNH LỊCH SỬ ĐÃ ĐẶT NỀN MÓNG
CHO CÁCH ĐỌC HÁN - VIỆT
I. CÁC KHẢ NĂNG TIẾP XÚC VỚI TIẾNG HÁN
1. Như trên đã
nói, một trong những nhân tố quan trọng bậc nhất đã dẫn đến sự hình thành cách
đọc Hán - Việt ở Việt Nam là hoàn cảnh có sự tiếp xúc với tiếng Hán. Nhưng vấn
để tiếp xúc giữa hai ngôn ngữ là một vấn để hết sức phức tạp, chỉ vài mươi năm
gần đây ngành ngôn ngữ học mới bắt đầu phân tích một cách có cơ sở khoa học để
đặt những nền móng đầu tiên, xây dựng thành một địa hạt nghiên cứu riêng. Đi
vào thực tiễn vấn đề của chúng ta, chúng ta cũng thấy quả là như vậy. Sự tiếp
xúc với tiếng Hán không phải là một quá trình giản đơn, mà là một quá trình bao
gồm khá nhiều khả năng, khá nhiều tình huống, mỗi tình huống thường đưa lại một
hậu quả riêng. Hiện nay chúng ta chưa đủ điều kiện để hình dung vấn đề một cách
thực sự cụ thể và đầy đủ. Nhưng nhìn sơ bộ thì ít nhất cũng đã thấy có những
tình hình khá phức tạp như sau.
Trước hết
chúng ta không nên quan niệm rằng giữa tiếng Hán và tiếng các vùng xung quanh
chỉ có quan hệ một chiều. Không phải bao giờ làn sóng ảnh hưởng cũng xuất phát
từ tiếng Hán rồi lan tràn ra bốn bên. Trong sự tiếp xúc giữa hai ngôn ngữ bao
giờ ảnh hưởng cũng xảy ra trong cả hai chiều, có chiều đi, có chiều lại, hai
bên tương hỗ tác động đến nhau. Cố nhiên, trong thực tế có thể có chiều mạnh,
có chiều yếu, nhưng trên lý thuyết bao giờ cũng phải tính đến mối quan hệ qua lại
theo hai chiều cả. Nếu trong thực tế, tiếng Hán quả đã có ảnh hưởng rõ rệt đến
ta thật, thì ta cũng không nên quên rằng từ phía các ngôn ngữ Nam Á chúng ta,
không nhiều thì ít, thế nào chúng ta cũng đã có tác động ngược trở lại. Chỉ
nhìn kỹ vào kho từ vựng tiếng Hán thì đủ rõ điều đó. Hoặc chỉ hình dung lại
hoàn cảnh ban đầu về mặt địa lý thì cũng đủ rõ. Khi tiếng Hán đang còn đóng
khung ở vùng phía Bắc (lưu vực Hoàng hà, Vị hà) thì rõ ràng tiến Hán chưa thể
có nhiều những từ nêu tên gọi những sản vật mà chỉ ở phương Nam mới có. Những
danh từ chỉ thực vật như cảm lãm (=
trám), phù lưu (= trầu), ba la mật (= mít) v.v. chắc chắn là
những danh từ vay mượn từ các ngôn ngữ vùng nhiệt đới. Để chỉ "sông",
phía Bắc, người Hán đều gọi là hà. Nhưng
từ Dương tử trở về Nam lại gọi là giang.
Theo các nhà địa danh học, giang là
một từ vay mượn. Thanh phù công (工) trong chữ giang (江) rất dễ dàng gợi cho chúng ta nghĩ đến Kluŋ, K°ioŋ,
K°oŋ, Karuŋ, Krauŋ, Krəŋ trong
các tiếng Tạng, Miến, Mường, Ka tu, Mơ nông, Chàm, cũng như nghĩ đến sông trong tiếng Việt. Có lẽ lúc đầu thì
người Hán chỉ phiên âm để dùng tạm thời, kiểu như giống tre Giao Chỉ trong Kinh Thư
phiên là khuẩn lộ, con trĩ của nước Việt Thường trong Xuân Thu phiên là khuyết địa, trong Lễ ký
phiên là điều đề, cây vả trong Nam Việt chí phiên là vả
(Viết á phiên), con sứa trong Nam Việt chí phiên là sá v.v.. Nhưng đến khi cần có những tên
gọi thường xuyên thì một số trong những cách phiên âm đó bắt đầu đi vào kho từ vựng
của tiếng Hán. Dưới đây, chúng ta sẽ chỉ chú ý đến một chiều ảnh hưởng: ảnh
hưởng từ tiếng Hán sang tiếng ta. Nhưng nếu trong thực tiễn, công tác bắt buộc
ta phải làm như vậy để phục vụ sát đúng yêu cầu nghiên cứu của chúng ta, thì
trên lý thuyết và trong quan niệm, tuyệt đối đừng bao giờ nghĩ rằng trong quan
hệ tiếp xúc giữa tiếng Hán và tiếng Nam Á (mà một chi nhánh sau này sẽ đưa đến tiếng
luôn luôn chỉ có quan hệ đơn giản một chiều...
2. Đi vào từng
sự kiện ngôn ngữ văn tự cụ thể (đi vào từng tiếng, từng chữ chẳng hạn), chúng
ta cũng vẫn thấy có rất nhiều khả năng ảnh hưởng khá khác nhau. Có khi chiều hướng
ảnh hưởng chỉ đi theo một đường thẳng đơn giản, từ bên này sang bên kia; nhưng
cũng lắm khi mũi tên có thể đi đường vòng, từ A sang B, rồi lại từ B quay trở
lại A. Một ví dụ về trường hợp đi đường vòng: ở tiếng Nam Á vốn có danh từ chỉ
thứ vũ khí ta kêu là ná (so sánh với na ở Mường, Chứt, Cuối, sa-na ở Kơ ho, s-na ở Khơ-me). Có khá nhiều cơ sở để có thể khẳng định chính từ
tên gọi này mà sản sinh ra tiếng Hán chỉ bằng chữ 弩. Nhưng sau đó chữ 弩 lại quay trở lại Việt Nam, đưa đến cách đọc cổ Hán -
Việt nõ, và cách đọc Hán - Việt nỗ hiện nay.
Xét về mặt thời
gian, con đường vay mượn thường thì chỉ đi một lần. Nhưng cũng có khi phải đi
đến vài ba lượt. Ví dụ về trường hợp mượn hai ba lần: 符 lúc đầu đưa đến cho ta cách nói bùa, lần sau lại đưa đến cho ta cách đọc Hán - Việt phù; 味 lần đầu đưa đến cho ta danh từ mùi, lần thứ hai đưa đến cho tà danh từ vị, và lần thứ ba lại đưa đến cho ta tiếng mì (ở trong mì chính).
Nếu có đến hai
ba lần mượn, có khi cả mấy lần đều đi theo một lối, nhưng cũng có khi mỗi lần
đi theo một lối khác nhau. Trường hợp phù,
bùa trên đây có thể dùng làm dẫn
chứng cho khả năng đầu, vì cả bùa, cả
phù đều truyền sang ta thông qua cách
đọc chữ 符. Nhưng những
trường hợp như giác, cắc thì lại khác: giác đến với ta thông qua cách đọc Hán - Việt chữ 角; cắc lại đến
với ta thông qua sự tiếp xúc trực tiếp với khâu ngữ của Hoa kiều.
Ngay trong kho
tàng những tiếng Hán mượn thông qua cách đọc các ký hiệu văn tự ở thư tịch,
cũng đang còn có thể đem chia thành nhiều trường hợp. Có trường hợp cách đọc
được truyền đến chúng ta một cách chính xác, chắc chắn, thông qua việc học tập
với thầy, hoặc thông qua - trong khoảng gần một thế kỷ nay - việc tra cứu các
bộ tự điển và sách vở phiên âm bằng chữ Quốc ngữ. Có trường hợp cách đọc lại
đến với chúng ta không thật chính xác lắm, không thật bảo đảm lắm, thông qua
việc tra cứu các lối chú âm cổ truyền như lối phiên thiết, lối "độc nhược”
v.v.. Lại có trường hợp cách đọc chỉ đến với chúng ta thông qua một sự suy
đoán, phỏng chừng, căn cứ theo mặt chữ hay căn cứ theo cách gieo vần trong đoạn
văn, không có gì bảo đảm thật chắc chắn. Chữ Hán là một lối chữ có đặc điểm
không một ai có thể biết hết được tất cả mọi ký hiệu của nó. Xưa nay bao giờ
cũng vậy: người giỏi lắm thì cũng chỉ có thể biết được trong vòng từ 5, 7 ngàn
đến khoảng một vạn chữ. Ngoài số lượng đó ra là phải tra, phải đoán. Tra theo
lối xưa thì cố nhiên sẽ gặp nhiều khó khăn, và sẽ không dễ gì đạt đến sự chính xác
cần thiết. Các vận thư và các tự điển xưa thường sử dụng nhiều lối chú âm: lối
"trực âm", lối "độc như, độc nhược” lối phiên thiết... Lối
"trực âm" sẽ cung cấp cho chúng ta một chữ đồng âm, lối “độc như, độc
nhược” sẽ cho chúng ta một chữ phát âm gần gũi còn lối phiên thiết thì lại cho
chúng ta hai chữ để từ đó dùng lối đọc lái mà suy ra. Mỗi thời đại qua đi người
ta thường chú âm theo một cách khác, vì ngữ ngôn đã diễn biến. Trong những bộ
tự điển như bộ Khang Hy thường thấy
hàng loạt cách chú âm khác nhau là vì lẽ đó. Căn cứ vào chú âm ở Thiết vận, thì
ta sẽ gián tiếp tiếp xúc với cách đọc thời Nam Bắc Triều và đầu đời Đường; căn
cứ vào chú âm ở Tập vận thì ra sẽ
gián tiếp tiếp xúc với cách đọc cuối Đường đầu Tống; căn cứ vào chú âm ở Cổ kim vận hội thì ta lại sẽ gián tiếp
tiếp xúc với cách đọc vào khoảng thế kỷ XIII. Hơn nữa, dùng lối chú âm cổ
truyền này mà dùng thông qua cách đọc Hán- Việt, thì nhiều khi thật rắc rối. Ai
cũng biết chữ nhất là
"một", người Việt Nam hiện nay đọc là nhất. Thế nhưng, nếu mở trang đầu bộ Khang Hy tự điển, thì ta lại thấy có thể đọc là ất, vì Đường vận, Vận hội chú là ư tất thiết. Tập vận, Chính vận chú là ích rất thiết. Đọc ước chừng, phỏng đoán theo mặt chữ, lại càng
nguy hiểm hơn. Sau đây là một ví dụ về cách đọc theo lối đoán mặt chữ: cách đọc
"ngật" của chữ 迄. Đây là một
chữ thuộc thanh mẫu hiểu, tam đẳng,
khai khẩu. Theo quy luật ngữ âm lịch sử, thông thường thì thanh mẫu hiểu không chuyển thành phụ âm NG. Tra
tự điển cũng thấy vậy: trong Khang Hy
ta thấy chú 迄 = hứa hất thiết. Rõ ràng chỉ vì thấy có
chữ 屹, đọc là
"ngật” mà mặt chữ lại hơi giống, nên người ta mới suy đoán, mà đọc thành
như vậy. Đối với cách đọc "ngật" của chữ 吃 cũng có tình hình tương tự.
3. Tất cả
những điều nói trên đây là một thực tế không thể chối cãi. Đó là một thực tế
chúng ta không thể không lưu ý khi đi vào vấn để quan hệ giữa tiếng Hán với tiếng
Việt nói chung, hay là khi đi vào những vấn đề cụ thể hơn như vấn để nghiên cứu
các lớp từ gốc Hán, vấn để xác định lai lịch cách đọc Hán Việt của từng chữ một
v.v.
Tuy nhiên,
nhìn trên đại thể, trong địa hạt nghiên cứu của chúng ta ở đây, chúng ta có thể
nói rằng:
- Trong mối
quan hệ giữa hai ngôn ngữ, rõ ràng chiều hướng ảnh hưởng từ tiếng Hán sang
tiếng Việt là một chiều hướng đã lưu lại vết tích rõ rệt;
- Trong các
khả năng quanh co của quá trình phát triển, thì trường hợp đi theo con đường
thẳng từ tiếng Hán sang tiếng Việt là trường hợp chủ đạo, chiếm tỷ lệ cao hơn
cả;
- Trong cái
kho tàng các yếu tố mượn từ gốc Hán, thì bộ phận gồm các yếu tố mượn thông qua
cách đọc Hán - Việt là bộ phận lớn hơn cả, có hệ thống hơn cả;
- Còn trong
danh sách phi cách đọc Hán - Việt của 5, 7 ngàn chữ thông dụng nhất, thì nhìn
chung, trong tuyệt đại đa số trường hợp, đó cũng là những cách dọc hình thành
một cách có quy luật, tạo ra những sự tương ứng hết sức đều đặn.
Rõ ràng là
những điều này không thể ngẫu nhiên mà có. Đây phải là sản phẩm của một quá
trình tiếp xúc quy mô, sâu rộng, tạo ra do một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, và
đã xảy ra trong mội thời kỳ xa xưa nào đó của quá khứ.
Hoàn cảnh lịch
sử đặc biệt đó, hiện nay hầu hết mọi nhà nghiên cứu đều đã nhất trí: đó là hoàn
cảnh của thời kỳ nước nhà chưa giành được độc lập, phải sống dưới ách thống trị
của các triều đại phong kiến người Hán. Thời kỳ lịch sử đó, hiện nay hầu hết mọi
nhà nghiên cứu cũng đều đã nhất trí: đó là thời kỳ bao gồm
gần mười thế
kỷ đầu tiên sau Công nguyên, mà trong đó, có tác dụng quyết định nhất, là thời
kỳ nhỏ bao gồm hai thế kỷ VIII, IX.
Vì vậy dưới
đây, trước hết chúng ta phải đi sâu vào tìm hiểu tình hình tiếp xúc trong thời
kỳ lịch sử đó.
II. SỰ TIẾP XÚC VỚI TIẾNG HÁN TRONG
KHOẢNG
TỪ ĐẦU CÔNG NGUYÊN ĐẾN CUỐI THẾ KỶ IX.
Những mối quan
hệ lẻ tẻ giữa cư dân vùng miền Bắc nước ta với cư dân vùng người Hán có thể đã
bắt đầu, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp, từ ngay trong thời kỳ thượng cổ khi
chưa có sự phân hóa thành những ngôn ngữ riêng biệt như Việt, Mường, Chứt. Cuối
ngày nay, mà còn đang còn là một ngôn ngữ chung, tiền thân của những ngôn ngữ
này. Trên đây ta đã nhắc qua câu chuyện ở trong Kinh Thư có dùng hai chữ khuẩn
lộ để phiên âm dạng cổ từ tre của
chúng ta. Ở bài nghiên cứu “Dân tộc và văn hóa Trung Ấn” của N.Matsumoto đang
còn dẫn nhiều ví dụ như thế nữa.
Nhưng muốn nói
đến một sự tiếp xúc quy mô, lưu lại ảnh hưởng sâu đậm, thì phải bắt đầu tính từ
khi Triệu Đà đem quân xâm lược Âu Lạc (-179) và nhất là từ lúc nhà Hán đặt nền
đô hộ ở Giao Chỉ, Cửu Chân (-111). Đây là một giai đoạn tiếp xúc kéo dài trong
nhiều thế kỷ. Chỉ đến năm 905, khi họ Khúc dấy nghiệp, và nhất là đến năm 938,
khi Ngô Quyền đại thắng quân Nam Hán, đưa
lại nền độc
lập cho nước nhà, thì đợt tiếp xúc này mới thực sự chấm dứt hẳn.
Đây là một đợt
tiếp xúc lâu dài, liên tục, sâu rộng, nhưng đứng về mặt ảnh hưởng thì lại có
thể chia thành hai giai đoạn: giai đoạn từ đầu Công nguyên đến đầu đời Đường,
và giai đoạn bao gồm hai thế kỷ VIII và IX (cuối Đường, Ngũ đại).
A. Ba nhân tố đưa đến một đợt tiếp xúc
lâu dài, liên tục, sâu rộng.
1. Căn cứ vào
tài liệu lịch sử, khảo cổ... ta thấy có ba nhân tố đã đưa đến sự tiếp xúc lâu
dài, liên tục và sâu rộng này. Ba nhân tố này liên quan xoắn xuýt với nhau.
Trước hết là
nhân tố về mặt chính trị. Theo giới sử học cho biết, thì thời kỳ từ - 179/ -
111 đến + 905/ + 938 có thể coi là thời kỳ thống trị của phong kiến phương Bắc.
Với sự thất bại của nhà nước Âu Lạc trước cuộc tấn công của Triệu Đà, một giai
đoạn lịch sử mới, đầy đau xót bắt đầu: giai đoạn thiết lập chính quyền phong
kiến ngoại xâm. Tiếp đó, sau cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, mở đầu bằng
chính sách thống trị của Mã Viện, là sự thắt chặt của chế độ quận huyện, và của
chính sách khai thác thuộc địa của Đông- Hán, Tam Quốc, Lục Triều. Cuối cùng,
sau khi nhà nước Vạn Xuân do Lý Bí thành lập bị thất bại, là giai đoạn thống
trị của Tuỳ Đường, mà gay gắt nhất là giai đoạn thống trị của Cao Biển. Qua ba
chặng đường trên đây, ta thấy nổi lên một điều: dầu ở Trung Quốc, trong suốt thời
kỳ lịch sử dài dằng dặc này, có bao lần thay thầy đổi chủ, hết trị rồi loạn, hết
hưng rồi vong, tạo ra những sự thay đổi trong mối quan hệ với chính quyền địa
phương, làm cho mối quan hệ này khi thì chặt, khi thì lỏng, khi thì có tính chất
tập trung, khi thì có tính chất cát cứ, nhưng ở Việt Nam thì bộ máy chính quyền
của người Hán - nhìn trên những nét lớn - vẫn luôn luôn đi theo một hướng đi
duy nhất: đó là một bộ máy thống trị ngoại lai, càng ngày càng cố đi sâu xuống tận
cơ sở để bóp nghẹt tinh thần quật khởi của người Việt.
Bộ máy thống
trị này, trong giai đoạn trước Công nguyên, thì chỉ mới hình thành và chưa có tác
dụng chiều sâu. Thời Triệu Đà, trên chỉ mới có hai quan sứ trông coi hai quần
Giao Chỉ và Cửu Chân (Quảng châu ký
dẫn ở Sử ký q. 113, 2b), ‘1’,
ngoài ra còn một chức quan võ và một số quân đồn trú. Sau khi nhà Triệu đầu
hàng Lộ Bác Đức, nước Nam Việt bị Tây Hán thôn tính, thì cai trị toàn châu Giao
Chỉ chỉ có một Thứ sử, dưới Thứ sử, ở mỗi quận, có một Thái thú và một vài Đô
uý: Đô uý nắm lực lượng quân sự ở cạnh Thái thú, Nông Đô uý trông coi việc đồn
điển thực cốc, thuộc Quốc Đô uý chiêu dụ "bọn Man Di đầu hàng” (Hậu Hán thư 1. 3, 4a). Về thực chất bộ
máy chính quyền người Hán lúc này chỉ mới nắm được một số trung tâm dùng làm nơi
trị sở như Mê Linh, Tây Vu, Luy Lâu, Tư Phố v.v... Chứng cớ là "những di
tích khảo cổ có liên quan đến thời Triệu và thời Tây Hán trên đất nước ta tìm
thấy rất ít và không ngoài mấy trung tâm cai trị đó". Còn từ huyện trở
xuống thì thực quyền vẫn nằm trong tay người Việt. Lúc đầu Triệu Đà để cho các
"Lạc tướng trị dân như cũ”, (Tiền
Hán thư, công thần biểu). Sau dần
các bộ đã đổi thành huyện, có chức huyện lệnh với “ấn đồng, dây tua xanh”,
nhưng người mang danh hiệu huyện lệnh đó vẫn chính là các lạc tướng cũ. (Giao Châu ngoại vực ký, Quảng châu ký)
Bắt đầu từ
Đông Hán, người Hán mới nắm bộ máy chính quyền chặt chẽ hơn một bước, không những
ở vùng trung du, đồng bằng gần trung tâm, mà cả miền biên viễn. Bộ máy thống
trị lúc này có tổ chức khá tinh vi. Trên vẫn có Thứ sử như cũ (có lúc đổi thành
châu mục), nhưng quyền hạn nhiệm vụ được quy định khá gắt gao: Thứ sử phải bám
chặt châu quận của mình, phải ở luôn trị sở, không cần phải về kinh tâu việc,
có tang cha mẹ cũng không được bỏ chức. Quanh Thứ sử lại có một bộ máy giúp
việc bao gồm kế lại và các Tòng sự sử. Kế lại sẽ đại diện Thứ sử về triều báo
cáo. Các Tòng sư sử phải coi các việc tuyển bổ quan lại, điều khiển việc binh
nhung hộ tống Thứ sử tuần hành các nơi. Lại có các Tòng sự sử đốc thúc các quận.
Tổng số các Giao Châu có đến 7 Tòng sự sử. Ngoài Tòng sự sử lại còn các chức
Gỉa tá trông coi văn thư, môn đình, tế tự, thời tiết. Ở cấp quận có Thái thú và
quản thừa giúp việc. Ở biên quận thì có Thừa trưởng sử. Huyện ở xa quận có thể
tách ra, đứng đầu là đô uý và một viên thừa. Thái thú có quyền rất lớn: mùa
xuân đi tuần các huyện, mùa thu xét ám mục, thuế khóa, thăng thưởng. Thái thú
coi cả việc cử hiếu liêm. Tổ chức hành chính của quận chia thành các Tào, có
các chức Duyên sử trông coi các việc. Đó là chưa kể Đốc bưu ngũ bộ coi công
việc các huyện, và chức Thư tá coi việc văn thư. Tuỳ quận, lại đặt chức Diêm
quan coi thuế muối, Thiết quan coi việc đúc chế sắt, Công quan coi thuế má sản vật
thủ công, Thuỷ quan coi việc đánh thuế cá đầm ao. Ở cấp huyện có Huyện lệnh
hoặc Huyện trưởng, có một Viên thừa và một hay hai Viên uý cũng chia thành các
Tào để làm việc. Lúc đầu Huyện lệnh này là các lạc tướng, nhưng sau Mã Viện
quyết phá bỏ cơ sở quyền lực của tầng lớp quý tộc Việt Nam này để nắm chặt các
địa phương. Sau khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, Viện đã giết rất nhiều các “cừ
suý” bao gồm các lạc tướng và các nhà quý tộc khác, lại đầy hơn 300 lãnh tụ
nghĩa quân sang Linh Lăng (Hậu Hán thư,
q. 116. 6a; Hậu Hán kỷ, q.7 b14). Bắt
đầu từ chính sách của Mã Viện, thì chính quyền cấp huyện lọt hẳn vào tay quan
lại người Hán. Từ đây không còn nghe nói đến danh hiệu lạc tướng nữa. Mã Viện
cố tìm cách mở rộng các cứ điểm thống trị thực dân. Hậu Hán thứ chép "Viện đi qua nơi nào đều cho xây dựng các
thành quách cho các quận huyện". Không phải ngẫu nhiên mà rải rác khắp các
đồng bằng Bắc bộ, và Bắc Trung bộ, ở nhiều nơi người ta đều đào được các dị
tích khảo cổ thuộc đời Đông Hán.
Sau Nam Bắc
Triều, thì bộ máy thống trị của người Hán càng thêm thắt chặt. Theo Tùy thư (q.31, 7b), Thông điển (q.184) và Thái
bình hoàn vũ ký (q.171) thì có hồi bộ máy thống trị quá phức tạp, rơi vào
tình trạng quận huyện quá nhiều, dân ít, quan đông, đến nỗi nhà Tuỳ phải bắt
buộc chủ trương cải tổ “để lạ cái cần thiệt, bỏ cái thừa, gộp nhỏ thành lớn”.
Sang đến đời Đường thì bộ máy này đã đi sâu xuống đến tận xã: dưới huyện, nếu
có từ 160 đến 540 hộ, thì đặt đại hương, nếu có từ 40 đến 60 hộ, thì đạt đại xã,
nếu có từ 10 đến 30 hộ, thì đặt tiểu xã. Cao Biền đi đến đâu lập hương ấp đến
đấy. Theo An nam chí nguyên (q.1, tr.
60), riêng Biền đã lập được 159 hương cả thảy. Việc xây dựng thành quách để củng
cố cho trị sở bộ máy cai trị cũng được đẩy mạnh. Tinh thần quyết trấn áp nhân
dân này đã toát lên rõ ràng trong việc đổi tên An-Nam thành Trấn Nam, năm 757.
Và tinh thần trấn áp này cũng chính là cơ sở đã lưu lại ngày nay bao nhiêu
truyền thuyết về “uy lực” của Cao Biển: nào Cao Biển "yểm" được âm
binh, nào Cao Biển "cưỡi diều giấy bay tuần hành khắp nơi", nào Cao
Biển “phá hết các huyệt đế vương", "chặn hết các long mạch”, nào Cao
Biển "hô được phong, hoán được vũ, phá được núi, ngăn được sông" v.v.
2. Với sự hỗ
trợ của một bộ máy chính quyền càng ngày càng thắt chặt như trên, từng đợt,
từng đợt một, người Hán đã dần dần thâm nhập vào các mặt hoạt động quan trọng
của xã hội Việt Nam, sống trà trộn với người Việt Nam. Đây là nhân tố thứ hai
đã làm cho đợt tiếp xúc này có thêm ảnh hưởng sâu đậm, nhất là ở những nơi ly
sở, cư dân tập trung đung đúc.
Cố nhiên đã có
được bộ máy chính, thì sẽ có tất cả mọi quyền lực. Nhưng cũng không nên nghĩ đơn
giản rằng tất cả quyền lực của người Hán đều nằm hết trong tay tầng lớp quan
lại. Một lực lượng người Hán có ảnh hưởng đáng kể đến xã hội Việt Nam lúc bấy
giờ là những “kiều nhân” sang sinh cơ lập nghiệp ở Giao Chỉ, (“kiều nhân” là
nói theo Tấn thư q.100, 10a). Tầng
lớp kiều nhân này có nhiều lý do để lập nghiệp ở Việt Nam: kẻ thì sang theo bà
con; kẻ thì sang để lánh nạn, khi ở ngay chính quốc không yên, có kẻ lại sang
vì phạm tội, nhà nước bắt đi tù đầy để chuộc tội; có kẻ thì sang vì nghe đồn
Giao Chỉ là đất yên ổn dễ làm ăn, sinh sống... Ngoài ra lại có những kiều nhân
vốn là quan chức, sau khi thôi làm quan, ở lại sinh cơ lập nghiệp. Tầng lớp
kiều nhân đông đảo và giàu có này đã tạo ra một giai tầng uy thế, họ dựa vào bộ
máy chính quyền, nhưng ngay bộ máy chính quyền cũng phải kính nể họ.
Nhưng lực
lượng người Hán ở Việt Nam hồi bấy giờ cũng không phải chỉ có thế, mà còn có cả
một đội ngũ binh lính với số lượng hết sức lớn, bao gồm những đội quân thường
trực, những đội quân kéo sang dẹp các cuộc khởi nghĩa, những đội quân tham gia những
sự trừng phạt chém giết lẫn nhau trong tầng lớp thống trị. Trong tình hình hỗn
chiến phong kiến, chiến tranh luôn năm như thế, lại ở một nơi luôn luôn có khởi
nghĩa - vì người dân Châu Giao "thích làm họa loạn!” - (Thư Đào Hoàng gửi
Tấn Vũ đế, Tấn thư q.57, 6a) thì sự
có mặt của hàng vạn binh lính người Hán ở Việt Nam là một điều dễ hiểu. Ngoài
binh lính, lại còn có một số lượng đáng kể dân thường Trung Hoa bị đưa sang di
dân mà con số - qua- Ngô chí quyển 3
- ta biết có thể lên đến hàng vạn. Tất cả những cư dân người Hán này ở lẫn với
người Việt Nam, có quan hệ chặt chẽ với người Việt Nam trong mọi mặt hoạt động
xã hội. Hậu Hán thư (q-116, 5b) có
đoạn còn nhắc đến chủ trương cho người Hán di dân ở lẫn với người Việt, Ngụy chí (q.4, 27a) có đoạn còn nhắc đến
việc bắt nhiều nhân dân Việt sang Ngô làm lính đánh Thục, đánh Tào. Theo An nam chí lược (q.16, Tạp ký), đời Đường cũng có hẳn một chủ
trương bắt nhân dân Việt Nam đi lính đồn thú cùng với thú binh Trung Hoa. Ngay
trong tầng lớp kiều nhân có thế lực, nhiều người cũng ở lại, dần dần Việt hoá
và trở thành người Việt. Tất cả những tình hình trên đây tất yếu phải dẫn đến
một sự tiếp xúc chặt chẽ, lâu dài giữa hai ngôn ngữ Hán và Việt.
3. Nhưng nói
đến các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình tiếp xúc này cũng không thể không kể
thêm một điểm thứ ba, khá quan trọng nữa: đó là sự truyền bá nên văn hoá Hán
trong toàn vùng và sự ra đời của một tầng lớp quyền quý người Việt tham gia góp
phần tuyên truyền cho ngôn ngữ, văn tự Hán.
Như mọi người
đều biết, vào lúc Triệu Đà kéo quân sang xâm lược thì Âu Lạc đang ở vào giai
đoạn có sự phân hóa xã hội và có sự hình thành của một cơ cấu nhà nước đầu tiên.
Trên cơ sở của những điều kiện nội tại của nó, và với việc bị thu hút vào phạm
vi ảnh hưởng của Trung Quốc, có thể nói rằng giai đoạn lịch sử này là giai đoạn
xã hội Âu Lạc chuyển biến dần, đi vào một quá trình phong kiến hóa lâu dài.
Chính cơ sở kinh tế xã hội này đã tạo điều kiện cho việc dễ dàng tiếp thu văn
hóa Hán, làm cho ảnh hưởng của nền văn hoá này ngày càng thấm sâu vào xã hội
Việt Nam, thúc đẩy xã hội Việt Nam ngày càng đi nhanh hơn vào con đường phong
kiến hóa. Lực lượng góp phần “đắc lực” nhất cho quá trình “Hán hóa” này, trước
hết phải kể đến bộ máy thống trị do quan lại Trung Quốc nắm, và tầng lớp đông
đảo các kiều nhân người Hán, trong đó có một bộ phận rất có uy thế. Nhưng càng
về sau, vai trò của tầng lớp phong kiến, tầng lớp quyền quý Việt Nam cũng dần
dần trở thành một vai trò không thể không kể đến.
Theo cứ liệu
lịch sử còn lại cho biết, hai Thái thú đầu tiên đẩy mạnh chính sách đồng hoá
nhân dân Việt Nam theo nền văn hoá phong kiến Trung Quốc là Tích Quang và Nhâm
Diên. Tích Quang làm Thái thú Giao Chỉ. Nhâm Diên thì đến đời Kiến Vũ, Quang Vũ
Đế mới cử được làm thái thú Cửu Chân.
Mã Viện cũng
là người đã có âm mưu muốn làm cho xã hội Việt Nam càng thêm "Hán hoá”.
Trong tầng lớp quyền quý Việt Nam lẻ tẻ đã bắt đầu thấy xuất hiện những người
ít nhiều có học thức: ví dụ Trương Trọng đời Hán Minh đế "được đánh giá là
người chăm học, ăn nói giỏi, được cử làm kế lại ở Nhật Nam, vào Lạc Dương ứng
đối rán rỏi với vua Hán", Lý Tiến người quận Giao Chỉ, thông hiểu kinh
truyện, lúc đầu làm Công tào ở quận sau thăng dần đến chức Kỵ đô úy, chức Thái
thú quận Linh Lăng, rồi cuối cùng giữ chức Thứ sử Giao Châu. Đó là chưa kể đến
Lý Cầm làm đến chức Tư lệ hiệu úy và một số hiếu liêm, mậu tài khác nữa giữ
chức Trưởng lại, hay Huyện lệnh. Nhưng chính sách nhà Hán trước sau vẫn là hai mặt:
một mặt thì mở trường dạy con em lớp sĩ phu người Hán, người Việt, nhưng mặt
khác thì lại kìm hãm, hạn chế việc học hành cũng như việc tuyển dụng. Phải chờ
đến cuối đời Đông Hán, Tam Quốc thì mới có thêm một dịp nữa để cho việc học
hành ở Giao Chỉ được đẩy mạnh thêm một bước. Số là lúc này ở Trung Nguyên tình
hình rất loạn, bọn quý tộc sĩ phu kéo nhau sang đất Giao Chỉ rất đông. Bọn này
dựa vào Thái thú Sĩ Nhiếp, và Sĩ Nhiếp cũng dựa vào bọn này. Bản thân Sĩ Nhiếp
là người đỗ cả hiếu liêm và mậu tài, chuyên học và chú giải sách Tả thị Xuân Thu lại thông hiểu cả sách Thượng thư, có ý muốn tham gia vào tranh
biện về đường học vấn. Ngoài Sĩ Nhiếp còn có bọn Lưu Hy, Ngu Phiên. Lưu Hy mở
trường dạy học; Ngu Phiên cũng có khi thu nhận đến hàng trăm môn đồ. Bố Ngưu
Phiên rất giỏi kinh Dịch, truyền lại cho
Ngưu Phiên. Bản thân Phiên cũng là người có học vấn, có tham gia chú giải các sách
Lão Tử, Luận ngữ, Quốc ngữ. Sau
đó ít lâu lại có Đỗ Tuệ Độ. Độ cũng mở mang tường học tuyên truyền cho ý thức
hệ chính thống, “cấm đoán thờ cúng bậy bạ". Chính vì hồi này có “không khí
học hành” như vậy nên về sau sử gia phong kiến mới coi đây là một thời kỳ mở
đầu cho nền học vấn ở Việt Nam và người chủ trì là Sĩ Nhiếp mới được họ tôn lên
là “Nam giao học tổ”.
Phổ biến chữ
Hán tức là phổ biến Nho giáo. Sở dĩ chữ Hán trước đây thường được gọi là chữ
Nho, cũng chính vì lí do đó. Nhưng không phải chỉ có Nho giáo. Việc phổ biến
chữ Hán còn gắn liền với cả việc phổ biến Đạo giáo, Phật giáo. Luy Lâu là một
trung tâm lớn và rất có ảnh hưởng về mặt Phật giáo. Theo lời tựa của sách Mâu tử, Giao Châu cũng là một nơi rất
nhiều người theo đạo thần tiên, luyện phép tịch cốc, trường sinh. Bản thân Mâu
Bác sang Giao Châu lúc đầu cũng theo học Đạo giáo và phép thần tiên. Thời Tam
Quốc, Đạo giáo đã phát triển thành đạo phù thuỷ của Trương Giác, lãnh tụ quân
khởi nghĩa Khăn vàng. Đạo giáo gần gũi với tín ngưỡng cổ của dân Việt. Vì vậy
hồi này Đạo giáo phát triển mạnh ở Giao Châu là một điều dễ hiểu. Các Thứ sử
Giao Châu như Trương Tân, Đỗ Tuệ Độ, đều là những người rất thích đọc Trang,
Lão và sách Đạo giáo. Trên đây ta, đã nói sự phổ biến chữ Hán đưa đến sự truyền
bá Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo. Nhưng
ngược lại, sự truyền bá Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo chính cũng là một nhân tố
thúc đẩy làm cho chữ Hán càng ngày càng phổ biến sâu rộng ở Giao Châu.
Sang đến Tùy Đường,
tầng lớp phong kiến ở Việt Nam đã tương đối có thế lực. Lúc này chế độ khoa cư
đã được dùng để thay thế cho chế độ sĩ tộc ngày trước. Do đó con cái của các
gia đình có thế lực đã học hành đỗ đạt. Không phải chính quyền thống trị đã từ
bỏ ý định hạn chế người Việt. Thời Nam Triều, Tinh Thiều rất giỏi văn chương
vẫn chỉ giữ chức canh cổng thành. Đời Đường vẫn có thể lệ hạn định rằng người
An Nam đưa vào thi Tiến sĩ không được quá 8 người, thi Minh kinh không được quá
10 người (An nam chí lược q. 16, Tạp
ký). Nhưng dầu sao, trước tình hình mới, giai tầng phong kiến Việt Nam cũng đã
bắt buộc được chính quyền thống trị phải nhượng bộ ít nhiều. Khương Công Phụ
thi đỗ tiến sĩ, nhận nhiều chức cao ở Trung Nguyên, cuối cùng làm đến tể tướng,
Khương Công Phục (em trai Phụ) cũng làm đến Lang trung Bộ Lễ. Trình độ Hán học
của lớp nho sĩ Việt Nam dần dần được nâng cao. Khương Công Phụ bản thân có sáng
tác văn học, bài phú "Bạch vân chiếu
xuân hải” của ông còn truyền lại được đến ngày nay. Lưu Hữu Phương cũng nổi
tiếng thơ văn, nhà thơ Đường Liễu Tự Hậu hết mực khen ngợi. Nhiều cao tăng Vịêt
Nam đã sang đến tận kinh đô Tràng An để giảng kinh cho vua Đường: Vô Ngại thượng
nhân, Phụng Đình pháp sử, Duy Giám pháp sư v.v. Giới cao tăng này rất quen biết
các sĩ phu ở Trung Quốc. Khi Phụng Đình trở về Việt Nam chính nhà thơ Đường Dương
Cự Nguyên đã có thơ tiễn.
Nhiều cao tăng
tinh thông cả Nho giáo, Đạo giáo, biết chữ Phạn, giỏi chữ Hán, đã từng tham gia
dịch thuật, chuyển kinh Phật từ Phạn văn ra Hán văn. Một số đã xuất dương, sang
An Độ và các nước lân cận...
Rõ ràng đến
thời kỳ này, nên văn hoá Hán nói chung, nền ngôn ngữ văn tự Hán nói riêng, đã
có được một ảnh hưởng nhất định trên địa bàn Việt Nam, nhất là ở những nơi
trung tâm của chính quyền đô hộ. Và đến thời kỳ này, trong giai cấp phong kiến
Việt Nam cũng đã xuất hiện một tầng lớp khá đông đảo, am hiểu Hán học, và thông
qua Hán học nắm được cả Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo. Chính đây là một trong
những lực lượng sau khi giành được độc lập, đã ra sức bảo vệ, duy trì những gì
đã tiếp thu được trước đó về mặt văn hóa, nhất là về mặt ngôn ngữ, văn tự, và
đã góp phần đắc lực trong việc củng cố, tuyên truyền cho cái vai trò của văn
ngôn và chữ Hán.
B. Hai giai đoạn ảnh hưởng về mặt ngôn
ngữ văn tự
1. Sau khi nước
nhà đã giành được độc lập tự chủ, do sự ủng hộ của tầng lớp thống trị, tầng lớp
tri thức Việt Nam, chữ Hán vẫn còn tiếp tục được dùng rộng rãi ở nước ta mãi
cho đến tận đầu thế kỉ XX. Với tư cách là một nền văn tự, có thể nói rằng đây
là một hệ thống chữ viết đã có mặt liên tục trên đất nước ta ròng rã trong
khoảng gần hai ngàn năm trời.
Nhưng nếu xét
về cách đọc thì hai ngàn năm ấy phải cắt thành hai nửa và phải lấy những năm
đầu thế kỷ XX (905- 938) làm một cái mốc ngăn đôi hai thời kỳ trước sau cái mốc
ấy. Đây là một cái mốc lớn về mặt chính trị, nhưng cũng đồng thời lại là một cái
mốc hết sức quan trọng về mặt ngôn ngữ.
a) Trước thế
kỷ X, ta đọc chữ Hán thực chất là ta đọc tiếng Tàu. Dùng chữ Hán tức là dùng
một thứ tiếng nước ngoài, học chữ Hán tức là học một sinh ngữ. Từ đầu thế kỷ X,
dần dần tình trạng trên đây bất đầu đổi khác, và càng ngày sự khác biệt càng
được tô đậm hơn lên. Viết chữ Hán, về mặt từ vựng và ngữ pháp, ta vẫn làm như
cũ, nghĩa là ta vẫn làm một cách hầu như không khác gì với cách làm của người
Hán ở Trung Quốc. Nhưng về mặt ngữ âm đã có một sự cách biệt sâu sắc. Ta đọc
chữ Hán theo lối của ta, khác hẳn cách đọc của người Hán. Ta không thể dùng
tiếng Hán để trao đổi trực tiếp với người Hán nữa. Nói một cách khác, sau thế
kỷ X, tiếng Hán ở ta đã mất dần tư cách một ngoại ngữ, và rõ ràng nhất là mất
hẳn tư cách của một sinh ngữ.
b) Mà sở dĩ
thế là vì trước thế kỷ X, vùng Giao Châư là một vùng "thuộc địa" của
phong kiến Phương Bắc, tiếng Hán ở Giao Châu có thể coi như là một phương ngữ
của tiếng Hán. Tất nhiên ở Giao Châu, vì tồn tại bên cạnh tiếng Việt, chịu tác
động của cách nói người Việt, tiếng Hán có thể bị "méo mó" đi ít
nhiều, nhưng nhìn chung, thời kỳ này nó vẫn gắn liền, mật thiết, với tiếng Hán
ở Trung Quốc, tiếng Hán ở Trung Quốc diễn biến thì ở Giao Châu nó cũng phải
diễn biến theo. Sau thế kỷ X thì trái lại. Lúc này Việt Nam đã trở thành một
quốc gia riêng, độc lập, tự chủ. Tiếng Hán ở Việt Nam, vì lý do chính trị đó,
nói chung đã cách ly khỏi tiếng Hán ở bên kia biên giới. Sau thế kỷ X, từ đời
Tống, trải qua các triều đại Nguyên, Minh, Thanh, tiếng Hán ở bên kia biên giới
vẫn tiếp tục diễn biến, nhưng những sự diễn biến này không còn tác động đến
tiếng Hán ở Việt Nam một cách trực tiếp với vai trò quyết định như trước nữa.
Từ cái mốc đầu thế kỷ X trở về sau, tiếng Hán ở Việt Nam càng ngày càng chịu sự
chỉ phối của tiếng Việt, nếu có diễn biến là nó diễn biến trong phạm vi, trong
quỹ đạo của qui luật ngữ âm và ngữ âm lịch sử tiếng Việt.
2. Mà nếu thế
thì, đúng như các nhà Đông phương học đã kết luận, có thể nói rằng nguồn gốc,
xuất phát điểm của cách đọc Hán - Việt hiện nay chính là hệ thống ngữ âm tiếng
Hán dạy lần cuối cùng ở Giao Châu, trước khi Việt Nam đứng lên giành được hoàn
toàn độc lập. Không thể khác thế được, mặc dầu - như trên đã nói- chữ Hán đã có
mặt ở Việt Nam từ khoảng trước sau đầu Công nguyên
Trong đợt đấu
tranh giành độc lập, tự chủ đầu thế kỷ X, có hai cái mốc quan trọng: năm họ
Khúc dậy nghiệp (905) và nhất là năm Ngô Quyền đại thắng quân Nam Hán (938).
Nhưng không nên vì thế mà nói rằng cách đọc Hán - Việt hiện nay vốn bắt nguồn
từ tiếng Hán năm 937 hay năm 904. Nói đến ngôn ngữ thì nên nói đến ngôn ngữ của
cả một giai đoạn, chứ không nên nói đến ngôn ngữ của một năm, một tháng. Theo
các nhà Hán ngữ học cho biết, về thanh mẫu cũng như về vận bộ, khoảng giữa đời
Đường có một số diễn biến tương đối mạnh, tách tiếng Hán trung cổ thành hai
thời kỳ khá rõ rệt: thời kỳ đầu bao gồm khoảng Lục Triều, Sơ Đường, và thời kỳ
sau bao gồm khoảng Vãn Đường, Ngũ Đại, Tống. Như vậy, theo ngôn ngữ học, khi
bàn đến xuất phát điểm của cách đọc Hán - Việt thì nên nói xuất phát điểm đó là
hệ thống ngữ âm tiếng Hán giai đoạn sau của tiếng Hán Trung cổ, giai đoạn bao
gồm khoảng hai thế kỷ VIII và IX. Nhưng đã tách hai thế kỷ VIII, IX thành một
giai đoạn riêng thì từ đầu Công nguyên đến khoảng thế kỷ VII cũng phải coi như
là một giai đoạn riêng. Thành thử, khi nói đến quá trình tiếp xúc với tiếng
Hán, một mặt ta phải khẳng định rằng đó là một quá trình lâu dài, liên tục, bào
gồm nhiều thế kỷ, nhưng khi luận về mặt ảnh hưởng đến cách đọc chữ Hán hiện nay
ở Việt Nam thì phải chia quá trình đó thành 2 hai giai đoạn lưu lại hai hậu quả
khác nhau.
3. Xét
sơ bộ về mặt ngôn ngữ (sơ bộ, vì chỉ sau này ta mới có thể đi sâu vào cụ thể)
thì quả đúng như vậy. Cách đọc Hán - Việt hiện nay, sau gần 10 thế kỷ diễn biến
theo quỹ đạo ngữ âm lịch sử tiếng Việt, đã có nhiều điểm khác với hệ thống ngữ
âm tiếng Hán thế kỷ VIII, thế kỷ IX. Nhưng so sánh giữa hai bên thì vẫn thấy có
một sự tương ứng hết sức đều đặn, hết sức có hệ thống
a) Về mặt phụ
âm đầu, trong tiếng Hán trước thế kỷ X, có thể chia thành 4 cột: cột toàn
thành, cột thứ thanh, cột toàn trọc, cột thứ trọc, ví dụ:
K |
kc |
g |
n |
Ở ta, hiện
nay, ranh giới giữa 4 cột ấy cũng còn lộ ra khá rõ: thứ thanh vẫn giữ là âm bật
hơi, hoặc chuyển sang âm xát, thứ trọc vẫn giữ là âm mũi; toàn thanh, toàn trọc
tuy nhập một nhưng lại chuyển sang phân biệt nhau ở mặt thanh điệu (toàn thanh
có thanh điệu cao, toàn trọc có thắnh điệu thấp). Trong cách đọc Hán - Việt,
ghi theo chữ Quốc ngữ, ta có:
K + ngang,
hỏi , sắc |
K H |
K + huyền,
ngã, nặng |
N G |
Ở tiếng Hán
cuối Đường, căn cứ vị trí cấu trúc, người ta chia thành nha âm, thiệt âm, xỉ âm,
thần âm, hầu âm. Ở ta hiện nay, về cơ bản, vị trí cấu âm vẫn giữ như cũ: thiệt
âm vẫn là âm đầu lưỡi, thần âm vẫn là âm môi, nha âm vẫn là âm gốc lưỡi...Và
điều quan trọng hơn là ranh giới giữa các loại vẫn giữ nguyên, hoặc chỗ nào có
thay đổi thì thay đổi thành hệ thống .
b) Về mặt vần,
căn cứ vào âm cuối và nguyên âm chính, người ta thường chia vận bộ tiếng Hán
cuối Đường thành 16 loại lớn gọi là 16 nhiếp. Trong cách đọc Hán - Việt, ranh
giới giữa 14 trong số 16 nhiếp đó vẫn được bảo đảm nguyên vẹn, chỉ có 2 trường
hợp nhỏ là lẫn lộn. Nói chung, âm cuối thì không hề có sự thay đổi lớn nào: sau
các nhiếp quả, giả, chỉ, ngộ, vẫn là âm cuối zero, sau nhiếp giải
chủ yếu vẫn là âm cuối -j, sau hai nhiếp hiệu,
lưu vẫn là âm cuối -w, sau hai nhiếp hàm, thâm
vẫn là âm cuối -m , sau hai nhiếp sơn,
trăn vẫn là âm cuối -n và sau các
nhiếp giang, đảng, tăng, thông vẫn là âm cuối -ŋ (NG Quốc ngữ ).
Chỉ sau một nhiếp ngạnh là có sự
chuyển đổi từ NG thành NH Quốc ngữ. Nhưng nếu nghĩ đến những hiện tượng trong
tiếng Việt như béng > bánh, eng > anh thì một sự
thay đổi nhỏ như vậy sau gần một ngàn năm lịch sử cũng là điều không có gì đáng
lấy làm lạ.
Rõ ràng là sự
suy luận "Cách đọc Hán - Việt hiện nay xuất phát từ cách đọc học được vào
thời kỳ cuối cùng trước khi giành được độc lập, tự chủ" là một sự suy luận
có cơ sở.
4. Còn
đối với cách đọc đời Hán, cách đọc thời Nam Bắc Triều, nghĩa là cách đọc học
được trong giai đoạn đầu của quá trình tiếp xúc thì thế nào? Những cách đọc này
hiện nay cũng còn lưu lại ảnh hưởng cho chúng ta, nhưng lưu lại ảnh hưởng hết
sức lẻ tẻ.
Một ví dụ về
phụ âm đầu: phụ âm d (Đ Quốc ngữ ) trong đìa
vốn là phụ âm bắt nguồn từ cách đọc của chữ 池 ở giai đoạn từ thế kỷ VI trở về trước (so sánh với cách
đọc trì bắt nguồn từ thế kỷ VIII, IX
) .
Một ví dụ về
vần: vần oŋ trong gông vốn là vần bắt
nguồn từ cách đọc của chữ 杠ở giai đoạn từ
Sơ Đường trở về trước (so sánh với cách đọc giang
bắt nguồn từ Vãn Đường).
Những kiểu ví
dụ như thế không nhiều, không tạo thành hệ thống, không thuộc phạm vi cách đọc
Hán - Việt, mà thuộc phạm vị trường hợp người ta thường gọi là Cổ Hán - Việt.
Sở dĩ không nhiều là vì hễ nói đến toàn bộ hệ thống thì khi hệ thống ngữ âm của
người Trung Quốc từ Hán sang Nam Bắc Triều, từ Nam Bắc Triều sang Đường đã thay
đổi thì ở Việt Nam cũng phải thay đổi theo, hệ thống sau sẽ thay thế hệ thống
học được từ trước. Chỉ những cách đọc nào đã vào được trong khẩu ngữ của nhân
dân, được nhân dân Việt Nam chấp nhận như là những yếu tố của tiếng Việt, không
còn coi đó là những cách đọc chữ Hán nữa (ví dụ như đìa, gông trên đây) thì
những cách đọc đó mới có khả năng thoát khỏi được phạm vi tác động của lịch sử
tiếng Hán, chuyển sang quỹ đạo tiếng Việt và truyền lại được đến ngày nay.
Thành thử, nếu
muốn đi sâu vào địa hạt các yếu tố gốc Hán gọi là Cổ Hán - Việt, hoặc nếu muốn
đi sâu vào việc tìm kiếm nguồn gốc của các nhân danh, địa danh cổ như Luy Lâu,
Mê Linh. Trưng Trắc v.v ...,thì tất yếu phải đặt vấn đề tìm hiểu hệ thống ngữ
âm tiếng Hán cổ dạy trong giai đoạn từ thế kỷ VII trở về trước; còn nếu muốn
tìm hiểu về lại nguyên của cách đọc Hán - Việt, thì chỉ cần có tri thức về tình
hình tiếng Hán giai đoạn cuối Đường, Ngũ đại là đã tạm đủ.
5. Cố nhiên,
nếu đi vào chi ly, thì từ giai đoạn trước đến giai đoạn sau của quá trình tiếp
xúc, không phải tất cả mọi thanh mẫu, mọi vận bộ Hán đều thay đổi toàn bộ. Ta
hãy tạm dùng hai ký hiệu X, Y để chỉ hai yếu tố bất kỳ nào đó của tiếng Hán (hai
phụ âm đầu, hay hai nguyên âm, hay hai âm cuối v.v.). Có thể xảy ra hai khả
năng diễn biến như sau:
|
Yếu tố X |
Yếu tố Y |
Giai đoạn I |
+ |
+ |
Giai đoạn II |
+ |
_ |
Trường hợp X
là trường hợp yếu tố được giữ nguyên trong cả hai giai đoạn; trường hợp Y là
trường hợp có diễn biến. Những phụ âm như phụ âm hiện nay Hán - Việt đọc là K,
L, N, CH ... đều giữ nguyên từ đời Hán đến cuối Đường: chúng là những ví dụ
thuộc trường hợp X. Những phụ âm như ở tri,
triệt, ở phi, phu, phụng, vi, và ở vân thì trước
đời Đường đọc khác, đến Vãn Đường đọc khác: chúng là những ví dụ thuộc trường
hợp Y.
Tách ra hai
trường hợp X và Y là điều rất quan trọng. Trường hợp Y là trường hợp có khả
năng sản sinh ra sự đối lập giữa Cổ Hán - Việt và Hán - Việt , muốn tìm hiện
tượng Cổ Hán - Việt thì phải đi vào trường hợp này. Hơn nữa, cũng chính đi vào
trường hợp Y thì ta mới có cứ liệu để chứng minh một cách dứt khoát rằng nguồn
gốc của cách đọc Hán - Việt là hệ thống ngữ âm tiếng Hán dạy ở giai đoạn II .
Một điều không
nên hiểu lầm, khi nhìn vào trường hợp X: không nên vì thấy X bất biến từ đầu
Công nguyên đến cuối Đường mà đi đến kết luận rằng, trong hệ thống Hàn - Việt,
một bộ phận vốn đã bắt nguồn từ thời thượng cổ. Nếu cho X ở giai đoạn 1 là 31,
giai đoạn II là X2, và dầu ta có khẳng định rằng X2 không khác gì X1 (X2 = X1 )
thì vẫn không thể nói rằng nguồn gốc một bộ phận trong hệ thống Hán - Việt lên
xa đến X1. Trước khi độc lập, ta tiếp xúc là tiếp xúc với toàn bộ hệ thống ngữ
âm tiếng Hán của giai đoạn II. Vì vậy đối với bộ phận Hán - Việt này, nguồn gốc
của nó vẫn là X2 chứ không phải X1. Trường hợp Hán Việt đọc với Y1 có, nhưng
rất lẻ tẻ .
‘1’ Chương này chúng tôi viết dựa
chủ yếu vào cuốn Lịch sử chế độ phong
kiến Việt Nam, tập I của Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn. Những chỗ chú thích
hoặc trích dẫn đều lấy từ trong sách này.
_
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét